intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Trải nghiệm xã hội của trẻ khuyết tật vận động tại gia đình một phân tích định tính từ quan điểm kiến tạo xã hội

Chia sẻ: Nguyễn Thị Thanh Triều | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

97
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết phân tích những trải nghiệm của trẻ khuyết tật tại gia đình. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trẻ khuyết tật vận động trải nghiệm những khó khăn về đi lại, học tập nhiều hơn về mặt thái độ, kì thị xã hội. Trên cơ sở các kết quả thu nhận được, bài viết này đề xuất một vài hàm ý về phát triển các hoạt động đào tạo, tập huấn và xây dựng mạng lưới dịch vụ xã hội cho trẻ khuyết tật tại gia đình trong bối cảnh Việt Nam hiện nay dựa trên các quan điểm về kiến tạo xã hội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Trải nghiệm xã hội của trẻ khuyết tật vận động tại gia đình một phân tích định tính từ quan điểm kiến tạo xã hội

See discussions, stats, and author profiles for this publication at: https://www.researchgate.net/publication/308611744<br /> <br /> Trải nghiệm xã hội của trẻ khuyết tật vận động tại gia đình: một phân tích<br /> định tính từ quan điểm kiến tạo xã hội<br /> Article · September 2016<br /> CITATIONS<br /> <br /> READS<br /> <br /> 0<br /> <br /> 423<br /> <br /> 1 author:<br /> Kham Tran<br /> Vietnam National University, Hanoi<br /> 42 PUBLICATIONS   26 CITATIONS   <br /> SEE PROFILE<br /> <br /> Some of the authors of this publication are also working on these related projects:<br /> <br /> Understanding Daily Life in Vietnam View project<br /> <br /> All content following this page was uploaded by Kham Tran on 26 September 2016.<br /> <br /> The user has requested enhancement of the downloaded file.<br /> <br /> Tr¶i nghiÖm x· héi cña trÎ<br /> khuyÕt tËt vËn ®éng t¹i gia ®×nh:<br /> mét ph©n tÝch ®Þnh tÝnh<br /> tõ quan ®iÓm kiÕn t¹o x· héi<br /> TS. TrÇn V¨n Kham<br /> Tr-êng §¹i häc Khoa häc X· héi vµ Nh©n v¨n, §¹i häc Quèc gia Hµ Néi.<br /> TÓM TẮT<br /> Kết quả nghiên cứu cho thấy, trẻ khuyết tật vận động trải nghiệm những khó khăn<br /> về đi lại, học tập nhiều hơn về mặt thái độ, kì thị xã hội. Để giải quyết những khó<br /> khăn như vậy, trẻ khuyết tật hướng đến tự thích ứng, tạo dựng các mối quan hệ trong<br /> gia đình hơn là những đòi hỏi thay đổi về điều kiện cơ sở vật chất, các hình thức dịch<br /> vụ chăm sóc. Trẻ thể hiện sự hài lòng với điều kiện sống của mình. Trên cơ sở các kết<br /> quả thu nhận được, bài viết này đề xuất một vài hàm ý về phát triển các hoạt động<br /> đào tạo, tập huấn và xây dựng mạng lưới dịch vụ xã hội cho trẻ khuyết tật tại gia đình<br /> trong bối cảnh Việt Nam hiện nay dựa trên các quan điểm về kiến tạo xã hội.<br /> Từ khóa: Trẻ khuyết tật; Vận động; Hà Nội; Trải nghiệm; Hòa nhập xã hội.<br /> Ngày nhận bài: 15/3/2016; Ngày duyệt đăng bài: 25/8/2016.<br /> <br /> 1. Đặt vấn đề<br /> Việt Nam là quốc gia thứ hai trên thế giới kí cam kết thực hiện Công ước<br /> về quyền trẻ em (UNICEF, 1989) và là một trong những quốc gia đầu tiên kí Công<br /> ước về quyền của người khuyết tật (UN, 2006). Điều đó thể hiện Việt Nam, mặc<br /> dù còn những khó khăn về các điều kiện kinh tế nhưng đã nỗ lực để tạo những<br /> điều kiện tốt nhất cho trẻ em nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng. Hiện có<br /> khoảng 7 triệu người khuyết tật ở Việt Nam, trong đó, trẻ em chiếm khoảng<br /> 28,9% (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2015). Trong bài viết này, các nội dung được<br /> đề cập liên quan đến cách nhìn của cha mẹ, anh chị em của trẻ khuyết tật về sự<br /> trải nghiệm xã hội của trẻ khuyết tật từ cuộc sống trong gia đình ra bên ngoài<br /> xã hội. Câu hỏi nghiên cứu bao gồm các nội dung sau: Đâu là những khó khăn<br /> trong cuộc sống tại gia đình của trẻ khuyết tật vận động? Những cách thức trẻ<br /> khuyết tật vận động giải quyết những khó khăn đó? Trong việc giải quyết những<br /> T¹p chÝ t©m lý häc, Sè 9 (210), 9 - 2016<br /> <br /> khó khăn như vậy, đâu là những trải nghiệm của trẻ khuyết tật vận động tại gia<br /> đình. Hiểu và đánh giá về sự trải nghiệm này chủ yếu dựa trên quan điểm của<br /> chính người trong cuộc: Cha mẹ trẻ khuyết tật và trẻ khuyết tật.<br /> Để trả lời các câu hỏi nêu trên, chúng tôi dựa trên thông tin thu được<br /> trong nghiên cứu về trải nghiệm của trẻ khuyết tật vận động tại Hà Nội, được<br /> triển khai từ năm 2014 với sự tham gia của 13 trẻ khuyết tật vận động ở độ tuổi<br /> 12 - 16, có cơ hội đến trường học tập (trong đó có 4 trẻ em đang sống thường<br /> nhật tại trung tâm bảo trợ xã hội) và 4 cha mẹ, anh chị em của trẻ khuyết tật trên<br /> địa bàn quận Thanh Xuân và Hai Bà Trưng, Hà Nội. Mẫu nghiên cứu được chọn<br /> theo cách ngẫu nhiên dựa trên danh sách trẻ đang học tập tại các trường hòa<br /> nhập trên địa bàn hai quận này. Các thông tin thu được được đánh giá, hiểu và<br /> nhận diện qua kỹ thuật phân tích nội dung (content analysis) với các chủ đề<br /> được tóm lược dựa trên câu hỏi nghiên cứu đã được đề cập. Với cách phân tích<br /> định tính như vậy, vấn đề trải nghiệm của trẻ khuyết tật được hiểu qua cách<br /> tiếp cận về kiến tạo luận xã hội (social constructionism) như là một định hướng<br /> lý thuyết cho nhận diện và giải thích về trải nghiệm cuộc sống của trẻ khuyết<br /> tật vận động tại gia đình.<br /> 2. Kiến tạo luận xã hội: nền tảng lý luận cho nghiên cứu về trải<br /> nghiệm xã hội của trẻ khuyết tật<br /> Kiến tạo luận xã hội (social constructionism) thực hiện chức năng như<br /> nền tảng nhận thức luận và được nhận diện như là một lý thuyết trong nghiên<br /> cứu này nhằm khám phá trải nghiệm của trẻ khuyết tật trong cuộc sống thường<br /> nhật từ bối cảnh gia đình. Thuật ngữ kiến tạo luận xã hội đề cập đến nhiều hoạt<br /> động học thuật nhằm phân tích nguồn gốc của tri thức và ý nghĩa về hiện thực<br /> cuộc sống, được biểu đạt, lý giải và hiểu thông qua các mối quan hệ xã hội và<br /> các tương tác xã hội mà các chủ thể xã hội của bối cảnh đó thực hiện. Kiến tạo<br /> luận xã hội được phát triển từ ba xu hướng lý luận: phê phán tích cực hay lý<br /> luận của phong trào diễn ngôn (discourse analysis); phê bình văn học - tu từ về<br /> chủ nghĩa hiện thực; các quan điểm về phê phán xã hội (Given, 2008, tr. 816).<br /> Kiến tạo luận xã hội được nhận biết như một trong những luận điểm lý thuyết<br /> nổi trội trong khoa học xã hội cuối thế kỷ trước (Helt, 2001). Những quan điểm<br /> chính của kiến tạo luận xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với lý luận tạo dựng<br /> (constructivism) - một hệ thống các quan điểm về cách thức cá nhân tạo dựng<br /> tri thức trong mối quan hệ chặt chẽ với quá trình nhận thức và vô thức của<br /> chính chủ thể nhận thức (Wicker, 1984; Alcoff, 1996). Trong khi đó, kiến tạo xã<br /> hội hàm ý việc hình thành nhận thức và tri thức của một cá nhân do những yêu<br /> cầu của điều kiện sống bên ngoài xã hội, của bối cảnh xã hội (Young, 1996;<br /> Goodley, 2011). Cách hiểu về lý luận tạo dựng (constructivism) nhấn mạnh<br /> đến việc các cá nhân tạo dựng ý nghĩa từ tri thức ở khía cạnh tâm lý xã hội còn<br /> T¹p chÝ t©m lý häc, Sè 9 (210), 9 - 2016<br /> <br /> kiến tạo luận xã hội đề cập đến sự phát triển các hiện tượng trong mối quan hệ<br /> với bối cảnh xã hội (kiến tạo có tính xã hội) (Berger và Luckmann, 1966; Gergen,<br /> 1985; Young, 1996; Burr, 2007; Trần Văn Kham, 2013).<br /> Kiến tạo luận xã hội quan tâm đến cách con người tạo dựng cái hiện thực<br /> cuộc sống mà họ đã nhận thức ra sao. Đó chính là quan điểm cơ bản được nhận<br /> diện trong nhiều nghiên cứu triết học truyền thống. Với tư cách là một cách tiếp<br /> cận, quan điểm về con người tạo dựng cái hiện thực cuộc sống được hiện diện<br /> đầu tiên trong công trình của Immanuel Kant, sau đó là trong nghiên cứu của Karl<br /> Mannheim và nhiều học giả khác (Holstein và Miller, 1993; Lock và Strong, 2010).<br /> Trong thế kỷ XX, quan điểm về kiến tạo luận xã hội được nhận diện ở các<br /> chuyên ngành Tâm lý học, Xã hội học và các nghiên cứu khác liên quan đến<br /> khoa học, công nghệ và xã hội (Crotty, 1998; Given, 2008; Harris, 2010). Kiến<br /> tạo luận xã hội cũng có những vị trí quan trọng trong các lĩnh vực khoa học xã hội<br /> và thuộc về các làn sóng hậu hiện đại hay lý luận hiện thực mới. Những quan<br /> điểm trong lý luận này được đưa ra đều nhấn mạnh đến cách thức tri thức được<br /> kiến tạo, tạo dựng trong các bối cảnh xã hội ra sao (Trần Văn Kham, 2013).<br /> Ngôn ngữ, được xem là công cụ giao tiếp, là một phần của quá trình kiến<br /> tạo xã hội. Đó chính là phương tiện để trao đổi quan điểm, thông tin và tạo dựng<br /> ý nghĩa về các mối quan hệ xã hội (Burr, 2007, tr. 8). Quan điểm như vậy được<br /> lý giải như sau: “Khi cá nhân trao đổi với nhau, cách hiểu về cuộc sống được tạo<br /> dựng” (Eldly, 2001, tr. 437); “Việc trao đổi thành lời kéo theo việc tạo dựng và<br /> hình thành những đánh giá hay những câu chuyện cụ thể về cái hiện thực cuộc<br /> sống” (Bricher, 2000; Blundor và Greene, 2008). Do đó, việc sử dụng ngôn từ<br /> và nhấn mạnh đến phân tích câu chuyện, lời nói được xem là những định hướng<br /> được sử dụng trong nghiên cứu này để hiểu về ý nghĩa của bối cảnh và vấn đề<br /> trải nghiệm, hòa nhập xã hội của trẻ khuyết tật.<br /> Với người khuyết tật nói chung, trẻ khuyết tật nói riêng, việc bị gán nhãn<br /> và sử dụng thuật ngữ về tên gọi của các dạng tật (như què, mù, điếc, câm…)<br /> cũng có những tác động tiêu cực về mặt xã hội. Cách gán nhãn, gọi tên như<br /> vậy cũng biểu đạt thái độ và cách nhìn tiêu cực của xã hội đối với người khuyết<br /> tật trong cuộc sống thường nhật (Bricher, 2000; Blundor và Greene, 2008, tr. 251).<br /> Cách nhìn như vậy được phát triển thông qua ngôn ngữ và các tương tác xã hội<br /> để hiểu hơn về mối quan hệ giữa cá nhân và nhóm, cá nhân và các bối cảnh<br /> sống (Tezri, 2004; Burr, 2007). Từ cách hiểu gán nhãn như vậy, nghiên cứu<br /> này nhìn nhận cách thức nhận diện và hiểu sự trải nghiệm của trẻ khuyết tật<br /> vận động theo các bối cảnh cụ thể khác nhau, phù hợp với các điều kiện thực<br /> tại của cuộc sống. Ở đó, gia đình luôn được nhìn nhận là điều kiện sống sơ cấp,<br /> ban đầu, quan trọng và rất hữu ích cho sự phát triển cá nhân trẻ khuyết tật<br /> trong giai đoạn sau này của cuộc sống.<br /> T¹p chÝ t©m lý häc, Sè 9 (210), 9 - 2016<br /> <br /> 3. Trải nghiệm những khó khăn ở gia đình<br /> Trong các cuộc phỏng vấn, trẻ khuyết tật được hỏi “Những điều khó<br /> khăn nhất khi sống ở gia đình là gì?” và các câu hỏi liên quan đến cha mẹ và anh<br /> chị em của trẻ khuyết tật như “Đâu là những khó khăn nhất mà anh chị em của<br /> trẻ khuyết tật có trong cuộc sống tại gia đình?”. Giống như những phát hiện về<br /> trải nghiệm của trẻ khuyết tật ở bối cảnh trường học (Trần Văn Kham, 2016),<br /> những phản hồi rõ ràng nhất của trẻ khuyết tật liên quan đến những khó khăn<br /> trong việc đi lại, học tập và tự làm các công việc cho bản thân. Không có<br /> những phản hồi liên quan đến thái độ tiêu cực từ các thành viên khác trong gia<br /> đình đối với trẻ khuyết tật.<br /> Trong các cuộc phỏng vấn, các câu hỏi về sự bất tiện trong cuộc sống<br /> gia đình được đưa ra một cách trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng thông tin được trẻ<br /> khuyết tật cung cấp, trả lời các câu hỏi luôn bị hạn chế. Hầu hết trẻ khuyết tật<br /> không nghĩ hay không đề cập đến những vấn đề khó khăn trong cuộc sống gia<br /> đình, do đó các thông tin được thu thập chủ yếu từ cha mẹ và anh chị em của<br /> trẻ khuyết tật. Chỉ có 2 trong số 13 trẻ khuyết tật đề cập đến những khó khăn<br /> trong việc đi lại và đi ra bên ngoài chơi (T.V.T., trẻ khuyết tật). Một số trẻ<br /> khuyết tật khác đề cập đến việc chưa bao giờ gặp những khó khăn trong cuộc<br /> sống (B.V.T., trẻ khuyết tật) và cho rằng mọi thành viên đều quan tâm nhiều<br /> đến mình và tạo mọi điều kiện cho cuộc sống của mình ở gia đình. Từ quan<br /> điểm như vậy, gia đình được xem là nơi tốt nhất cho trẻ khuyết tật.<br /> Có 4/4 phản hồi từ cha mẹ, anh chị em của trẻ khuyết tật cho thấy, những<br /> khó khăn mà trẻ em gặp phải trong trải nghiệm chủ yếu là trong đi lại và học<br /> tập, mặc dù vậy, không có phản hồi nào cho thấy những khó khăn mà trẻ phải<br /> đối mặt trong cuộc sống gia đình ở khía cạnh thái độ kì thị từ các thành viên trong<br /> gia đình. Theo cha mẹ và anh chị em của trẻ khuyết tật, những vấn đề liên quan<br /> đến đi lại, tự tin, học tập ở gia đình, vui chơi với các thành viên khác trong gia<br /> đình và một vài khía cạnh liên quan đến giao tiếp với các cá nhân khác là<br /> những khó khăn mà trẻ khuyết tật phải đương đầu nhiều nhất trong cuộc sống<br /> gia đình.<br /> Hầu hết các phản hồi đề cập đến khó khăn của trẻ khuyết tật trong việc<br /> đi lại, đặc biệt ở trong các tình huống mà trẻ khuyết tật có sử dụng xe lăn. Điều<br /> kiện nhà ở tại Hà Nội hiện nay cũng như các điều kiện cơ sở hạ tầng không<br /> phải dễ tiếp cận cho người khuyết tật nói chung, trẻ khuyết tật vận động nói<br /> riêng. Từ nghiên cứu gần đây, các phản hồi cho thấy người khuyết tật cố gắng<br /> để học cách thích ứng những rào cản, hạn chế đó hơn là mong muốn phải tạo<br /> sự thay đổi ngay. Hầu hết những khó khăn mà trẻ khuyết tật đối mặt và trải<br /> nghiệm trong cuộc sống gia đình cũng như ở bên ngoài cộng đồng, trường học<br /> chính là việc đi lại và tự chăm sóc bản thân.<br /> <br /> T¹p chÝ t©m lý häc, Sè 9 (210), 9 - 2016<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2