Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
TRÀN DỊCH MÀNG BỤNG TĂNG BẠCH CẦU ÁI TOAN<br />
Nguyễn Thị Nhã Đoan*, Phạm Thị Bảo Trâm**, Trần Ngọc Lưu Phương***<br />
<br />
TÓMTẮT<br />
Đặt vấn đề: Tràn dịch màng bụng tăng bạch cầu ái toan là một bệnh cảnh lâm sàng hiếm gặp, thường liên<br />
quan đến những bệnh lý như Eosinophilic gastroenteritis, hội chứng tăng quá mức bạch cầu ái toan máu (HES),<br />
một số trường hợp ký sinh trùng lạc chỗ trong hội chứng ấu trùng di chuyển, và những trường hợp hiếm khác<br />
như Lymphoma và lọc màng bụng trong thẩm phân phúc mạc.<br />
Mục tiêu: Xác định nguyên nhân Tràn dịch màng bụng tăng bạch cầu ái toan ở những trường hợp nhập<br />
viện Bệnh viện Nguyễn Tri Phương từ 2012-2013.<br />
Phương pháp: Báo cáo hàng loạt ca.<br />
Kết quả: Chúng tôi ghi nhận được 2 trường hợp tràn dịch màng bụng tăng bạch cầu ái toan do nhiễm<br />
Toxocara canis và Eosinophilic gastroenteritis tổn thương tại đoạn cuối hồi tràng và manh tràng. Cả hai trường<br />
hợp đều gây tràn dịch màng bụng kéo dài và dịch màng bụng có nhiều bạch cầu ái toan chiếm trên 70%.Hai<br />
trường hợp này đều được thực hiện xét nghiệm sinh thiết màng bụng và những xét nghiệm khác với đủ tiêu<br />
chuẩn để chẩn đoán, đồng thời đáp ứng tốt với điều trị thích hợp.<br />
Kết luận: Tràn dịch màng bụng tăng bách cầu ái toan do nhiễm Toxocara canis và Eosinophilic<br />
gastroenteritis là những bệnh lý lành tính, hiếm gặp tuy nhiên bệnh có thể điều trị khỏi nếu chẩn đoán đúng.<br />
Từ khóa: tràn dịch màng bụng, tràn dịch màng bụng tăng bạch cầu ái toan, tăng bạch cầu ái toan, nhiễm<br />
Toxocara, Eosinophilic gastroenteritis.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
CASE REPORT: EOSINOPHILIC ASCITES<br />
Nguyen Thi Nha Doan, Pham Thi Bao Tram, Tran Ngoc Luu Phuong<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 119 - 126<br />
Introduction: Eosinophilic ascites is rarely observed in clinical practice, it may be associated with<br />
Eosinophilic gastroenteritis, hypereosinophilic syndrome, some migrant parasites, abdominal lymphoma and<br />
peritoneal dialysis.<br />
Aim: Finding out the etiology ofeosinophilic ascites patients admitted to Nguyen Tri Phuong Hospital in<br />
2012-2013.<br />
Method: case series.<br />
Results: We reported two cases of eosinophilic ascites regarding to Toxocara infection in visceral larva<br />
migrant syndrome and Eosinophilic gastroenteritis involving the ileocecal area. The ascitic fluid of the two cases<br />
was dense with eosinophil > 70%. Diagnostic laparoscopy and others lab test were performed to confirm diagnosis.<br />
With proper treatment, two patients recovered, the ascites and eosinophilia were absent after 1 months.<br />
Conclusion: Eosinophilic ascites regarding to Toxocara infection in visceral larva migrant syndrome and<br />
Eosinophilic gastroenteritis are rarely observed, benign and curable diseases.<br />
