TỔNG QUAN: THEO DÕI HUYẾT ÁP LƯU ĐỘNG 24 GIỜ<br />
CHO BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG<br />
Huỳnh văn Minh- Nguyễn Hữu Trâm Em<br />
TÓM TẮT<br />
Theo dõi huyết áp lưu động 24 giờ (TDHALĐ24 giờ) là phương pháp sử dụng rộng rãi<br />
trong chẩn đoán và xử trí tăng HA. Tương tự như vậy ở bệnh nhân đái tháo đường, đây có thể<br />
là phương tiện ích lợi nhằm phân tầng tốt hơn nguy cơ tim mạch liên quan với tăng HA, một<br />
trong những nguyên nhân quan trọng nhất của bệnh suất và tử suất trong quần thể này. Đây là<br />
do khả năng của chúng khi so với đo HA tại phòng khám đơn thuần, nhằm chẩn đoán chính<br />
xác, định lượng hơn tình trạng HA cao trong cuộc sống hàng ngày và nhằm để phát hiện các<br />
thay đổi HA trong 24 giờ như không có tình trạng trũng HA ban đêm, tụt HA sau ăn, hoặc gia<br />
tăng biến động HA, mà nó có thể phản ánh việc điều hoà tim mạch bị xáo trộn thường liên<br />
quan với giảm biến động nhịp tim. Nó cũng là phương tiện đánh giá chính xác hiệu quả điều<br />
trị thuốc hạ áp qua ngày và đêm.<br />
Phải thừa nhận, phương pháp này cũng có những hạn chế bao gồm giá thành, vấn đề<br />
thẩm định dụng cụ (đáng lưu ý ở quần thể đặc biệt như đái tháo đường-ĐTĐ) và ngưỡng chẩn<br />
đoán vẫn chưa xác định ở quần thể có nguy cơ cao. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng<br />
TDHALĐ có thể là phương tiện ích lợi trong việc cải thiện hậu quả và chất lượng sống ở BN<br />
ĐTĐ, gợi ý rằng nó nên được tích hợp trong xử trí lâm sàng trong tình huống này. Tuy nhiên,<br />
do việc sẵn có phương tiện này giới hạn trong thực hành, nó không thể dễ dàng áp dụng cho<br />
từng BN ĐTĐ và do đó ưu tiên cho những BN ĐTĐ có hiệu quả rõ rệt từ việc sử dụng<br />
phương tiện này./.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
REVIEW OF 24-H AMBULATORY BLOOD PRESSURE<br />
MONITORING IN DIABETES<br />
Twenty-four– hour ambulatory blood pressure monitoring(ABPM) is a method widely<br />
used in hypertension diagnosis and management.Also in diabetic subjects, it may be a<br />
powerful tool for a better stratification of cardiovascular risk related to elevated blood<br />
pressure (BP), one of the most importantcauses of morbidity and mortality in thispopulation.<br />
This is due to its capacity, ascompared with isolated office measurements, to more precisely<br />
diagnose and quantify a high BP condition in daily life and to detect alterations of 24-h BP<br />
profilessuch as absence of nocturnal BP fall, postprandial hypotension, or an increased BP<br />
variability, which may reflect a deranged cardiovascular regulation oftenassociated with a<br />
reduced heart rate variability.It is also an important tool to obtainan accurate assessment of<br />
the efficacyof antihypertensive treatment over dayand night.<br />
Admittedly, this method has its disadvantages, which include relatively high cost,<br />
problems with validation of the devices (particularly relevant in specia lpopulations such as<br />
diabetic patients),and undefined diagnostic threshold inhigh-risk populations. A number of<br />
studies have shown that ABPM may be a useful ltool in improving outcome and quality of life<br />
in diabetes, suggesting that it shouldbe an integral part of the clinical managementin this<br />
setting. However, due to its limited availability in clinical practice, it may not be easily<br />
applied in every diabetic subject and thus priority should be given to those of diabetic<br />
patients, who may derive the most evident benefits from the use of this diagnostic tool.<br />
<br />
Mở bài:<br />
TDHALĐ 24 giờ là phương pháp được sử dụng rộng rãi trong chẩn đoán và điều trị<br />
THA. Nhiều nghiên cứu qua nhiều năm đã xác minh những ưu điểm của phương tiện này hơn<br />
cách đo HA phòng khám kinh điển, bao gồm : tính tái lập cao, không tác dụng áo choàng<br />
<br />
<br />
Tạp chí Y Dược học – Số 1 Trường Đại học Y Dược Huế<br />
