See discussions, stats, and author profiles for this publication at: https://www.researchgate.net/publication/308611744<br />
<br />
Trải nghiệm xã hội của trẻ khuyết tật vận động tại gia đình: một phân tích<br />
định tính từ quan điểm kiến tạo xã hội<br />
Article · September 2016<br />
CITATIONS<br />
<br />
READS<br />
<br />
0<br />
<br />
423<br />
<br />
1 author:<br />
Kham Tran<br />
Vietnam National University, Hanoi<br />
42 PUBLICATIONS 26 CITATIONS <br />
SEE PROFILE<br />
<br />
Some of the authors of this publication are also working on these related projects:<br />
<br />
Understanding Daily Life in Vietnam View project<br />
<br />
All content following this page was uploaded by Kham Tran on 26 September 2016.<br />
<br />
The user has requested enhancement of the downloaded file.<br />
<br />
Tr¶i nghiÖm x· héi cña trÎ<br />
khuyÕt tËt vËn ®éng t¹i gia ®×nh:<br />
mét ph©n tÝch ®Þnh tÝnh<br />
tõ quan ®iÓm kiÕn t¹o x· héi<br />
TS. TrÇn V¨n Kham<br />
Tr-êng §¹i häc Khoa häc X· héi vµ Nh©n v¨n, §¹i häc Quèc gia Hµ Néi.<br />
TÓM TẮT<br />
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trẻ khuyết tật vận động trải nghiệm những khó khăn<br />
về đi lại, học tập nhiều hơn về mặt thái độ, kì thị xã hội. Để giải quyết những khó<br />
khăn như vậy, trẻ khuyết tật hướng đến tự thích ứng, tạo dựng các mối quan hệ trong<br />
gia đình hơn là những đòi hỏi thay đổi về điều kiện cơ sở vật chất, các hình thức dịch<br />
vụ chăm sóc. Trẻ thể hiện sự hài lòng với điều kiện sống của mình. Trên cơ sở các kết<br />
quả thu nhận được, bài viết này đề xuất một vài hàm ý về phát triển các hoạt động<br />
đào tạo, tập huấn và xây dựng mạng lưới dịch vụ xã hội cho trẻ khuyết tật tại gia đình<br />
trong bối cảnh Việt Nam hiện nay dựa trên các quan điểm về kiến tạo xã hội.<br />
Từ khóa: Trẻ khuyết tật; Vận động; Hà Nội; Trải nghiệm; Hòa nhập xã hội.<br />
Ngày nhận bài: 15/3/2016; Ngày duyệt đăng bài: 25/8/2016.<br />
<br />
1. Đặt vấn đề<br />
Việt Nam là quốc gia thứ hai trên thế giới kí cam kết thực hiện Công ước<br />
về quyền trẻ em (UNICEF, 1989) và là một trong những quốc gia đầu tiên kí Công<br />
ước về quyền của người khuyết tật (UN, 2006). Điều đó thể hiện Việt Nam, mặc<br />
dù còn những khó khăn về các điều kiện kinh tế nhưng đã nỗ lực để tạo những<br />
điều kiện tốt nhất cho trẻ em nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng. Hiện có<br />
khoảng 7 triệu người khuyết tật ở Việt Nam, trong đó, trẻ em chiếm khoảng<br />
28,9% (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2015). Trong bài viết này, các nội dung được<br />
đề cập liên quan đến cách nhìn của cha mẹ, anh chị em của trẻ khuyết tật về sự<br />
trải nghiệm xã hội của trẻ khuyết tật từ cuộc sống trong gia đình ra bên ngoài<br />
xã hội. Câu hỏi nghiên cứu bao gồm các nội dung sau: Đâu là những khó khăn<br />
trong cuộc sống tại gia đình của trẻ khuyết tật vận động? Những cách thức trẻ<br />
khuyết tật vận động giải quyết những khó khăn đó? Trong việc giải quyết những<br />
T¹p chÝ t©m lý häc, Sè 9 (210), 9 - 2016<br />
<br />
khó khăn như vậy, đâu là những trải nghiệm của trẻ khuyết tật vận động tại gia<br />
đình. Hiểu và đánh giá về sự trải nghiệm này chủ yếu dựa trên quan điểm của<br />
chính người trong cuộc: Cha mẹ trẻ khuyết tật và trẻ khuyết tật.<br />
Để trả lời các câu hỏi nêu trên, chúng tôi dựa trên thông tin thu được<br />
trong nghiên cứu về trải nghiệm của trẻ khuyết tật vận động tại Hà Nội, được<br />
triển khai từ năm 2014 với sự tham gia của 13 trẻ khuyết tật vận động ở độ tuổi<br />
12 - 16, có cơ hội đến trường học tập (trong đó có 4 trẻ em đang sống thường<br />
nhật tại trung tâm bảo trợ xã hội) và 4 cha mẹ, anh chị em của trẻ khuyết tật trên<br />
địa bàn quận Thanh Xuân và Hai Bà Trưng, Hà Nội. Mẫu nghiên cứu được chọn<br />
theo cách ngẫu nhiên dựa trên danh sách trẻ đang học tập tại các trường hòa<br />
nhập trên địa bàn hai quận này. Các thông tin thu được được đánh giá, hiểu và<br />
nhận diện qua kỹ thuật phân tích nội dung (content analysis) với các chủ đề<br />
được tóm lược dựa trên câu hỏi nghiên cứu đã được đề cập. Với cách phân tích<br />
định tính như vậy, vấn đề trải nghiệm của trẻ khuyết tật được hiểu qua cách<br />
tiếp cận về kiến tạo luận xã hội (social constructionism) như là một định hướng<br />
lý thuyết cho nhận diện và giải thích về trải nghiệm cuộc sống của trẻ khuyết<br />
tật vận động tại gia đình.<br />
2. Kiến tạo luận xã hội: nền tảng lý luận cho nghiên cứu về trải<br />
nghiệm xã hội của trẻ khuyết tật<br />
Kiến tạo luận xã hội (social constructionism) thực hiện chức năng như<br />
nền tảng nhận thức luận và được nhận diện như là một lý thuyết trong nghiên<br />
cứu này nhằm khám phá trải nghiệm của trẻ khuyết tật trong cuộc sống thường<br />
nhật từ bối cảnh gia đình. Thuật ngữ kiến tạo luận xã hội đề cập đến nhiều hoạt<br />
động học thuật nhằm phân tích nguồn gốc của tri thức và ý nghĩa về hiện thực<br />
cuộc sống, được biểu đạt, lý giải và hiểu thông qua các mối quan hệ xã hội và<br />
các tương tác xã hội mà các chủ thể xã hội của bối cảnh đó thực hiện. Kiến tạo<br />
luận xã hội được phát triển từ ba xu hướng lý luận: phê phán tích cực hay lý<br />
luận của phong trào diễn ngôn (discourse analysis); phê bình văn học - tu từ về<br />
chủ nghĩa hiện thực; các quan điểm về phê phán xã hội (Given, 2008, tr. 816).<br />
Kiến tạo luận xã hội được nhận biết như một trong những luận điểm lý thuyết<br />
nổi trội trong khoa học xã hội cuối thế kỷ trước (Helt, 2001). Những quan điểm<br />
chính của kiến tạo luận xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với lý luận tạo dựng<br />
(constructivism) - một hệ thống các quan điểm về cách thức cá nhân tạo dựng<br />
tri thức trong mối quan hệ chặt chẽ với quá trình nhận thức và vô thức của<br />
chính chủ thể nhận thức (Wicker, 1984; Alcoff, 1996). Trong khi đó, kiến tạo xã<br />
hội hàm ý việc hình thành nhận thức và tri thức của một cá nhân do những yêu<br />
cầu của điều kiện sống bên ngoài xã hội, của bối cảnh xã hội (Young, 1996;<br />
Goodley, 2011). Cách hiểu về lý luận tạo dựng (constructivism) nhấn mạnh<br />
đến việc các cá nhân tạo dựng ý nghĩa từ tri thức ở khía cạnh tâm lý xã hội còn<br />
T¹p chÝ t©m lý häc, Sè 9 (210), 9 - 2016<br />
<br />
kiến tạo luận xã hội đề cập đến sự phát triển các hiện tượng trong mối quan hệ<br />
với bối cảnh xã hội (kiến tạo có tính xã hội) (Berger và Luckmann, 1966; Gergen,<br />
1985; Young, 1996; Burr, 2007; Trần Văn Kham, 2013).<br />
Kiến tạo luận xã hội quan tâm đến cách con người tạo dựng cái hiện thực<br />
cuộc sống mà họ đã nhận thức ra sao. Đó chính là quan điểm cơ bản được nhận<br />
diện trong nhiều nghiên cứu triết học truyền thống. Với tư cách là một cách tiếp<br />
cận, quan điểm về con người tạo dựng cái hiện thực cuộc sống được hiện diện<br />
đầu tiên trong công trình của Immanuel Kant, sau đó là trong nghiên cứu của Karl<br />
Mannheim và nhiều học giả khác (Holstein và Miller, 1993; Lock và Strong, 2010).<br />
Trong thế kỷ XX, quan điểm về kiến tạo luận xã hội được nhận diện ở các<br />
chuyên ngành Tâm lý học, Xã hội học và các nghiên cứu khác liên quan đến<br />
khoa học, công nghệ và xã hội (Crotty, 1998; Given, 2008; Harris, 2010). Kiến<br />
tạo luận xã hội cũng có những vị trí quan trọng trong các lĩnh vực khoa học xã hội<br />
và thuộc về các làn sóng hậu hiện đại hay lý luận hiện thực mới. Những quan<br />
điểm trong lý luận này được đưa ra đều nhấn mạnh đến cách thức tri thức được<br />
kiến tạo, tạo dựng trong các bối cảnh xã hội ra sao (Trần Văn Kham, 2013).<br />
Ngôn ngữ, được xem là công cụ giao tiếp, là một phần của quá trình kiến<br />
tạo xã hội. Đó chính là phương tiện để trao đổi quan điểm, thông tin và tạo dựng<br />
ý nghĩa về các mối quan hệ xã hội (Burr, 2007, tr. 8). Quan điểm như vậy được<br />
lý giải như sau: “Khi cá nhân trao đổi với nhau, cách hiểu về cuộc sống được tạo<br />
dựng” (Eldly, 2001, tr. 437); “Việc trao đổi thành lời kéo theo việc tạo dựng và<br />
hình thành những đánh giá hay những câu chuyện cụ thể về cái hiện thực cuộc<br />
sống” (Bricher, 2000; Blundor và Greene, 2008). Do đó, việc sử dụng ngôn từ<br />
và nhấn mạnh đến phân tích câu chuyện, lời nói được xem là những định hướng<br />
được sử dụng trong nghiên cứu này để hiểu về ý nghĩa của bối cảnh và vấn đề<br />
trải nghiệm, hòa nhập xã hội của trẻ khuyết tật.<br />
Với người khuyết tật nói chung, trẻ khuyết tật nói riêng, việc bị gán nhãn<br />
và sử dụng thuật ngữ về tên gọi của các dạng tật (như què, mù, điếc, câm…)<br />
cũng có những tác động tiêu cực về mặt xã hội. Cách gán nhãn, gọi tên như<br />
vậy cũng biểu đạt thái độ và cách nhìn tiêu cực của xã hội đối với người khuyết<br />
tật trong cuộc sống thường nhật (Bricher, 2000; Blundor và Greene, 2008, tr. 251).<br />
Cách nhìn như vậy được phát triển thông qua ngôn ngữ và các tương tác xã hội<br />
để hiểu hơn về mối quan hệ giữa cá nhân và nhóm, cá nhân và các bối cảnh<br />
sống (Tezri, 2004; Burr, 2007). Từ cách hiểu gán nhãn như vậy, nghiên cứu<br />
này nhìn nhận cách thức nhận diện và hiểu sự trải nghiệm của trẻ khuyết tật<br />
vận động theo các bối cảnh cụ thể khác nhau, phù hợp với các điều kiện thực<br />
tại của cuộc sống. Ở đó, gia đình luôn được nhìn nhận là điều kiện sống sơ cấp,<br />
ban đầu, quan trọng và rất hữu ích cho sự phát triển cá nhân trẻ khuyết tật<br />
trong giai đoạn sau này của cuộc sống.<br />
T¹p chÝ t©m lý häc, Sè 9 (210), 9 - 2016<br />
<br />
3. Trải nghiệm những khó khăn ở gia đình<br />
Trong các cuộc phỏng vấn, trẻ khuyết tật được hỏi “Những điều khó<br />
khăn nhất khi sống ở gia đình là gì?” và các câu hỏi liên quan đến cha mẹ và anh<br />
chị em của trẻ khuyết tật như “Đâu là những khó khăn nhất mà anh chị em của<br />
trẻ khuyết tật có trong cuộc sống tại gia đình?”. Giống như những phát hiện về<br />
trải nghiệm của trẻ khuyết tật ở bối cảnh trường học (Trần Văn Kham, 2016),<br />
những phản hồi rõ ràng nhất của trẻ khuyết tật liên quan đến những khó khăn<br />
trong việc đi lại, học tập và tự làm các công việc cho bản thân. Không có<br />
những phản hồi liên quan đến thái độ tiêu cực từ các thành viên khác trong gia<br />
đình đối với trẻ khuyết tật.<br />
Trong các cuộc phỏng vấn, các câu hỏi về sự bất tiện trong cuộc sống<br />
gia đình được đưa ra một cách trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng thông tin được trẻ<br />
khuyết tật cung cấp, trả lời các câu hỏi luôn bị hạn chế. Hầu hết trẻ khuyết tật<br />
không nghĩ hay không đề cập đến những vấn đề khó khăn trong cuộc sống gia<br />
đình, do đó các thông tin được thu thập chủ yếu từ cha mẹ và anh chị em của<br />
trẻ khuyết tật. Chỉ có 2 trong số 13 trẻ khuyết tật đề cập đến những khó khăn<br />
trong việc đi lại và đi ra bên ngoài chơi (T.V.T., trẻ khuyết tật). Một số trẻ<br />
khuyết tật khác đề cập đến việc chưa bao giờ gặp những khó khăn trong cuộc<br />
sống (B.V.T., trẻ khuyết tật) và cho rằng mọi thành viên đều quan tâm nhiều<br />
đến mình và tạo mọi điều kiện cho cuộc sống của mình ở gia đình. Từ quan<br />
điểm như vậy, gia đình được xem là nơi tốt nhất cho trẻ khuyết tật.<br />
Có 4/4 phản hồi từ cha mẹ, anh chị em của trẻ khuyết tật cho thấy, những<br />
khó khăn mà trẻ em gặp phải trong trải nghiệm chủ yếu là trong đi lại và học<br />
tập, mặc dù vậy, không có phản hồi nào cho thấy những khó khăn mà trẻ phải<br />
đối mặt trong cuộc sống gia đình ở khía cạnh thái độ kì thị từ các thành viên trong<br />
gia đình. Theo cha mẹ và anh chị em của trẻ khuyết tật, những vấn đề liên quan<br />
đến đi lại, tự tin, học tập ở gia đình, vui chơi với các thành viên khác trong gia<br />
đình và một vài khía cạnh liên quan đến giao tiếp với các cá nhân khác là<br />
những khó khăn mà trẻ khuyết tật phải đương đầu nhiều nhất trong cuộc sống<br />
gia đình.<br />
Hầu hết các phản hồi đề cập đến khó khăn của trẻ khuyết tật trong việc<br />
đi lại, đặc biệt ở trong các tình huống mà trẻ khuyết tật có sử dụng xe lăn. Điều<br />
kiện nhà ở tại Hà Nội hiện nay cũng như các điều kiện cơ sở hạ tầng không<br />
phải dễ tiếp cận cho người khuyết tật nói chung, trẻ khuyết tật vận động nói<br />
riêng. Từ nghiên cứu gần đây, các phản hồi cho thấy người khuyết tật cố gắng<br />
để học cách thích ứng những rào cản, hạn chế đó hơn là mong muốn phải tạo<br />
sự thay đổi ngay. Hầu hết những khó khăn mà trẻ khuyết tật đối mặt và trải<br />
nghiệm trong cuộc sống gia đình cũng như ở bên ngoài cộng đồng, trường học<br />
chính là việc đi lại và tự chăm sóc bản thân.<br />
<br />
T¹p chÝ t©m lý häc, Sè 9 (210), 9 - 2016<br />
<br />