Tổng quan kinh tế 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2012
lượt xem 77
download
Tổng quan kinh tế 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2012 1. Tổng quan kinh tế 6 tháng đầu năm 2012 Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 6 tháng đầu năm 2012 ước tính tăng 4,38% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó quý I tăng 4,00%; quý II tăng 4,66%. Trong mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế 6 tháng đầu năm nay, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,81%, đóng góp 0,48 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,81%, đóng góp 1,55 điểm phần trăm;...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tổng quan kinh tế 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2012
- Tổng quan kinh tế 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2012 1. Tổng quan kinh tế 6 tháng đầu năm 2012 Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 6 tháng đầu năm 2012 ước tính tăng 4,38% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó quý I tăng 4,00%; quý II tăng 4,66%. Trong mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế 6 tháng đầu năm nay, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,81%, đóng góp 0,48 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,81%, đóng góp 1,55 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 5,57%, đóng góp 2,35 điểm phần trăm. Mức tăng trưởng cả ba khu vực 6 tháng đầu năm nay đều thấp hơn mức tăng của cùng kỳ năm 2011 (tăng trưởng của ba khu vực 6 tháng đầu năm 2011 lần lượt là 3,89%, 5,78% và 6,21%). Trong tổng sản phẩm trong nước 6 tháng, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 22,13%; khu vực công nghiệp và xây dựng c hiếm 40,26%; khu vực dịch vụ chiếm 37,61%. Tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm nay đạt mức thấp do nhiều ngành, lĩnh vực gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm. Sản xuất công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhưng kết quả tăng thấp. Tuy nhiên, từ quý II nền kinh tế đã có những chuyển biến tích cực, đặc biệt đối với khu vực công nghiệp và xây dựng: Giá trị tăng thêm của khu vực này quý I năm nay chỉ tăng 2,94% so với cùng kỳ năm trước, sang quý II đã tăng lên 4,52%, trong đó công nghiệp tăng từ 4,03% lên 5,40%. Tổng thu ngân sách nhà nước từ đầu năm đến ngày 15 - 6 - 2012 ước tính đạt 316,8 nghìn tỉ đồng, bằng 42,8% dự toán năm, trong đó thu nội địa 203,2 nghìn tỉ đồng, bằng 41,1%; thu từ dầu thô 52,3 nghìn tỉ đồng, bằng 60,1%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 58,9 nghìn tỉ đồng, bằng 38,3%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước 71,1 nghìn tỉ đồng, bằng 45,8% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 36,2 nghìn tỉ đồng, bằng 37,1%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài nhà nước 41,6 nghìn tỉ đồng, bằng 37,4%; thuế thu nhập cá nhân 23,8 nghìn
- tỉ đồng, bằng 51,4%; thuế bảo vệ môi trường 5,5 nghìn tỉ đồng, bằng 42%; thu phí, lệ phí 3,2 nghìn tỉ đồng, bằng 36,2%. Tổng chi ngân sách nhà nước từ đầu năm đến 15-6-2012 ước tính đạt 376,8 nghìn tỉ đồng, bằng 41,7% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển 73,6 nghìn tỉ đồng, bằng 40,9% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 71,1 nghìn tỉ đồng, bằng 40,9%); chi phát triển sự nghiệp k inh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể (bao gồm cả chi thực hiện cải cách tiền lương) ước tính đạt 255,9 nghìn tỉ đồng, bằng 42,6%; chi trả nợ và viện trợ 47,3 nghìn tỉ đồng, bằng 47,3%. Các ngành sản xuất và dịch vụ phát triển khá nhưng chưa đều và chưa vững Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 6 tháng đầu năm theo giá so sánh năm 1994 ước tính đạt 110,2 nghìn tỉ đồng, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Nông nghiệp đạt 79,5 nghìn tỉ đồng, tăng 3,0%; lâm nghiệp đạt 3,8 nghìn tỉ đồng, tăng 5,7% và thuỷ sản đạt 26,9 nghìn tỉ đồng, tăng 5,8%. Diện tích gieo cấy lúa đông xuân cả nước năm nay đạt 3124,2 nghìn ha, tăng 27,4 nghìn ha so với vụ đông xuân năm 2011, trong đó các đ ịa
