Tổng quan về bán phá giá
lượt xem 190
download
Trong thời gian qua, nhiều vụ kiện khi đã xảy ra rồi mà các doanh nghiệp của chúng ta vẫn còn không hết bất ngờ bởi họ chưa từng bán phá giá hay được trợ cấp. Họ vẫn kinh doanh bình thường, và không vi phạm pháp luật thương mại nước sở tại và do đó không hiểu tại sao mình bị kiện. Trên thực tế, việc hàng hóa xuất khẩu bị kiện và bị áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Theo lý thuyết thì việc kiện được cho...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tổng quan về bán phá giá
- CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ BÁN PHÁ GIÁ 1.1 Bán phá giá là gì Theo Hiệp định chống bán phá giá của WTO, một sản phẩm được coi là bán phá giá nếu giá xuất khẩu thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự trong nước theo các điều kiện buôn bán thông thường. Theo khái niệm như vậy thì có thể xem xét việc đánh thuế chống bán phá giá đối với hàng xuất khẩu của một nước đến một quốc gia nội địa nếu xét thấy: - Giá xuất khẩu thấp hơn giá bán hàng hoá đó ở thị trường nội địa. - Giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất. - Giá xuất khẩu sang nước tiến hành điều tra chống bán phá giá thấp hơn giá xuất khẩu hàng hoá đó sang thị trường một nước khác. Trong trường hợp hàng nhập khẩu từ các nước không có nền kinh tế thị trường mở, nước nhập khẩu có thể lấy mức giá của nước thứ ba để so sánh khi xác định xem đánh thuế chống bán phá giá hay không. Các quy định về chống bán phá giá của EU căn bản là giống như của WTO, chỉ khác biệt về hai điểm: (l ) biện pháp cưỡng chế và (2) các quy định bên trong của EU. Các quy định của EU rất ngặt nghèo, chẳng hạn bên kiện phải là ngành công nghiệp hoặc một nhóm nhà sản xuất bị thiệt hại do hành vi bán phá giá, phải đ ưa ra đủ bằng chứng chứng minh tổng các thiệt hại này lớn hơn 25% cả ngành, và mức độ bán phá giá của hàng nhập khẩu của từng nước bị kiện phải lớn hơn 2% thị phần. Luật chống bán phá giá của Mỹ thì quy định hành vi chống phá giá là: - Bán một món hàng xuất ra nước ngoài mà giá thấp hơn giá đang thịnh hành ở thị trường trong nước. Đây là biểu hiện của sự việc được gọi là sự kỳ thị giá cả trên thị trường quốc tế. - Bán một món hàng mà giá thấp hơn giá thành của chính nó, tức là hoàn toàn không có khả năng thu hồi chi phí sản xuất. Như vậy, bán phá giá xảy ra khi các nhà xuất khẩu nước ngoài bán hàng hoá của họ trên thị trường thế giới ở mức giá thấp hơn mức giá tại thị trường nội đ ịa của họ hay họ bán các sản phẩm với giá thấp hơn chi phí sản xuất. Các nước được phép phạt đối với việc bán phá giá tương đương với phần phá giá biên nếu xác định được thông qua quá trình thanh tra, việc bán phá giá làm tổn hại đến những nhà sản xuất nội địa cùng với chủng loại sản phẩm đó. Thuế chống bán 1
- phá giá được áp dụng đối với các nhà xuất khẩu một sản phẩm cụ thể từ một quốc gia cụ thể khi xét thấy có khuynh hướng giảm mức giá của hàng hoá thấp hơn giá trị thông thường, từ đó ước lượng những thiệt hại đã bị gây ra bởi bán phá giá đối với các ngành sản xuất nội địa của nước nhập khẩu. Thuế chống bán phá giá áp dụng cho nhà sản xuất sản phẩm đã được bán phá giá và căn cứ vào nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm chứ không áp dụng đối với nước thứ ba (trong trường hợp xuất khẩu qua trung gian một nước thứ ba) và quá trình điều tra chỉ áp dụng cho nước xuất xứ. Mặc dù bị thanh tra, kiểm soát và phạt do vi phạm Luật chống bán phá giá, các doanh nghiệp vẫn theo đuổi chiến dịch này. Ví dụ: lạc nhân của nước A bán tại thị trường nước A với giá (X) nhưng lại được xuất khẩu sang thị trường nước B với giá (Y) (Y
- cao hơn biến phí 0,7 đồng/chiếc và thấp hơn 1 đồng 1/chiếc đ ể kiếm thêm tiền l ời. Bây giờ nhà máy có thể làm thêm ca đêm và sản xuất 0,5 triệu chiếc bật lửa nữa. Các định phí, theo giả định, đã được trang trả xong từ việc bán 1 triệu chiếc bật lửa đầu tiên. Nếu bán 0,5 triệu bật lửa này sang thị trường nước láng giềng với giá 0,9 đồng/chiếc thì cũng làm tăng lợi nhuận của công ty thêm 100.000 đ ồng. Dĩ nhiên, việc bán sản phẩm ca đêm không ảnh hưởng tới giá bán của một triệu bật lửa ban đầu. Điều này ít nhiều dẫn đến việc phân khúc thị trường, nghĩa là phải tìm ki ếm một thị trường khác hẳn với thị trường ca ngày. Mặt khác, công ty phải đảm bảo rằng người mua ở thị trường mới không dễ gì chuyển hàng ngược lại thị trường thứ nhất (ví dụ định giá ở thị trường mới sao cho chênh lệch giá không đủ bù đắp chi phí vận chuyển theo chiều ngược lại). Nếu không, giá bán của thị trướng thứ nhất sẽ bị ảnh hướng theo chiều hướng giảm. Đôi khi việc bán phá giá là việc bất đắc dĩ do nhà sản xuất, XK không bán được hàng, sản xuất bị đình trệ, sản phẩm lưu kho lâu ngày có thể bị hỏng... nên đành bán tháo để thu hồi vốn. Trong thương mại quốc tế, thuế chống bán phá giá có thể bị áp đặt mà không quan tâm đến lý do vì sao nhà sản xuất bán phá giá. Bán phá giá sang thị trường nước ngoài thường bị coi là một hiện tượng tiêu cực do nó làm giảm khả năng cạnh tranh về giá và thị phần của sản phẩm nội địa của nước NK. Tuy nhiên, bán phá giá có thể có tác động tích cực đ ối với nền kinh t ế: người tiêu dùng được