trắng và không có tác dụng như giả dược. Thêm vào đó, HALĐ 24 giờ đem đến sự hiểu biết<br />
thấu đáo đặc điểm biến thiên HA 24 giờ mà nó không để đánh giá bằng cách đo HA phòng<br />
khám hoặc tại nhà.<br />
Chẩn đoán chính xác tăng HA và đánh giá chắc chắn sự kiểm soát HA có ý nghĩa tối<br />
thượng ở bệnh nhân nguy cơ cao, mà ở họ giảm được mmHg huyết áp được hoán đổi thành<br />
giảm có ý nghĩa về bệnh suất và tử suất do THA. ĐTĐ được ghi nhận là tình trạng dẫn đến<br />
gia tăng rõ rệt nguy cơ tim mạch khi phối hợp với THA mà nó có ý nghĩa cả ở từng cá nhân<br />
và sức khỏe cộng đồng. Thực tế, bỏ sót chẩn đoán THA hoặc kiểm soát HA không đầy đủ ở<br />
bệnh nhân ĐTĐ là phổ biến.[1]<br />
Nhiều phương tiện chẩn đoán và điều trị sẵn có nhằm cải thiện tình huống này và<br />
TDHALĐ 24h là một trong số đó. Thật thú vị, ích lợi của TDHALĐ ở bệnh nhân ĐTĐ không<br />
chỉ liên quan với khả năng đánh giá đặc điểm THA qua 24h mà còn ở khả năng xác định mô<br />
hình HA, phản ánh cơ chế sinh lý bệnh quan trọng làm cơ sở tác động tim mạch của ĐTĐ, đó<br />
là rối loạn chức năng tự động. [ 3 ].<br />
Chứng cứ về ích lợi của TDHALĐ ở ĐTĐ<br />
Tất cả có ưu điểm về phương pháp học khi so với số đo HA phòng khám đã được<br />
chứng minh đầy đủ ở bệnh nhân ĐTĐ, mà ở họ, phương pháp này độc lập với người sử dụng,<br />
đem đến thông tin quan trọng liên quan với số lượng lớn số lần đọc, đem đến sự hiểu biết sâu<br />
sắc về khía cạnh HA 24 giờ (bao gồm trị số HA ban đêm và buổi sáng) và khả năng định<br />
lượng biến động HA qua toàn bộ 24 giờ. một số nghiên cứu đã cho thấy rằng tính tái lập về trị<br />
số HA ở bệnh nhân ĐTĐ có thể tốt hơn với TDHALĐ 24 giờ khi so với HA phòng khám.<br />
Hơn nữa, các đặc điểm thuận lợi khác của TDHALĐ đã biểu hiện rõ ở bệnh nhân THA không<br />
biến chứng cũng được khẳng định áp dụng trong chẩn đoán và xử trí bệnh nhân ĐTĐ có<br />
THA. Những ưu điểm này bao gồm không có tác dụng áo choàng trắng (có ý nghĩa THA do<br />
phản ứng tâm lý khi đo HA ở phòng khám) và không có tác dụng giả dược khi đánh giá đáp<br />
ứng với thuốc hạ áp. [ 4].<br />
Các ưu điểm về phương pháp học được đề cập ở trên cho thấy rõ ràng sự góp phần<br />
quan trọng giá trị dự đoán cao của TDHALĐ trong phân tầng tiên lượng ở bệnh nhân THA.<br />
Tương tự, như ở quần thể không bị ĐTĐ, trị số HA ngoài phòng khám có được qua theo dõi<br />
HALĐ ở bệnh nhân ĐTĐ có liên quan tốt hơn so với trị số HA phòng khám về tổn thương cơ<br />
quan đích, sự cố tim mạch..[ 5].<br />
<br />
Tăng HA áo choàng trắng và tăng HA ẩn giấu<br />
Vấn đề quan trọng liên quan sử dụng song hành phương pháp đo HA phòng khám và<br />
ngoài phòng khám (bao gồm cả đo HA tại nhà) ở cùng một bệnh nhân khi chẩn đoán THA<br />
hoặc đánh giá hiệu quả của điều trị sẽ được đề cập trong bối cảnh này. Điều cần nói là ở một<br />
tỉ lệ đáng kể bệnh nhân, có sự khác biệt lớn xãy ra về định nghĩa mức độ HA thu được qua<br />
các cách đo HA khác nhau.<br />
Trong quần thể chung, chẩn đoán THA dựa vào gia tăng trị số HA phòng khám không<br />
được khẳng định lại bằng phương pháp đo HA ngoài phòng khám ở hơn 20% bệnh nhân, mà<br />
ở những người đó trị số HA bình thường khi đo tại nhà hoặc đo HA 24 giờ (tình trạng này<br />
được gọi là Tăng HA áo choàng trắng-THA ACT). Trái lại, ở 10-20% số người khác, tình<br />
trạng trái ngược lại xảy ra, đó là THA trong hoạt động hàng ngày được xác định bằng<br />
TDHALĐ 24 giờ hoặc theo dõi HA tại nhà nhưng vẫn không đựơc chẩn đoán qua khám bệnh<br />
tại phòng khám (tình trạng này chỉ ra là THA ẩn giấu). Ý nghĩa tiên lượng của THA ACT vẫn<br />
chưa rõ, với những người này có thể mang một nguy cơ trung gian giữa người có HA bình<br />
thường và người THA thực sự. Một mặt khác, nhiều nghiên cứu đã cho thấy THA ẩn giấu gia<br />
tăng nguy cơ tim mạch tương tự như người THA thực sự.[ 8 ].<br />
Tư liệu về THA ACT và THA ẩn giấu ở người ĐTĐ còn giới hạn. Thông tin sẵn có<br />