- phương phía Bắc đạt 1.157,7 nghìn ha, tăng 6,2 nghìn ha; các địa phương phía Nam đạt 1.966,5 nghìn ha, tăng 21,2 nghìn ha. Năng suất đạt 64,8 tạ/ha, tăng 1 tạ/ha so với vụ đông xuân năm trước; sản lượng đạt 20,3 triệu tấn, tăng 47,8 vạn tấn. Chăn nuôi có khởi sắc nhưng chưa đều. Đến thời điểm 1-4-2012. Đàn trâu, bò giảm so với cùng thời điểm năm trước chủ yếu do ảnh hưởng của rét đậm, rét hại đầu năm, cùng với diện tích chăn thả ngày càng thu hẹp và hiệu quả chăn nuôi thấp dẫn đến thời gian tái đàn chậm. Riêng đàn bò sữa có xu hướng tăng, một mặt do không bị ảnh hưởng của dịch bệnh, giá sữa nhìn chung ổn định, mặt khác, chăn nuôi bò sữa công nghiệp được đầu tư lớn về công nghệ cao và mô hình gắn kết giữa chế biến và phân phối sản phẩm phát triển mạnh bước đầu đã mang lại hiệu quả tích cực. Đàn lợn mặc dù tăng nhưng chăn nuôi đang gặp khó khăn do giá thức ăn vẫn ở mức cao, giá thịt lợn hơi lại có xu hướng giảm và dịch bệnh vẫn còn xuất hiện ở một số địa phương. Diện tích rừng trồng tập trung 6 tháng đầu năm ước tính đạt 53,8 nghìn ha, tăng 4,5%; diện tích rừng trồng được chăm sóc đạt 362,8 nghìn ha, bằng 92,2%; diện tích rừng tự nhiên được khoanh nuôi tái sinh đạt 931 nghìn ha, bằng cùng kỳ năm 2011; trồng cây phân tán đạt 108,7 triệu cây, tăng 0,6%. Sản lượng thủy sản 6 tháng đầu năm nay đạt 2.649,2 nghìn tấn, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm 2011. Sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 1.386,8 nghìn tấn, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước do thời tiết thuận lợi, người nuôi phát triển sản xuất theo hướng tập trung, q uy mô lớn và nuôi những loại thủy sản có năng suất, giá trị kinh tế cao. Sản lượng thuỷ sản khai thác 6 tháng đầu năm ước tính đạt 1.262,4 nghìn tấn, tăng 4% so với cùng kỳ năm trước do thời tiết biển tương đối thuận lợi, một số loài hải sản xuất hiện nhiều trên các ngư trường. Về sản xuất công nghiệp, tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2011, đây là thấp hơn nhiều mức tăng 9,7% của cùng kỳ năm 2011 và mức tăng 8,9% của cùng kỳ năm 2010, trong đó ngành công nghiệp chế biến chiếm khoảng 75% giá trị tăng thêm của toàn ngành công nghiệp nhưng tăng thấp hơn
- nhiều mức tăng 12,7% của cùng kỳ năm 2011 và mức tăng 12,5% của cùng kỳ năm 2010. Một số ngành công nghiệp giữ được mức tăng cao so với cùng kỳ n ăm trước là: Đóng và sửa chữa tàu tăng 68,5%; chế biến và bảo quản rau quả tăng 35,3%; sản xuất sản phẩm bơ, sữa tăng 20,2%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 15,3%; sản xuất thức ăn gia súc tăng 14,6%; sản xuất đường tăng 13,4%; sản xuất, tập trung và phân phối điện tăng 14,8%. Một số ngành có chỉ số sản xuất tăng khá là: Sản xuất bia tăng 10,5%; chế biến, bảo quản thủy sản và sản phẩm từ thủy sản tăng 9,9%; khai thác, lọc và phân phối nước tăng 9,8%. Một số ngành có chỉ số sản xuất 6 tháng tăng thấp hoặc giảm là: Khai thác dầu thô và khí tự nhiên tăng 7,5%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 5,3%; sản xuất trang phục (trừ quần áo da lông thú) tăng 4,9%; sản xuất thuốc lá tăng 2,9%; còn sản xuất giày, dép, khai thác và thu gom than cứng, mô tô, xe máy, sắt, thép, xi măng, xe có động cơ, đồ uống không cồn giảm. Giá trị sản xuất xây dựng 6 tháng