Tóm tắt Luận văn tiến sĩ Văn hóa dân gian: Lễ hội truyền thống của người M’Nông Preh huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông trong xã hội đương đại
lượt xem 4
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài là thông qua việc giới thiệu tổng quan lễ hội truyền thống người M’Nông Preh huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông nhằm chỉ ra tổng thể hình ảnh đời sống văn hóa cộng đồng, nêu được những giá trị văn hóa truyền thống thông qua sinh hoạt cộng đồng, đặc biệt là lễ hội.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn tiến sĩ Văn hóa dân gian: Lễ hội truyền thống của người M’Nông Preh huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông trong xã hội đương đại
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM Lê Khắc Ghi LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI M’NÔNG PREH HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐĂK NÔNG TRONG XÃ HỘI ĐƯƠNG ĐẠI Chuyên ngành: Văn hóa dân gian Mã số: 9229041 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA DÂN GIAN Hà Nội - 2018
- Công trình được hoàn thành tại: VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Văn Ánh Phản biện1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Viện Họp tại: Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam Số 32, phố Hào Nam, phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, Hà Nội Vào hồi ......, ngày tháng năm 2018. Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam; - Thư viện Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam
- 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Lễ hội truyền thống M’Nông Preh là sinh hoạt cộng đồng tiêu biểu và quy mô nhất của cư dân bản địa. Đây là những hoạt động mang tính tổng hợp của tín ngưỡng tâm linh, sinh hoạt văn hóa, trao truyền kỹ năng sống, hoạt động vui chơi, giải trí; đồng thời xây dựng tinh thần cố kết cộng đồng, giữ cho cộng đồng tồn tại và phát triển qua hàng ngàn đời. Trước sự thay đổi mau chóng của đời sống xã hội, kinh tế phát triển đã tác động đến cuộc sống sinh hoạt của người M’Nông Preh. Môi trường sống đã bị bó hẹp, xa rừng - nơi hình thành nên cốt lõi của văn hóa truyền thống. Nguy cơ hơn là việc cải đạo, giảm sút thực hành tín ngưỡng, sự xúi giục của Tin lành Đê Gar loại bỏ sinh hoạt lễ hội, nghi lễ trong đời sống cộng đồng, do đó ảnh hưởng đến việc phục hồi lễ hội truyền thống. Xuất phát từ thực tiễn, tôi đi đến xác định và lựa chọn đề tài nghiên cứu: Lễ hội truyền thống của người M’Nông Preh huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông trong xã hội đương đại. 2. Mục đích nghiên cứu - Thông qua việc giới thiệu tổng quan lễ hội truyền thống người M’Nông Preh huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông nhằm chỉ ra tổng thể hình ảnh đời sống văn hóa cộng đồng, nêu được những giá trị văn hóa truyền thống thông qua sinh hoạt cộng đồng, đặc biệt là lễ hội. - Nêu ra những nhân tố tác động làm thay đổi lễ hội truyền thống, chỉ ra những tác động của việc phục hồi lễ hội đến đời sống cộng đồng M’Nông trong xã hội đương đại. Đề xuất những giải pháp cụ thể để phục dựng lễ hội trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng, đảm bảo hài hòa giữa bảo tồn và phát triển văn hóa ở đại phương.
- 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là: Lễ hội truyền thống M’Nông Preh huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông trong bối cảnh chung của lễ hội và sinh hoạt cộng đồng M’Nông tại tỉnh Đăk Nông. Khi tiếp cận nghiên cứu đối tượng trên, luận án sẽ nghiên cứu giới thiệu tổng thể và những thành tố của lễ hội truyền thống M’Nông Preh huyện Krông Nô. Mặt khác, lễ hội truyền thống M’Nông Preh cũng được đặt trong bối cảnh hiện nay với sự phát triển đời sống xã hội. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi không gian: là không gian lễ hội của cộng đồng M’Nông Preh thuộc huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông; trong đó tập trung khảo sát tại một số bon trên mười tám bon có những điều kiện kinh tế xã hội khác nhau như bon KTăh xã Quảng Phú; bon Ol, Giang Trum xã Đăk Rô; bon Ja Răh, R’Cập xã Nâm Nung; bon Jor Linh, Dru, Brói thị trấn Đăk Mâm. Qua đó so sánh, đối chiếu để làm rõ những yếu tố thay đổi của lễ hội trong đời sống cộng đồng. Phạm vi thời gian: tập trung nghiên cứu thực tế tổ chức lễ hội truyền thống M’Nông Preh huyện Krông Nô từ năm 2004 (sau khi thành lập tỉnh Đăk Nông), có đề cập đến thời gian trước và sau năm 1975 khi Tây Nguyên được giải phóng, đất nước thống nhất để nhìn thấy quá trình chuyển biến trong việc tổ chức lễ hội truyền thống. 4. Giả thuyết nghiên cứu -Sự cởi mở, đổi thay của điều kiện kinh tế xã hội có sự tác động đến đời sống cộng đồng. Tuy nhiên với lối sống không còn gắn bó với rừng, từ canh tác nương rẫy sang canh tác cây công nghiệp, sinh hoạt tôn giáo đã ảnh hưởng tiêu cực đến tín ngưỡng dân gian dẫn đến thay đổi sinh hoạt văn hóa cộng đồng làm thay đổi lễ hội truyền thống.