lợi vì giá rẻ; nếu hàng bị bán phá giá là nguyên liệu đầu vào của một ngành sản xuất khác, giá nguyên liệu rẻ có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất định của ngành đó,... Vì thế không phải mọi hành vi bán phá giá đều bị áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Theo quy định của WTO, các biện pháp chống bán phá giá chỉ được thực hiện trong những hoàn cảnh nhất định và phải đáp ứng các điều kiện nhất đ ịnh. Cụ thể, các biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng khi xác định được đủ ba điều kiện sau đây: - Hàng NK bị bán phá giá; - Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước NK bị thiệt hại đáng kể; - Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng NK bán phá giá và thiệt hại nói trên. 1.2. Một số các tiêu chuẩn phổ biến để xác định việc bán phá giá 3
- Sản phẩm tương tự: Về cơ bản, việc bán phá giá có liên quan đến vấn đề phân biệt về giá giữa các thị trường. Nói chung, bán phá giá nảy sinh khi một sản phẩm được bán để xuất khẩu ở một nước giá thấp hơn giá sản phẩm này được bán ở trên thị trướng nội địa. Sự khác biệt giữa các giá này, tính theo tỷ lệ phần trăm trên giá xuất khẩu, được định nghĩa là biên phá giá (dumping margin). Nếu sản phẩm, trong trường hợp được xuất khẩu có một sản phẩm tương tự được bán ở thị trường chính quốc thì giá ngoài nhà máy của sản phẩm này khi được xuất khẩu hoặc đ ược bán ở thị trường chính quốc sẽ được so sánh để xác định biên phá giá. Tuy vậy, nếu sản phẩm này khi xuất khẩu không có sản phẩm hoàn toàn tương ứng về phương diện đặc điểm lý tính có bán ở thị trường chính quốc thì phải cố gắng tìm ra sản phẩm nội địa được bán là sản phẩm gần giống nhất đối với sản phẩm xuất khẩu này. Sản phẩm giống nhau được bán trên thị trường chính quốc này mà có đặc điểm giống nhất với sản phẩm xuất khẩu được gọi là ‘‘sản phẩm tương tự’‘. Giá của sản phẩm tương tự này, sau một số điều chỉnh nhất định được gọi là ‘‘giá chuẩn’‘ và sẽ được dùng để đo lường xem liệu một sản phẩm xuất khẩu có phải được bán phá giá hay không. Phương thức tìm sản phẩm tương tự: Khi sản phẩm xuất khẩu không có các sản phẩm đồng nhất được bán trên thị trường chính quốc thì áp dụng các phương thức tìm ra sản phẩm tương tự nhất theo bước: các - Nhận dạng các đặc trưng quan trọng nhất của sản phẩm xuất khẩu đ ược bán ở thị trường Hoa Kỳ và ở thị trường chính quốc( ví dụ như kích cỡ và các nét đặc trưng khác). - Xác định thứ tự ưu tiên của các đặc trưng này một cách nghiêm ngặt căn cứ vào tầm quan trọng của chúng. - Chọn lựa các giới hạn hoặc phân loại thích hợp đối với mỗi thuộc tính phản ánh các phân nhóm thích hợp những thuộc tính được đo lường (ví dụ như các thông số chủ yếu liên tục; các bộ phận cao, trung bình và thấp). - Phân loại sản phẩm xuất khẩu này và mỗi sản phẩm trên thị tr ường chính quốc căn cứ vào tất cả các đặc trưng chỉ ra tính chất xứng hợp theo thứ bậc. 4
- - Căn cứ vào phương thức này mà nhận dạng và chọn lọc sản phẩm trên thị trường chính quốc có tính chất xứng hợp gần nhất với sản phẩm xuất khẩu và lo ại ra tất cả các sản phẩm trên thị trường chính quốc khác. Nhưng nếu không có sản phẩm tương tự được bán ở thị trường nước xuất khẩu thì sao? Vấn đề này được WTO quy định chi tiết như sau: - Nếu không có sản phẩm tương tự được bán ở nước xuất khẩu. - Hoặc nếu việc bán trong nước này không cho phép có được sự so sánh hợp lý do điều kiện đặc biệt của thị trường đó. - Hoặc nếu số lượng bán ra tại thị trường trong nước của nước xuất khẩu quá nhỏ (thông thường, số lượng này được xem là đủ lớn, nếu chiếm từ 5% trở lên số lượng bán sản phẩm đang xem xét tới nước nhập khẩu), thì giá bán tại thị tr ường trong nước ở mệnh đề kéo theo trên được thay bằng: thứ nhất, mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được xuất khẩu sang nước thứ ba thích hợp với điều kiện là mức giá có thể so sánh được này mang tính đại diện thông qua so sánh với chi phí sản xuất tại nước xuất xứ hàng hoá tương tự; hoặc thứ hai, xác đ ịnh thông qua so sánh với chi phí sản xuất tại nước xuất xứ hàng hoá cộng thêm một khoản hợp lý chi phí quản trị, bán hàng, các chi phí chung và một khoản lợi nhuận. Trong trường hợp này, ta có thể nhận xét rằng đã có một bước chuy ển từ s ự ‘‘phân biệt đối xử qua giá‘‘ sang quyết định xem hàng xuất khẩu có bị bán với ‘‘giá dưới chi phí’‘ hay không? Sau khi xem xét vấn đề này, khái niệm giá bán tại thị tr ường trong nước ở trên được hiểu tổng quát thành giá trị thông thường - đó là: giá bán tại thị trường trong nước, hoặc giá bán sang nước thứ ba, hoặc ‘‘mức chi phí suy đ ịnh’‘. Mệnh đề so sánh ở trên chỉ được xem xét trong một khoảng thời gian nhất định - thông thường là một năm. Như vậy. vấn đề đặt ra tiếp theo là các mức giá trong thời kỳ ấy được ấn định như thế nào? Thông thường, việc xác định có bán phá giá hay không trong suốt giai đoạn xem xét hay điều tra sẽ dựa trên cơ sở: - So sánh giữa giá trị thông thường bình quân gia quyền với bình quân gia quyền giá xuất khẩu có thể so sánh được. - Hoặc so sánh giá trị thông thường với giá xuất khẩu từng giao dịch. - Hoặc so sánh giá thị trường thông thường bình quân gia quyền với giá xuất khẩu từng giao dịch, nếu như các cơ quan có thẩm quyền (của nước nhập khẩu ) xác 5