đầu năm theo giá so sánh năm 1994 ước tính đạt 78,1 nghìn tỉ đồng, bằng 99,6% cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực nhà nước đạt 11,7 nghìn tỉ đồng, bằng 93,2%; khu vực ngoài nhà nước đạt 64 nghìn tỉ đồng, bằng 100,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 2,4 nghìn tỉ đồng, bằng 101,5%. Một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến giá trị sản xuất xây dựng 6 tháng đầu năm giảm là: Giá trị xây lắp của một số công ty lớn giảm, chỉ đạt 40% cùng kỳ hoặc có tốc độ tăng thấp hơn so với mức tăng của cùng kỳ năm trước; chính sách thắt chặt đầu tư công của Chính phủ vẫn tiếp tục được thực hiện; lãi suất ngân hàng đã được điều chỉnh giảm, tuy nhiên các doanh nghiệp khó tiếp cận vay vốn để thi công các công trình. Theo kết quả điều tra chọn mẫu 9.331 doanh nghiệp trên cả nước về thực trạng và tình hình khó khăn của khu vực doanh nghiệp, từ thời điểm 1 -1- 2011 đến 1-4-2012, số doanh nghiệp thực tế đang hoạt động chiếm 91,6%; số doanh nghiệp phá sản, giải thể và doanh nghiệp ngừng sản xuất kinh doanh, đang hoàn thành thủ tục phá sản, giải thể (gọi chung là doanh nghiệp phá sản, giải thể) chiếm 8,4%, trong đó số doanh nghiệp
- đã hoàn thành thủ tục phá sản, giải thể chiếm 4,1%; số doanh nghiệp ngừng sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp chờ hoàn thành thủ tục phá sản, giải thể chiếm 4,3%. Trong ba loại hình doanh nghiệp thì doanh nghiệp ngoài nhà nước có tỷ lệ phá sản, giải thể cao nhất (9,1%), tiếp đến là khu vực doanh nghiệp nhà nước (2,7%) và thấp nhất là khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (2,4%). Kết quả điều tra cho thấy vùng đồng bằng sông Cửu Long có tỷ lệ doanh nghiệp phá sản, giải thể cao nhất với 13,6% tổng số doanh nghiệp điều tra; tiếp đến là khu vực Tây Nguyên 9,9%; Đông Nam Bộ 8,6%; Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung 8,2%; Trung du và miền núi phía Bắc 7,2% và thấp nhất là vùng đồng bằng sông Hồng 6%. Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện 6 tháng đầu năm nay theo giá hiện hành ước đạt 431,7 nghìn tỉ đồng, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước và bằng 34,5% GDP, bao gồm: Vốn khu vực nhà nước 158,7 nghìn tỉ đồng, chiếm 36,8% tổng vốn và tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài nhà nước 163 nghìn tỉ đồng, chiếm 37,7% và tăng 18,1%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 110 nghìn tỉ đồng, chiếm 25,5% và tăng 4,2%. Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20 -6- 2012 đạt 6.384 triệu USD, bằng 72,3% cùng kỳ năm trước, vốn thực hiện đạt 5.400 triệu USD, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước. Cả nước có 41 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp phép mới trong 6 tháng đầu năm, trong đó Bình Dương có số vốn đăng ký lớn nhất với 1.437,2 triệu USD, chiếm 30,2% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hải Phòng 8 75,1 triệu USD, chiếm 18,4%; Đồng Nai 631,5 triệu USD, chiếm 13,3%; Quảng Ninh 390,4 triệu USD, chiếm 8,2%; thành phố Hồ Chí Minh 213,2 triệu USD, chiếm 4,5%; Ninh Bình 186,6 triệu USD, chiếm 3,9%; Khánh Hòa 180,3 triệu USD, chiếm 3,8%. Trong số 40 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp phép mới vào Việt Nam 6 tháng đầu năm, Nhật Bản tiếp tục là nhà đầu tư lớn nhất với 3.536,6 triệu USD, chiếm 74,3% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là