- 3 - Sự hạn chế của tổ chức lễ hôi truyền thống hoặc những thay đổi của lễ hội truyền thống đã có những tác động tiêu cực và ảnh hưởng đến sinh hoạt văn hóa truyền thống. - Lễ hội truyền thống người M’Nông Preh là sinh hoạt cộng đồng hết sức tích cực nếu như các giá trị truyền thống được giữ vững và các sinh hoạt cộng đồng được bảo tồn. 5. Câu hỏi nghiên cứu Câu hỏi nghiên cứu chính của luận án là phân tích, lý giải: tại sao lễ hội truyền thống của người M’Nông Preh ở huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông lại có sự thay đổi như vậy. Sự thay đổi diễn ra như thế nào, nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi và hệ quả của quá trình thay đổi này ra sao. Những thay đổi trong việc tổ chức lễ hội truyền thống đã nói lên điều gì trong điều kiện có sự hỗ trợ của nhà nước, các cấp chính quyền trong việc bảo tồn văn hóa truyền thống, vận động xây dựng nông thôn mới. 6. Phương pháp nghiên cứu -Văn hóa học, văn hóa dân gian, tư liệu đã xuất bản, điền dã dân tộc học để tham dự, phỏng vấn sâu, quan sát, ghi chép, ghi âm, ghi hình; phân tích, tổng hợp để thu thập, phân tích và đánh giá thông tin. 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài - Trên cơ sở cái nhìn tổng quát về lễ hội truyền thống của người M’Nông Preh huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông và việc phục hồi trong xã hội đương đại. - Góp phần vào việc nhận thức của chủ thể văn hóa, của xã hội về nguy cơ của một loại hình văn hóa đang bị mai một, từ đó thay đổi cách nhìn, ý thức trong bảo tồn văn hóa truyền thống. - Từ cơ sở lý thuyết của đề tài ứng dụng vào thực tế của địa phương nhằm phục hồi lễ hội truyền thống theo tâm nguyện của cộng đồng và chính quyền địa phương.
- 4 8. Bố cục luận án Ngoài Mở đầu (13 trang), Kết luận (4 trang), Tài liệu tham khảo (17 trang), Phụ lục (31 trang), nội dung luận án chia làm 3 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận (42 trang) Chương 2: Phục hồi lễ hội truyền thống của người M’Nông Preh ở huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông (69 trang) Chương 3: Nhận định về sự phục hồi lễ hội truyền thống trong xã hội đương đại (58 trang) Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài Trường Sơn - Tây Nguyên là vùng văn hóa đa dạng, phong phú, trong đó văn hóa M’Nông là một trong những chủ thể nền văn hóa đã cuốn hút nhiều nhà nghiên cứu. Trước năm 1954, những công trình nghiên cứu liên quan đến người M’Nông phần lớn là của một số học giả người Pháp. Trước hết phải nói đến H. Bernard với tác phẩm: Những cư dân mọi ở Đắk Lắk; Henri Maitre với khảo cứu đồ sộ Rừng người Thượng: Vùng rừng núi cao nguyên miền Trung Việt Nam. Có thể nhận thấy các công trình này chủ yếu phác thảo và giới thiệu khái quát về người M’Nông trong cộng đồng các dân tộc thiểu số cao nguyên miền Trung Việt Nam; chủ thể văn hóa của những vùng cao nguyên rộng lớn này. Sau năm 1954, có một số công trình nổi bật như Minority group in the Republic of Viet Nam (Các nhóm thiểu số ở Việt Nam cộng hòa) (Shrock II and others) hay Son of the mountains; Ethnohistory of the Vietnamese Central Highlands to 1954 (Những người con của núi rừng: lịch sử tộc người ở Cao Nguyên Việt Nam đến năm 1954). Đáng chú ý là công trình của G. C. Hickey Free in the forest: Ethnohistory
- 5 of the Vietnamese Central Highlands 1954 -1976 (Tự do trong rừng: lịch sử tộc người ở Cao Nguyên Việt Nam 1954-1976)... Đặc biệt là công trình nghiên cứu về người M’Nông Gar của Georges Condominas Nous avons mangé la forêt xuất bản năm 1974 lần đầu tiên ở Pháp. Vào năm 2003 và năm 2008 ở Việt Nam, công trình được Nhà xuất bản Thế giới ấn hành với tựa đề Chúng tôi ăn rừng đá - Thần Gôo và tiểu tựa (Hii saa Brii Mau-Yaang Gôo) Biên niên sử về làng Sar Luk của người M’Nông Gar (Bộ tộc tiền Đông Dương trên cao nguyên miền Trung Việt Nam). Bên cạnh đó, với cách tiếp cận liên ngành xã hội học, dân tộc học và ngôn ngữ học, Georges Condominas đã rất thành công trong các bài biên khảo ở Việt Nam và Đông Nam Á từ năm 1953 đến năm 1976 được ấn hành năm 1978 với tên gọi L’Espace social. A propos de l’Asie du Sud-Est, cho đến năm 1997 công trình này được dịch ra bản tiếng Việt với tựa đề Không gian xã hội vùng Đông Nam Á được đánh giá khá cao, là tư liệu khảo cứu có giá trị. Trước năm 1975, những học giả, nhà khoa học ở miền Nam Việt Nam cũng có một số công trình nghiên cứu về người M’Nông như Đồng bào các sắc tộc thiểu số Việt Nam; nguồn gốc và phong tục (1970) của Nguyễn Trắc Dĩ; một số bài báo của Nghiêm Thẩm in trên Nguyệt san Quê Hương năm 1961 như: “Tìm hiểu đồng bào Thượng”,“Nền kinh tế của đồng bào Thượng Trung nguyên Trung phần”; hay một số bài “Phong quang tỉnh Đắk Lắk” (Hồ Xuân Đàm, 1969); “Đồng bào sơn cước tại Việt Nam cộng hòa” (Lê Đình Chi, 1972); “Việt Nam chí lược: Cao nguyên miền Thượng” (1974) của Cửu Long Giang - Toan Ánh… Những công trình nghiên cứu văn hóa tộc người M’Nông vào thời điểm trước năm 1975 đã có sự chú ý đầu tư, nhưng người M’Nông được đề cập chỉ mang tính khái lược và giới thiệu chưa có tính chuyên sâu và hàm lượng khoa học còn hạn chế.