- định rằng cơ cấu giá xuất khẩu (của nước xuất khẩu) đối với những người mua nhập khẩu khác nhau, khu vực khác nhau và thời điểm khác nhau của nước nhập khẩu có sự chênh lệch đáng kể và khi có thể đưa ra giải thích về việc tại sao sự khác biệt này không cho phép tính toán một cách đầy đủ khi so sánh bằng phương pháp sử dụng bình quân gia quyền. Khi so sánh giữa giá trị thông thường với giá xuất khẩu phải tiến hành ở cùng một khâu của quá trình mua bán, thường là tại khâu xuất xưởng. Vấn đề đặt ra liếp theo là vấn đề tỷ giá hối đoái khi so sánh. Việc chuyển đổi đồng tiền, phải sử dụng tại thời điểm bán hàng - có thể là ngày của hợp đồng, ngày của đơn mua hàng, ngày xác nhận đơn đặt hàng hoặc ngày của hoá đơn. Tuỳ theo ngày nào là ngày thực tế tạo lập nên điều kiện bán hàng thực tế, với điều kiện là nếu ngoại tệ thu đ ược từ vi ệc bán hàng xuất khẩu được bán trên thị trường kỳ hạn thì tỷ giá trong việc bán ngoại hối kỳ hạn đó sẽ được sử dụng. Nếu không bán kỳ hạn, những biến động của tỷ giá hối đoái từ lúc bán hàng đến lúc thu tiền và bán ngoại tệ sẽ được bỏ qua trong quá trình điều tra. ‘’Thị trường’’ và ‘‘phi thi trường‘‘: Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế có môi trường kinh doanh tự do, giá cả tự do ... không phụ thuộc vào Nhà nước; trong khi các nước không có nền kinh tế thị trường thì không được như vậy, nhà nước có những ảnh hưởng và bảo hộ nhất định. Vì vậy chi phí sản xuất cho sản ph ẩm sẽ không là chi phí thực, không tính được giá thực tế. - Đối với nền kinh tế được thừa nhận là kinh tế thị trường (như trường hợp mới nhất là nước Nga vừa được Mỹ công nhận), các uỷ ban của Mỹ sẽ căn cứ vào những chứng từ liên quan để tính giá thành một sản phẩm đang bị nghi vấn bán phá giá. - Đối với nền kinh tế chưa được Mỹ thừa nhận là nền kinh tế thị trường (như trường hợp Việt Nam), các cơ quan điều tra có khuynh hướng cho rằng giá thành sản phẩm là không thực vì chính phủ thường có chế độ trợ cấp cho sản phẩm trong nước và xuất khẩu. Do đó họ sẽ lấy giá thành sản phẩm hay chi phí sản xuất (c ủa mặt hàng đang được điều tra) của một nước có nền kinh tế thị trường để áp đ ặt cho nước chưa được thừa nhận là có nền kinh tế thị trường. Và thông thường các nước này sẽ bị áp dụng một mức đánh thuế cao hơn nếu bị chứng minh là bán phá giá. 1.3. Tác động của bán phá giá. 6
- Bản thân khái niệm đã chỉ ra rằng, tác động lớn nhất của bán phá giá là việc gây ra tổn thất vật chất cho ngành sản xuất trong nước. Tổn thất này rất lớn xét trên cả góc độ vĩ mô và vi mô. Trên góc độ vĩ mô, khi một ngành sản xuất bị đe dọa sẽ dẫn đến việc phá sản của nhiều doanh nghiệp thuộc ngành đó. Kéo theo đó là tình trạng mất việc làm của công nhân và các tác động “lan chuyền” sang các ngành kinh tế khác. Trên góc độ vi mô, đối mặt với hiện tượng bán phá giá, doanh nghiệp s ẽ bị mất thị trường và mất lợi nhuận. Đây thực sự là mối lo ngại không chỉ của các nước phát triển mà của cả các nước đang phát triển, vì lợi thế so sánh của các nước luôn thay đổi và cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt hơn trên thị trường quốc tế. CHƯƠNG II : CHÍNH SÁCH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA EU 2.1. Chính sách chống bán phá giá của EU 2.1.1. Quy định về chống bán phá giá của EU Luật chống bán phá giá của Liên minh Châu Âu (EU) ra đời năm 1968 và đã được sửa đổi và bổ sung nhiều lần chủ yếu nhằm đưa những nội dung mới của việc thực hiện Điều VI của Hiệp định chung về Thuế quan và Mậu dịch 1994 (Hiệp định Chống bán phá giá 1994) vào luật của EU hiện nay. Luật chống bán phá giá áp dụng đối với tất cả các nước không phải là thành viên EU. Đối với các nước bị coi là chưa có nền kinh tế thị trường hoặc đang trong quá trình chuyển đổi, EU có thể áp dụng những điều khoản đặc biệt được quy đ ịnh trong các hiệp định ký giữa EU với các nước thứ 3. Luật sửa đổi năm 1996 đã đưa ra cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá theo 4 điều kiện: (i) mặt hàng đó đang bị bán phá giá (giá bán thấp hơn giá thương mại thông thường); (ii) ngành công nghiệp sản xuất mặt hàng đó đang bị đe dọa hoặc đang bị tổn thương vật chất; (iii) có mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu đó và tổn thương vật chất của ngành công nghiệp của EU; và (iv) việc áp đặt các biện pháp chống bán phá giá là vì lợi ích của Cộng đồng. EU áp dụng luật chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu từ nước thứ ba, kể cả các đối tác thương mại được hưởng ưu đãi, trừ các thành viên c ủa khu v ực 7
- kinh tế châu Âu (EEA) trong một số lĩnh vực chịu sự chi phối trong khuôn khổ chính sách cạnh tranh của EU. 2.1.2. Trình tự của một vụ kiện chống bán phá giá a-Nhận và phân tích đơn kiện: Đầu tiên, phải có đơn kiện gửi đến Ủy ban châu Âu (EC), đơn này do cá nhân, pháp nhân hoặc hiệp hội đứng đơn thay mặt cho ngành công nghiệp tại khối EU bị thiệt hại do bán phá giá. Bên nộp đơn kiện phải thỏa mãn hai quy tắc: tổng sản phẩm của những công ty đi kiện phải vượt 25% tổng sản lượng sản phẩm đó trong khối EU, và tổng sản lượng của những công ty đi kiện phải chiếm hơn 50% tổng sản lượng của những công ty không kiện (trong EU). Trong đơn kiện phải có đầy đủ thông tin về sản phẩm bị buộc tội bán phá giá, tên nước xuất xứ hay xuất khẩu có liên quan, danh sách các nhà xuất khẩu/nhà sản xuất và nhà nhập khẩu sản phẩm đó; thông tin về giá xuất khẩu và giá bán nội địa của sản phẩm đó, mức độ thiệt hại của ngành công nghiệp do sản phẩm bán phá giá gây ra... EC sẽ xem xét đơn này trong 45 ngày, và sau khi thẩm định nếu thấy có đầy đủ chứng cớ thì EC sẽ bắt đầu tiến hành điều tra vụ kiện. Tuy nhiên EC sẽ bác đơn kiện nếu sản phẩm bán phá giá vào EU chỉ chiếm dưới 1% (sản phẩm của một nước) hoặc dưới 3% thị phần tại EU (nếu là sản phẩm do nhiều nước cùng xuất vào EU). b- Tiến hành điều tra: Sau khi nhận đơn kiện, EC sẽ thông báo trên Công báo về vụ kiện: chỉ ra sản phẩm, những nước liên quan, thông tin nhận được, nêu thời gian cho các bên liên quan (gồm bên thưa kiện, nhà xuất khẩu bị kiện và chính phủ nước liên quan) tự giới thiệu về mình và cung cấp thông tin cho EC. EC cũng sẽ gửi bảng câu hỏi (có kèm tờ khai về quy chế nước có nền kinh tế thị trường) đến nhà xuất khẩu. Nội dung bảng câu hỏi này gồm thông tin về công ty, về sản phẩm đang b ị điều tra, số liệu về hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh số bán sản phẩm trong nước và xuất khẩu, giá thành sản xuất... Nhà xuất khẩu có 40 ngày để trả lời bảng này. Sau khi nhận được bảng câu hỏi, EC sẽ thẩm định thông tin và sẽ cử chuyên gia đến công ty xuất khẩu để xem xét thực địa, kiểm tra hồ sơ chứng từ, xem một vài giao dịch lớn… để so sánh thông 8
- tin thực tế với thông tin đã nhận. Từ những thông tin thu thập được, EC sẽ tính toán ra giá thành sản xuất của sản phẩm, giá bán sản phẩm trong nước (bao gồm các chi phí sản xuất, khấu hao, lợi nhuận…), giá xuất khẩu (giá CIF) để xem có bán phá giá hay không và tính ra mức độ phá giá. Nếu sản phẩm không bán trong nước hoặc bán trong nước nhưng chiếm sản lượng ít hơn 5% thì EC sẽ so sánh với giá bán của một công ty tương tự. Còn nếu doanh nghiệp tỏ ra bất hợp tác (từ chối tiếp cận, không cung cấp thông tin…) thì EC sẽ ban hành các phán quyết dựa trên các dữ liệu sẵn có. c- Quy chế dành cho nước có nền kinh tế thị trường Thông thường, nếu nhà xuất khẩu bị kiện bán phá giá mà đang hoạt động ở một nước có nền kinh tế thị trường thì EC sẽ trực tiếp sang điều tra. Nếu nhà xuất khẩu thuộc nước không có nền kinh tế thị trường thì EC sẽ chọn một nước thứ ba có nền kinh tế thị trường để tính toán mức giá của sản phẩm đó. Hội đồng châu Âu đã ban hành quy định xác định 5 nước tuy chưa đ ược công nhận có nền kinh tế thị trường nhưng đã có các công ty hoạt động theo cơ chế th ị trường, là: Nga, Trung Quốc, Việt Nam, Ukraine, Kazakhstan. Như vậy, các doanh nghiệp tại nước này sẽ được EC trực tiếp sang điều tra nếu có kiện tụng bán phá giá. Việc xác minh cơ chế thị trường là nhằm chứng tỏ rằng công ty hoạt động theo đúng các điều kiện của thị trường và hệ thống sổ sách tài chính của họ là minh bạch. Quy chế về kinh tế thị trường có vai trò quan trọng ở khâu áp thuế chống bán phá giá: nếu công ty thuộc nước có nền kinh tế thị trường thì từng công ty sẽ chịu mức thuế khác nhau tùy thị phần/số lượng sản phẩm xuất vào EU, còn nếu thuộc nước có nền kinh tế phi thị trường thì tất cả công ty của nước này sẽ chịu chung một mức thuế. Như vậy trình tự của một vụ kiện chống bán phá giá của EU có thể diễn giải bằng 10 bước cụ thể như sau : Bước 1: Đơn kiện Bước 2: Khởi xướng vụ điều tra 9
- Bước 3: Điều tra sơ bộ (gửi-trả lời bảng hỏi, cung cấp các chứng cứ-lập luận, điều tra thực địa…) Bước 4: Kết luận sơ bộ (có bán phá giá/bán hàng được trợ cấp gây thiệt hại không) Bước 5: Biện pháp tạm thời (nếu có) Bước 6: Tiếp tục điều tra (bổ sung chứng cứ, phiên điều trần, cam kết về giá/thỏa thuận đình chỉ…) Bước 7: Kết luận chính thức Bước 8: Công bố và thực thi thuế chống bán phá giá Bước 9: Rà soát giữa kỳ/rà soát hành chính (hàng năm) Bước 10: Rà soát cuối kỳ/hoàng hôn/ (sau 5 năm) 2.2. Các vụ kiện chống bán phá giá tại Việt Nam 2.2.1. Nguyên nhân dẫn tới các vụ kiện chống bán phá giá Thứ nhất, Việt Nam đã áp dụng các biện pháp hỗ trợ DN thời kỳ khủng hoảng. Điều đó làm giá thành sản xuất sản phẩm xuất khẩu có giá thấp hơn. Hơn nữa thị trường Việt Nam lại gần các nước xuất khẩu là đối tượng của nhiều biện pháp phòng vệ thương mại như Trung Quốc với 677 vụ kiện chống bán phá giá tính đến tháng 6/2008, Đài Loan là 187 vụ, Thái Lan là 142 vụ, Indonesia là 145 v ụ, Malaysia là 90 vụ. Do đó khi mặt hàng xuất khẩu của một nước lân cận bị điều tra bán phá giá thì việc Việt Nam bị lôi vào các vụ kiện này là khó tránh khỏi. Thứ hai là xuất khẩu Việt Nam tăng nhanh trong những năm gần đây, khiến các nước nhập khẩu phải tìm cách bảo hộ hàng hóa nội địa trước sản phẩm “made in Vietnam”. Thứ ba là các mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam lại thuộc nhóm “nguy cơ cao” trong các mặt hàng xuất khẩu dễ bị vướng vào các vụ kiện chống bán phá giá. Hàng hoá hay bị kiện bán phá giá là hàng công nghiệp như giầy dép, xe đ ạp (phụ tùng xe đạp), đèn huỳnh quang, ống tuýt thép, vòng khuyên kim loại, Oxit kẽm, Mì chính, Đĩa CD, Thép, Nhựa, Sợi vải..., thủy sản như cá, tôm, nông sản như gạo, 10
- tỏi...Trong năm tiếp theo, những mặt hàng như dệt may, đồ gỗ, thủ công mỹ nghệ, thép, đinh, ốc vít… là những nhóm mặt hàng có nguy cơ liệt vào danh sách bán phá giá cao nhất. Ngoài ra, một số mặt hàng mới (mặc dù có kim ngạch xuất khẩu nhỏ) như hóa chất, sản phẩm cơ khí, điện, nhựa... cũng có thể bị điều tra. Những mặt hàng này đều thuộc diện mặt hàng khai phá thị trường của Việt Nam nên chưa có kim ngạch lớn. Một khi bị áp thuế chống bán phá giá trong thời kỳ 5 năm, rà soát từng năm và cuối kỳ để xem gia hạn, thiệt hại đối với doanh nghiệp sẽ vô cùng dai dẳng. Hiện tôm đông lạnh của Việt Nam xuất sang Mỹ đang bị rà soát năm thứ 4, mặt hàng cá đang rà soát cuối kỳ, và có khả năng bị áp thuế thêm 5 năm nữa. Thứ tư là thị trường EU mà Việt Nam xuất khẩu là là những thị trường rất khó tính, đòi hỏi yêu cầu cao. Bảng 2.2.1 : Các ngành thường bị tấn công (1999-2004) Mặt hàng Số vụ kiện STT Hoá chất 1 175 Nhựa 2 315 May mặc 3 210 Đồ gỗ 4 117 Dệt 5 175 Mặt hàng khác 6 445 2.2.2. Các vụ kiện chống bán phá giá tại Việt Nam Trong thời gian qua, từ năm 1994 đến tháng 2 năm 2010, tổng số vụ kiện thương mại đối với Việt Nam là 42 vụ trong đó các vụ kiện liên quan đến chống bán phá giá là 35 vụ. Trong đó, điều đáng chú ý nhất là thị tr ường Liên minh châu Âu đã chiếm tới 10 vụ kiện chống bán phá giá và vụ lớn nhất là vụ kiện chống bán phá giá giày mũ da. 11
- Dưới đây là bảng thống kê các vụ kiện chống bán phá giá của EU đối với các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam Bảng 2.2.2 : Thống kê các vụ kiện chống bán phá giá của EU mà Việt Nam có liên quan Nước STT Mặt hàng Thời gian khởi kiện kiện 1 Giày mũ da EU 7/7/2005 2 Đèn huỳnh quang EU 10/9/2004 Chốt cài inox 3 EU 24/8/2004 Ống tuýt thép 4 EU 11/8/2004 Xe đạp 5 EU 29/4/2004 Vòng khuyên kim loại 6 EU 28/4/2004 Ô xít kẽm 7 EU 2003 Bật lửa ga 8 EU 2002 9 Giày dép EU 1998 10 Mì chính EU 1998 Nguồn: Cục quán lý cạnh tranh – Bộ Công thương Một trong những ví dụ điển hình nhất của các vụ kiện chống bán phá giá mà Việt Nam đã vấp phải trong thời gian từ năm 1994 đến nay là vụ kiện chống bán phá giá giầy mũ da Việt Nam ở thị trường EU. * Thời gian khởi kiện : 7/7/2005 * Nước bị khởi kiện : Việt Nam và Trung Quốc * Lý do Việt Nam bị khởi kiện : các sản phẩm giầy dép của Việt Nam xuất khảu sang Châu Âu tăng đột biến về số lượng nhưng lại giảm đáng kể về mặt giá trị từ đầu năm 2005 đến thời điểm điều tra (tháng 7 năm 2005). Tuy nhiên, theo đánh giá từ phía Việt Nam, các ngành gia dầy Việt Nam đa số là sản xuất theo phương thức gia công cho đối tác nước ngoài, không tham gia quá 12
- trình thương mại, tiêu thụ sản phẩm , không quyết định giá thành, giá bán sản phẩm xuất khẩu nên không thể là đối tượng tạo ra việc bán phá giá giày và chỉ vô tình bị rơi vào tình trạng phá giá và trở thành nạn nhân của vụ kiên, khi Trung Quốc mới là nước đóng vai trò chính bị khởi kiện trong vụ kiện chống bán phá giá này. * Quá trình điều tra : EU đã tiến hành điều tra 8 doanh nghiệp của Việt Nam là : Công ty Yuen, Công ty Pou Chen Việt Nam, Công ty Taekwang Vina, Công ty liên doanh Kainan, Công ty Giày 32, Công ty Dona Biti’s, Công ty XNK Bình Tiên, Công ty Giày da Hải Phòng. EU đánh giá Việt Nam thông qua các tiêu chí như hệ thống sổ sách kế toán, chứng từ, quyền sử dụng đất, ...Tuy nhiên, EU không công nhận kết quả điều tra 8 doanh nghiệp trên vì cho rằng các doanh nghiệp này đã không chứng minh được mình đáp ứng đủ 5 tiêu chí hoạt động theo nền kinh tế thị trường. * Phán quyết của EU : EU đã đưa ra phán quyết đối với việc cho rằng Việt Nam bán phá giá giày mũ da vào thị trường EU là áp thuế chống bán phá giá đối với Việt Nam là 10% trong thời han 02 năm, thời gian bắt đầu áp thuế là 7/10/2006. Ngày 22/12/2009, liên minh châu Âu (EU) đã tiến hành rà soát kỳ cuối cùng sau hơn 3 năm áp thuế chống bán phá giá đối với giày mũ da Việt Nam. EU đã bỏ phiếu chính thức thông qua đề xuất của Ủy ban châu Âu (EC) kéo dài thời hạn áp thuế chống bán phá giá 10% ( Trung Quốc là 16,5%) đối với giày mũi da nhập khẩu từ Việt Nam và Trung Quốc thêm 15 tháng. * Những hậu quả của vụ kiện mà Việt Nam phải gánh chịu : Từ khi EU áp dụng chống bán phá giá, thị phần giàu mũ da Việt Nam và Trung Quốc tại EU giảm 35,5% (2005) xuống còn 28,7% tính đến tháng 6/2008. Trong đó thị phần của Việt Nam giảm chỉ còn 10,2%, con số này trước đó là 12,6%. Điều này gây ảnh hưởng lớn đến toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam. Có thể nói vụ kiện chống bán phá giá giày mũ da là một trong những vụ kiện có tác động một cách tiêu cực đối với ngành sản xuất da giày cũng như về mặt xã 13