- Đặc khu hành chính Hồng Công (Trung Quốc) 406,7 triệu USD, chiếm 8,5%; Hàn Quốc 272,9 triệu USD, chiếm 5,7%; Xin-ga-po 146,7 triệu USD, chiếm 3,1%; Hà Lan 106,1 triệu USD, chiếm 2,2%. Về dịch vụ, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm nay, đạt 1.137,4 nghìn tỉ đồng, tăng 19,5% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 6,5%. Trong tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, kinh doanh thương nghiệp đạt 880,7 nghìn tỉ đồng, chiếm 77,4% tổng mức và tăng 18,9%; khách sạn nhà hàng đạt 132,8 nghìn tỉ đồng, chiếm 11,7% và tăng 20,2%; dịch vụ đạt 112,2 nghìn tỉ đồng, chiếm 9,9% và tăng 22,3%; du lịch đạt 11,7 nghìn tỉ đồng, chiếm 1% và tăng 26,6%. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu 6 tháng đầu năm đạt 53,1 tỉ USD, tăng 22,2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực kin h tế trong nước đạt 20,5 tỉ USD, tăng 4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 32,6 tỉ USD, chiếm 61,5% tổng kim ngạch và tăng 37,3%. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu sáu tháng đầu năm ước tính đạt 52,9 tỉ USD, tăng 21,7%. Điều này cho thấy mức tăng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu 6 tháng đầu năm nay chủ yếu do lượng xuất khẩu tăng, yếu tố giá hầu như không đóng góp vào mức tăng chung và đây là điểm khác biệt với 6 tháng đầu năm 2011. Cơ cấu kim ngạch hàng hóa xuất khẩu 6 tháng đầu năm nay có sự thay đổi so với cùng kỳ năm trước: Nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản tăng từ 38,4% lên 45,4%; nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp giảm từ 38,7% xuống 33,8%; nhóm hàng nông, lâm sản giảm từ 16,9% xuống 15,4%; nhóm hàng thủy sản giảm từ 6% xuống 5,4%. Về thị trường xuất khẩu, Hoa Kỳ vẫn là thị trường lớn nhất, tiếp đến là EU, các nước ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu 6 tháng đạt 53,8 tỉ USD, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2011 (mức tăng thấp nhất kể từ sau năm 2009 là năm suy giảm kinh tế). Cơ cấu hàng nhập khẩu 6 tháng đầu năm cũng có sự thay đổi so với cùng kỳ năm trước: Tỷ trọng nhóm máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng từ 27,8% trong 6 tháng đầu năm 2011 lên 32,9% trong 6 tháng đầu năm 2012; nhóm hàng nguyên, nhiên vật liệu giảm từ
- 64,8% xuống 60,6%; nhóm hàng tiêu dùng giảm từ 7,4% xuống 6,5%. Về thị trường hàng hóa nhập khẩu, Trung Quốc là thị trường lớn nhất, tiếp đến là ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU và Hoa Kỳ. Nhập siêu 6 tháng đầu năm 2012 ước tính đạt 685 triệu USD, bằng 1,3% kim ngạch hàng hóa xuất khẩu (nhập siêu cùng kỳ năm trước là 6,7 tỉ USD, bằng 15,7% kim ngạch xuất khẩu), là mức nhập siêu thấp nhất trong nhiều năm qua và là hệ quả của nền sản xuất vốn chủ yếu sử dụ ng nhiều nguyên liệu nhập khẩu nhưng do gặp nhiều khó khăn nên nhu cầu đầu vào cho sản xuất giảm. Do đó cần có những giải pháp hữu hiệu và đồng bộ nhằm thúc đẩy sản xuất trong nước, tăng lượng hàng xuất khẩu, từ đó kiểm soát để có mức nhập siêu hợp lý. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6-2012 tăng 2,52% so với tháng 12-2011; tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2011. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 6 tháng đầu năm 2012 tăng 12,2% so với bình quân cùng kỳ năm 2011. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6-2012 đã giảm 0,26% so với tháng trước và ba tháng liên tiếp trước đó chỉ tăng thấp ở mức dưới 0,2% theo hướng mức tăng giảm dần. Đây là tháng đầu tiên CPI giảm sau 38 tháng tăng liên tục. Đó là dấu hiệu tích cực xét về góc độ kiềm chế lạm phát, nhưng lại là điều đáng lo vì CPI giảm từ tháng 6 và có thể kéo dài sang tháng 7,8 đã xuất hiện xu hướng giảm phát của thị trường do sức mua của dân cư, các doanh nghiệp giảm mạnh. Về du lịch, khách quốc tế đến nước ta trong 6 tháng đầu năm ước tính đạt 3.363,4 nghìn lượt người, tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 1.999,2 nghìn lượt người, tăng 12,7%; đến vì công việc 581,9 nghìn lượt người, tăng 18%; thăm thân nhân đạt 595,7 nghìn lượt người, tăng 16,1%. 2- Dự báo cả năm 2012 6 tháng cuối năm 2012, nền kinh tế nước ta tiếp tục phát triển theo chiều hướng của 6 tháng đầu năm nhưng một số ngành và lĩnh vực sẽ xuất hiện tình trạng khó khăn hơn. Quý III và IV là mùa mưa bão và lũ lụt diễn ra với khả năng diễn biến phức tạp, khó lường, sẽ tá c động trực tiếp đến nhiều ngành kinh tế, nhất là nông lâm nghiệp và thủy sản, công nghiệp, giao thông, xây dựng. Tình trạng sản xuất đình trệ hiện đã xẩy ra
- đối với các doanh nghiệp trong các ngành xây dựng, công nghiệp, giao thông vận tải, chứng khoản, bất động sản. Hệ thống ngân hàng thương mại dự báo vẫn chưa có khả năng khắc phục nhanh do các yếu tố chủ quan và khách quan chưa thuận lợi. Ở ngoài nước, tình trạng suy thoái tài chính toàn cầu và khủng hoảng nợ công của các nước EU vẫn tiếp diễn, chắc chắn sẽ tác động lớn đến thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Trong khi đó, hàng loạt chỉ số về kinh tế trong 6 tháng đầu năm cho thấy nền kinh tế đang rơi vào suy giảm sâu, dẫn đến khả năng giảm phát trong quý III và IV nên tốc độ tăng trưởng kinh tế chung dự báo sẽ chậm lại, khó đạt mục tiêu GDP tăng 6% trong cả năm 2012 nếu như không có các giải pháp kịp thời, hiệu quả trong 6 tháng cuối năm. Các ngành sản xuất và dịch vụ 6 tháng cuối năm tuy có xu hướng tăng trưởng nhưng sẽ chậm so với tốc độ tăng cùng kỳ năm 2011, nhất là công nghiệp, xây dựng nông, lâm nghiệp và thủy sản. Về thị trường, giá cả, dự báo cả năm 2012 chỉ số CPI sẽ tăng khoảng 6% - 6,5% nhờ việc thực hiện các giải pháp mang tính chất tình thế như: siết đầu tư công, kiểm soát chặt chẽ tiền tệ, tín dụng... tuy nhiên, còn do những nguyên nhân ngoài ý muốn đó là sức mua giảm, hàng hóa tồn kho nhiều. Trước tình hình đó, để thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế của kế hoạch năm 2012 do Quốc hội đề ra, ngay từ đầu quý III, các ngành, các cấp cần thực hiện đồng bộ các giải pháp tháo gỡ khó khăn chung của nền kinh tế của Chính phủ. Mục tiêu tăng trưởng hợp lý đi đôi với ngăn chặn đà giảm phát, tăng tổng cầu, nhất là tăng sức mua của toàn xã hội, kích cầu tiêu dùng đi cùng với các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần và khu vực kinh tế cũng như các hộ sản xuất cá thể... cần được quán triệt và thể hiện bằng các chính sách và hoạt động cụ thể của từng ngành, từng địa phương và từng doanh nghiệp./.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Thống kê doanh nghiệp - Phần 2 Một số bài tập tổng hợp
5 p | 354 | 100
-
Kết quả điều tra gia đình Việt Nam năm 2006
57 p | 268 | 39
-
TÀI LIỆU ĐIỀU TRA DOANH NGHIỆP NĂM 2008
46 p | 223 | 28
-
Tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2009
24 p | 125 | 17
-
Giáo trình Kinh tế học vi mô I: Phần 1 - PGS. TS. Phan Thế Công (Chủ biên)
148 p | 66 | 14
-
PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ SỞ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ TỈNH BÌNH ĐỊNH.
45 p | 112 | 13
-
Tổng quan viện trợ phát triển chính thức cho Việt Nam
10 p | 71 | 12
-
Nâng cao hiệu quả ngành Logistics nhằm cải thiện môi trường kinh doanh
116 p | 72 | 8
-
Tổng quan viện trợ phát triển chính thức tại Việt nam
29 p | 68 | 5
-
Đánh giá hiệu quả của công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trên địa bàn thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên
7 p | 84 | 5
-
Dữ liệu lớn: Những xem xét được đưa ra
6 p | 52 | 2
-
Khung đảm bảo chất lượng đăng ký kinh doanh tại Nhật Bản
5 p | 29 | 2
-
Kinh tế Việt Nam năm 2014: Phần 1
238 p | 4 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn