intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tổng quan cây đương quy Nhật Bản (Đương quy di thực)

Chia sẻ: Nguyễn Trung Kiên | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:8

280
lượt xem
46
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đặc điểm thực vật cây đương quy, điều kiện sinh thái cây đương quy, đặc điểm sinh trưởng phát triển cây đương quy,... là những nội dung chính trong tài liệu "Tổng quan cây đương quy Nhật Bản - Đương quy di thực". Mời các bạn cùng tham khảo để nắm bắt nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tổng quan cây đương quy Nhật Bản (Đương quy di thực)

  1. TỔNG QUAN CÂY ĐƯƠNG QUY NHẬT BẢN ( ĐƯƠNG QUY  DI THỰC) Tên khoa học: Angelica acutiloba (Sieb. et Zucc) Kitagawa.    Họ hoa tán: Apiaceae. Tên vị thuốc: Đương quy. I. Đặc điểm thực vật Đương quy thân thảo, cao từ 75 ­ 100 cm khi ra hoa. Lá có cuống dài,  có bẹ  lá phía gốc, cuống lá màu tím  nhạt, lá xẻ lông chim 3 lần, mép lá có  răng cưa, không có lông. Hoa tự  hình  tán kép, cánh hoa màu trắng. Hoa của  bông trung tâm nở  trước, sau đó lần  lượt   đến   hoa   ở   cành   cấp   1,   cấp   2,  cấp 3. Thứ  tự  các cấp cành nở  hoa  cách nhau từ  4 ­ 6 ngày. Quả  bế  đôi,  thuôn dài 4 ­ 5 mm, hẹp dần về  phía  gốc. Tâm bì có gân, có 4 ­ 5  ống dẫn  ở  phần lưng, bốn chiếc  ở mặt bụng.  Rễ cọc có rễ phụ, toàn thân có mùi thơm đặc biệt. Mùa hoa tháng 3 ­ 4. Mùa quả tháng 6 ­ 7. II. Điều kiện sinh thái Cây Đương quy trồng trong sản xuất hiện nay được nhập từ  Nhật  Bản vào Việt Nam năm 1990. Cho đến nay chưa tìm thấy Đương quy  mọc tự  nhiên trong hệ  thực vật Việt Nam.  ở  Nhật Bản, Đương quy   mọc hoang  ở  các vùng Mt.Ibuki và vùng ven sông Hida. Đương quy  
  2. được trồng và sử dụng nhiều ở Trung Quốc với loài Angelica sinensis,  ở Nhật Bản trồng và sử dụng loàiAngelica acutiloba. Đương quy thích ứng với khí hậu mát ẩm, biên độ nhiệt độ 15 ­ 25oC,  vũ lượng 1600 ­ 2000 mm/năm, đất giàu mùn. III. Đặc điểm sinh trưởng phát triển 1. Các giai đoạn sinh trưởng phát triển a) Giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng: Giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng của Đương quy kéo dài từ  khi cây  mọc mầm, phát triển thành cây, tăng lên về số lượng và thành phần tế  bào. Bộ  lá quanh cổ  rễ  phát triển tối đa, sự  sinh trưởng sinh dưỡng   càng mạnh thì sự tích luỹ chất khô vào củ càng nhiều, vì vậy việc kéo  dài thời gian sinh trưởng sinh dưỡng có ý nghĩa lớn trong việc tăng  năng suất dược liệu cây Đương quy. b) Giai đoạn sinh trưởng sinh sản: Giai đoạn sinh trưởng sinh sản là quá trình tiếp theo của sinh trưởng  sinh dưỡng, biểu hiện từ khi cây ra ngồng, lúc này bộ lá quanh cổ rễ  ngừng phát triển, mà hình thành những lá nhỏ  trên thân. Rễ  củ  không  tăng lên về  khối lượng mà lại tiêu hao dinh dưỡng để  nuôi hoa, quả,  làm cho rễ củ bị hoá xơ và rỗng, không sử dụng làm dược liệu được.   Khi kết thúc giai đoạn sinh trưởng sinh sản, cây Đương quy kết thúc  một vòng đời. Quá trình sinh trưởng sinh sản thường xảy ra 3­4 tháng   cuối trong đời sống của cây Đương quy. 2. Kết quả nghiên cứu về sinh trưởng phát triển của Đương quy Năm 1990,  Đương quy Nhật Bản  được nhập vào Việt Nam và đã  được Viện Dược liệu trồng thử   ở  Trạm cây thuốc Sapa (Lào Cai).   Kết quả sau 3 năm thử nghiệm (1991 ­ 1993) cho thấy ở miền núi cao  miền Bắc thời gian sinh trưởng phát triển của Đương quy Nhật Bản  như sau: ­ Thời gian nảy mầm của hạt (từ gieo đến mọc) khoảng trên dưới 20   ngày. ­ Tỷ lệ nảy mầm của hạt đạt khoảng 75% ­ 85%.            ­ Thời gian từ gieo hạt đến thu được dược liệu khoảng trên dưới 500  ngày.
  3. ­ Thời gian từ  gieo hạt đến khi thu hạt giống khoảng trên dưới 550   ngày. ­ Năng suất củ đạt được trên dưới 25 tạ/ha. ­ Năng suất hạt giống khoảng xấp xỉ 300 kg/ha. ­ Khối lượng 1000 hạt khoảng 4,2 ­ 4,5g. Thử nghiệm cũng cho thấy tỷ lệ cây ra hoa năm thứ nhất thấp (6,5%),  củ to, năng suất dược liệu khá ổn định. Qua kết quả  nghiên cứu sản xuất hạt giống Đương quy Nhật Bản  ở  Sapa, hạt giống đã được đưa về trồng thử ở đồng bằng sông Hồng để  sản xuất dược liệu Đương quy, Phạm Văn ý (2001) bước đầu đã đi  đến kết luận: ­ Ở Sapa (Lào Cai), Đương quy Nhật Bản ngoài việc sản xuất để thu  dược liệu, Sapa còn là nơi có điều kiện rất thuận lợi để  sản xuất hạt  giống Đương quy có chất lượng tốt cung cấp cho các vùng trồng  ở  miền Bắc Việt Nam. ­ Ở vùng đồng bằng sông Hồng (Thanh Trì ­ Hà Nội) chỉ trồng Đương  quy Nhật Bản để  lấy dược liệu, không thích hợp với việc sản xuất  hạt giống bởi thời gian ra hoa ngắn, tỷ lệ đậu quả thấp. iv. Giá trị làm thuốc 1. Thành phần hoá học Thành phần hoá học chính của Đương quy là tinh dầu 0,2%, tỷ trọng   ở  15oC là 0,955, có màu vàng sẫm, có chứa 40% axit tự  do. Tinh dầu  Đương   quy   gồm   ligustilid,   n­butyliden   phtalid,   o­valerphenon  carboxylic acid, safrol, p­ cymen… Ngoài ra còn có vitamin B12 0,25­0,4%, axit folic, biotin, polysacharid. 2. Bộ phận dùng làm thuốc và công dụng a) Bộ phận dùng làm thuốc: Bộ phận dùng làm thuốc là rễ Đương quy(Radix Angelicae acutiloba). Rễ   củ   đã   phơi   hay   sấy   khô   của   cây   Đương   quy   di   thực   từ   Nhật  bản (Angelica acutiloba (Sieb. et Zucc.) Kitagawa, họ Hoa tán (Apiaceae). Mô tả rễ đương quy
  4. Rễ chính ngắn và mập, dài 10 – 20 cm, đường kính 2 cm trở lên, có  nhiều rễ nhánh dài 15 – 20 cm, đường kính 0,2 cm trở lên. Mặt ngoài  màu nâu tối, có nhiều nếp nhăn dọc, nhiều sẹo lồi nằm ngang là vết  tích của rễ con. Mặt cắt ngang màu trắng ngà có vân tròn và nhiều  điểm tinh dầu. Mùi thơm hơi hắc, vị ngọt nhẹ, sau hơi cay nóng. Vi phẫu Mặt cắt ngang hình tròn, từ ngoài vào trong có: Lớp bần gồm nhiều  hàng tế bào hình chữ nhật thành dày xếp thành vòng đồng tâm và dãy  xuyên tâm. Mô mềm vỏ gồm những tế bào thành mỏng, lớp phía ngoài  thường bị ép bẹp, méo mó, rải rác có các khuyết tế bào hình dạng  khác nhau. Có ống tiết tinh dầu nằm rải rác trong mô mềm vỏ và libe.  Libe–gỗ bị phân cách bởi các tia ruột tạo thành các bó dài riêng biệt.  Tầng sinh libe–gỗ tạo thành vòng liên tục. Tia ruột gồm 2 – 3 hàng tế  bào xếp theo hướng xuyên tâm. Bột đương quy di thực Bột có màu vàng nâu, vị cay. Soi dưới kính hiển vi thấy: Có nhiều hạt  tinh bột hình tròn hay hình trứng nhỏ đứng riêng lẻ hay từng đám,  đường kính từ 5 – 20 µm. Mảnh mạch mạng, mạch xoắn, mạch điểm.  Mảnh mô mềm có nhiều hạt tinh bột và các ống tiết tinh dầu thường  bị vỡ, rải rác có các giọt dầu màu vàng nhạt. Định tính 1. Bột dược liệu phát quang dưới áng sáng tử ngoại ở bước sóng  366 nm. 2. Phương pháp sắc ký lớp mỏng (Phụ lục 5.4) Bản mỏng: Silica gel 60F254 Hệ dung môi: Cyclohexan – ethylacetat  – aceton (7 : 2 :1).
  5. Dung dịch thử: Lấy 2 g bột dược liệu thêm 20 ml aceton  (TT) lắc thật  kỹ (lắc trên máy lắc) trong 1 giờ. Lọc. Bốc hơi dịch lọc đến khô. Hoà  tan cắn trong 1 ml cloroform (TT). Dung dịch đối chiếu: Lấy 2 g Đương qui di thực (mẫu chuẩn), tiến  hành chiết như mẫu thử. Cách tiến hành: Chấm riêng biệt lên bản mỏng 10 ml mỗi dung dịch  thử và và dung dịch đối chiếu. Sau khi khai triển, lấy bản mỏng ra  khỏi bình sắc ký, để bay hơi hết dung môi ở nhiệt độ phòng. Quan sát  dưới ánh sáng tử ngoại ở bước sóng 366 nm,  trên sắc ký đồ  của dung  dịch thử phải cho các vết phát quang xanh sáng có cùng màu sắc và giá  trị Rf với các vết trên sắc ký đồ của dung dịch đối chiếu. Sau đó phun dung dịch kali hydroxyd 1 M trong ethanol (TT), các vết  này phát quang mạnh hơn. Độ ẩm Không quá 15%  Tro không tan trong acid Không quá 4,5%. Tạp chất đương quy di thực Thân, lá, hoa lẫn trong dược liệu: Không quá 2% Tạp chất khác: Không quá 1%. Chất chiết được trong dược liệu Không ít hơn 35,0%. Tiến hành theo phương pháp chiết nóng (Phụ lục 12.10), dùng  ethanol  50% (TT) làm dung môi. Chế biến
  6. Cây trồng được 10 – 12 tháng thì thu họach. Đào lấy rễ củ, rửa sạch,  phơi hay sấy ở 50 – 60 oC đến khô Bảo quản đương quy di thực Để nơi khô mát, tránh ẩm, mốc mọt. Tính vị, qui kinh Cam, tân, ôn. Vào các kinh can, tâm, tỳ b) Công dụng: Theo y học cổ truyền ­ Đương quy có vị  ngọt hơi đắng, hơi cay, mùi thơm, tính  ấm, có tác   dụng bổ  huyết, hoạt huyết, điều kinh, thông kinh, dưỡng gân, tiêu  sưng, nhuận tràng. ­ Trong đông y, Đương quy là đầu vị trong điều trị bệnh phụ nữ. Đồng   thời cũng được chỉ định trong các đơn thuốc bổ và trị bệnh thiếu máu,  đau đầu, cơ thể suy yếu, suy tim, mệt mỏi, đau lưng, đau ngực bụng,  viêm khớp, chân tay đau nhức lạnh, tê bại, tê liệt, đại tiện táo bón,  mụn nhọt lở  ngứa, tổn thương  ứ  huyết, kinh nguyệt không đều, đau  kinh, bế  kinh (uống trước khi thấy kinh 7 ngày). Ngày uống 7 ­10g,  dùng dạng thuốc sắc hoặc ngâm rượu thuốc. ­   Theo   tài   liệu   nước   ngoài,   Đương   quy   dùng   điều   trị   kinh   nguyệt  không đều, huyết ứ trệ, đau kinh, bế kinh, sa tử cung, đau phong thấp,  mụn nhọt, táo bón, hói đầu, điều trị cao huyết áp và hỗ trợ điều trị ung  thư, làm thuốc giảm đau, chống co giật, làm ra mồ  hôi, kích thích ăn  ngon cơm. Phụ nữ mang thai uống trước khi sinh cho dễ đẻ. Theo y học hiện đại ­ Tác dụng dược lí ­ Đương quy có tác dụng kiểu oestrogen yếu trên chức năng nội tiết  của sinh vật cái. Nhưng tác dụng này không ổn định. ­ Gây tăng trương lực và biên độ co bóp tử cung cô lập và tại chỗ của   súc vật thí nghiệm.