Key words: ascites, eosinophilic ascites, Toxocara infection, eosinophilia, Eosinophilic gastroenteritis.<br />
* Bộ môn Nội, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, ** Bệnh viện Nguyễn Tri Phương<br />
*** Bộ môn Nội tổng quát trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch<br />
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Thị Nhã Đoan<br />
ĐT: 0918206883<br />
Email: doan.ntn@umc.edu.vn<br />
<br />
Chuyên Đề Nội Khoa<br />
<br />
119<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015<br />
<br />
ĐẶT VẤNĐỀ<br />
Tràn dịch màng bụng tăng bạch cầu ái toan<br />
là một bệnh cảnh lâm sàng hiếm gặp, thường<br />
liên quan đến những bệnh lý như Eosinophilic<br />
gastroenteritis, hội chứng tăng quá mức bạch cầu<br />
ái toan máu (HES), lymphoma, lọc màng bụng<br />
trong thẩm phân phúc mạc và một số trường<br />
hợp ký sinh trùng lạc chỗ gây hội chứng ấu<br />
trùng di chuyển trong nội tạng(1).<br />
Như vậy về mặt nguyên nhân của nhóm<br />
bệnh lý tràn dịch màng bụng tăng bạch cầu ái<br />
toan có thể tóm tắt thành hai nhóm nguyên nhân<br />
chính, nhóm nguyên nhân về các bệnh lý đường<br />
tiêu hóa như Eosinophilic gastroenteritis và do<br />
ký sinh trùng lạc chỗ, nhóm nguyên nhân do các<br />
bệnh lý huyết học như lymphoma và HES.<br />
Nhóm bệnh lý đường tiêu hóa thường có những<br />
đặc điểm sau: chỉ ảnh hưởng đến đường tiêu<br />
hóa; không có bằng chứng ảnh hưởng đến<br />
những cơ quan khác; xác định được nguyên<br />
nhân gây tăng bạch cầu ái toan từ ký sinh trùng<br />
hoặc tổn thương tại ống tiêu hóa; chẩn đoán xác<br />
định với sinh thiết màng bụng hoặc sinh thiết<br />
ống tiêu hóa. Trong khi đó nhóm bệnh lý huyết<br />
học thường có bằng chứng ảnh hưởng đến<br />
những cơ quan khác như gan, lách, hạch; không<br />
xác định được nguyên nhân nào khác gây tăng<br />
bạch cầu ái toan; chẩn đoán xác định với sinh<br />
thiết hạch, sinh thiết tủy hoặc tủy đồ.<br />
Do đó để tiếp cận chẩn đoán, chúng tôi thực<br />
hiện những nhóm xét nghiệm sau:<br />
Xét nghiệm về huyết học loại trừ nhóm<br />
nguyên nhân lymphoma và HES như phết máu<br />
ngoại biên, tủy đồ, sinh thiết tủy.<br />
Xét nghiệm tầm sóat nhiễm ký sinh trùng.<br />
<br />
tràng, nội soi đại tràng, nội soi ổ bụng sinh thiết).<br />
Eosinophilic gastroenteritis là bệnh lý đặc<br />
trưng bởi tình trạng thấm nhuộm bạch cầu ái<br />
toan trong những lớp trên thành ống tiêu hóa.Cơ<br />
chế sinh bệnh học chưa được hiểu rõ nhưng<br />
trong 40% các trường hợp có liên quan đến dị<br />
ứng. Bệnh xảy ra trên người lớn và cả trẻ em ở<br />
bất kỳ vị trí nào của đường tiêu hóa tuy nhiên dạ<br />
dày và ruột non bị ảnh hưởng nhiều nhất. Tràn<br />
dịch màng bụng tăng bạch cầu ái toan có thể<br />
xem là một dạng của Eosinophilic gastroenteritis<br />
mà vị trí tổn thương thuộc lớp thanh mạc của<br />
đường tiêu hóa(2).<br />
Nhiễm Toxocara ở người thường do nuốt<br />
phải trứng của giun đũa chó mèo trong môi<br />