- 6 Sau năm 1975, với sự quan tâm và tập trung của các nhà khoa học, cơ quan nghiên cứu, đặc biệt là Viện Dân tộc học, người M’Nông đã được đề cập chuyên sâu trong các công trình khoa học. Tiêu biểu là công trình: Các dân tộc ít người ở Việt Nam- các tỉnh phía Nam (1984) của Viện Dân tộc học; Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam (1999) của nhóm tác giả Hoàng Văn Trụ, Đặng Văn Lung, Sông Thao; Lưu Hùng với Văn hóa cổ truyền Tây Nguyên (1996); Văn hóa các dân tộc Tây Nguyên, thực trạng và những vấn đề đặt ra (2004) do Trần Văn Bính chủ biên; Công trình Những khía cạnh của văn hóa dân gian M’Nông Noong (2001) của Đỗ Hồng Kỳ; Văn hóa, xã hội và con người Tây Nguyên (2007) Nguyễn Tấn Đắc; Những mảng màu văn hóa Tây Nguyên (2007) của Ngô Đức Thịnh… Đây là những công trình nghiên cứu có đầu tư với hàm lượng khoa học cao về người M’Nông, khái quát về tộc người với những đặc điểm chung về dân số, địa bàn cư trú, đời sống vật chất, tinh thần; trong đó đã khảo tả tương đối cụ thể về văn hóa của tộc người M’Nông đề cập đến lễ hội của cư dân bản địa. Ngoài ra còn có nhiều bài báo trên các tạp chí chuyên ngành nghiên cứu một vài khía cạnh cụ thể trong đời sống văn hóa xã hội và lễ hội của cộng đồng M’Nông. * Nhận xét về tình hình nghiên cứu các vấn đề đã được đề cập tới Thông qua việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu về con người và văn hóa M’Nông có thể cho thấy một bức tranh tổng thể về đời sống xã hội, với những vấn đề về lịch sử, thành phần dân tộc, địa bàn sinh sống, sản xuất đến các sản phẩm văn hóa. Có thể nhận thấy khá rõ về những nét tiêu biểu về văn hóa tinh thần của các nhóm địa phương của tộc người M’Nông phản ánh các sinh hoạt tín ngưỡng, lễ hội và các sinh hoạt văn hóa cộng đồng khác; đặc biệt các nghi lễ, lễ hội tiêu biểu của người M’Nông, trong đó có người M’Nông Preh. Bên cạnh nghi lễ vòng đời người, nghi lễ vòng cây trồng đã cho thấy một số lễ hội tiêu biểu của người M’Nông nói chung và người
- 7 M’Nông Preh nói riêng, tiêu biểu là tác giả Condominas, Ngô Đức Thịnh, Đỗ Hồng Kỳ, Tô Đông Hải... Một số tác giả đã tập trung nghiên cứu phục hồi di sản văn hóa Tây Nguyên và chỉ ra những tồn tại trong xã hội đương đại, trong đó có việc giao lưu ảnh hưởng về văn hóa, đứt gãy về văn hóa truyền thống, đồng hóa tự nhiên về văn hóa và xu hướng phục hồi văn hóa truyền thống. Điểm lại các công trình nghiên cứu về lễ hội truyền thống, sự phục hồi lễ hội truyền thống người M’Nông trong đó có người M’Nông Preh ở huyện K’rông Nô thật sự chỉ dừng ở mức độ hạn chế. Các công trình nghiên cứu và bài viết cũng còn ít ỏi về lễ hội, về phục hồi lễ hội của tộc người M’Nông, đặc biệt là người M’Nông Preh và đây là một khoảng trống, một thực tế cần phải quan tâm và tác giả đã chọn vấn đề: Lễ hội truyền thống người M’Nông Preh huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông trong xã hội đương đại làm đề tài luận án của mình. 1.2. Cơ sở lý luận 1.2.1. Các khái niệm cơ bản Có nhiều cách hiểu về lễ hội, những nhà nghiên cứu trong nước đã gọi tên khác nhau như: lễ hội dân gian, lễ hội cổ truyền, lễ hội truyền thống, hội hè. Lễ hội truyền thống với các tác giả Lê Trung Vũ, Lê Hồng Lý, Bùi Hoài Sơn, Thạch Phương, Ngô Đức Thịnh; lễ hội dân gian với các tác giả Đinh Gia Khánh, Lê Trí Đức; lễ hội cổ truyền với các tác giả Nguyễn Chí Bền, Thu Linh, Đặng Văn Lung, Lê Trung Vũ; hội hè có các tác giả Toan Ánh, Đặng Quốc Vượng, Trương Thìn. Tuy nhiều nhà khoa học dùng từ lễ hội trong các khái niệm khác nhau nhưng với ý nghĩa chỉ một hình thức diễn xướng tâm linh trong tương quan với các loại hình, hoạt động văn hóa truyền thống. Qua tìm hiểu lễ hội người M’Nông mà chúng tôi nhận thấy, chỉ có một số nghi lễ quan trọng: “cầu mưa”, “mừng mùa”, “bến nước”, “cầu an”...