trùng hợp nhiều với các dữ liệu thu được ở người không có ĐTĐ, mặc dù một số khác biệt<br />
<br />
Tạp chí Y Dược học – Số 1 Trường Đại học Y Dược Huế<br />
phải được lưu ý. Ví dụ có chứng cứ cho rằng tần số THA ACT trong quần thể này thấp hơn<br />
quần thể chung đặc biệt là khi người có bệnh thận do ĐTĐ được quan tâm. Điều này không<br />
hẳn gây ngạc nhiên khi những người này có khuynh hướng THA thật sự và THA ẩn giấu. Trái<br />
lại, THA ACT thông thường nhất ở người có HA gần với ngưỡng chẩn đoán THA. Một mặt<br />
khác, điều đó gợi ý rằng THA ẩn giấu có thể hiện diện 1 trong 2 người ĐTĐ type 2 và HA<br />
phòng khám rõ ràng bình thường. Tần suất cao THA ẩn giấu trở nên đáng quan tâm khi chúng<br />
ta xem xét tình trạng này có thể liên quan với nguy cơ cao hơn về tổn thương não và thận và<br />
có thể cũng liên quan với tổn thương tim, mà nó gia tăng hơn nữa nguy cơ rất cao có sẵn về<br />
biến chứng tim mạch điển hình cho người ĐTĐ. Về phần THA ACT, tình trạng này cho thấy<br />
liên quan với nguy cơ thấp hơn THA thực sự cũng gặp ở quần thể ĐTĐ.[ 9] [11] [12]<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 1: Mức độ hạ huyết áp ban đêm (dipping) ở trẻ em có ĐTĐ () so với người đối chứng<br />
khoẻ mạnh ().<br />
<br />
Đánh giá khía cạnh HA 24 giờ<br />
Một áp dụng của TDHALĐ ở bệnh nhân ĐTĐ là quan tâm đặc biệt đến khả năng phát<br />
hiện các thay đổi HA ngày đêm, mà nó đặc trưng cho tình trạng bệnh lý. Đặc biệt là, không<br />
trũng HA ban đêm (nondipping) hoặc thậm chí là THA trong đêm (reverse dipping-trũng đảo<br />
ngược) là phổ biến ở quần thể này, với tần suất khoảng 30% (Hình 1). Con số này gợi ý rằng<br />
tình trạng này có thể phản ánh rối loạn chức năng tự động, và một số tác giả gợi ý rằng có thể<br />
chúng được sử dụng như chỉ điểm lâm sàng về bệnh thần kinh tự động do ĐTĐ. Tuy nhiên,<br />
nên nhớ rằng cơ chế sinh lý bệnh khác có thể cũng liên quan. Đặc biệt ngưng thở khi ngủ<br />
thường gặp ở người béo phì có ĐTĐ type 2 là tình trạng thường liên quan với không trũng<br />
HA ban đêm.<br />
Cho dù cơ chế nào đi nữa, biểu hiện HA đêm trở nên bằng phẳng thậm chí quan trọng<br />
hơn là đảo ngược HA ngày đêm (trũng ngược) là biểu hiện một chỉ điểm biến chứng ở quần<br />
thể ĐTĐ. Đặc biệt, mối quan hệ với tổn thương thận phản ánh qua bài tiết protein niệu rõ rệt<br />
qua cả ĐTĐ type 1 và 2. Kết quả của một số nghiên cứu gợi ý rằng ở người ĐTĐ type 1 HA<br />
tâm thu gia tăng lúc ngủ đi trước tiến triển vi đạm niệu. Những thay đổi HA ban đêm do đó<br />
phải xem là nguyên nhân (hoặc ít ra là chỉ điểm) của tổn thương thận hơn là hậu quả. Gần<br />
đây, các kết quả tương tự thu được cả ở ĐTĐ type 2. Không trũng HA người ĐTĐ cũng có<br />
thể liên quan với gia tăng tử vong chung nhưng chứng cứ còn giới hạn trong vấn đề này. [ 2 ]<br />
Khi đánh giá HA ngày và đêm bằng TDHALĐ, cần phải xem xét khả năng trị số tuyệt<br />
đối của HA đêm có thể có ý nghĩa tiên lượng hơn giảm tương đối HA ngày đêm.Khả năng<br />
này được ủng hộ bởi nhiều nghiên cứu về hậu quả ở bệnh nhân THA không biến chứng và<br />
một số dấu hiệu theo khuynh hướng này cũng được thu thập ở người ĐTĐ type 2. [13]<br />
<br />
Tạp chí Y Dược học – Số 1 Trường Đại học Y Dược Huế<br />
Biến thiên HA chung và tăng vọt HA sáng sớm<br />
Ngoài thay đổi HA ngày đêm, TDHALĐ có thể cung cấp thông tin với đặc điểm khác<br />
về biến thiên HA mà nó có thể có ích lợi ở BN ĐTĐ và mang ý nghĩa lâm sàng. Một trong<br />
những số đó là biến thiên HA chung, thông thường biểu hiện bằng độ lệch chuẩn của trị số<br />
HA 24 giờ, trị số HA ban ngày, ban đêm. Thông số này thường tăng ở BN ĐTĐ mà nó có thể<br />
là dấu hiệu của rối loạn kiểm soát tự động của tuần hoàn và/ hoặc của sự gia tăng độ cứng<br />
thành động mạch. Điều này là đúng với BN bệnh thần kinh tự động do ĐTĐ, đặc biệt khi liên<br />
quan với suy giảm phản xạ áp lực động mạch và có thể là yếu tố dự đoán độc lập biến chứng<br />
tim mạch. Bệnh thần kinh tự động thường liên quan với tụt HA sau ăn, một thành tố đặc hiệu<br />
của biến động HA 24 giờ cũng có thể phát hiện bởi TDHALĐ.<br />
Một đặc điểm quan trọng khác của HA 24 giờ là hành vi HA vào sáng sớm. Cả tăng vọt HA<br />
lúc sáng sớm (tăng khi thức giấc buổi sáng) và tăng HA buổi sáng (HA tăng cao trong nhiều<br />
giờ buổi sáng) có liên quan tiên lượng bất lợi ở BN không ĐTĐ. Tăng HA sáng sớm là phổ<br />
biến ở BN ĐTĐ và cho thấy dự đoán tiến triển bệnh thần kinh do ĐTĐ. Mặc dù các nghiên<br />
cứu đã xuất bản cho đến nay ở BN ĐTĐ, theo dõi HA tại nhà được sử dụng để đánh giá hành<br />
vi HA sáng sớm, TDHALĐ có thể thậm chí tốt hơn trong lĩnh vực này, một khi nó cho phép<br />
đánh giá động học và chi tiết hơn HA trong những giờ buổi sáng.[7].<br />
27:129–138<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 2: Tỉ lệ sự cố tim mạch (cardiovascular), mạch máu não (cerebrovascular), tất cả các<br />
sự cố (all events) ở BN ĐTĐ chia theo tứ phân vị phân bố (quartile of distribution) áp lực<br />
mạch trung bình 24 giờ và theo tuổi lúc tham gia nghiên cứu (≥40 và 41-59 tuổi).<br />
<br />
Các thông số thêm vào từ TDHALĐ 24 giờ<br />
Một lợi điểm khác của TDHALĐ là cho phép thu thập được thông tin động học qua 24<br />
giờ không chỉ ở trị số HA tâm thu và tâm trương mà còn ở một số thông số liên quan khi thu<br />
thập trực tiếp hoặc tính toán qua theo dõi HA lưu động. Kỹ thuật này cung cấp thông tin về<br />
tần số tim ở thời điểm đo qua 24 giờ và ước đoán biến đổi tần số tim qua việc tính toán độ<br />
lệch chuẩn của biến đổi tần số tim qua 24 giờ, ban ngày hoặc ban đêm. Mặc dù biến đổi tần số<br />
tim trong theo dõi ECG liên tục là chỉ số xác định bệnh thần kinh do ĐTĐ, chỉ có một nghiên<br />
cứu đánh giá biến thiên tần số tim qua TDHALĐ ở BN ĐTĐ. Nghiên cứu này xác minh rằng<br />
<br />
<br />
Tạp chí Y Dược học – Số 1 Trường Đại học Y Dược Huế<br />
mức độ dao động tần số tim (khi đánh giá không liên tục qua 24 giờ bằng cách đọc ngắt<br />
quãng) bị giảm trong quần thể này, đặc biệt là vào ban đêm.<br />
Áp lực mạch, có nghĩa là khác biệt HA tâm thu và tâm trương, phụ thuộc vào cả cung<br />
lượng tim và đặc tính của động mạch khi có gia tăng, cần xem như chỉ điểm đại diện về tình<br />
trạng cứng thành mạch máu. Kết quả của nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng áp lực mạch 24 giờ có<br />
thể là yếu tố dự đoán độc lập về biến chứng mạch máu của ĐTĐ, có giá trị tiềm lực hơn đánh<br />
giá áp lực mạch bằng đo HA phòng khám, mặc dù vẫn không rõ phải chăng nó cung cấp<br />
thông tin thêm vào những gì đã có qua HA tâm thu 24 giờ (Hình 2). Trong bối cảnh của các<br />
phương pháp không xâm nhập dùng để đánh giá đặc điểm động mạch, một chỉ số mới gần đây<br />
đã được đề xuất dựa trên phân tích dữ liệu TDHALĐ, được biết như là chỉ số cứng động<br />
mạch qua TDHALĐ. Chỉ số này bao gồm đánh giá động học mức độ song hành thay đổi HA<br />
tâm thu và tâm trương và được tính toán như là hệ số hồi qui giữa thay đổi HA tâm trương và<br />
tâm thu qua 24 giờ. Điều đó gợi ý rằng chỉ số cứng động mạch qua TDHALĐ có thể phản ánh<br />
gián tiếp mức độ cứng động mạch và một số nghiên cứu biểu hiện mối liên quan chỉ số cứng<br />
động mạch qua TDHALĐ với sự cố tim mạch và tổn thương cơ quan. Tuy nhiên, việc diễn<br />
giải chính xác các giá trị như là chỉ số đặc hiệu của tình trạng cứng động mạch còn khó khăn<br />
bởi vì chứng cứ của mối liên hệ mạnh mẽ giữa chỉ số cứng động mạch qua TDHALĐ và mức<br />
độ giảm HA ban đêm, một thông số độc lập với đặc tính thành động mạch. Cần xem xét hạ<br />
HA đêm thường là ít và không có ở BN ĐTĐ, điều không mấy ngạc nhiên là chỉ số cứng động<br />
mạch qua TDHALĐ đánh giá xấu hơn áp lực mạch 24 giờ khi dự đoán tiến triển tổn thương<br />
thận trong quần thể này.[10]<br />
Đái tháo đường và mang thai<br />
Mang thai là tình trạng mà sự tác động lẫn nhau giữa ĐTĐ và tăng HA có ý nghĩa đặc<br />
biệt, khi cả hai tình trạng này ảnh hưởng bất lợi đến hậu quả mang thai. Tuy nhiên, vai trò của<br />
TDHALĐ trong tình huống này chưa được xác minh. Một mặt, một số nghiên cứu gợi ý ích<br />
lợi có thể trong theo dõi phụ nữ mang thai và xác định sớm tăng HA do mang thai, đặc biệt<br />
khi HA ban đêm được xem xét. Một mặt khác, theo một số tác giả, TDHALĐ thêm vào một ít<br />
thông tin mà vi đạm niệu đã cung cấp nhằm dự đoán tiền sản giật.[ 15]<br />
<br />
Theo dõi huyết áp lưu động trong đánh giá điều trị tăng HA<br />
Một áp dụng cực kỳ quan trọng của TDHALĐ trong THA liên quan với khả năng<br />
đánh giá thay đổi HA do điều trị hạ áp với độ chính xác lớn, chi tiết hơn đo HA phòng khám<br />
và đem đến thông tin kiểm soát thật sự suốt 24 giờ bằng thuốc hạ áp. Nếu xem kiểm soát HA<br />
đầy đủ là có ý nghĩa tuyệt đối ở BN ĐTĐ, thì các đặc tính trên của TDHALĐ làm cho nó trở<br />
thành phương tiện thiết yếu để làm rõ sự hợp lý và hiệu quả của điều trị thuốc hạ áp trong<br />
nhóm bệnh này. Các khía cạnh mấu chốt liên quan đến sử dụng TDHALD trong bối cảnh này<br />
bao gồm: Khả năng để xác định những người được phân loại không phù hợp theo huyết áp<br />
phòng khám như là được kiểm soát (tăng huyết áp ẩn dấu) hoặc không kiểm soát (tăng huyết<br />
áp áo choàng trắng); khả năng TDHALD đối với việc đánh giá tác động của điều trị trong<br />
những giai đoạn đặc biệt quan trọng suốt 24 giờ (ban đêm , sáng sớm), và cung cấp các chỉ số<br />
của tác dụng thuốc hạ áp trong khoảng thời gian (tỉ lệ đáy đỉnh) và tình trạng êm ái khi giảm<br />
HA bằng điều trị qua suốt 24 giờ (chỉ số êm ái). Thực tế các nghiên cứu làm cho việc sử dụng<br />
TDHALĐ ở BN ĐTĐ đánh giá tác dụng điều trị hạ áp đã cung cấp thêm một số thông tin thú<br />
vị. Đặc biệt, chứng cứ thu được cho thấy các thuốc điều trị đái tháo đường mới sử dụng ở BN<br />
ĐTĐ type 2 (không phải nhóm thuốc cũ), đặc biệt là thiazolidinedione có thể có tác dụng ích<br />
lợi lên trị số HA 24 giờ và cũng có thể cải thiện khiá cạnh HA ngày đêm ở BN ĐTĐ.<br />
Một số thông tin sẵn có về ảnh hưởng của chế độ điều trị tăng HA hiện hành lên HA<br />
24 giờ ở BN ĐTĐ, bao gồm thuốc ƯCMC và chẹn thụ thể angiotensin. Các nghiên cứu này<br />
xác minh hiệu quả của các thành phần này qua hạ huyết áp 24 giờ, mà không tác động rõ rệt<br />
lên huyết áp ngày-đêm. Thông tin cũng thu được qua TDHALĐ lên tác dụng của thuốc chẹn<br />
<br />
Tạp chí Y Dược học – Số 1 Trường Đại học Y Dược Huế<br />
kênh canxi ưa lipid lên HA 24 giờ ở BN ĐTĐ. Các thuốc này làm giảm biến đổi HA tâm thu,<br />
qua việc theo dõi từng nhịp qua 24 giờ ở BN ĐTĐ có THA. Sự cải thiện tình trạng huyết động<br />
liên quan với cải thiện điều hoà tự động tim mạch qua việc định lượng bằng cách tăng nhạy<br />
cảm phản xạ áp lực tim.<br />
Quan trọng là, khả năng của TDHALĐ nhằm cung cấp thông tin chính xác về kiểm soát HA<br />
bởi điều trị có thể chuyển thành thực hành lâm sàng tốt hơn, mặc dù việc xác định những<br />
người có THA ACT và THA ẩn giấu và bằng cách kính thích điều trị tích cực hơn khi cần<br />
thiết đạt mục tiêu điều trị.[14]<br />
<br />
Giới hạn của sử dụng TDHALĐ ở BN ĐTĐ<br />
Mặc dù ích lợi của TDHALĐ ở BN ĐTĐ không còn nghi vấn, cũng cần xem xét một<br />
vài giới hạn về kỹ thuật mà nó có thể quan trọng khi áp dụng trong thực hành lâm sàng khi xử<br />
trí BN ĐTĐ. Một trong những quan ngại chính khi áp dụng dụng cụ dao động kế trong thực<br />
hành lâm sàng (và hiện nay dụng cụ TDHALĐ hầu hết dựa vào cách đo dao động ký) là thuật<br />
toán để xác định trị số HA bằng các kỹ thuật này mà không được các nhà sản xuất công khai.<br />
Do đó, giá trị thẩm định của mỗi dụng cụ dao động kế phải được kiểm tra riêng lẻ bởi các<br />
nghiên cứu độc lập theo qui trình quốc tế định trước. Không may, ở BN ĐTĐ, sự khác biệt<br />
giữa trị số HA thu được với cách đo bằng phương pháp nghe tham khảo và phương pháp dao<br />
động kế là không nhất thiết tìm thấy giống nhau ở người không đái tháo đường. Do đó, các<br />
dụng cụ đã có thẩm định theo qui trình chuẩn thực hiện ở BN không ĐTĐ có thể không nhất<br />
thiết hoá ra chính xác ở những người ĐTĐ, có thể do đặc tính thành mạch thay đổi điển hình<br />
trong trường hợp đó. Do đó, lý tưởng là các nghiên cứu thẩm định đối với các dụng cụ dao<br />
động kế được sử dụng ở BN ĐTĐ nên được thực hiện riêng lẻ trong quần thể này. Không<br />
may, nhiều dụng cụ TDHALĐ được công nhận ở quần thể tăng HA chung, các nghiên cứu<br />
tương tự là còn thiếu ở quần thể ĐTĐ. Tuy nhiên, khi xem xét tính ưu việt về tiên lượng của<br />
TDHALĐ hơn đo HA phòng khám cũng biểu hiện ở BN ĐTĐ, khả năng không phù hợp nhỏ<br />
giữa đo bằng phương pháp nghe và giá trị theo phương pháp dao động kế của TDHALĐ, do<br />
những đặc điểm đặc biệt ở những người này, đừng nên xem đó như là trở ngại chính trong<br />
việc áp dụng lâm sàng.<br />
Trở ngại chính rõ ràng quan trọng hơn từ quan điểm thực hành là giá thành cao, ít sẵn<br />
có hệ thống TDHALĐ trong thực hành chung. Tình huống này vẫn đang thay đổi, với giá<br />
thành dụng cụ trở nên thấp hơn, số trung tâm được trang bị gia tăng, và chính sách chi trả trở<br />
nên thuận lợi hơn. Qua thời gian, ở hầu hết các nước phát triển, việc sử dụng TDHALĐ cho<br />
BN nguy cơ cao như BN ĐTĐ không còn khó khăn, cũng như liên quan với chi trả bởi khối<br />
bảo hiểm y tế.<br />
Cuối cùng, một vấn đề quan trọng nhưng chưa giải quyết được là định nghĩa về giá trị<br />
ngưỡng của TDHALĐ đối với chẩn đoán tăng HA và xác định đích đến của điều trị ở BN<br />
ĐTĐ. Ngưỡng ấy đã được xác định rõ ở người không ĐTĐ có nguy cơ thấp và vừa. Dựa trên<br />
kết quả các nghiên cứu hậu quả, người ta tin rằng HA lâm sàng 140/90 mmHg tương đương<br />
125-130/80 mmHg đối với 24 giờ, 135/85 mmHg đối với HA ban ngày và 120/70 đối với HA<br />
ban đêm. Trái lại, không có định nghĩa tương xứng nào khi xem xét ở BN nguy cơ cao như<br />
ĐTĐ. Tuy nhiên, ở quần thể này ngưỡng HA phòng khám để chẩn đoán và điều trị hiện nay<br />
được đề xuất thấp đến 130/80 mmHg, theo ước đoán ngưỡng TDHALĐ phải thấp hơn 5-10<br />
mmHg khi so với quần thể không ĐTĐ. Tuy nhiên, không có một ranh giới rõ ràng giữa mối<br />
liên hệ của HA phòng khám và HA lưu động, ngưỡng TDHALĐ ở BN ĐTĐ cần được xác<br />
định dựa vào các nghiên cứu hậu quả trong tương lai. [1]<br />
<br />
Kết luận<br />
Tóm lại, TDHALĐ ở BN ĐTĐ có thể là phương tiện có thế mạnh nhằm phân tầng tốt<br />
hơn nguy cơ tim mạch do tăng HA, là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất gây<br />
<br />
Tạp chí Y Dược học – Số 1 Trường Đại học Y Dược Huế<br />
bệnh suất và tử suất trong quần thể này. Điều này có ý nghĩa đặc biệt trên cơ sở chứng cứ ở<br />
BN ĐTĐ mà HA phòng khám thường không xác định được nguy cơ của họ với tăng HA<br />
trong điều kiện hoạt động hàng ngày. Hơn nữa, TDHALĐ có thể cũng ích lợi trong việc phát<br />
hiện các thay đổi việc kiểm soát tự động hệ tim mạch, phản ánh bởi không có hạ HA đêm, bởi<br />
tụt HA sau ăn hoặc bởi giảm biến thiên tần số tim 24 giờ và tăng biến thiên HA 24 giờ. Do đó<br />
về mặt lý thuyết, một xét nghiệm không xâm nhập và có tiềm lực như TDHALĐ có thể ích lợi<br />
cho mỗi BN ĐTĐ.<br />
Tuy nhiên, với những giới hạn sẵn có của TDHALĐ trong thực hành hằng ngày và gia<br />
tăng số người tiến triển ĐTĐ, tiếp cận theo đặc thù cá nhân là hợp lý khi xác định chỉ định<br />
thực hiện TDHALĐ cho quần thể ấy. Theo nguyên tắc chung, TDHALĐ nên được áp dụng ở<br />
những trường hợp khi mà hiệu quả có thể đem lại lớn nhất. Trong thực hành, ủng hộ hay bất<br />
đồng thực hiện TDHALĐ nên được đánh giá theo từng tình huống, xem xét số yếu tố cốt lõi,<br />
như khả năng chẩn đoán sai trị số HA theo HA phòng khám, hiệu quả có thể đạt được với khi<br />
xác định chính xác HA và biến thiên 24 giờ (ở BN có sự cố lâm sàng trước đây như đột quị,<br />
NMCT, suy chức năng thận), khả năng tăng HA đêm và giải pháp thay thế (rẻ hơn) cho việc<br />
đo HA ngoài phòng khám như theo dõi HA tại nhà.<br />
Mặc dù có nhiều ưu điểm, TDHALĐ có thể không dễ áp dụng cho từng BN ĐTĐ cả về lý<br />
do kỹ thuật và tài chính. Tuy nhiên, điều quan trọng là nhấn mạnh đến việc sử dụng hợp lý,<br />
cách tiếp cận này có thể là phương tiện cực kỳ ích lợi trong việc cải thiện hậu quả và chất<br />
lượng sống ở những BN này và do đó nó trở thành một phần không tách khỏi trong xử trí lâm<br />
sàng, ít nhất là ở phân nhóm BN ĐTĐ có chọn lọc.<br />
<br />
Đề xuất<br />
Dựa vào những xem xét trên, một vài đề xuất được đưa ra nhằm xác định các tình huống<br />
mà TDHALĐ có thể chỉ định ở người tăng HA có ĐTĐ.<br />
Một khả năng chỉ định đó là trị số HA phòng khám gần với giá trị ngưỡng. Bởi vì những<br />
BN này có khả năng THA ACT (nếu HA phòng khám trên giá trị ngưỡng) hoặc tăng HA ẩn<br />
giấu (nếu HA phòng khám thấp hơn trị số ngưỡng). Tuy nhiên, ở trường hợp đó, theo dõi HA<br />
tại nhà là cách dễ áp dụng hơn, rẻ hơn và hiệu quả tương đương để xác định tình trạng HA<br />
hàng ngày thật sự của BN. Khi theo dõi HA tại nhà không khả thi hoặc kết quả không diễn<br />
giải được (trị số ranh giới, biến thiên nhiều) thì TDHALĐ nên thực hiện. Trong trường hợp<br />
khác, ở những người nghi ngờ chẩn đoán chưa chính xác bởi HA phòng khám cũng nên xem<br />
xét khi họ có những dấu hiệu của tổn thương cơ quan đích cho dù HA rõ ràng bình thường khi<br />
đo tại phòng khám hoặc phòng mạch ( ở BN ĐTĐ ít có khả năng gặp tình huống ngược lại).<br />
Điều này có thể có nghĩa rằng HA tăng chỉ trong hoạt động hàng ngày, là tình trạng cần theo<br />
dõi HA ngoài phòng khám để xác định. Cần phải nói rằng những BN ĐTĐ đó mang nguy cơ<br />
rất cao, có thể có hiệu quả đặc biệt nhờ chẩn đoán và điều trị phù hợp về tăng HA trong hoạt<br />
động hàng ngày.<br />
TDHALĐ có thể cũng có tầm quan trọng đặc biệt ở những người đã được điều trị tăng HA<br />
rồi. Thậm chí dù theo dõi HA tại nhà có thể đủ để theo dõi lâu dài, TDHALĐ vẫn là cách duy<br />
nhất để đảm bảo HA được kiểm soát đầy đủ qua 24 giờ và đặc biệt vào ban đêm. Tăng HA<br />
ban đêm có thể nghi ngờ đặc biệt ở người có khả năng ngưng thở khi ngủ (béo phì, tiền sử<br />
ngáy, ngủ gật ban ngày), ở những người có rối loạn chức năng tự động, và những người có<br />
tổn thương cơ quan đích đặc biệt có ảnh hưởng đến thận (vi đạm niệu hoặc tiểu đạm rõ rệt,<br />
các dấu hiệu suy thận). Trong những trường hợp này, một số biện pháp đơn giản như chuyển<br />
sang các thuốc tác dụng dài hoặc thêm liều buổi tối các thuốc hạ áp có thể hiệu quả. Tuy<br />
nhiên phải nhấn mạnh đến tình huống có hiệu quả lâm sàng nhờ vào phục hồi nhịp ngày đêm<br />
chỉ là giả định và vẫn chưa chứng minh trực tiếp. TDHALĐ có thể giúp xác định những<br />
người có tụt HA cơn (như trong trường hợp hạ áp sau ăn do rối loạn chức năng tự động) và<br />
nên thực hiện nếu BN thông báo có triệu chứng tụt HA điển hình mà không tìm được nguyên<br />
<br />
Tạp chí Y Dược học – Số 1 Trường Đại học Y Dược Huế<br />
nhân khác. Cũng trong những trường hợp đó, điều chỉnh điều trị hạ áp, hoặc lời khuyên về<br />
thay đổi cách sống có thể hiệu quả và cải thiện chất lượng sống BN. Cuối cùng, TDHALĐ có<br />
thể cũng ích lợi khi xác định BN có cơn tăng HA, trong bối cảnh biến thiên huyết áp, gia tăng<br />
độ cứng động mạch và bệnh thần kinh tự động. Việc xác định những hiện tượng này có thể sẽ<br />
khởi phát sự thay đổi phù hợp trong chiến lược điều trị, cũng như cung cấp liên quan tiên<br />
lượng với những phát hiện. [16]<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. O’Brien E, Asmar R, Beilin L, Imai Y, Mancia Staessen J, Stergiou G, Verdecchia P,<br />
European Society of Hypertension Working Group on Blood Pressure Monitoring.<br />
European Society of Hypertension recommendations for conventional, ambulatory and<br />