trường. Ở người trưởng thành quá trình nhiễm<br />
có thể từ rau nhiễm bẩn, từ thịt hoặc gan của gia<br />
cầm là những ký chủ trung gian. Sau khi vào<br />
ruột non ấu trùng nở ra xuyên qua thành ruột<br />
vào máu sau đó theo hệ cửa đến gan phổi tim<br />
trái và tiếp tực theo vòng tuần hoàn lớn. Những<br />
ấu trùng này có thể xuyên qua mao mạch máu<br />
vào mô kẽ và được những tổ chức liên kết bao<br />
bọc thành những u hạt. Những nghiên cứu trước<br />
đây có nhận thấy sự hiện diện của ấu trùng<br />
trong gan phổi tim mắt não, hay còn gọi là bệnh<br />
ấu trùng di chuyển trong nội tạng. Tràn dịch<br />
màng phổi hay tràn dịch màng bụng gây ra do<br />
Toxocara canis di chuyển đến các lớp thanh mạc<br />
này và gây viêm cũng được mô tả trong y văn(3).<br />
Chúng tôi đã chẩn đoán và điều trị hai<br />
trường hợp báng bụng tăng bạch cầu ái toan,<br />
một trường hợp do nhiễm Toxocara trong bệnh<br />
cảnh ấu trùng lạc chỗ và một trường hợp<br />
Eosinophilic gastroenteritis mà vị trí tổn thương<br />
nằm ở đoạn cuối hồi tràng.<br />
<br />
Xét nghiệm dịch báng loại trừ lao, ung thư<br />
và các bệnh tự miễn.<br />
<br />
Tràn dịch màng bụng tăng bạch cầu ái toan<br />
do Toxocara<br />
<br />
Xét nghiệm hình ảnh học chẩn đoán tổn<br />
thương các cơ quan nội tạng khác ngoài đường<br />
tiêu hóa như siêu âm, MSCT bụng.<br />
<br />
Bệnh nhân nữ 49 tuổi nhập viện vì đau bụng<br />
lan tỏa, bệnh 2 tháng nay thường xuyên bị đau<br />
bụng quặn cơn khắp bụng không rõ vị trí nhất<br />
định, kèm theo nôn ói, chán ăn, tiêu lỏng ít và<br />
bụng to dần ra, không phù, sụt cân 15 kg trong 5<br />
<br />
Xét nghiệm xác định những tổn thương trên<br />
đường tiêu hóa (nội soi thực quản dạ dày tá<br />
<br />
120<br />
<br />
Chuyên Đề Nội Khoa<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015<br />
tháng. Khám thấy da niêm hồng nhợt, bụng bè,<br />
gõ đục vùng thấp, không sờ thấy khối u nào<br />
trong ổ bụng, gan lách không to, không hạch cổ<br />
hay hạch ở các vị trí khác, không sang thương ở<br />
da. Xét nghiệm dịch báng ghi nhận dịch vàng<br />
chanh, về sinh hóa bản chất là dịch tiết, không<br />
tăng áp với Protein trong dịch báng là 38,9 g/l (><br />
25 g/l), LDH 222,7 Glucose 5,24 và hiệu số SAAG<br />
là 5g/l. BC dịch báng 1100/ml bạch cầu ái toan<br />
chiếm 71%.<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Xét nghiệm huyết học có tăng bạch cầu ái<br />
toan với tỉ lệ 56,4 % BC 13,5 G/L, Hgb 10,1 g/dl<br />
Tiểu cầu 401 G/L. Các xét nghiệm khác như chức<br />
năng gan, chức năng thận, ion đồ trong giới hạn<br />
bình thường, riêng albumin giảm nhẹ, tỉ số A/G<br />
bình thường > 1. Các dấu ấn ung thư bao gồm<br />
CEA, CA 19,9 CA 125 trong giới hạn bình<br />
thường. Các xét nghiệm khác như ADA,<br />
Amylase, LDH dịch báng trong giới hạn bình<br />
thường.Một số xét nghiệm về bệnh lý tự miễn<br />
như ANA, antidsDNA âm tính.<br />
<br />
trùng lạc chỗ gây ra tràn dịch màng bụng dịch<br />
tiết tăng bạch cầu ái toan còn về chẩn đoán<br />
Eosinophilic gastroenteritis chúng tôi ghi nhận<br />
khoảng gần 300 bài báo về những trường hợp<br />
này, tuy nhiên số lượng bệnh nhân báo cáo<br />
trên lâm sàng cũng còn hạn chế. Vì vậy để xác<br />
định chẩn đoán trong trường hợp này chúng<br />
tôi quyết định sinh thiết màng bụng và sinh<br />
thiết niêm mạc dạ dày để xem sự tẩm nhuộm<br />
của các bạch cầu ái toan trong mẫu sinh thiết<br />
như thế nào. Đối với những trường hợp<br />
Eosinophilic gastroenteritis thường gây ảnh<br />
hưởng lên đường tiêu hóa theo ba lớp bao<br />
gồm lớp niêm mạc, cơ và lớp thanh mạc. Nếu<br />
ảnh hưởng lên lớp thanh mạc thì sẽ có bệnh<br />
cảnh tương tự như bệnh cảnh mà chúng tôi<br />
đang nêu ra. Kết quả sinh thiết của chúng tôi<br />
như sau: 5 mẫu tại dạ dày với kết quả niêm<br />
mạc dạ dày viêm mạn không thấy tẩm nhuộm<br />
bạch cầu ái toan, sinh thiết màng bụng qua<br />
phẫu thuật nội soi chỉ thấy các tế bào mô mỡ.<br />
<br />
Xét nghiệm hình ảnh như X quang phổi<br />
không tổn thương. Siêu âm bụng có dịch ổ bụng<br />
lượng trung bình, gan lách không to. Những xét<br />
nghiệm về hình ảnh khác bao gồm MSCT bụng<br />
và MRI bụng chậu ghi nhận có hình ảnh lượng<br />
dịch ổ bụng trung bình và dầy phúc mạc thành.<br />
Nội soi dạ dày và soi đại tràng bình thường.<br />
<br />
Do vậy chúng tôi quyết định điều trị cho<br />
bệnh nhân với Ivermectin 300 mg x 2 viên uống/<br />
ngày trong 3 ngày. Sau khoảng 1 tháng tình<br />
trạng bệnh nhân cải thiện rõ, dịch ổ bụng giảm<br />
dần đến hết, cải thiện về chỉ số bạch cầu ái toan<br />
trong máu. Bệnh nhân tăng cân trở lại và hoàn<br />
toàn bình thường sau 2 tháng.<br />
<br />
Phết máu ngoại biên và tủy đồ bình thường<br />
giúp chúng tôi loại trừ hoàn toàn nhóm bệnh lý<br />
huyết học.<br />
<br />
BÀNLUẬN<br />
<br />
Xét nghiệm phân không phát hiện ký sinh<br />
trùng hay trứng nhưng các xét nghiệm huyết<br />
thanh chẩn đoán dương tính với Toxocara canis<br />
(1/800) và Strongyloides stercoralis 1/1600.<br />
Do vậy chẩn đoán được nghi ngờ nhiều<br />
nhất lúc này ký sinh trùng lạc chỗ, tuy nhiên<br />
vẫn chưa loại trừ được Eosinophilic<br />
gastroenteritis. Cả hai trường hợp này đều là<br />
những bệnh lý hiếm trong y văn, trong các tài<br />
liệu về tràn dịch màng bụng tăng bạch cầu ái<br />
toan, chúng tôi nhận thấy có 5 tài liệu trong<br />
Pubmed ghi nhận về nguyên nhân ký sinh<br />
<br />
Chuyên Đề Nội Khoa<br />
<br />
Chẩn đóan phân biệt với nhiễm<br />
Strongyloides stercoralis gây tràn dịch<br />
màng bụng<br />
Về nhiễm Strongyloides stercoralis gây ra tràn<br />
dịch màng bụng chúng tôi ghi nhận được 3<br />
trường hợp được báo cáo trên dữ liệu của<br />
Pubmed(7,8). Các trường hợp này thường là<br />
những bệnh nhân tràn dịch màng bụng có<br />
nguyên nhân trước đó như xơ gan, viêm tụy,<br />
HIV, trong đó có một bệnh nhân tràn dịch màng<br />
bụng đơn thuần do Strongyloides stercoralis, sau<br />
điều trị dịch mất hoàn toàn. Trong cả 3 trường<br />
hợp trên chúng tôi đều nhận thấy bệnh xảy ra<br />
trên những đối tượng suy giảm miễn dịch, đều<br />
<br />
121<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015<br />
<br />
có biểu hiện của tình trạng nhiễm giun lan tỏa<br />
hay còn gọi là tình trạng tăng nhiễm<br />
(hyperinfection). Dịch màng bụng cả 3 trường<br />
hợp trên đều nhận thấy có Strongyloides<br />
stercoralis bên trong dịch màng bụng và đều tìm<br />
thấy giun trong phân. Đối với trường hợp bệnh<br />
nhân của chúng tôi. Chúng tôi chỉ ghi nhận được<br />
một bằng chứng là có huyết thanh chẩn đoán<br />
dương tính với Strongyloides stercoralis, tuy nhiên<br />
vì huyết thanh chẩn đoán Toxocara canis lại dễ<br />
gây phản ứng chéo với những nhóm giun tròn<br />
khác. Đồng thời khi Strongyloides stercoralis gây<br />
tràn dịch màng bụng hay các triệu chứng đường<br />
tiêu hóa rầm rộ hoặc tình trạng tăng nhiễm<br />
chứng tỏ quá trình phát triển của giun trong lòng<br />
đại tràng rất nhiều. Và việc phát hiện trứng cũng<br />
như giun trong phân là hoàn toàn có thể, tuy<br />
nhiên đối với bệnh nhân này chúng tôi không<br />
ghi nhận được bằng chứng gì khác nên chúng tôi<br />
không kết luận đây là một trường hợp tràn dịch<br />
màng bụng do nhiễm Strongyloides stercoralis<br />
mà nghĩ do Toxocara canis nhiều hơn.<br />
<br />
Hội chứng ấu trùng di chuyển trong nội<br />
tạng do Toxocara)(10)<br />
Hiện tượng ấu trùng di chuyển trong nội<br />
tạng thường do các loại giun tròn như Toxocara<br />
canis (giun đũa chó), Toxocara cati (giun đũa<br />
mèo), Trichinella spiralis, Ascaris suum, Cappilaria<br />
hepatica, Anisakis.<br />
Nhiễm giun đũa chó, mèo là một bệnh do ký<br />
sinh trùng ký sinh lạc chủ gây ra, lạc chủ bởi vì<br />
vật chủ ký sinh của chúng là chó, mèo không<br />
phải người. Bệnh giun đũa ở chó, mèo ở người<br />
có thể có ba loại hội chứng: u hạt do ấu trùng<br />
(larva granulomatosis), ấu trùng di chuyển nội<br />
tạng ở (Viceral larva migrans), ấu trùng di<br />
chuyển ở mắt (Ocular larva migrans).<br />
Triệu chứng lâm sàng phụ thuộc rất nhiều<br />
vào số lượng và vị trí ký sinh của giun đối với<br />
vật chủ, và biểu hiện triệu chứng bắt đầu từ các<br />
cơ quan bị nhiễm. Có thể không có triệu chứng<br />
nếu nhiễm trùng nhẹ, ấu trùng có thể đi trong<br />
gan, phổi, tim, não, mắt và có thể gây ra hội<br />
<br />
122<br />
<br />
chứng tăng bạch cấu ái toan mạn tính, sốt, gan<br />
to, viêm phế quản, giả hen, viêm phổi, viêm cơ<br />
tim, động kinh hoặc sa sút trí tuệ, viêm võng<br />
mạc, viêm kết mạc, viêm màng bồ đào, viêm<br />
nhãn cầu...Và phần lớn là nhiễm giun đũa chó<br />
mèo không triệu chứng .<br />
Xét nghiệm phân không có vai trò gì trong<br />
chẩn đoán nhiễm Toxocara. Chẩn đoán bệnh<br />
nhiễm giun đũa chó mèo hiện tại dựa vào các xét<br />
nghiệm huyết thanh học sử dụng các kháng<br />
nguyên tiết từ ấu trùng giai đoạn 2 của Toxocara<br />