  7. ­ Rễ  Đương quy có tác dụng tăng lực rõ rệt trong thí nghiệm chuột  bơi gắng sức. Có tác dụng tăng sức đề  kháng của cơ thể  với súc vật  thí nghiệm được gây độc với amonichlorid. ­ Có tác dụng chống viêm ở cả hai giai đoạn viêm cấp và mãn tính trên  thực nghiệm. Tác dụng chống viêm giống như  các thuốc chống viêm  phi steroid (chống viêm không kèm theo ức chế miễn dịch). ­ Theo tài liệu nước ngoài, rễ  Đương quy có 2 thành phần với 2 tác   dụng kích thích và  ức chế  tử  cung; thành phần kích thích tử  cung là  phần tan trong nước và cồn; thành phần ức chế tử cung là tinh dầu. ­ Cao nước Đương quy có tác dụng  ức chế  sự  ngưng kết tiểu cầu   chuột cống trong ống nghiệm  cũng như trên in vitro.  ­ Độc tính cấp của Đương quy rất thấp. ­ Trên lâm sàng: Viện Dược liệu đã di thực cây Đương quy Nhật Bản  (A. acutiloba) và nghiên cứu thấy có những tác dụng dược lí sau:  ức  chế hệ thần kinh trung  ương, gây trấn tĩnh, kéo dài thời gian ngủ của  thuốc ngủ; giảm đau với các cơn đau quặn, đau nội tạng thực nghiệm  ở chuột nhắt trắng; giải nhiệt, nhuận tràng, điều kinh; gây hoạt hoá tế  bào B và T, tăng sản sinh kháng thể; chống viêm và làm giảm khả  năng máu đông. Qua nghiên cứu, Viện đã tạo sản phẩm viên bao phim  Angala và nghiên cứu lâm sàng giai đoạn III, chứng minh tác dụng hỗ  trợ điều trị ung thư vú của các bệnh nhân chiếu tia xạ (năm 2002). MỘT SỐ NGHIÊN CỨU MỚI NHẤT VỀ ĐƯƠNG QUY Tham   khảo   nguồn  http://vienduoclieu.org.vn/tin­chi­tiet/­/chi­tiet/ban­ tin­duoc­lieu­02­2014­%C4%91uong­quy­624­37.html  của   viện   dược  liệu QUY TRÌNH SƠ CHẾ ĐƯƠNG QUY Sơ Chế: Sau ngày Bạch lộ thì cắt phần thân cây trên mặt đất đi, cắt  cao hơn mặt đất 3cm  để sau này dễ đào. Sau khi đào lên, để nơi  thoáng gió mấy ngày rồi bó 2­5 cây thành 1 bó. Không nên phơi ở nơi  râm mát vì vỏ sẽ bị xù xì, biến thành mầu xanh. Nếu phơi nắng thì vỏ 
  8. sẽ biến thành mầu đỏ, dầu chảy ra, ảnh hưởng đến chất lượng  thuốc. Thường làm giàn tre cao khoảng 1,3 – 1,7m, xếp Đương quy lên  : 1 lớp nằm để nằm, 1 lớp đứng, rồi để nằm ngang mấy lớp, tất cả  dầy khỏang 30­50cm. Sao đó lấy cây Đậu, Bạch dương và củi cây  liễu đốt, xông lên. Không được xông trực tiếp mà chỉ để cho khói  nong nóng lên giàn ( làm như vậy Đương quy sẽ lên mầu đẹp). Sau  khi vỏ rễ đã trở thành mầu đỏ tươi hoặc  mầu vàng kim tuyến ( cần  xông như vậy khoảng 15 ngày ), lại dùng than để sấy ( lúc sấy không  được nóng quá cũng không được để lửa sấy gián đoạn). Sau khi đã  khô được 8/10 thì bớt lửa đi, để thuốc tự khô.Trong cả quá trình sấy  như vậy cần khoảng 80­90 ngày thì mới được thành phẩm hoàn toàn.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0