home blood pressure measurement. J Hypertens 2003;21:821–848<br />
2. Parati G, Bilo G, Mancia G. Prognostic and diagnostic value of ambulatory blood<br />
pressure monitoring. In Hypertension: Companion to Brenner & Rector’s The<br />
Kidney.Oparil S, Weber MA, Eds. Philadelphia, Elsevier Inc., 2005, p. 305–317<br />
3. Kannel WB, Wilson PW, Zhang TJ. The 24-h ABPM in diabetes S302 DIABETES<br />
CARE, VOLUME 32, SUPPLEMENT 2, NOVEMBER 2009 care.diabetesjournals.org<br />
epidemiology of impaired glucose tolerance and hypertension. Am Heart J 1991;<br />
121:1268–1273<br />
4. Hansen KW, Schmitz A, Pedersen MM. Ambulatory blood pressure measurement in type<br />
2 diabetic patients: methodological aspects. Diabet Med 1991;8:567–572<br />
5. Bauduceau B, Gene`s N, Chamontin B, Vaur L, Renault M, Etienne S, Marre M.<br />
Ambulatory blood pressure and urinary albumin excretion in diabetic (non-insulin-<br />
dependent and insulin-dependent) hypertensive patients: relationships at baseline and<br />
after treatment by the angiotensin converting enzyme inhibitor trandolapril. Am J<br />
Hypertens 1998;11:1065–1073<br />
6. da Costa Rodrigues T, Pecis M, Azevedo MJ, Esteves JF, Gross JL. Ambulatory blood<br />
pressure monitoring and progression of retinopathy in normotensive, normoalbuminuric<br />
type1 diabetic patients: a 6-year follow-up study. Diabetes Res Clin Pract 2006;74:135–<br />
140<br />
7. Suzuki H, Kanno Y, Nakamoto H, OkadaH, Sugahara S. Decline of renal function is<br />
associated with proteinuria and systolic blood pressure in the morning in diabetic<br />
nephropathy. Clin Exp Hypertens 2005;<br />
8. Nielsen FS, Gaede P, Vedel P, Pedersen O, Parving HH. White coat hypertension in<br />
NIDDM patients with and without incipient and overt diabetic nephropathy. Diabetes<br />
Care 1997;20:859–863<br />
9. Marchesi C, Maresca AM, Solbiati F, Franzetti I, Laurita E, Nicolini E, Gianni M, Guasti<br />
L, Marnini P, Venco A, Grandi AM. Masked hypertension in type 2 diabetes mellitus:<br />
relationship with left-ventricular structure and function. Am J Hypertens 2007;20:1079–<br />
1084<br />
10. Palmas W, Pickering T, Eimicke JP, Moran A, Teresi J, Schwartz JE, Field L, Weinstock<br />
RS, Shea S. Value of ambulatory arterial stiffness index and 24-h pulse pressure to<br />
predict progression of albuminuria in elderly people with diabetes mellitus. Am J<br />
Hypertens 2007;20:493–500<br />
11. Moran A, Palmas W, Pickering TG, Schwartz JE, Field L, Weinstock RS, Shea S. Office<br />
and ambulatory blood pressure are independently associated with albuminuria in older<br />
subjects with type 2 diabetes. Hypertension 2006;47:955–961<br />
12. Eguchi K, Hoshide S, Ishikawa J, Ishikawa S, Pickering TG, Gerin W, Ogedegbe G,<br />
Schwartz JE, Shimada K, Kario K. Cardiovascular prognosis of sustained and white-coat<br />
hypertension in patients with type 2 diabetes mellitus. Blood Press Monit 2008;13:15–20<br />
<br />
Tạp chí Y Dược học – Số 1 Trường Đại học Y Dược Huế<br />
13. Fogari R, Zoppi A, Malamani GD, Lazzari P, Destro M, Corradi L. Ambulatory blood<br />
pressure monitoring in normotensive and hypertensive type 2 diabetes: prevalence of<br />
impaired diurnal blood pressure patterns. Am J Hypertens 1993;6:1–7<br />
14. Gardner SF, Schneider EF. 24-Hour ambulatory blood pressure monitoring in primary<br />
care. J AmBoard Fam Pract 2001; 14:166–171 49. van Ittersum FJ, Wijering RM,<br />
Lambert J<br />
15. Flores L, Levy I, Aguilera E, Martinez S, Gomis R, Esmatjes E. Usefulness of<br />
ambulatory blood pressure monitoring in pregnant women with type 1 diabetes. Diabetes<br />
Care 1999;22:1507–1511<br />
16. Gianfranco Parati,Grzegorz Bilo, Diabetes Care, Volume 32, Supplement 2, November<br />
2009<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Tạp chí Y Dược học – Số 1 Trường Đại học Y Dược Huế<br />