canis, vì khó phát hiện một ấu trùng Toxocara<br />
giai đoạn nhiễm trên mẫu sinh thiết. Các xét<br />
nghiệm ELISA có sử dụng kháng nguyên<br />
Toxocara canis thì cho độ đặc hiệu cao (86 100%) và độ nhạy cao (80 - 100%).<br />
Phản ứng dương tính chéo đã được báo cáo<br />
về xét nghiệm huyết thanh học ở nhiễm trùng<br />
giun sán như dương tính chéo với 14 loại bệnh<br />
giun sán khác nhau: giun chỉ, giun xoắn,<br />
Strongyloides stercoralis, giun đầu gai, giun mạch,<br />
bệnh do ký sinh trùng Anisakiasis, giun đũa, giun<br />
móc, sán máng, sán lá phổi, sán lá gan lớn, sán<br />
nhái và bệnh spirometriasis khi sử dụng các<br />
kháng nguyên Toxocara canis để xét nghiệm tìm<br />
kháng thể mặc dù đã sử dụng kháng nguyên tái<br />
tổ hợp. Hiện nay, các phòng xét nghiệm phần<br />
lớn chỉ dừng lại đọc kết quả dương tính dạng<br />
hiệu giá kháng thể 1/800; 1/1600; 1/3200; 1/6400<br />
chứ chưa áp dụng các phương pháp đo quang,<br />
nên kết quả xét nghiệm còn hạn chế trong việc<br />
đánh giá giữa âm tính và dương tính. Vì xét<br />
nghiệm ELISA chẩn đoán cả những trường hợp<br />
nhiễm cấp tính và mãn tính nên để xác định<br />
nhiễm Toxocara đang hoạt động nên dựa vào<br />
tình trạng tăng Bạch cầu ái toan trong máu, và<br />
tăng IgE > 500 U/l.<br />
Tràn dịch màng bụng và tràn dịch màng<br />
phổi do hội chứng ấu trùng di chuyển trong nội<br />
tạng hiếm gặp và được mô tả ít trong các báo cáo<br />
của Van Leehem(15), Rust C, Hirasawa SK(11).<br />
Những trường hợp tràn dịch màng bụng do<br />
Toxocara thường biểu hiện lâm sàng giống như<br />
Eosinophilic gastroenteritis, cũng có hiện tượng<br />
<br />
Chuyên Đề Nội Khoa<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015<br />
thấm nhiễm bạch cầu ái toan vào dịch báng,<br />
màng bụng hay vào các lớp biểu mô, cơ hay<br />
thanh mạc của đường tiêu hóa. Tuy nhiên quá<br />
trình điều trị với các thuốc như Albendazole<br />
hoặc nhóm Ivermectin sẽ làm giảm các triệu<br />
chứng.Những trường hợp này khi tra khảo lại<br />
y văn chúng tôi ghi nhận khoảng 5 bài báo cáo<br />
về các trường hợp này. Đa phần các trường<br />
hợp bệnh tự giới hạn hoặc đáp ứng với thuốc<br />
sau thời gian từ 1-2 tháng với biểu hiện biến<br />
mất các triệu chứng đường tiêu hóa như tiêu<br />
lỏng , đau bụng , tràn dịch màng bụng và bình<br />
thường hóa các xét nghiệm máu về số lượng<br />
bạch cầu ái toan.<br />
Bệnh nhân sau điều trị với Ivermectin đã<br />
đáp ứng hoàn toàn, hết dịch báng sau 1<br />
tháng.Các biểu hiện thay đổi về máu bình<br />
thường hoàn toàn. Bệnh nhân tăng cân trở lại<br />
nên về nguyên nhân chúng tôi nghĩ nhiều vẫn<br />
là do Toxocara canis.<br />
<br />
Tràn dịch màng bụng tăng bạch cầu ái toan<br />
do Eosinophilic gastroenteritis(5)<br />
Chúng tôi mô tả một trường hợp<br />
Eosinophilic gastroenteritis với biểu hiện lâm<br />
sàng là báng bụng và bán tắc ruột. Bệnh nhân nữ<br />
22 tuổi nhập viện 9/2012 vì đau quặn bụng nhiều<br />
ở vùng quanh rốn và hố chậu trái. Bệnh kéo dài<br />
từ nhiều năm trước đây với triệu chứng đau<br />
bụng quặn cơn, tiêu phân lỏng thỉnh thoảng có<br />
đàm nhầy không lẫn máu, ăn uống kém, không<br />
kèm sốt, gầy, đã từng được chẩn đoán bệnh<br />
Crohn và điều trị với Pentasa liều 2g/ngày không<br />
giảm. Khám ghi nhận bệnh nhân gầy, suy kiệt,<br />
báng bụng độ 2, ấn đau nhiều vùng quanh rốn,<br />
không hạch, không phù.<br />
Bệnh nhân thực hiện một số xét nghiệm công<br />
thức máu với tăng cao bạch cầu ái toan chiếm tỉ<br />
lệ 63%, các xét nghiệm chức năng gan, thận bình<br />
thường, dịch báng là dịch tiết với Protein dịch<br />
65g/l và SAAG < 11g/l, Bạch cầu dịch báng 6300/<br />
mm3 tăng cao thành phần tế bào bạch cầu ái toan<br />
với tỉ lệ 71%. Trên hình ảnh siêu âm nhận thấy<br />
có một đoạn ruột dầy thành nghi ngờ Crohn,<br />
<br />
Chuyên Đề Nội Khoa<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
chúng tôi quyết định chụp MRI xác định thấy<br />
dầy đều lan tỏa đoạn cuối hồi tràng nghĩ do tổn<br />
thương viêm.<br />
Tương tự như trường hợp trước, chúng tôi<br />
cũng lần lượt thực hiện những xét nghiệm tìm<br />
nguyên nhân về sinh hóa, ký sinh trùng và hình<br />
ảnh học.<br />
Các xét nghiệm máu cho thấy bệnh nhân có<br />
nhiễm Toxocara canis, các xét nghiệm ANA bình<br />
thường, không ghi nhận có KST trên hình ảnh<br />
soi phân bằng phương pháp tập trung Willis,<br />
trên hình ảnh soi trực tiếp, chúng tôi thấy có tinh<br />
thể Charcot Leyden tế bào hạt mỡ và sợi thịt và<br />
tinh bột trong phân<br />
Nội soi dạ dày ghi nhận viêm sung huyết<br />
hang môn vị, sinh thiết mẫu mô ở dạ dày và tá<br />
tràng đều thấy hình ảnh viêm mãn thấm nhiễm<br />
bạch cầu lympho. Trên nội soi đại tràng chúng<br />
tôi quan sát thấy tổn thương phù nề gây chít hẹp<br />
tại van hồi manh tràng khiến chúng tôi không<br />
thể đưa máy qua van hồi manh tràng để vào<br />
được đoạn cuối hồi tràng để sinh thiết xác định<br />
chẩn đoán.<br />
Các xét nghiệm phết máu ngoại biên và tủy<br />
đồ đều bình thường.<br />
Vì trước đây trong quá trình chẩn đoán bệnh<br />
nhân đã từng được nội soi ổ bụng sinh thiết nên<br />
chúng tôi không thực hiện lại nữa vì đây là biện<br />
pháp xâm lấn đối với bệnh nhân, kết quả trước<br />
ghi nhận mẫu mô sinh thiết vùng thanh mạc<br />
đoạn hồi tràng viêm ghi nhận thấm nhiễm nhiều<br />
bạch cầu ái toan...<br />
Với những kết quả trên chúng tôi quyết định<br />
điều trị Toxacara canis với Albendazole 14 ngày,<br />
nhưng bệnh không cải thiện, các triệu chứng vẫn<br />
kéo dài sau điều trị khoảng 1 tháng, do vậy<br />
chúng tôi lên kế hoạch sẽ nội soi ổ bụng để hỗ<br />
trợ cho việc đưa máy nội soi qua lỗ van hồi<br />
manh tràng đưa vào ruột non để sinh thiết nhằm<br />
loại trừ bệnh Crohn và xác định xem chẩn đoán<br />
Eosinophilic gastroenteritis. Tuy nhiên vì tổng<br />
trạng bệnh nhân kém nên chúng tôi sau khi đã<br />
loại trừ nhóm bệnh lý huyết học và các nguyên<br />
<br />
123<br />
<br />