- 8 thì sẽ trở thành lễ hội. Do vậy, chúng tôi nhận thấy rằng: Lễ hội là một chỉnh thể gồm cả nghi lễ lẫn sinh hoạt văn hóa cộng đồng, nhưng yếu tố quyết định vẫn là lễ và những nghi lễ nào được cộng đồng tham gia với các sinh hoạt đa dạng và phong phú, thì lễ đó theo thời gian trở thành lễ hội. Khái niệm về truyền thống (tradition) “là thói quen hình thành đã lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác”. Theo Từ điển tiếng Việt của Hội ngôn ngữ học Việt Nam từ “phục hồi” là trả lại, hồi lại. Trong tác phẩm Xây dựng năng lực thiết kế, triển khai và đánh giá các dự án bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể: “Phục hồi di sản phi vật thể là việc dựa trên các tư liệu khoa học và nhân chứng hồi ức lịch sử để tái tạo lại một phần hoặc toàn bộ nội dung và hình thức thể hiện của di sản phi vật thể đã mất”. Hay có thể hiểu một nghĩa cụ thể hơn thì phục hồi lễ hội truyền thống là làm hồi sinh hay sống lại các di sản cộng đồng, đồng nghĩa với việc tái hiện, thực hành các nghi lễ và các thành tố trong lễ hội truyền thống. 1.2.2. Lý thuyết tiếp cận vấn đề Lễ hội nói chung và lễ hội truyền thống người M’Nông Preh huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông trong thời kỳ hiện đại là một đề tài khá hấp dẫn các nhà nghiên cứu Khoa học Xã hội và Nhân văn quan tâm để nghiên cứu và sử dụng nhiều trường phái lý thuyết, quan điểm khác nhau, nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra cho phù hợp với từng chuyên ngành. Trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi sẽ sử dụng cơ sở lý thuyết, quan điểm học thuật trong ngành khoa học văn hóa dân gian, nhân học văn hóa làm phương pháp tiếp cận mong muốn rằng từ góc độ tiếp cận về văn hóa học, văn hóa dân gian và nhân học văn hóa, chúng tôi sẽ sử dụng quan điểm học thuật về phục hồi di sản văn hóa phi vật thể để giải quyết các mục tiêu đặt ra của luận án. * Quan điểm học thuật về phục hồi di sản văn hóa phi vật thể
- 9 Việc phục hồi lễ hội truyền thống của người M’Nông Preh, huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, việc tổ chức phục hồi lễ hội truyền thống đang phải đối diện với những khó khăn, thách thức to lớn của đời sống có nhiều thay đổi trong xã hội đương đại. Dựa trên các nguyên tắc bảo vệ di sản phi vật thể nói chung và lễ hội truyền thống nói riêng thì đảm bảo bốn đặc tính cơ bản: tính chỉnh thể, tính bình đẳng, tính cộng đồng và tính biến đổi. Do vậy, khi soi chiếu về việc nghiên cứu, phục hồi các lễ hội truyền thống, những đặc tính đó đều có giá trị quan trọng trong việc tái tạo và thực hành các thành tố trong lễ hội truyền thống. Vấn đề phục hồi những di sản văn hóa nói chung và lễ hội truyền thống nói riêng đã phát sinh những quan điểm khác nhau trong vấn đề nhận thức, quản lý, tổ chức; sự đồng thuận của cộng đồng và chính quyền các cấp. Theo quan điểm phục hồi văn hóa phi vật thể của Công ước về bảo vệ văn hóa phi vật thể UNESCO năm 2003, di sản được xác định vẫn còn hiện diện trong đời sống cộng đồng và trong kí ức của các thành viên, đặc biệt là lễ hội truyền thống là đối tượng của hoạt động phục hồi. Tính bình đẳng là tiêu chí quan trọng để nhận diện vị trí ngang bằng của văn hóa các dân tộc. Đó là một trong bốn đặc tính cơ bản của di sản văn hóa phi vật thể mà tính bình đẳng đã được đề cao. Biến đổi cũng là thuộc tính của di sản văn hóa phi vật thể trong một xã hội luôn có sự thay đổi và phát triển không ngừng. Cộng đồng vừa giữ gìn những di sản truyền thống vừa phải chấp nhận sự thay đổi cho phù hợp với điều kiện sống của một xã hội hiện đại. Với việc áp dụng quan điểm học thuật về phục hồi di sản văn hóa phi vật thể chúng tôi sẽ nghiên cứu cụ thể những nội dung sau: - Nghiên cứu cách thức cộng đồng, bon làng đã phục hồi như thế nào trong việc thực hiện các nội dung, các quy định và cách thức tổ chức quản lý lễ hội.
- 10 - Nghiên cứu việc thực hành lễ hội (các nghi lễ, nghi thức...) và việc tái tạo lễ hội truyền thống triển khai như thế nào. - Nghiên cứu những yếu tố tác động đến quá trình phục hồi và chủ thể văn hóa (cộng đồng) này làm những gì, yếu tố bên ngoài (khách quan, chủ quan) tác động như thế nào. - Nghiên cứu hệ quả của việc phục hồi lễ hội truyền thống về văn hóa, xã hội và di sản cộng đồng có gì sai hay không, có phù hợp và tương thích với xã hội đương đại. 1.3. Người M’Nông Preh ở huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông 1.3.1. Đặc điểm tự nhiên và dân cư Người M’Nông Preh là một nhánh của tộc người M’Nông, là cư dân sinh sống lâu đời ở vùng đất này. 1.3.2. Sinh hoạt văn hóa vật chất Kinh tế truyền thống của người M’Nông Preh là kinh tế nương rẫy, hái lượm và săn bắt. Kinh tế nương rẫy chiếm vị trí quan trọng đối với người M’Nông, họ khai phá các khu rừng để làm rẫy theo kiểu luân khoảnh-“ăn rừng”; nhưng ngày nay họ từng bước chuyển đổi chuyên canh cây công nghiệp như: cà phê, hồ tiêu, cao su. 1.3.3. Sinh hoạt văn hóa tinh thần Người M’Nông có kho tàng văn hoá dân gian đồ sộ, đa dạng, phong phú. Nghệ thuật dân gian M’Nông được cộng đồng sáng tạo từ kiến trúc bon, nhà ở, trang trí đến âm nhạc, múa đều có nét khác biệt, tinh tế và độc đáo. Với tín ngưỡng “vạn vật hữu linh” và “đa thần”, hồn, tô tem-vật tổ nên người M’Nông cho rằng hầu hết cuộc sống con người do thần linh chi phối; do đó con người phải tôn thờ thần linh và cúng tế thần linh để được sự che chở, chuộc tội lỗi và cầu mong cuộc sống bình yên. Với hai hệ thống lễ nghi chính là: lễ nghi nông nghiệp và lễ nghi vòng đời người. Cộng đồng M’Nông Preh có những lễ hội dân gian sau: Mừng mùa (Bư brah bă), Sum họp cộng đồng (R’nglăp
- 11 bon), Cúng bến nước (Bư brah dơrâm dăk), Cầu mưa (Bư brah qual mih), Cầu an (Tăm blang m’prang bon). Tiểu kết Những vấn đề tiếp cận có tính chất nền tảng đã làm sáng tỏ một số khái niệm cơ bản về lễ hội truyền thống cũng như việc phục hồi trong xã hội đương đại, giúp cho người nghiên cứu, tiếp cận và giải quyết các vấn đề đã đặt ra trong luận án. Trên cơ sở các khái niệm đã được làm sáng tỏ, chúng tôi đã nhận thấy những nét khác nhau trong nội hàm ý nghĩa của các khái niệm về lễ hội của người M’Nông Preh trong nền cảnh chung của xã hội Tây Nguyên. Với những nét khái quát của đời sống xã hội của người M’Nông Preh ở huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông đã cho thấy bức tranh tổng thể về địa bàn cư trú, hoạt động kinh tế xã hội, sinh hoạt văn hóa cộng đồng trong đó có đời sống tâm linh, tín ngưỡng và lễ hội truyền thống. Chương 2 PHỤC HỒI LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI M’NÔNG PREH Ở HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐĂK NÔNG 2.1. Các lễ hội truyền thống 2.1.1. Đặc trưng của lễ hội M’Nông Preh Lễ hội truyền thống là nơi hàm chứa tri thức bản địa, các nguyên tắc ứng xử, đạo đức con người, sự khôn khéo và tình cảm của cộng đồng, điều chỉnh các mối quan hệ; đồng thời lễ hội nhằm cố kết cộng đồng. Cộng đồng M’Nông Preh sống ở môi trường rừng núi với khí hậu đặc trưng đã tạo nên chu kỳ sinh trưởng của cây trồng hình thành nhịp điệu sản xuất với hoạt động canh tác nương rẫy hết sức riêng biệt; cư dân bản địa đã tạo dựng nên những sinh hoạt văn hóa cộng đồng hết sức độc đáo trong đó có lễ hội; phản ánh rõ nét những giá trị văn hóa của cộng đồng sống với rừng và canh tác nương rẫy. Người M’Nông Preh có quan hệ mật thiết với các nhánh M’Nông khác nhau và các tộc người Tây Nguyên, tuy cộng đồng
- 12 M’Nông chủ yếu định cư ở vùng Đăk Nông nhưng người M’Nông sống gần gũi với các tộc người khác như Mạ, Ê Đê và S’tiêng nên có sự ảnh hưởng của văn hóa của các tộc người này. 2.1.2. Khái quát các lễ hội Người M’Nông Preh có những lễ hội như: Mừng mùa (Bư brah bă), Sum họp cộng đồng (R’nglăp bon), Cúng bến nước (Bư brah dơrâm dăk), Cầu mưa (Bư brah qual mih), Cầu an (Tăm blang m’prang bon). 2.1.3. Lễ hội Cầu an (Tăm blang m’prang bon) Lễ hội Tăm blang m’prang bon là lễ hội truyền thống của người M’Nông Preh ở xã Nâm Nung, huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông. Theo giải thích của người M’Nông Preh tăm là trồng, blang là cây gạo, m’prang là cúng. Tăm blang m’prang bon là lễ cúng cầu mong an lành cho bon làng. Theo tục lệ cứ mỗi lần đâm trâu người M’Nông lại trồng 1 cây gạo trong bon để ghi nhớ. Sau khi du canh hay du cư lúc quay về có dấu hiệu để nhận biết bon cũ họ đã từng sinh sống. Lễ hội được bốn bon phối hợp tổ chức tại vị trí giáp ranh của bon Ja Răh, bon Yok Ju, bon R’Cập và bon Rung thộc xã Nâm Nung. Lễ hội ăn một trâu đực trưởng thành, 2 heo và gà để tế và cúng trong các nghi lễ lớn của lễ hội và 7 ché yăng n’dranh lớn gạo nếp và gạo lúa rẫy. Kinh phí tổ chức là 40 triệu đồng do chính quyền tài trợ. 2.2. Chủ thể và khách thể với lễ hội 2.2.1. Vai trò của cộng đồng Chủ thể của lễ hội truyền thống là cộng đồng M’Nông Preh, họ đã sáng tạo, lưu truyền qua nhiều thế hệ. Cộng đồng tự xây dựng chương trình, sắp xếp bố trí công việc, lựa chọn cách thức tổ chức. Sự phát triển kinh tế xã hội làm thay đổi niềm tin, tín ngưỡng và của từng bon làng đã tác động mạnh mẽ đến việc duy trì các nghi lễ truyền thống và tiến hành tổ chức lễ hội. Cộng đồng ngày nay có thể giàu có hơn ngày xưa nhưng việc ý thức bảo tồn văn hóa truyền thống khó đoán định; không
- 13 có ai chèo lái, đứng mũi chịu sào có thể huy động được nhân lực, vật lực từ cộng đồng; chưa thể đánh thức tính tự giác, vô tư của họ đảm bảo cho việc phát triển văn hóa theo suốt hàng ngàn đời. Việc phục hồi lễ hội truyền thống là việc làm có ý nghĩa và cộng đồng là người triển khai thực hiện như thế nào với di sản của mình. 2.2.2. Vai trò của già làng, nghệ nhân Trong xã hội truyền thống, già làng giữ vai trò hết sức quan trọng, là người điều hành, dẫn dắt cộng đồng, là người quyết định mọi vấn đề đối với sự phát triển, tổ chức các hoạt động văn hóa trong đó có tổ chức lễ hội. Già làng, nghệ nhân là lực lượng cốt cán của cộng đồng, là những người nắm cơ bản, vững chắc về văn hóa truyền thống lại bị động chịu sự điều hành quản lý, do đó việc tổ chức triển khai thực hiện cũng gặp hết sức khó khăn, mâu thuẫn diễn ra thường xuyên. 2.2.3. Chính quyền và cán bộ cơ sở Do điều kiện kinh tế xã hội của địa phương, nhất là cộng đồng M’Nông Preh còn khó khăn, do đó việc phục hồi các lễ hội truyền thống đang được tổ chức tại địa phương luôn được bảo trợ của chính quyền, của nhà nước. Chính quyền cơ sở đã “dài tay” trong việc phục hồi các lễ hội truyền thống, do họ nhìn nhận với vai trò là người quản lý xã hội, do đó cũng là người trực tiếp quản lý, chỉ đạo các hoạt động văn hóa cơ sở, trong đó có lễ hội. 2.3. Tình hình tổ chức phục hồi lễ hội truyền thống ở huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông Tuy chịu sự khốc liệt của chiến tranh nhưng cộng đồng M’Nông Preh cố gắng giữ gìn truyền thống văn hóa tốt đẹp của cha ông, việc tổ chức các sinh hoạt văn hóa truyền thống cũng được duy trì, trong đó có lễ hội; nhưng tính quy mô đã được thu gọn cho phù hợp với điều kiện chiến tranh. Sau năm 1975, đất nước được giải phóng, cộng đồng M’Nông Preh bắt tay xây dựng đời sống mới, khắc phục hậu quả chiến tranh; điều kiện để tổ chức lễ hội cũng gặp không ít khó khăn.
- 14 Những năm của đất nước đổi mới, cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên cũng chịu sự tác động của việc mở rộng sản xuất, việc di cư ồ ạt của người Kinh và các tộc người phía Bắc lên Tây Nguyên đã làm đảo lộn cuộc sống nơi đây. Trong điều kiện đó, việc lấn đất, phá rừng, nhịp sống mới với những tiện ích của khoa học kỹ thuật và văn hóa Kinh, văn hóa ngoại lai đã bắt đầu nhen nhóm trong cộng đồng các tộc người thiểu số tại chỗ. Các tôn giáo mới (Tin lành Đê gar) đã len lỏi trong đời sống bon làng, hủy hoại văn hóa truyền thống. Do chịu sự chi phối lớn của văn hóa mới và những vấn đề tiêu cực đã tác động nên hầu như các lễ hội và nghi lễ ít khi được tổ chức trong cộng đồng. - Năm 2004, tỉnh Đăk Nông được tái lập, được sự hỗ trợ của chính quyền các cấp, cộng đồng M’Nông Preh ở huyện Krông Nô đã tổ chức phục dựng được 20 lễ hội và nghi lễ của dân tộc M’Nông, trong đó có 5 lễ hội M’Nông Preh ở huyện Krông Nô. Qua thực tế, lễ hội đã được khôi phục cộng đồng hồ hởi, phấn khởi tham gia nhưng không tránh khỏi những đổi thay hết sức phiền phức cho cộng đồng, đặc biệt là già làng và các nghệ nhân, chủ thể loại hình văn hóa này. Nhìn chung, so với những mục tiêu đặt ra trong việc phục hồi lễ hội truyền thống của người M’Nông Preh đã đạt được những vấn đề cơ bản còn lưu giữ trong ký ức cộng đồng. Tiểu kết Lễ hội truyền thống là một hiện tượng văn hóa mang tính phổ biến và giữ vị trí quan trọng trong đời sống cộng đồng. Đây là loại hình sinh hoạt văn hóa mang tính cộng đồng cao, nhưng lễ hội truyền thống hàm chứa những nét đặc trưng riêng biệt, phản ánh những giá trị văn hóa tốt đẹp được thể hiện qua các nghi lễ truyền thống, lễ vật dâng cúng, diễn xướng và trò chơi dân gian hết sức độc đáo, phản ánh đầy đủ những ứng xử hết sức tinh tế và hài hòa giữa con người với con người, con người với tự nhiên, con người với các đấng thần linh.
- 15 Lễ hội truyền thống M’Nông Preh đã phản ánh những giá trị văn hóa của cộng đồng sống với rừng và canh tác nương rẫy. Nét đặc trưng cơ bản của lễ hội dễ nhận diện là ăn trâu, dựng cây nêu, trồng cây Blang, cố kết cộng đồng và hướng về cội nguồn. Phân tích và làm sáng tỏ từ góc độ văn hóa để thấy sự riêng biệt, sự sáng tạo không ngừng của cộng đồng qua hàng ngàn đời, giúp cho người nghiên cứu có cái nhìn tổng thể hơn về cộng đồng cư dân và đặc biệt là sức sáng tạo về văn hóa truyền thống, trong đó có lễ hội, để làm cơ sở cho việc nghiên cứu phục hồi lễ hội truyền thống trong xã hội đương đại. Chương 3 NHẬN ĐỊNH VỀ SỰ PHỤC HỒI LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG TRONG XÃ HỘI ĐƯƠNG ĐẠI 3.1. Những vấn đề xung quanh việc phục hồi lễ hội 3.1.1. Sự thay đổi thời gian, không gian lễ hội Lễ hội được tổ chức khi cộng đồng đã thu hoạch xong nương rẫy, thông thường tổ chức từ tháng 1 cho đến tháng 3 vào thời điểm mùa khô ở Tây Nguyên. Ngày nay, để phục vụ cho việc phát triển kinh tế xã hội và hướng đến kỷ niệm các ngày lễ lớn của địa phương thì cộng đồng được khuyến khích tổ chức lễ hội vào những ngày, những thời điểm diễn ra những sự kiện chính trị và văn hóa. Sân lễ này không những cho một bon có thể liên kết 3 bon, 5 bon phục vụ cho nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ ổn định xã hội và phát triển văn hóa cơ sở. 3.1.2. Về nghi lễ Nghi lễ trong những ngày tổ chức lễ hội thì cộng đồng đều coi là lễ trọng. Những nghi lễ là lòng thành kính, tri ân gửi gắm, tin tưởng với các vị thần Brah cầu mong cho sự an lành, may mắn và hạnh phúc; cho nên nghi lễ là một trong những hoạt động thiêng nhất trong các lễ hội của người M’Nông Preh.Việc hủy bỏ không “ăn trâu” kéo theo hàng loạt các nghi thức độc đáo, nhân văn, hài hòa trong lễ hội
- 16 như: cột trâu, khóc trâu, đâm trâu, cúng đầu trâu, cúng cầu may cho người đâm trâu... đã không còn nữa; do đó lễ hội cũng kém vui, ít trang trọng hơn. 3.1.3. Về lễ vật và những vật cúng có liên quan Những lễ vật, vật cúng theo quan niệm truyền thống của người M’Nông Preh là những sản vật được chuẩn bị, họ thu hoạch qua quá trình sản xuất, chăn nuôi, săn bắt hái lượm để dâng lên thần linh trong các dịp tế lễ. Trong lễ vật dâng cúng ngày nay cũng xuất hiện một số nông sản của xã hội đương đại như các cây trồng công nghiệp trong đó có cà phê, ca cao, hồ tiêu và một số cây ăn trái. 3.1.4. Về văn nghệ, trò chơi dân gian Người M’Nông Preh tổ chức đám rước lễ hội hết sức hoành tráng. Trò chơi dân gian thực chất là các trò chơi được cộng đồng ưa thích và sinh hoạt trong các bon làng, thường tổ chức trong các lễ hội và có điều kiện tái hiện. Ngày nay ban tổ chức đã đưa một số trò chơi mới trong các lễ hội như uống rượu thi và không quản lý được việc chè chén dẫn đến say rượu, mâu thuẫn, va chạm thậm chí đánh nhau trong lễ hội là chuyện đã từng diễn ra. 3.1.5. Vấn đề sân khấu hóa Trong tổ chức lễ hội truyền thống việc thực hành các nghi lễ, các nghi thức có lúc, có nơi còn nặng về hình thức sân khấu hóa và sáng tạo truyền thống theo cách chỉ đạo chưa có sự đồng thuận cao của cộng đồng mà đôi lúc bản thân họ cảm thấy xa lạ, không thỏa mãn với những suy nghĩ và ước nguyện của cộng đồng. 3.2. Nguyên nhân của sự thay đổi của lễ hội 3.2.1. Sự thay đổi môi trường sống Môi trường sống là nơi cộng đồng tồn tại và phát triển, các loại hình sinh hoạt văn hóa cộng đồng được tạo dựng và dẫn truyền từ đời này sang đời khác; môi trường là yếu tố quyết định đến bản sắc văn hóa vì nó là nền tảng của mọi hoạt động của tiến trình phát triển cộng
- 17 đồng. Sau 10 năm thành lập tỉnh dân số tăng gấp đôi, diện tích đất rừng của Đăk Nông giảm đi 150.000 ha, một con số quá lớn đối với một tỉnh miền núi mà người dân bản địa sống dựa vào rừng. Thực tế, rừng như biến mất hoàn toàn với không gian sống, các bon ngày nay sống tách biệt với rừng. Mất đi môi trường sống là mất dần niềm tin và tín ngưỡng dân gian, đầu mối của các nghi lễ và lễ hội truyền thống của cộng đồng. 3.2.2. Sự thay đổi sở hữu đất đai và canh tác cây trồng Đến năm 2017 theo báo cáo của UBND tỉnh Đắk Nông dân số đã tăng lên 624.000 người. Cộng đồng các dân tộc định cư ở địa phương đã tăng lên đáng kể, đến nay có 41 dân tộc anh em sinh sống trên vùng đất Đăk Nông là một sự trở ngại rất lớn cho việc định cư, định canh, sản xuất bố trí công ăn việc làm, phát triển và ổn định đời sống xã hội. Tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất đai, mua bán đất trái phép đã diễn ra hằng ngày; nhất là rừng nguyên sinh, rừng đầu nguồn, vùng đồng bào dân tộc tộc thiểu số nơi họ đã định cư lâu đời. Ngày nay, người M’Nông Preh trồng cây công nghiệp như: cà phê, ca cao, hồ tiêu. 3.2.3. Sự thay đổi đời sống xã hội Bên cạnh cộng đồng các dân tộc thiểu số, người Kinh có một vai trò quan trọng trong việc đem đến cái mới trong đời sống và sinh hoạt văn hóa, trong quan hệ với các tộc người thiểu số tại chỗ, có sức ảnh hưởng rất lớn trong mọi mối quan hệ xã hội, nhất là lối sống hiện đại. Nhà văn hóa cộng đồng một thiết chế văn hóa ở cơ sở được xây dựng đều khắp trên các bon theo những khuôn mẫu nhất định, theo ý chí chủ quan của lãnh đạo địa phương và cơ quan nhà nước đặc biệt là ngành văn hóa. Việc xây dựng nhanh chóng không tham khảo ý kiến cộng đồng, không lưu ý đến công năng sử dụng; mặt khác vị trí xây dựng không phù hợp (có khi đặt khá xa bon), trang thiết bị thiếu thốn, hoạt động nghèo nàn không thu hút người dân đôi lúc còn xa lạ với văn hóa truyền thống.
- 18 Phần lớn tri thức dân gian được lưu giữ trong lực lượng "trí thức của làng bon" như: thầy cúng, già làng, nghệ nhân. Những con người được cho là "tinh hoa" của cộng đồng đều có trí nhớ tốt, có năng lực và được cộng đồng quý trọng, đề cao nhưng hiện tại ít được coi trọng. Tri thức dân gian là nguồn tri thức quý giá trong cộng đồng, những giá trị thực tế của nó mặt nào đó còn nguyên giá trị, được cộng đồng tiếp cận và phát huy trong thời đại ngày nay. 3.2.4. Vấn đề tín ngưỡng và tôn giáo Vấn đề tôn giáo ở Tây Nguyên là vấn đề lớn, ảnh hưởng rất mạnh trong đời sống cộng đồng. Đối với người M’Nông Preh họ là những cư dân bản địa quen với những tập tục truyền thống và tín ngưỡng đa thần cũng đã chịu tác động mạnh mẽ của các tôn giáo, tôn giáo mới. Việc thực hành tín ngưỡng truyền thống bị giảm sút, hiện tượng cải đạo trong cộng đồng trở nên phổ biến kéo theo những xáo trộn xã hội. Nghiêm trọng hơn là các tôn giáo mới như Tin lành Đề ga và một số tôn giáo mới khác đã cấm đoán, lừa bịp tín đồ, cộng đồng dân tộc thiểu số không tổ chức các sinh hoạt văn hóa truyền thống. Cộng đồng say sưa với niềm tin mới, một lòng phụng sự đấng tối cao, Chúa Trời và dần quên diễn tấu cồng chiêng, các sinh hoạt văn hóa truyền thống, các nghi lễ thành kính trong mùa lễ hội; các vị thần hỗ trợ cộng đồng bấy lâu: Thần Sông, Thần Suối, Thần Lúa...thật gần gũi với bon làng bỗng chốc trở nên xa lạ. 3.3. Hệ quả của quá trình thay đổi của lễ hội Do đó, việc bảo tồn và phát triển đời sống văn hóa đã trở thành những chủ đề nóng bỏng trong cuộc tranh luận, hội thảo khoa học và chính sách phát triển của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên nói chung và người M’Nông Preh nói riêng. Sự lãng quên dần hay mai một văn hóa truyền thống là điều báo động và hết sức nghiêm trọng, cảnh báo một thời kỳ mới với nhiều hệ lụy trong việc bảo tồn văn hóa
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Tiến sĩ Chính trị học: Những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Lào và ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay
27 p | 130 | 15
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu mức độ biểu hiện và giá trị chẩn đoán, tiên lượng của một số microRNA ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết
27 p | 17 | 7
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị phì đại lành tính tuyến tiền liệt bằng phương pháp nút mạch
28 p | 22 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều trị tủy răng hàm thứ nhất, thứ hai hàm trên bằng kĩ thuật Thermafil có sử dụng phim cắt lớp vi tính chùm tia hình nón
27 p | 23 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu biến đổi các chỉ số khí máu động mạch và cơ học phổi khi áp dụng nghiệm pháp huy động phế nang trong gây mê phẫu thuật bụng ở người cao tuổi
14 p | 15 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu hiệu quả điều trị và dự phòng tái phát nhồi máu não của aspirin kết hợp cilostazol
27 p | 16 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều trị ung thư biểu mô tế bào gan còn tồn dư sau tắc mạch hóa chất bằng phương pháp xạ trị lập thể định vị thân
27 p | 22 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh, giá trị của 18 F-FDG PET/CT trong lập kế hoạch xạ trị điều biến liều và tiên lượng ở bệnh nhân ung thư thực quản 1/3 trên
27 p | 23 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính đa dãy hệ tĩnh mạch cửa và vòng nối ở bệnh nhân xơ gan có chỉ định can thiệp TIPS
28 p | 19 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu hiệu quả kiểm soát hô hấp của phương pháp thông khí ngắt quãng và thông khí dạng tia trong phẫu thuật tạo hình khí quản
27 p | 18 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu độ dày nội trung mạc động mạch đùi và giãn mạch qua trung gian dòng chảy động mạch cánh tay ở phụ nữ mãn kinh bằng siêu âm Doppler
27 p | 14 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu hình ảnh động mạch xuyên ở vùng cẳng chân bằng chụp cắt lớp vi tính 320 dãy và ứng dụng trong điều trị khuyết hổng phần mềm
27 p | 15 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu biến đổi nồng độ và giá trị tiên lượng của hs-Troponin T, NT-proBNP, hs-CRP ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim không ST chênh lên được can thiệp động mạch vành qua da thì đầu
27 p | 22 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều trị tổn khuyết mũi bằng các vạt da vùng trán có cuống mạch nuôi
27 p | 31 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, Xquang và đánh giá hiệu quả điều trị hẹp chiều ngang xương hàm trên bằng hàm nong nhanh kết hợp với minivis
27 p | 24 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh và giá trị của SPECTCT 99mTc-MAA trong tắc mạch xạ trị bằng hạt vi cầu Resin gắn Yttrium-90 ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan
29 p | 13 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu cấy ghép implant tức thì và đánh giá kết quả sau cấy ghép
27 p | 21 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, Xquang và đánh giá kết quả điều trị lệch lạc khớp cắn Angle có cắn sâu bằng hệ thống máng chỉnh nha trong suốt
27 p | 20 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn