intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Trách nhiệm xã hội - đạo đức kinh doanh và sự phát triển bền vững

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:25

73
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết tổng hợp và đưa ra một số quan điểm đạo đức, trách nhiệm xã hội, mục tiêu phát triển bền vững cũng như mối quan hệ giữa chúng qua một số kết quả phân tích và ví dụ thực tế. Đồng thời xây dựng một nội dung quy trình thực hiện CSR trong chiến lược phát triển bền vững của doanh nghiệp có thể áp dụng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Trách nhiệm xã hội - đạo đức kinh doanh và sự phát triển bền vững

  1. TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI - ĐẠO ĐỨC KINH DOANH VÀ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ths. Trần Đức Dũng Đại học Kinh tế Quốc dân Tóm tắt Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, vấn đề trách nhiệm xã hội và sự phát triển bền vững đang được đề cao...Nhưng tại Việt Nam, các vấn đề liên quan đến trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) đã và đang bị vi phạm một cách nghiệm trọng cả về mức độ nguy hiểm, quy mô và tần suất vụ việc. Trong hội nhập quốc tế, trước sức ép phải tuân thủ CSR trong các Hiệp định khi tham gia các tổ chức kinh tế thế giới (CPTPP, FTA, WTO, ..), trước thực trạng và yêu cầu của thị trường trong nước và quốc tế, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nhận thức lại vấn đề CSR, hiểu được những nghĩa vụ cơ bản nhất của CSR, mối liên hệ giữa CSR đến sự phát triển bền vững, đến khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường của bản thân doanh nghiệp và quốc gia. Thực tế việc triển khai thực hiện CSR tại các doanh nghiệp Việt Nam trong kinh doanh còn có những hạn chế nhất định. Nhằm đảm bảo cho phát triển bền vững, Liên Hợp Quốc đã đưa ra mười bẩy mục tiêu phát triển bền vững yêu cầu các quốc gia và vùng lãnh thổ cùng tham gia thực hiện. Tác giả bài viết tiến hành tổng hợp và đưa ra một số quan điểm đạo đức, trách nhiệm xã hội, mục tiêu phát triển bền vững cũng như mối quan hệ giữa chúng qua một số kết quả phân tích và ví dụ thực tế. Đồng thời xây dựng một nội dung quy trình thực hiện CSR trong chiến lược phát triển bền vững của doanh nghiệp có thể áp dụng. Từ khóa: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, người tiêu dùng, khách hàng, lợi ích của doanh nghiệp, hoạt động thương mại, phát triển bền vững, mục tiêu phát triển, bền vững, kinh doanh thương mại Abstract In the current context of integration, the issue of social responsibility and sustainable development is being promoted ... But in Vietnam, issues related to corporate social responsibility (CSR) have been seriously breached both in the degree of danger, in the size and frequency of the incident. In the international integration, under pressure to comply with the CRS in the agreements when joining the World Economic Organization (CPTPP, FTA, WTO), the situation and 547
  2. the requirements of the domestic and national markets. It requires enterprises to be aware of CSR issues, understand the most basic CSR obligations, the relationship between CSR and sustainable development, competitiveness and expansion of the market of business and nation. In fact, the implementation of CSR in Vietnamese enterprises in business has certain limitations. In order to ensure sustainable development, the United Nations has launched seventeen sustainable development goals that require countries and territories to join in. The author synthesizes and gives some views on ethics, social responsibility, sustainable development as well as the relationship between them. At the same time develop a content of CSR implementation process in the strategy of sustainable development of enterprises. Keywords: Corporate social responsibility, consumers, customers, business interests, commercial activities, sustainable development, goals, 1. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và phát triển bền vững 1.1 Các quan điểm về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) là gì? Cho đến nay đã có khá nhiều định nghĩa về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Coporate Social Responsibility - CSR) đã được đưa ra, khởi đầu là định nghĩa của McGuire (1963). Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là nói tới một doanh nghiệp không chỉ có nghĩa vụ về mặt kinh tế và chấp hành luật pháp, mà còn phải có những trách nhiệm nhất định khác đối với các đối tượng hữu quan (người lao động, khách hàng, chính phủ, chủ sở hữu, cộng đồng xã hội,..). Những trách nhiệm này cần phải được mở rộng và vượt lên trên những nghĩa vụ và bổn phận thông thường của doanh nghiệp. Những năm sau đó, nhiều học giả tiếp tục quan tâm nghiên cứu và đã đưa ra những quan điểm của mình để làm rõ hơn khái niệm về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Theo quan điểm của Friedman (1970), “Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp được thể hiện qua việc sử dụng các nguồn lực trong hoạt động kinh doanh để gia tăng lợi nhuận, nhưng miễn là doanh nghiệp đó thực hiện đúng luật, đúng nghĩa vụ pháp lý quy định, có trách nhiệm tuân thủ các Bộ luật quy đinh liên quan đến hoạt động kinh doanh tạo ra lợi nhuận”. Với quan điểm này, Friedman nhấn mạnh trách nhiệm về pháp lý mà các doanh nghiệp chỉ cần phải nghiêm chỉnh tuân thủ đó là trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, miễn là doanh nghiệp kinh doanh đúng luật. 548
  3. Quan điểm của Davis (1973); “Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp bao gồm không chỉ có sự đáp ứng và kết hợp tất cả các nhu cầu, yêu cầu về kinh tế, kỹ thuật và luật pháp, mà còn cần phải đạt được các mục tiêu xã hội cũng tốt như các mục tiêu kinh tế với mức độ cao hơn”. Davis đã có điểm nhấn yêu cầu về CSR với mức cao hơn so với Friedman là ngoài việc doanh nghiệp phải thực hiện đúng pháp luật còn phải đạt đến các hiệu quả và lợi ích mang tính xã hội, hiệu quả xã hội. Quan điểm của Ngân hàng Thế giới “CSR là cam kết của doanh nghiệp đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua việc tuân thủ chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền lợi lao động, trả lương công bằng, đào tạo và phát triển nhân viên, phát triển cộng đồng… theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội- bảo đảm cân bằng lợi ích các bên”. Theo quan điểm này, thì CSR là trách nhiệm hướng tới sự phát triển bền vững không chỉ cho doanh nghiệp mà còn cho cả xã hội, nhằm đảm bảo cân bằng lợi ích của các bên hữu quan cả trong hiện tại và tương lai. Cho đến nay đã có khá nhiều khái niệm liên quan đến trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Tuy nhiên, chưa có một định nghĩa nào được coi là hoàn hảo tuyệt đối, chính thống chung nhất cho mọi quan điểm, không khái niệm nào là sai, mà tùy theo mục đích nghiên cứu, cách hiểu, tiếp cận, cách áp dụng của mỗi nhà nghiên cứu, mỗi doanh nghiệp có thể là khác nhau, nhưng chúng đều có điểm chung là hướng tới việc thực hiện các nghĩa vụ hay trách nhiệm của mình để phát triển bền vững cho cả doanh nghiệp và xã hội Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tế, tác giả nhận thấy quan điểm dễ hiểu, dễ giải thích, dễ áp dụng, dễ thực hiện đối với mỗi cá nhân con người, mỗi doanh nghiệp hay tổ chức, hàm chứa tính học thuật cao, đó là quan điểm về CSR của Carroll (1991). Ông đưa ra “Doanh nghiệp như là một cơ thể sống, Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là thực hiện gánh vác các nghĩa vụ: nghĩa vụ kinh tế, pháp lý, đạo đức và nghĩa vụ nhân văn mà các bên liên quan đã áp đặt hay mong đợi, kỳ vọng lên các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp”. Carroll đã khái quát hoá các trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp thông qua thực hiện bốn nghĩa vụ mà doanh nghiệp phải có bổn phận gáng vác, các nghĩa vụ được đưa ra từ cấp độ thấp mang bắt buộc đến cấp độ cao mang tính tự nguyện, thiện nguyện nhân văn. Bốn nghĩa vụ như sau Tháp trách nhiệm xã hội của Carrol sắp xếp thứ tự ưu tiên các nghĩa vụ cần thực hiện 549
  4. 1) Trách nhiệm/ nghĩa vụ kinh tế (economic responsibility): Là nghĩa vụ đầu tiên doanh nghiệp có nghĩa vụ tạo ra lợi nhuận để tồn tại và phát triển, sản xuất và cung cấp ra sản phẩm/dịch vụ cho khách hàng đúng với chi phí và sự mong đợi của họ, đảm bảo lợi ích kinh tế một cách hài hòa cho các bên, tránh gây tổn thất kinh tế cho các bên. 2) Trách nhiệm/ nghĩa vụ luật pháp (legal responsibility): Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp phải có nghĩa vụ tuân thủ theo đúng các điều luật, luật pháp của một quốc gia, nội dung quy định trong các hiệp định của một hiệp hội và luật quốc tế đã quy định. Doanh nghiệp không được phép vi phạm. 3) Trách nhiệm/ nghĩa vụ đạo đức (ethical responsibility): Vượt trên các nghĩa vụ bắt buộc là kinh tế và pháp lý, thì doanh nghiệp phải đáp ứng được các kỳ vọng khác với mức độ cao hơn của người tiêu dùng, của xã hội, đó là những điều không được ghi trong luật, như tôn trọng quyền con người; chỉ làm những điều đúng và công bằng đem lại lợi ích cho xã hội,... Khía cạnh đạo đức của doanh nghiệp được thể hiện thông qua các thực hiện các nguyên tắc, quy tắc ứng xử, giá trị đạo đức được cộng đồng tôn trọng. 4) Trách nhiệm/ nghĩa vụ nhân đạo/ nhân văn: Đây là khía cạnh cao nhất, thể hiện sự hy sinh muốn đóng góp của doanh nghiệp cho sự phát triển bền vững của toàn xã hội, khía cạnh này được điều chỉnh bởi lương tâm. Sự mong muốn đóng góp sự phát triển chung có thể trên các phương diện: nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, san sẻ gánh nặng với chính phủ,... Doanh nghiệp phải đáp ứng được các kỳ vọng mong đợi từ phía xã hội để trở thành như là những công dân tốt, công dân mẫu mực với lòng bác ái cao cả; mức độ này rất ít doanh nghiệp đạt được. Hai nghĩa vụ đầu (1, 2) mang tính bắt buộc, đây là mức tối thiểu đòi hỏi các doanh nghiệp phải tuân thủ. Nếu doanh nghiệp không tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ mang tính pháp lý thì đồng nghĩa là doanh nghiệp đã vi phạm pháp luật, vi phạm các quy định, các tiêu chuẩn khi gia nhập vào một thị trường nào đó (các quy định về chất lượng sản phẩm, thông tin sản phẩm, chất bảo quản, chế độ lao động, chất thải môi trường...). Đồng nghĩa, doanh nghiệp sẽ không mở rộng được thị phần của mình, không thể tham gia vào các hiệp hội thương mại,. Hai nghĩa vụ tiếp theo (3, 4) mang tính tự nguyện, mức độ đạo đức và trách nhiệm, sự hy sinh và tinh thần thiện nguyện cho sự phát triển của cộng đồng xã hội ở mức độ cao hơn. 550
  5. Trên cơ sở tổng hợp nghiên cửu các khái niệm trên, tác giả đưa ra quan điểm “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ kinh tế, pháp lý, đạo đức và nhân văn với tất cả các bên hữu quan cả hiện tại và tương lai nhằm hướng tới sự phát triển bền vững cho tất cả các bên hữu quan. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là tăng những tác động tích cực và giảm những tác động tích cực đến các đối tượng hữu quan hướng tới sự phát triển bền vững” 1.2. Phát triển bền vững 1.2.1. Một số khái niệm về “Phát triển bền vững” Phát triển bền vững (PTBV) là một khái niệm nhằm định nghĩa một sự phát triển về mọi mặt trong xã hội hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự tiếp tục phát triển trong tương lai xa. Khái niệm này hiện đang là mục tiêu hướng tới nhiều quốc gia trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn hóa... riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất với quốc gia đó. Thuật ngữ "Phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học". Khái niệm PTBV được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới - WCED (Ủy ban Brundtland). Báo cáo ghi rõ: Phát triển bền vững là "sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai...", 551
  6. phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội... phải cùng nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: Kinh tế - Xã hội - Môi trường Theo Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB): "Phát triển bền vững là một loại hình phát triển mới, lồng ghép quá trình sản xuất với bảo tồn tài nguyên và nâng cao chất lượng môi trường. Phát triển bền vững cần phải đáp ứng các nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không phương hại đến khả năng của chúng ta đáp ứng các nhu cầu của thế hệ trong tương lai". Mặc dù đã có nhiều khái niệm về PTBV, mỗi khái niệm cũng nội hàm khác nhau, nhưng cùng hướng tới nhằm đảm bảo lợi ích các bên liên quan trong xã hội một cách vững bền, đảm bảo các mục tiêu phát triển không chỉ hiện tại mà cả tương lai. Vì vậy, theo quan điểm của tác giả khái niệm của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới – WCED làm cơ sơ phân tích. Bởi vì hàm ý đầy đủ đáp ứng những nhu cầu hiện tại (nhu cầu kinh tế, phát triển xã hội và môi trường trong sạch) của con người không những cho thời gian hiện tại và cho cả tương lai thế hệ mai sau. 1.2.2. Mục tiêu Phát triển Bền Vững Mục tiêu của PTBV là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên, đảm bảo với ba trụ cột của phát triển bền vững Theo quan điểm của UNESCO, điểm tối ưu cho sự phát triển của con người cần hướng tới là điểm giao thoa giữa ba mục tiêu riêng lẻ, ba trụ cột So sánh một số tiêu chí gữa phát triển truyền thống và mục tiêu phát triển bền vững 552
  7. Bảng 1: So sánh giữa phát triển và phát triển bền vững Tiêu chí Từ phát triển Đến phát triển bền vững Trụ cột Kinh tế (xã hội) Hài hòa kinh tế-xã hội-môi trường Trung tâm Của cải vật chất/hàng hóa Con người Điều kiện cơ bản Tài nguyên thiên nhiên Tài nguyên con người Chủ thể quản lý Một chủ thể (nhà nước) Nhiều chủ thể Quan hệ với tự nhiên Khai thác/cải tạo tự nhiên Bảo tồn/sử dụng hợp lý tự nhiên Giới Nam quyền Bình đẳng nam, nữ Tính chất Kinh tế truyền thống Kinh tế tri thức Cách tiếp cận Đơn ngành/liên ngành thấp Liên ngành cao Năm 2015 cũng đánh dấu những sự kiện quốc tế quan trọng khác nhằm hình thành chương trình phát triển nghị sự sau 2015: Hội nghị Thế giới lần thứ ba về Giảm thiểu Rủi ro Thiên tai ở Sendai vừa kết thúc, tiếp đến là Hội nghị Quốc tế lần thứ ba về Tài trợ cho Phát triển ở Addis Ababa vào tháng 7 và Hội nghị các bên lần thứ 21 tại Paris vào tháng 12. Đến nay đã có 17 Mục tiêu Phát triển Bền vững (Sustainable Development Goals - SDGs) mới đầy tham vọng được đề xuất, từ xoá bỏ nghèo đói, đến tăng trưởng và phát triển công bằng, bền vững; bảo vệ môi trường và thúc đẩy xã hội hoà bình và dành cho tất cả mọi người. Cùng với sự lãnh đạo chính phủ, Việt Nam và các quốc gia sẽ cần có mối quan hệ đối tác rộng rãi và bao trùm hơn với xã hội dân sự và khu vực tư nhân để có thể đạt được SDGs.Trong hiệp ước toàn cầu (2015) của Liên Hợp Quốc vì sự phát triển bền vững đưa ra các mục tiêu. 553
  8. 2. Một số nội dung và xu hướng gia tăng CSR trong kinh doanh thương mại hướng tới triển bền vững: 2.1. Hoạt động thương mại Theo Điều 45 Luật Thương mại liệt kê các loại hành vi thương mại gồm: x Mua bán hàng hóa x Đại diện cho thương nhân x Môi giới thương mại x Ủy thác mua bán hàng hóa x Đại lý mua bán hàng hóa x Gia công trong thương mại x Đấu giá hàng hóa x Đấu thầu hàng hóa x Dịch vụ giao nhận hàng hóa x Dịch vụ giám định hàng hóa x Khuyến mãi x Quảng cáo thương mại x Trưng bày giới thiệu hàng hóa x Hội chợ triển lãm thương mại Nghĩa vụ kinh tế trong kinh doanh thương mại là doanh nghiệp phải đảm bảo quyền lợi về kinh tế trong các giao dịch thương mại trên đối với khách hàng, như chính sách về giá, chấtlượng sản phẩm, độ an toàn vệ sinh khi sử dụng sản phẩm, chế độ bảo hành hàng hóa, khiếu nại, thông tin sản phẩm, nhãn mác hàng hóa xuất sứ hàng hóa, quảng cáo trung thực.. Trách nhiệm pháp lý, đảm bảo tính trung thực về sản phẩm của doanh nghiệp, doanh nghiệp cầnthực hiện đúng nghĩa vụ quy định của pháp luật, thực hiện đầy đủ, đúng trách nhiệm và nghĩa vụ đã được quy định trong các bộ luật liên quan. Mặc dù, hiện nay đã có những quy định tương đối rõ ràng, nhưng trên thực tế thì số vụ việc vi phạm trách nhiệm xã hội liên quan đến việc mua bán hàng hóa dịch vụ còn diễn ra khá phổ biến, việc 554
  9. xử lý các vi phạm này còn chưa triệt để và gặp nhiều khó khăn. Thông thường, khách hàng thường bị thua thiệt trong tranh chấp và tự mình rút ra kinh nghiệm cho các hoạt động mua bán tiếp theo, sự hỗ trợ bảo vệ quyền lợi kinh tế và pháp lý cho người tiêu dùng hiện nay là rất thấp. Hiệu quả hoạt động của các tổ chức bảo vệ quyền lợi của khách hàng trong hoạt động mua bán hiện nay là hết sức hạn chế, còn nhiều bất cập. Nguyên nhân dẫn đến điều này, một phần do nguồn lực của các cơ quan thẩm quyền còn khá hạn chế, tính chất phức tạp và nhỏ lẻ của các vụ việc, tính nghiêm minh của luật pháp, tinh thần thái độ thiếu trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong kinh doanh hiện nay, một số vi phạm CSR chủ yếu trong kinh doanh tại thị trường trong nước từ phía doanh nghiệp gây bức xúc trong xã hội liên quan đến các hành vi thương mại. x Không bảo đảm quyền lợi của khách hành về sản phẩm hàng hóa trong thời gian bảo hành. thực hiện không đầy đủ trách nhiệm bảo hành hàng hóa đã cam kết với người tiêu dùng, gây khó khăn cho khách hàng khi bảo hành, thực hiện với thái độ thiếu sự tôn trọng và hợp tác: x Dịch vụ chăm sóc khách hàng, hỗ trợ và giải quyết khiếu nại, tranh chấp trong mua bán còn rất hạn chế: x Trong hoạt động quảng cáo & tiếp thị khôngcông bằng vàtrung thực, thông tin chung chung mập mờ chỉ đem lại lợi ích cho doanh nghiệp. x Không ít các tổ chức đã ghi sai lệch các thông tin trên bao bì, thay đổi hạn sử dụng với sản phẩm đã hết hạn sử dụngnhằm đem lại lợi ích cho DN, đặc biệtkhông tuân các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm của các cơ quan chủ quản quy định đối với doanh nghiệp, Nội dung CSR trong hoạt động thương mại xét về mặt pháp lý đã được quy định rất rõ trong các bộ luật như Luật Bảo vệ Quyền lợi người tiêu dùng, Luât doanh nghiệp, Luật về cạnh tranh, Nghị định số: 99/2011/NĐ-CP.., đã quy định tương đối đầy đủ. Các doanh nghiệp cần nỗ lựcthực hiện đúng các nghĩa vụ kinh tế và pháp lý, pháp luật cần nghiêm minh hơn,…điều đó sẽgiúpdoanh nghiệp giảm thiểu các chi phí phát sinh do phải tiến hành bảo hành, sửa chữa nhiều lần, nâng cao uy tín qua việc đạt các tiêu chuẩn quy định về CSR, tăng sức cạnh tranh, tăng khả năng thâm nhập thị trường, góp phần cho sự phát triển bền vững của mỗi doanh nghiệp và nền kinh tế. 555
  10. 2.2. Xu hướng gia tăng CSR và lợi ích của trách nhiệm xã hội đóng góp cho sự phát triển bền vững Trong bối cảnh hiện nay, một trong những yêu cầu quan trọng đối với các doanh nghiệp khi tham gia hội nhập là phải tăng cường trách nhiệm xã hội của mình. Đây là một trong những vấn đề mà các doanh nghiệp Việt Nam thực sự chưa quan tâm, mức độ tiếp cận còn nhiều hạn chế, các doanh nghiệp cần nhận thức sớm, cần nhận thức rõ và sâu sắc những thách thức, rào cản với những quy định yêu cầu bắt buộc về CSR để vượt qua bức tường “vô hình” ngày càng “cao” này. Điều này cũng thể hiện rất rõ và đặc biệt được nhấn mạnh trong hiệp định đàm phán CPTPP, Hội nghị Bộ trưởng Thương mại 11 nước thành viên Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương. Mà một trong những điểm mới của TPP là yêu cầu rất cao hơn về trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp đối với sản phẩm dịch vụ cung cấp vì lợi ích của các bên hữu quan như đối với môi trường, người lao động, vì sự phát triển bền vững. Trong đó, CSR của doanh nghiệp phải thể hiện cụ thể các yêu cầu bắt buộc, các nghĩa vụ mang tính kinh tế, pháp lý, đạo đức, nhân văn bác ái, CSR trong CPTPP nhấn mạnh trên sáu mặt: 1) Bảo vệ môi trường; 2) Đóng góp cho cộng đồng xã hội; 3) Thực hiện tốt trách nhiệm với nhà cung cấp; 4) Bảo đảm lợi ích và an toàn cho người tiêu dùng; 5) Quan hệ tốt với người lao động; 6) Đảm bảo lợi ích cho cổ đông và người lao động trong doanh nghiệp. 556
  11. Hiệp định đã quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ đối với các bên, đối với cả bên ngoài là các vấn đề (1-4) và đối với bên trong doanh nghiệp là (5-6), trong đó liên quan trực tiếp đến các hoạt động kinh doanh thương mại là nghĩa vụ 3 và 4. Thấy rằng các quy định trong hiệp định TPP thể hiện đòi hỏi về mặt nghĩa vụ pháp lý khi tham gia là rất khắc nghiệt, rất chặt chẽ, rất rõ ràng, trong một số chương có nhiều nội dung mang đậm nội hàm CSR với tinh thần trách nhiệm xã hội, Chương 7 “Biện pháp vệ sinh và kiểm dịch” có các mục đòi hỏi về tinh thần CSR với các vấn đề chính trong kinh doanh thương mại là: x Bảo vệ sinh mạng và sức khỏe con người, động vật hoặc thực vật trong lãnh thổ của các Bên trong khi vẫn tạo điều kiện và mở rộng thương mại bằng cách sử dụng đa dạng các phương tiện để giải quyết và tìm cách các vấn đề vệ sinh và kiểm dịch; x Đảm bảo rằng các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch được thực hiện bởi một Bên không gây ra những trở ngại không công bằng trong thương mại; x Tăng cường tính minh bạch và sự hiểu biết về việc áp dụng các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch của mỗi bên; x Khuyến khích xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn và khuyến nghị, và thúc đẩy các Bên trong việc thực hiện vệ sinh và kiểm dịch. Bên cạnh đó có Chương 3 “Quy tắc xuất sứ và thủ tục về xuất sứ” với các quy định về nguồn gốc xuất sứ hàng hóa tham gia thị trường, các tiêu chuẩn quy định rất khắt khe, chặt chẽ liên quan đến CSR trong suốt quá trình sản xuất và cung ứng sản phẩm nhằm đảm bảo lợi ích khách hàng. Chương 14 “Thương mại điện tử” cũng đưa ra các quy định cụ thể trách nhiệm về bảo vệ quyền lợi khách hành qua mạng thông tin và bảo vệ thông tin cá nhân khách hàng, Chương 20 “Môi trường” quy định về trách nhiệm xã hội của mỗi bên, mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia khi gia nhập TPP phải tích cực tham gia bảo vệ môi trường toàn cầu. Trong hầu hết các Hiệp định ngày nay đều có nội dung đề cao vấn đề liên quan đến CSR của DN trong kinh doanh, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp cần phải tuân thủ thực hiện các nghĩa vụ pháp lý, thể hiện rõ nghĩa vụ và trách nhiệm xã hội của mỗi quốc gia hay mỗi tổ chức doanh nghiệp khi tham gia Hiệp hội để hội nhập. 557
  12. Quy định là như vậy, nhưng thực tế cho đến nay, không ít doanh nghiệp VN vẫn chưa thấy rõ, thấy đầy đủ các cơ hội và thách thức. Một trong những thách thức khi tham gia hội nhập tổ chức kinh tế chính là việc đầu tư và thực thi CSR của doanh nghiệp Việt Nam. Doanh nghiệp cần hiểu rằng, việc thực hiện CSR theo quy định trong kinh doanh thương mại sẽ góp phần đem lại những lợi ích cho doanh nghiệp: (1) Thực hiện CSR là xây dựng thương hiệu doanh nghiệp khi tham gia hội nhập: Thương hiệu doanh nghiệp tất yếu được vun đắp từ hoạt động CSR, gần nhất là trách nhiệm xã hội đối với khách hàng. Và từ CSR đã thực hiện được sẽ đóng góp hình thành có giá trị thương hiệu vô hình, từ giá trị vô hình sẽ đóng góp mạnh mẽ cho sự gia tăng giá trị hữu hình cho mỗi doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Thực chất tất cả nghĩa vụ thực hiện CSR là vì con người, vì chất lượng cuộc sống của con người. Trong đó, niềm tin của con người, lòng tin của người tiêu dùng đối với doanh nghiệp, được quyết định trên cơ sở chất lượng sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp đáp ứng cho khách hàng, điều này cũng phần nào được xây dựng hoặc cải thiện dựa trên chiến lược triển khai thực hiện CSR của doanh nghiệp. Kết quả, họ có thể thu được hiệu quả kinh doanh cao qua các chỉ số tài chính và các chỉ số khác (như: sự hài lòng của người tiêu dùng, niềm tin của người tiêu dùng, năng suất lao động, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận, doanh thu, tỷ suất lợi nhuận,…). (2) Thực hiện CSR là giải pháp phát triển bền vững cho doanh nghiệp khi tham gia hội nhập: Thời gian qua, tại VN việc thực hiện CSR còn tiềm ẩn nhiều yếu tố chưa bền vững, phần lớn còn mang tính đối phó nhỏ lẻ, chưa đi vào bản chất bên trong mang tính bền vững và cốt lõi trong hoạt động CSR, đã có rất nhiều hợp đồng cung cấp hàng hóa bị đối tác trả lại do không đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng quy định, ảnh hưởng rất lớn đến uy tin và khó khăn trong việc giữ vững thị trường (thủy sản, da giầy,..). Vì vậy, việc chủ động đẩy mạnh thực hiện CSR trong thời gian tới, theo hướng nâng cao chất lượng sản phẩm và dích vụ cung cấp, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng, an sinh xã hội của người lao động, và bảo vệ môi trường chung, thực hiện đầy đủ các quy định của hiệp định có thể là chìa khoá để các doanh nghiệp Việt Nam mở cánh cửa hội nhập TPP cũng như hội nhập các tổ chức kinh tế khác, để doanh nghiệp Việt Nam ngày càng phát triển vững chắc hơn. Vậy trong kinh doanh, việc thực hiện CSR là phải đảm bảo cân bằng lợi ích, đáp ứng mong muốn của các bên liên quan trong mối quan hệ bền vững, để thích ứng với sự biến động của môi 558
  13. trường kinh doanh toàn cầu ngày nay một trong những vấn đề quan trọng là phải tuân thủ những yêu cầu về CSR ngày càng cao. 2.3. Xu hướng quan điểm người tiêu dùng về CSR và một số tình huống nghiên cứu thực tế Trên thế giới thực tế đã chứng minh các doanh nghiệp nếu thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của mình sẽ đạt được một chứng chỉ quốc tế hoặc áp dụng những bộ Qui tắc ứng xử (Code of Conduct hay gọi tắt là CoC) có nhiều lợi thế trong kinh doanh. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, những người tiêu dùng, nhà đầu tư, nhà hoạch định chính sách và các tổ chức phi chính phủ trên toàn cầu ngày càng quan tâm hơn đến CSR. Những doanh nghiệp không thực hiện trách nhiệm xã hội có thể sẽ không còn cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế. Thực tế trên thế giới đã chỉ ra rằng, doanh nghiệp nào thực hiện tốt trách nhiệm xã hội thì lợi ích của họ không những không giảm đi mà còn tăng thêm. Những lợi ích mà doanh nghiệp thu được khi thực hiện trách nhiệm xã hội bao gồm giảm chi phí, tăng doanh thu, tăng giá trị thương hiệu, giảm tỷ lệ nhân viên bỏ việc, tang sự trung thành của nhân viên, tăng năng suất và thêm cơ hội tiếp cận những thị trường mới, Có thể dẫn ra đây một số ví dụ về lợi ích và xu hướng của người tiêu dung về việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Người tiêu dùng ngày càng trung thành và tin tưởng, tiêu dùng sản phẩm công ty có trách nhiệm xã hội cao. Báo cáo về Cam kết phát triển bền vững của Nielsen toàn cầu được thực hiện dựa trên kết quả khảo sát trực tuyến trên 60 quốc gia với hơn 30.000 đáp ứng tham gia trả lời. Các câu hỏi được đưa ra xoay quanh các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua hàng của người tiêu dùng như môi trường, bao bì, giá sản phẩm, tiếp thị và các yếu tố 559
  14. liên quan đến hữu cơ, sức khỏe mà các nhà sản xuất cam kết khi tung sản phẩm của họ ra thị trường. Báo cáo về Cam kết phát triển bền vững của Nielsen toàn cầu và Việt Nam cho thấy người tiêu dùng được khảo sát ở Việt Nam (86%) sẵn sàng chi trả cao hơn để mua sắm các sản phẩm/dịch vụ có cam kết về phát triển bền vững (so với 73% trong khảo sát năm 2014). Đây cũng là xu hướng chung của các quốc gia khác trong khu vực như Philippine (83%), Thái Lan (79%), Indonesia (78%); so sánh với con số của cả khu vực Đông Nam Á là 80%. Báo các các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định mua sản phẩm dịch vụ công ty cung cấp. Có thể chỉ dẫn việc thực hiện CSR góp phần tăng lợi ích cho doanh nghiệp và xã hội thể hiện qua nội dung và tình huống thực tế sau (1) Thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần giảm chi phí và tăng năng suất. Một doanh nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí sản xuất nhờ đầu tư, lắp đặt các thiết bị mới. Một số doanh nghiệp Hydro- Vacuum, Adamed,.. của Ba Lan đã tiết kiệm được hang chục triệu đô la Mỹ trong vòng 5 năm nhờ việc lắp đặt thiết bị mới, nhờ đó làm giảm 7% lượng nước sử dụng, 70% lượng chất thải nước và 87% chất thải khí. (2) Thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần tăng doanh thu. Như Công ty Hindustan Lever, một chi nhánh của tập đoàn Unilever tại Ấn Độ, vào đầu những năm 70 chỉ hoạt động được với 50% công suất do thiếu nguồn cung ứng sữa bò từ địa phương và do vậy, đã bị lỗ trầm trọng. Để giải quyết vấn đề này, công ty đã thiết lập một 560
  15. chương trình tổng thể giúp nông dân tăng sản lượng sữa bò. Chương trình này bao gồm đào tạo nông dân cách chăn nuôi, cải thiện cơ sở hạ tầng cơ bản và thành lập một ủy ban điều phối những nhà cung cấp địa phương. Nhờ đó, số lượng làng cung cấp sữa bò đã tăng từ 6 tới hơn 400, giúp cho công ty hoạt động hết công suất và đã trở thành một trong những chi nhánh kinh doanh lãi nhất tập đoàn. (3) Thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần nâng cao giá trị thương hiệu và uy tín của công ty. Uy tín giúp doanh nghiệp tăng doanh thu, hấp dẫn các đối tác, nhà đầu tư và người lao động. Chẳng hạn, hãng điện tử dân dụng Best Buy đã có chương trình tái chế sản phẩm; hãng cà phê nổi tiếng Starbucks đã và đang bắt tay vào các hoạt động cộng đồng; hãng nước khoáng nổi tiếng của Pháp Evian phân phối sản phẩm của mình trong những chai nước thân thiện với môi trường. Những tập đoàn đa quốc gia như The Body Shop (tập đoàn của Anh chuyên sản xuất các sản phẩm dưỡng da và tóc) và IKEA (tập đoàn kinh doanh đồ dùng nội thất của Thụy Điển) là những ví dụ điển hình. Cả hai công ty này đều nổi tiếng không chỉ vì các sản phẩm có chất lượng và giá cả hợp lý của mình, mà còn nổi tiếng là các doanh nghiệp có trách nhiệm đối với môi trường và xã hội. (4) Thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần thu hút nguồn lao động giỏi. Nguồn lao động giỏi, có năng lực là yếu tố quyết định năng suất và chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Có một thực tế là, ở các nước đang phát triển, nguồn nhân lực được đào tạo có chất lượng cao không nhiều. Vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp là làm thế nào thu hút, giữ chân họ và phát huy hết khả năng của họ trong hoạt động quản lý, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, việc thu hút và giữ được 561
  16. nhân viên có chuyên môn tốt là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, những doanh nghiệp trả lương thỏa đáng và công bằng, tạo cho nhân viên cơ hội đào tạo, có chế độ bảo hiểm y tế và môi trường làm việc sạch sẽ có khả năng thu hút và giữ được nguồn nhân lực có chất lượng cao. Tại Việt Nam, kết quả khảo sát gần đây do Viện Khoa học lao động và xã hội tiến hành trên 24 doanh nghiệp thuộc hai ngành Giầy da và Dệt may cho thấy, nhờ thực hiện các chương trình trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, doanh thu của các doanh nghiệp này đã tăng 25%, năng suất lao động cũng tăng từ 34,2 triệu đồng lên 35,8 triệu đồng/1 lao động/năm; tỷ lệ hàng xuất khẩu tăng từ 94% lên 97%. Bên cạnh hiệu quả kinh tế, các doanh nghiệp còn củng cố được uy tín với khách hàng, tạo được sự gắn bó và hài lòng của người lao động đối với doanh nghiệp, thu hút được lực lượng lao động có chuyên môn cao. Do nhận thức được tầm quan trọng và ích lợi của việc thực hiện trách nhiệm xã hội trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, một số doanh nghiệp lớn của Việt Nam, ngoài trách nhiệm đóng thuế cho nhà nước, đã đăng ký thực hiện trách nhiệm xã hội dưới dạng các cam kết đối với xã hội trong việc bảo vệ môi trường, với cộng đồng địa phương nơi doanh nghiệp đóng và với người lao động, như các công ty làm tốt CSR Vinamilk, Kinh Đô, FPT, Sabeco, Viettel, TH true milk. Tuy nhiên, bên cạnh đó, trong thời gian qua ở Việt Nam, khá nhiều doanh nghiệp đã không thực hiện một cách nghiêm túc trách nhiệm xã hội của mình. Điều đó thể hiện ở các hành vi gian lận trong kinh doanh, báo cáo tài chính, không bảo đảm an toàn lao động, sản xuất, kinh doanh hàng kém chất lượng, cố ý gây ô nhiễm môi trường. Điển hình là các vụ xả nước thải không qua xử lý gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng cho các dòng sông và cộng đồng dân cư của các Công ty Miwon, Formosa Hà Tĩnh, Công ty thuộc da Hào Dương, Công ty Giấy Việt Trì, công ty Hyundai Vinashin (Khánh Hòa), các vụ sản xuất thực phẩm chứa chất có hại cho sức khỏe con người, như nước tương có chứa chất 3-MCPD gây ung thư, bánh phở chứa phormol, thực phẩm chứa hàn the, sữa có chứa melamine. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp vi phạm các quy định pháp luật về lương bổng, chế độ bảo hiểm, vấn đề an toàn lao động cho người lao động cũng không còn là hiện tượng hiếm thấy, đã và đang gây bức xúc cho xã hội. Qua một số ví dụ thống kê đó khảng định rằng, thực hiện CSR có mối quan hệ trực tiếp với sự phát bền vững của bản thân doanh nghiệp và toàn xã hội với mô hình 562
  17. 3. Một số thực trạng và phải pháp về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam 3.1. Một số vấn đề thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ViệtNam Hiện nay, do nhận thức được tầm quan trọng và ích lợi của việc thực hiện trách nhiệm xã hội trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nhiều doanh nghiệp lớn của Việt Nam, đã chủ động đăng ký thực hiện trách nhiệm xã hội dưới dạng các cam kết nhằm đóng góp đối với xã hội trong việc bảo vệ môi trường, với cộng đồng địa phương, Chính phủ, người tiêu dùng và với người lao động nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp và xã hội. Các doanh nghiệp cũng đã nhận thức được rằng, nếu thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của mình sẽ đạt được một chứng chỉ quốc tế hoặc áp dụng những bộ Qui tắc ứng xử (Code of Conduct - CoC) sẽ đem lại những lợi ích lớn cho doanh nghiệp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, thì các đối tượng hữu quan là người tiêu dùng, nhà đầu tư, chính phủ, nhà hoạch định chính sách, cộng đồng xã hội và các tổ chức phi chính phủ trên toàn cầu ngày càng quan tâm hơn tới việc thực thi CSR liên quan đến quyền của người lao động, môi trường và phúc lợi cộng đồng... Nhiều doanh nghiệp đã nhận thức rõ điều đó nên r ấ t chủ động thực hiện CSR trong các hoạt động kinh doanh thương mại, luôn gắn vấn đề CSR trong chiên lược kinh doanh và quảng bá hình ảnh của mình, từ đó đã tạo được hình ảnh tốt đối với công chúng, xây dựng được lòng tin đối với khách hàng và xã hội qua việc đảm bảo chất lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ, đảm bỏa lợi ích cho khách hàng và xã hội, thực hiện đúng quy định của pháp luật, nhưcác tập đoàn Mai Linh, Tân Tạo, DuyLợi, KinhĐô, Vinamilk, Unilever Vietnam, Nguyễn Kim, Hải Hà, Honda Viet Nam,.... 563
  18. Tuy nhiên, bên cạnh đó, phải thừa nhận rằng, trong thời gian qua tại Việt Nam, cũng khá nhiều doanh nghiệp đã không thực hiện một cách nghiêm túc trách nhiệm xã hội của mình,hiện tượng gian lận, không trung thực trong kinh doanh thương mại: nhập hàng giả, hàng nhái kém chất lượng, hàng hóa không bảo đảm an toàn cho người sử dụng, nguồn gốc không rõ ràng, quảng cáo khuếch trương quá sự thật là khá phổ biến, công bố sai hoặc không minh bạch về nguồn gốc sản phẩm, tính năng công dụng, nhiều sản phẩm dịch vụ đưa thông tin trên bao bì sản phẩm sai lệch so với giá trị thực tế của sản phẩm, mà gần đây là vụ sữa dê Danlait, rượu Hà nội 29; thông tin tiếp thị mang tính lôi kéo dụ dỗ, lừa rối khách hàng (MB24,..), Liên kết Việt, nhiều hành vi gian dối như chỉnh sửa đồng hồ để ăn gian trong tính cước taxi, gắn chíp điện tử để gian lận xăng dầu, giá xe và giá xăng dầu lên xuống không khớp nhau về thời gian, liên quan đến việc xử lý chất thải ra môi trường như Vedan, vụ chôn thuốc trừ sâu của Công ty Nicotex Thanh Thái (Thanh Hoá):.... Riêng đối với mặt hàng Thủy sản, tại bốn thị trường lớn EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Úc thì Việt Nam là một trong ba nước đứng đầu về số vụ bị từ chối nhập khẩu sản phẩm thủy sản. Việt Nam đứng đầu trong số các nước xuất khẩu sang EU và Hoa Kỳ về số vụ từ chối nhập khẩu sản phẩm thủy sản trong giai đoạn 2002 đến 2010, lần lượt khoảng 160 và 380 vụ.Tại thị trường Nhật Bản, trong giai đoạn 2006-2010, Việt Nam cũng đứng đầu các nước xuất khẩu về số vụ từ chối nhập khẩu sản phẩm thủy sản, khoảng hơn 120 vụ. Thị trường Úc, Việt Nam đứng thứ 4, sau Indonesia, Ấn Độ và Trung Quốc về số vụ thủy sản bị trả về, gần 350 vụ. Nghiên cứu nguyên nhân từ chối nhập khẩu sản phẩm thủy sản của Việt Nam, nguyên nhân chủ yếu là vi phạm trách nhiệm xã hội về an toàn vệ sinh thực phẩm, dư lượng thuốc thú y và các chất gây ô nhiễm khác, sản phẩm thủy sản nhiễm khuẩn. Nhưng bên cạnh đó, để đưa hàng vào thị trường khó tính thì không đơn giản chỉ dừng lại ở chất lượng sản phẩm mà hàng nông, thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam có trường hợp bị trả về nguyên nhân không chỉ ở chất lượng của sản phẩm, mà còn do doanh nghiệp chưa hiểu đúng, hiểu đủ những yêu cầu, quy định liên quan đến đóng gói, mẫu mã, bao bì sản phẩm... Nguyên nhân do đâu dẫn đến tình trạng trên, mặc dù trong các Bộ luật, các Hiệp định cũng đã quy định rõ, với nội dung các doanh nghiệp được cạnh tranh hợp pháp trong hoạt động thương mại, đảm bảo có trách nhiệm xã hội trong các hoạt động kinh doanh. Trong hoạt động thương mại, doanh nghiệp phải có trách nhiệm bảo vệ lợi ích chính đáng của người sản xuất, người tiêu dùng, xã hội. Doanh nghiệp có nghĩa vụ 564
  19. thông tin đầy đủ, trung thực về hàng hoá và dịch vụ mà mình cung ứng, phải bảo đảm tính hợp pháp của hàng hoá bán ra. Bên cạnh đó, cấm doanh nghiệp thực hiện các hành vi thiếu tinh thần trách nhiệm xã hội gây thiệt hại cho các bên hữu quan mà đặc biệt là người tiêu dùng: Nghiêm cấm các hành vi vi phạm tinh thần trách nhiệm xã hội trong cạnh tranh gây tổn hại đến lợi ích quốc gia, vi phạm nghĩa vụ pháp lý trong tránh nhiệm xã hội. Mặc dù tại Việt Nam đã thành lập Tổ chức để bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùngtheo quy định của pháp luật. Trong trường hợp lợi ích của mình bị xâm phạm, người tiêu dùng có quyền khiếu nại doanh nghiệp đến cơ quan nhà nước, có thẩm quyền hoặc khởi kiện tại Toà án theo quy định của pháp luật. Nhưng gốc rễ vấn đề làđòi hỏi các doanh nghiệp phải tự giác, nghiêm chỉnh và có tinh thần trách nhiệm xã hội cao trong các hoạt động kinh doanh của mình, nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững cho bản thân doanh nghiệp và toàn xã hội, cơ bản quan trọng nhất làthực hiện đúng nghĩa vụ kinh tế và pháp lý, tăng lòng tin, uy tín cho doanh nghiệp, tăng sức cạnh tranh và thâm nhập thị trường trong môi trường kinh doanh hội nhập. 3.2. Một số kết quả điều tra nghiên cứu việc thực hiện và các nhận tố tác động đến CSR tại Việt Nam Theo báo cáo của Viện Kanen Châu Á thì tỷ lệ có báo cáo về CSR với tỷ lệ khá hạn chế, đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến các vi phạm về CSR của các doanh nghiệp Việt Nam có xu hướng gia tăng (bảng 2). Bảng 2: Tỷ lệ các doanh nghiệp có báo cáo về CSR Công ty của bạn có báo cáo về trách Quy mô công ty (%) Tổng nhiệm xã hội doanh nghiệp/hiệu suất Lớn Vừa Nhỏ cộng ổn định không? Có 63.6 54.2 35.7 47.6 Không 36.4 45.8 64.3 52.4 Tổng cộng 100(11) 100(24) 100(28) 100(63) (Nguồn Viện Kenan Châu Á) Kết quả cho thấy phạm vi CSR mà doanh nghiệp thực hiện với tỷ lệ khá thấp, đặc biệt hướng tới sự phát triển bền vững. Bài nghiên cứu chỉ ra rằng hầu hết các công ty thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp tập trung vào đáp ứng quy định chính phủ (69.8%), tiếp theo là vấn đề cộng đồng và phúc lợi. Tuy nhiên điều hành một doanh nghiệp phát triển bền vững được xếp ở vị trí thấp nhất (Bảng 3). Có thể các câu trả lời bị 565
  20. sai lệch bởi sự hiểu biết tương đối lớn về ba loại trách nhiệm xã hội doanh nghiệp đầu tiên so với chiến dịch trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp hay doanh nghiệp bền vững. Bảng 3 Phần trăm Phạm vi của trách nhiệm xã hội doanh nghiệp ■ Đáp ứng quy tắc chính phủ 69.8 % ■ Vấn đề cộng đồng 54.0% ■ Phúc lợi 50.8% ■ Chiến dịch trách nhiệm xã hội 47.6% ■ Doanh nghiệp bền vững 31.7% (Nguồn Viện Kenan Châu Á) Mức độ tỷ lệ ưu tiên trong CSR cũng có những khác nhau rõ rệt, các tiêu chí xu hướng thực hiện có tỷ lệ thấp, tiêu chí nâng cao nhận thức CSR là cao nhất đạt 45.8%, trong khi đó việc cải thiện báo cáo tăng tính bền vững cho công ty đạt thấm nhất là 3.4%. Qua bảng tổng hợp thấy rằng, các doanh nghiệp mới chỉ đề cao nâng cao nhận thức về CSR, việc thực hiện áp dụng vào thực tế còn rất thấp, chưa được đề cao, đây là vấn đề bất cập cần điều chỉnh (bảng 4) Bảng 4: Mức độ ưu tiên các vấn đề liên quan CSR Xếp hạng Vấn đề ưu tiên trong trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Tỉ lệ phần trăm 1 Xây dựng nhận thức về trách nhiệm xã hội 45.8 % 2 Giảm thiểu tác động môi trường 13.6 % 3 Cải thiện chuỗi chính sách cung ứng 11.9 % 4 Giải quyết vấn đề nhân quyền 8.5 % 5 Giải quyết vấn đề quan hệ lao động 6.8 % 5 Chống tham nhũng trong doanh nghiệp 6.8 % 5 Phát triển sản phẩm/dịch vụ với đặc tính xã hội, môi trường 6.8 % 6 Cải thiện báo cáo tính bền vững của công ty 3.4 % (Nguồn Viện Kenan Châu Á) 566
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2