- hội với hơn nửa triệu lao động, đặc biệt là đối với 80% nữ lao động làm việc trong ngành. Xã hội phải đối mặt với nguy cơ hàng loạt lao động mất việc là do các doanh nghiệp không tìm được đơn đặt hàng nên phải thu hẹp sản xuất. Hơn nữa, nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các nhà sản xuất, xuất khẩu, nhà nhập khẩu, thiết kế, thương nhân, nhà phân phối, bán lẻ cũng như 450 triệu người tiêu dùng ở 25 nước EU. Điều này được thể hiện rõ qua những phản ứng gay gắt từ các nước thành viên EU. Đặc biệt, nhiều nhà bán lẻ giày dép lớn như Clarks và Adidas, liên minh Giày dép châu Âu (EFA) cũng phản đối các biện pháp này của EC và kêu gọi chấm dứt ngay lập tức loại thuế chống bán phá giá này. * Các biện pháp và kinh nghiệm rút ra của Việt Nam : Hiện nay, Chính phủ, Bộ thương mại, Bộ ngoại giao và các doanh nghiệp da giày Việt Nam cũng đang tích cực làm việc với EC và vận động các nước trong cộng đồng EU ủng hộ Việt Nam trong việc phản đối lại phán quyết của EC trong việc kéo dài thời gian áp thuế chống bán phá giá thêm 15 tháng nữa. Về phía các doanh nghiệp da giày Việt Nam phải cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, tìm cách ‘‘ nâng tầm’’để hội nhập chứ không thể chỉ dừng ở việc gia công sản phẩm. 2.3. Bài học kinh nghiệm rút ra từ các vụ kiện chống bán phá giá Với các mặt hàng hiện phải chịu thuế chống bán phá giá (mì chính, bật l ửa, tỏi) đều có kim ngạch xuất khẩu không cao, cũng chưa phải là những mặt hàng xuất khẩu chiến lược như gạo, giày dép tuy bị các nước điều tra nhưng cuối cùng chưa bị đánh thuế chống bán phá giá. Đây có lẽ cũng là một lý do dẫn đến việc doanh nghiệp của ta chưa quan tâm thích đáng đến các trường hợp chống bán phá giá này. Do vậy, đối với các nhà xuất khẩu phải lưu ý, có một số mặt hàng được coi là nhạy cảm với việc phòng vệ thương mại. Chúng ta có mặt hàng nào nằm trong lĩnh vực nhạy cảm đó không. Tuy nhiên, các nước thường nhân tiện đánh thêm thuế chống bán phá giá với hàng Việt Nam khi xem xét đánh thuế chống bán phá giá đ ối với một số nước khác có kim ngạch xuất khẩu lớn hơn. Ví dụ, Canada đánh thuế chống bán phá giá chủ yếu với tỏi nhập khẩu từ Trung Quốc, đồng thời mở rộng đánh thêm hàng Việt Nam (khối lượng xuất khẩu tỏi của Việt Nam sang Canada không bằng 1/10 mức bình quân của Trung Quốc). Tương tự như vậy, Ba Lan đánh 14
- thuế chống bán phá giá đối với bật lửa Trung Quốc và Đài Loan và VN. Vì vậy khi các nước có mặt hàng xuất khẩu bị kiện chống bán phá giá thì Việt Nam cũng phải có những chuẩn bị cho các mặt hàng xuất khẩu tương tự của mình để có những biện pháp đối phó nếu bị đưa vào vụ kiện. Việt Nam chưa được nhiều quốc gia công nhận là nền kinh tế thị trường nên phải lưu ý giữ được biên độ phá giá thấp khi bị tiến hành điều tra. Khi bị kiện, các nhà sản xuất Việt Nam chứng minh là nhập nguyên liệu nước ngoài và giá nguyên liệu đó được tính theo giá thị trường. Như vậy, khi tính toán giá thành s ản phẩm người ta tính giá nguyên liệu thô lấy từ 1 quốc gia có nền kinh tế th ị tr ường cộng thêm chi phí quản lý hành chính, chi phí vận hành nhà máy, lợi nhuận dự kiến… Có một điều chúng ta biết được, đó là nguyên liệu thô nhập về để sản xuất hàng hoá nếu hơn 30% hàm lượng được nhập từ nền kinh tế thị trường thì giá được tính toán trực tiếp chứ không cần tính ở nước thứ ba nữa. Theo các chuyên gia, năm 2010 tiếp tục vẫn là một năm nhiều khó khăn đ ối với xuất khẩu của Việt Nam. Vì thế, cùng với các nỗ lực cho sản xuất xuất khẩu, các doanh nghiệp cũng cần chủ động đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá và chống trợ cấp. 15
- CHƯƠNG III : MỘT SỐ ĐỐI SÁCH CỦA VIỆT NAM Trong thời gian qua, nhiều vụ kiện khi đã xảy ra rồi mà các doanh nghiệp của chúng ta vẫn còn không hết bất ngờ bởi họ chưa từng bán phá giá hay được trợ cấp. Họ vẫn kinh doanh bình thường, và không vi phạm pháp luật thương mại nước sở tại và do đó không hiểu tại sao mình bị kiện. Trên thực tế, việc hàng hóa xuất khẩu bị kiện và bị áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Theo lý thuyết thì việc kiện được cho là do có dấu hiệu của hành vi cạnh tranh không lành mạnh của nhà xuất khẩu (bán phá giá, bán hàng được trợ cấp). Tuy nhiên, đằng sau lý thuy ết đó, vụ kiện nhiều lúc xuất phát từ những yếu tố chủ quan của bên đi kiện, ví dụ họ đang gặp khó khăn trong cạnh tranh hoặc có chiến lược sử dụng các công c ụ kiện này để ngăn chặn hàng nhập khẩu…chứ hoàn toàn không liên quan đến việc hàng hóa nước ngoài cạnh tranh không lành mạnh. Do đó, chúng tôi đưa ra một số kiến nghị mang tính chính sách và chiến lược dưới đây được đề ra dựa vào những phân tích trên nhằm giúp chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình tham gia vào thương mại quốc tế. 3.1. Một số chính sách của Chính phủ 3.1.1 Hỗ trợ các hành động chống bán phá giá. Rõ ràng là Hiệp định chống bán phá giá của WTO đã không được áp dụng đúng như mục đích của nó là nhằm xoá bỏ tạm thời sự cạnh tranh không lành mạnh 16
- do chênh lệch về giá cũng như cung cấp các biện pháp khắc phục thiệt hại liên quan. Trên thực tế, các biện pháp này được sử dụng như một công cụ tự vệ nhằm bảo vệ các nhà sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh từ bên ngoài. Một mặt, các doanh nghiệp cần nhận thức rằng trên thực tế, thường xuyên xảy ra việc chính phủ trợ cấp cho hàng xuất khẩu thuộc một số lĩnh vực và/hoặc một số sản phẩm được bán tại thị trường nước ngoài với giá thấp hơn giá thông thường. Việc “phá giá” như vậy sẽ bóp méo thị trường và gây ra những ảnh hưởng xấu cho thương mại và cạnh tranh. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng cần biết r ằng với mục đích bảo vệ các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng cạnh tranh trong nước, các nước nhập khẩu sẽ sử dụng các biện pháp chống bán phá giá như một công cụ bảo vệ thương mại. Thông thường các nhà sản xuất và xuất khẩu Việt Nam là những nạn nhân trực tiếp của các hành động chống bán phá giá. Các nhà sản xuất/xuất khẩu nước ta còn thiếu kinh nghiệm về marketing quốc tế và khung pháp lý, kém chuyên môn do đó không thể đoán trước được mối quan hệ thương mại quốc tế. Cộng với khả năng tài chính hạn hẹp, các doanh nghiệp khó có thể tự bảo vệ mình trước các vụ kiện chống bán phá giá. Thường thì việc khởi xướng các vụ kiện chống bán phá giá hay việc đe doạ mở các cuộc điều tra chống bán phá giá có thể khiến các nhà sản xuất phải rút khỏi thị trường xuất khẩu cho dù họ có thể thắng nếu tranh đấu đến cùng. Trong khi đó, các nhà nhập khẩu thì sợ các vụ kiện kéo dài quá lâu và quay sang tìm các nhà cung cấp thay thế. Trước đây, nếu so với các nhà sản xuất và xuất khẩu của các nước phát triển, các nhà sản xuất và xuất khẩu của các nước đang phát triển thường không có đủ năng lực để khắc phục các hậu quả kinh tế nặng nề của các vụ kiện chống bán phá giá hay đối phó với các biện pháp trả đũa. Trong nhiều trường hợp, khi các cuộc điều tra kết thúc hay khi thuế chống bán phá giá được áp dụng, l ượng hàng xuất khẩu nước ta vào EU giảm mạnh hoặc có khi ngừng xuất khẩu. Do đó, Chính phủ nên cung cấp cho các nhà sản xuất và xuất khẩu trong nước các dịch vụ hành chính và pháp lý liên quan tới chống bán phá giá. Chính phủ nên đào tạo và giúp các doanh nghiệp tổ chức tốt khi tham gia các vụ kiện chống bán phá giá ở nước ngoài cũng như trong việc khởi kiện hàng hóa nước ngoài bán phá giá và cạnh tranh không lành mạnh tại thị trường trong nước. 3.1.2 Chủ động tham gia câu lạc bộ chống bán phá giá. 17
- Như đã phân tích ở trên, chống bán phá giá không còn là công cụ duy nhất được các nước phát triển sử dụng. Rất nhiều nước đang phát triển đã là thành viên của các Hiệp định về chống bán phá giá của WTO và tích cực sử dụng các biện pháp chống bán phá giá như một công cụ chính quản lí hàng nhập khẩu. Argentina, Ấn Độ và Hàn Quốc là 3 nước tiên phong. Mỗi nước đã khởi xướng hàng trăm vụ kiện chống bán phá giá kể từ khi WTO được thành lập. Các nước này đã trở thành các thành viên tích cực của câu lạc bộ chống bán phá giá toàn cầu và bảo vệ hiệu quả lợi ích thương mại của mình. Các nước đang phát triển khác như Brazil, Mexico hay Chile cũng ngày càng tích cực hơn trong việc tham gia vào cuộc chiến chống bán phá giá để bảo vệ thị trường trong nước trước sự cạnh tranh từ bên ngoài. Hiện nay, Việt Nam cũng đang học theo kinh nghiệm các nước này để bảo vệ lợi ích thương mại của chính mình. Chính phủ và chính bản thân các doanh nghiệp cần phải quản lí thị trường trong nước chặt chẽ hơn trước tình trạng bán phá giá của các doanh nghiệp nước ngoài và nguy cơ thiệt hại của ngành sản xuất liên quan. Nhà nước ta cần trang bị đầy đủ hơn các quy định về chống bán phá giá và chủ động hơn trong việc khởi xướng các vụ kiện chống bán phá giá trước hành vi không công bằng của các đối tác thương mại chứ không nên bị động trong vai trò nước bị kiện; đồng thời cần khuyến khích và trợ giúp các doanh nghiệp tự bảo vệ trong các vụ kiện. 3.1.2. Cải cách các Hiệp định chống bán phá giá Phải đối mặt với xu hướng thị trường EU ngày càng tích cực áp dụng các biện pháp chống bán phá giá chống lại một số mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam như giày mũi da,... Một số nước Châu Á khác cũng bị áp dụng các biện pháp chống bán phá giá cho dù các nước này là những nhà cung cấp chính cho một số khu vực và thậm chí là trên thế giới. Như Prusa (1999) đã chỉ rõ “….dường như ngay khi các nước đang phát triển hoạt động hiệu quả hơn và có năng lực cạnh tranh cao ở một thị trường nhất định thì cũng là lúc các nước phát triển tìm cách đóng c ửa th ị tr ường đó…” Theo chiều hướng hiện tại, các biện pháp chống bán phá giá đã trở thành chính sách chống cạnh tranh hơn là khuyến khích cạnh tranh và chống phân biệt đối xử với các nước đang phát triển. Do vậy, Hiệp định của WTO về chống bán phá giá cần có sự sửa đổi nhằm xoá bỏ các ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với các nền kinh tế đang phát triển. 18
- Chính phủ Việt Nam cần chủ động thúc đẩy và tham gia vào quá trình cải cách Hiệp định về chống bán phá giá của WTO. Trước tiên, thủ tục mở các cuộc điều tra chống bán phá giá cần được quy định chặt chẽ bằng việc đưa ra các quy định cụ thể trong việc xác định “hành vi phá giá”. Dựa trên mức chi phí lao động thấp và các yếu tố khác sẵn có, các nước phát triển và các nước đang phát triển cần được quy định các biên độ phá giá riêng. Thêm vào đó, theo đề nghị của Neufeld (2001) các cuộc điều tra chống bán phá giá không có căn cứ cần được loại bỏ. Điều tra thiệt hại cần được tiến hành nghiêm ngặt hơn trước khi các cuộc điều tra bắt đầu và thiệt hại cũng cần được xác định trên cơ sở chính doanh nghiệp. Theo đó, Chính phủ nước ta cần các đề xuất sửa đổi Hiệp định chống bán phá giá và gợi ý quan điểm đàm phán thích hợp của Việt Nam về vấn đề liên quan phù hợp với lợi ích của Việt Nam nói chung và lợi ích của cộng đ ồng doanh nghi ệp Việt Nam nói riêng như: cấm sử dụng zeroing dưới mọi hình thức (thông lệ sử dụng phương pháp zeroing, Việt Nam và các nước đã từng bị áp dụng phương pháp này đã phải chịu những thiệt hại không nhỏ từ phương pháp zeroing này); ủng hộ việc đưa quy định cấm điều tra chống lẩn tránh thuế vào Hiệp định; ủng hộ triệt để việc đưa nguyên tắc lesser duty từ một nguyên tắc tùy nghi lựa chọn thành nguyên tắc bắt buộc áp dụng đối với tất cả các nước thành viên hoặc ít nhất là đối với các nước bị khiếu kiện là nước đang phát triển; ủng hộ việc bổ sung quy định bắt buộc (hoặc nếu không được thì là tùy nghi) về việc xem xét các lợi ích công cộng khi quyết định việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá, đặc biệt là nhóm nước đang phát triển khi bị kiện chống bán phá giá ở nước ngoài; chấm dứt tự động biện pháp chống bán phá giá không quá 5 năm kế từ khi áp dụng trong mọi trường hợp. Ví dụ trong vụ kiện EU tiến hành chống lại giầy mũi da của Việt Nam, mặc dù biên độ phá giá đối với sản giầy mũ da có xuất xứ từ Việt Nam là 70.1%, nhưng bằng việc áp dụng nguyên tắc lesser duty, mức thuế chống bán phá giá chính thức áp dụng cho sản phẩm này 10% (do biên độ thiệt hại mà hàng hoá nhập khẩu bị bán phá giá từ Việt Nam gây ra cho ngành sản xuất giầy EU là 10%); cho Trung Quốc là 16,5% (so với biên phá giá là 28,9%). Điều này cho thấy khi nguyên tắc lesser duty được áp dụng và biên thiệt hại được bóc tách giữa các nước, kết quả xác định cho từng nước sẽ khác nhau và phù hợp hơn với tỷ trọng nhập khẩu và tác động c ủa lượng nhập khẩu lên ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu. 19
- 3.2. Đối sách của các doanh nghiệp Bản chất của các vụ kiện chống bán phá giá là tranh chấp thương mại giữa ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu và ngành sản xuất xuất khẩu liên quan c ủa Việt Nam , tức là một tranh chấp tư. Do đó, những hỗ trợ của Chính phủ cũng như những hỗ trợ từ các đơn vị khác sẽ chỉ có hiệu quả nếu bản thân các doanh nghiệp chủ động, tích cực tìm hiểu và có sự chuẩn bị sẵn sàng về nguồn lực để tham gia các vụ việc này. 3.2.1 Nhóm giải pháp tránh nguy cơ bị kiện bán phá giá Trên thực tế, việc hàng hóa xuất khẩu bị kiện chống bán phá giá có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Theo lý thuyết thì việc kiện được cho là do có dấu hiệu của hành vi bán phá giá của nhà xuất khẩu. Tuy nhiên, khá nhiều tr ường hợp, các vụ kiện chống bán phá giá lại xuất phát từ tình trạng khó khăn của các nhà sản xuất nội địa và họ tìm đến biện pháp này như là công cụ đ ể c ạnh tranh v ới nhà sản xuất nước ngoài. Tuy nhiên, về mặt hình thức, nguy cơ kiện thường cao hơn khi có hiện tượng tăng đột biến lượng xuất khẩu vào một thị trường và giá xuất khẩu thấp. Vì thế đ ể đối phó với những nguy cơ này về lâu dài, doanh nghiệp cần tính đến chiến lược phát triển đa dạng thị trường, tránh phát triển quá nóng một khu vực nào và chuyển dần sang cạnh tranh bằng chất lượng thay vì bằng giá. Trước mắt, khi những yếu tố này chưa thể thực hiện được triệt để, doanh nghiệp cần thường xuyên quan sát thị trường (kết hợp với các nhà nhập khẩu) để phát hiện nguy cơ sớm, từ đó chủ động phòng tránh, đối phó. Do vậy, việc xảy ra các vụ kiện như vậy có thể không phải do ta không hiểu pháp luật hay có thiếu sót. Tuy nhiên, việc kiện bao giờ cũng phải dựa trên một số điều kiện pháp luật cơ bản và nếu chúng ta biết về những điều kiện đó thì có thể tìm cách tránh để xảy ra những hoàn cảnh gần giống các điều kiện đó để không tạo cớ cho người ta đi kiện. Cụ thể, nguy cơ kiện thường cao hơn khi có hiện tượng tăng đột biến l ượng xuất khẩu vào một thị trường và giá xuất khẩu thấp. Vì thế để đối phó với những nguy cơ này về lâu dài, doanh nghiệp cần tính đến chiến lược phát triển đa dạng thị trường và chuyển dần sang cạnh tranh bằng chất lượng thay vì bằng giá. Trước mắt, khi những yếu tố này chưa thể thực hiện được triệt để, doanh nghiệp cần thường 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giá và chiến lược giá - Ths.Nguyễn Quỳnh Chi phần 2
9 p | 186 | 59
-
Điều tra cơ bản kinh tế-xã hội vùng đầm phá Huế
81 p | 199 | 46
-
Những lựa chọn chiến lược để phát triển nông nghiệp và nông thôn Việt Nam
102 p | 124 | 33
-
Thúc đẩy tăng năng suát nông nghiệp và thu thập nông thôn tại Việt Nam : bài học từ kinh nghiệm của khu vực
102 p | 77 | 21
-
Chuỗi giá trị toàn cầu - Cơ hội và thách thức cho sự phát triển
8 p | 109 | 10
-
Bài giảng môn Kinh tế môi trường: Chương 4 - ĐH Ngoại Thương
48 p | 129 | 9
-
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về nguy cơ đánh trùng thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với nền kinh tế phi thị trường: Phần 1
74 p | 77 | 5
-
Cùng tạo nên một cuộc bứt phá mới trong năng suất lao động
4 p | 50 | 4
-
Giáo trình Luật kinh tế (Nghề: Quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ - Trình độ: Cao đẳng nghề) - Cao đẳng Cộng đồng Lào Cai
47 p | 28 | 4
-
Pháp luật Việt Nam về chống lẩn tránh các biện pháp phòng vệ thương mại: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện
12 p | 27 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn