intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tri thức bản địa trong canh tác lúa nước của dân tộc Thái tỉnh Sơn La

Chia sẻ: Y Y | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

59
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu tri thức bản địa trong canh tác lúa nước của dân tộc Thái tại một số địa bàn cư trú truyền thống thuộc tỉnh Sơn La. Vận dụng phương pháp điều tra, phỏng vấn, tham vấn trực tiếp cộng đồng cư dân nông nghiệp trồng lúa, nghiên cứu này nhận diện kĩ thuật canh tác lúa nước, các biện pháp kĩ thuật truyền thống từ phân loại ruộng nước đến các khâu làm đất, gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch và bảo quản lúa sau thu hoạch.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tri thức bản địa trong canh tác lúa nước của dân tộc Thái tỉnh Sơn La

  1. JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2017-0106 Social Science, 2017, Vol. 62, Iss. 11, pp. 209-216 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn TRI THỨC BẢN ĐỊA TRONG CANH TÁC LÚA NƯỚC CỦA DÂN TỘC THÁI TỈNH SƠN LA Đặng Thị Nhuần Khoa Sử - Địa, Trường Đại học Tây Bắc Tóm tắt. Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu tri thức bản địa trong canh tác lúa nước của dân tộc Thái tại một số địa bàn cư trú truyền thống thuộc tỉnh Sơn La. Vận dụng phương pháp điều tra, phỏng vấn, tham vấn trực tiếp cộng đồng cư dân nông nghiệp trồng lúa, nghiên cứu này nhận diện kĩ thuật canh tác lúa nước, các biện pháp kĩ thuật truyền thống từ phân loại ruộng nước đến các khâu làm đất, gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch và bảo quản lúa sau thu hoạch. Kết quả nghiên cứu chỉ ra những ưu điểm của kiến thức bản địa trong canh tác lúa nước. Đó là: nâng cao năng suất và sản lượng lương thực; sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên đất, nước, đồng thời góp phần bảo vệ hệ sinh thái nông nghiệp truyền thống tại địa phương. Từ khóa: Tri thức bản địa, lúa nước, dân tộc Thái, Sơn La. 1. Mở đầu Tri thức bản địa (hay còn được gọi là kiến thức truyền thống) là hệ thống kiến thức của các dân tộc bản địa hoặc của một cộng đồng tại một khu vực cụ thể nào đó, được hình thành qua quá trình trải nghiệm và đúc kết của mỗi dân tộc, qua sự chọn lọc trong quá trình vận động của cuộc sống, hướng đến sự thích nghi với đặc điểm văn hóa, xã hội và môi trường nơi họ sinh sống và sản xuất. Người Thái vùng Tây Bắc nói chung và tỉnh Sơn La nói riêng cư trú chủ yếu tại các khu vực thung lũng, chân núi gần các nguồn nước. Hoạt động sinh kế cơ bản của họ dựa vào sản xuất nông nghiệp, trong đó trồng lúa và canh tác ruộng nước là hoạt động kinh tế chủ đạo. Do vậy, cộng đồng người Thái tích lũy được những tri thức bản địa trong quá trình canh tác lúa nước mang lại hiệu quả cao trong sản xuất. Từ trước tới nay, các nghiên cứu về dân tộc Thái trên nhiều lĩnh vực đã được các nhà nghiên cứu quan tâm. Tác giả Cầm Trọng đã nghiên cứu về tộc Thái với những đặc trưng về các loại hình kinh tế, chế độ ruộng đất và bản mường dân tộc Thái ở Tây Bắc [7]. Tác giả Trần Bình đã đề cập đến tập quán hoạt động kinh tế của dân tộc Thái [2]. Tác giả Ngô Xuân Sao nghiên cứu về tri thức bản địa trong canh tác lúa nương truyền thống của người Thái ở các xã miền núi phía tây Thanh Hóa [4]. Tác giả Mai Văn Tùng với nghiên cứu về tri thức bản địa của người Thái trong canh tác ruộng nước và canh tác nương rẫy [5]... Những công trình nghiên cứu trên đã có những phân tích, Ngày nhận bài: 15/3/2017. Ngày sửa bài: 10/8/2017. Ngày nhận đăng: 20/9/2017 Liên hệ: Đặng Thị Nhuần, e-mail: nhuan4899@gmail.com 209
  2. Đặng Thị Nhuần phản ánh về tri thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp của dân tộc Thái nói chung. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào tìm hiểu về tri thức bản địa trong kĩ thuật canh tác lúa nước của dân tộc Thái ở tỉnh Sơn La - một tỉnh miền núi phía bắc với dân tộc Thái chiếm tới 54,71% dân số của tỉnh, trong sản xuất nông nghiệp việc canh tác lúa nước giữ vai trò quan trọng đối với dân tộc này. Hiện nay, hoạt động sản xuất lúa nước của người Thái ở Sơn La có nhiều thay đổi. Vì vậy, xem xét và đánh giá những điểm tích cực của tri thức bản địa được áp dụng trong sản xuất lương thực của cộng đồng dân tộc Thái gắn với quá trình sử dụng hợp lí các nguồn tài nguyên là hướng nghiên cứu cần thiết đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp bền vững ở tỉnh Sơn La hiện nay. Dựa trên những nguồn tư liệu nghiên cứu về dân tộc Thái và việc sử dụng phương pháp nghiên cứu thực địa: khảo sát, phỏng vấn sâu (đối tượng phỏng vấn chủ yếu là các già làng, trưởng bản) và tham vấn cộng đồng dân tộc Thái tại các huyện Thuận Châu, Mường La, Quỳnh Nhai, trong khuôn khổ bài viết tác giả tập trung vào các vấn đề sau: - Giới thiệu và trình bày hệ thống tri thức bản địa của người Thái áp dụng trong canh tác lúa nước tại tỉnh Sơn La. - Đánh giá việc vận dụng tri thức bản địa trong kĩ thuật canh tác lúa nước và chỉ ra những ưu điểm của nó trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất và góp phần quan trọng đối với việc sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên. Những kết quả nghiên cứu trên hướng tới việc giới thiệu đặc trưng văn hóa sản xuất của dân tộc Thái ở Sơn La, mặt khác phổ biến tri thức, kinh nghiệm quí báu đối với phát triển nông nghiệp miền núi theo hướng bền vững. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Khái quát về dân tộc Thái ở tỉnh Sơn La Sơn La, tỉnh miền núi phía Tây Bắc Việt Nam, có tọa độ địa lí từ 200 31’ đến 220 02’ vĩ độ bắc và từ 1030 11’ đến 1050 02’ kinh độ đông [8]. Sơn La giáp tỉnh Yên Bái ở phía bắc, phía đông nam giáp CHDCND Lào và tỉnh Thanh Hóa, phía đông giáp các tỉnh Phú Thọ, Hòa Bình, phía Tây Bắc giáp tỉnh Điện Biên, Lai Châu. Bảng 1. Phân bố dân tộc Thái theo các huyện ở tỉnh Sơn La [1] STT Huyện Số dân (Người) Tỉ lệ (%) 1 Sông Mã 85.399 13,20 2 Mai Sơn 88.709 13,72 3 Mộc Châu 33.385 5,16 4 Thuận Châu 127.062 19,65 5 Phù Yên 33.570 5,19 6 Thành phố 50.061 7,74 7 Bắc Yên 21.021 3,25 8 Vân Hồ 25.047 3,87 9 Sốp Cộp 26.509 4,10 10 Mường La 62.900 9,72 11 Yên Châu 41.159 6,36 12 Quỳnh Nhai 51.709 7,99 Tổng cộng 646.531 100 Sơn La có 12 dân tộc sinh sống, tổng dân số năm 2016 là 1.199.468 người. Trong số 12 dân 210
  3. Tri thức bản địa trong canh tác lúa nước của dân tộc Thái tỉnh Sơn La tộc kể trên, người Thái có số dân đông nhất: 646.531 người (chiếm 54,71%), phân bố hầu khắp các huyện, nhưng tập trung đông ở các huyện Thuận Châu, Sông Mã, Mai Sơn, Mường La, Quỳnh Nhai. Dân tộc này có đời sống văn hóa đặc sắc, tiêu biểu cho bản sắc văn hóa vùng Tây Bắc Việt Nam [1]. Địa bàn cư trú chủ yếu của dân tộc Thái thuộc các dạng địa hình thung lũng cao, bán thung lũng hoặc chân đồi gần các sông, suối thuận lợi canh tác nông nghiệp. Trong đó, trồng lúa nước là hoạt động sinh kế cơ bản của họ. Vì thế, cộng đồng dân tộc Thái đúc rút được nhiều kinh nghiệm quý báu trong canh tác lúa nước, đạt được những thành tựu nhất định trong việc đảm bảo năng suất đáp ứng nhu cầu lương thực ổn định đời sống. 2.2. Tri thức bản địa áp dụng trong kĩ thuật canh tác lúa nước 2.2.1. Phân loại ruộng nước Nước là nhân tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo cuộc sống ổn định ở các bản mường dân tộc Thái. Việc lựa chọn địa bàn cư trú, canh tác gần với nguồn nước có vai trò quan trọng hàng đầu, vì thế, người Thái có câu: “Mi nặm chắng mi mương, Mi mường chắng mi tạo” ( Có nước mới có mương, Có mường mới có tạo) [7]. Bốn từ Nước - Mương - Mường - Tạo đã mô hình khái quát mối quan hệ tương tác giữa con người với tự nhiên. Nước đã sinh ra tổ chức xã hội mang tên Mường, Mường xưa có người đứng đầu tên gọi là Tạo, Tạo lại trở thành pháp nhân đứng ra tổ chức xã hội, tác động và biến tự nhiên thành ruộng lúa, cung cấp cho con người thóc gạo. Qua kinh nghiệm thực tiễn canh tác ruộng nước, người Thái đã đúc kết rằng, ruộng nước là nguồn cung cấp lương thực hơn hẳn so với việc canh tác trên nương rẫy, qua câu tục ngữ “Háy tím ta, báu pớn nà hới nọi” ( Rẫy bao la không bằng ruộng nhà một thửa). Tùy theo loại ruộng nước, mà biện pháp kĩ thuật có khác nhau ở mỗi loại ruộng này. Người Thái có 3 cách phân loại ruộng ruộng nước như sau: Phân loại ruộng theo địa hình, theo nguồn nước, theo tính chất đất. Cách thứ nhất, phân loại ruộng nước theo địa hình. Cộng đồng người Thái thường canh tác ở địa hình thung lũng lòng chảo hay cao nguyên. Đó là những nơi thường có các khoảng đất bằng, cao thấp nối tiếp nhau, và nếu có nguồn nước thì đều có thể biến thành ruộng để trồng lúa. Họ chia ruộng nước thành hai loại. Loại ruộng nước ở những nơi bằng phẳng gọi là “na tông”, loại ruộng ở các nơi eo hẹp men theo triền núi hoặc trên sườn núi gọi là “na hon”. Có thể hiểu “na tông”, “na hon” là những cánh đồng được tạo bởi các bậc từ thấp lên cao. Trong thực tế, nếu muốn biến địa hình không bằng phẳng ở miền núi thành “na tông”, “na hon” thì cộng đồng dân cư phải đầu tư sức lao động vào khâu tạo các bờ ngăn nước. Khâu này có ý nghĩa rất lớn, bởi việc đắp bờ cho các “na tông hay “na hon” sẽ đáp ứng được yêu cầu đảm bảo cho việc dẫn nước vào từng thửa ruộng bậc thang và hạn chế việc xói mòn, rửa trôi đối với những khu vực có độ dốc lớn. Ngoài ra, cả hai loại ruộng trên muốn canh tác lúa nước đều phải đáp ứng được những điều kiện sau: có nguồn nước hoặc có thể giải quyết được nguồn nước, tầng đất dày ( phải từ > 60 cm trở lên), đất có tính giữ nước tốt. Cách thứ hai, phân loại ruộng theo nguồn nước. Ruộng nước mưa (na nặm phạ): phân bố chủ yếu ở những vùng đất cao chỉ đủ nước cấy một vụ. Vùng đất ấy phải đáp ứng yêu cầu có một lượng mưa tối đa để đất no nước, từ đó tạo nên những mạch nước khắp nơi và con người có thể điều khiển những mạch đó vào ruộng bằng cách khơi những lạch nhỏ để dẫn nước về. Đối với loại ruộng này, thời gian cày ải và cấy thường là vào tháng 5, tháng 6. 211
  4. Đặng Thị Nhuần Ruộng nước ngâm (na nặm che): phân bố chủ yếu ở các thung lũng lòng chảo. Ruộng nước ngâm lại được chia thành 3 loại: Ruộng mương phai (ruộng ở vùng lòng chảo lấy nước từ các sông suối thông qua mương, phai); Ruộng rộc (ruộng nằm trong các khe sâu, vực thẳm hay thung lũng hẹp, lấy nguồn nước từ các khe lạch tự nhiên hoặc một hệ thống thủy lợi nhỏ hơn); Ruộng đầm lầy (loại sẵn nước mạch ngay tại chỗ). Ưu điểm của loại ruộng này là con người làm chủ được nguồn nước nên có thể chủ động được thời vụ và các khâu kĩ thuật khác. Người Thái có câu: “ruộng bùn là nguồn thóc lúa” (Na pông ó bó khẩu) để nói lên ưu thế hơn hẳn của loại ruộng nước ngâm so với các loại khác. Ngược lại, ruộng nước mưa phải chờ nước của trời, không chủ động được nguồn nước nên bao giờ thời gian gieo cấy cũng chậm hơn ruộng nước ngâm. Do đó, năng suất lúa ở ruộng nước mưa thường thấp hơn ở ruộng nước ngâm. Cách thứ ba, phân loại ruộng theo chất lượng đất được chúng tôi mô phỏng theo bảng sau: Bảng 2. Phân loại ruộng theo hạng tốt, xấu theo tri thức bản địa Loại ruộng Phân bố Đặc điểm Các giống lúa được trồng chủ yếu Nằm sát bản (na há bản). Ruộng nhiều Trồng các giống nếp Ruộng tốt Kề miệng mương (na pá mương). mùn Tan. Nằm ở giữa ruộng tốt và ruộng xấu hay Độ mùn vừa Thường trồng các Ruộng trung bình còn gọi ruộng giữa (na xảo cang). phải giống Bong, La, Pe. Ruộng kề bên cát, cuối mương (na khó Ruộng xấu Đất ít mùn Thường trồng lúa tẻ. sái pai nặm). (Nguồn: Tư liệu điều tra thực địa) Trong canh tác lúa nước đây của dân tộc Thái thì việc phân loại ruộng theo hạng tốt xấu không hẳn nhằm mục đích tác động vào khâu kĩ thuật canh tác hoặc sử dụng phân bón cho các chân ruộng xấu, mà chính là để đặt giống lúa sao cho thích hợp nhằm mang lại hiệu quả năng suất cao đối với từng loại ruộng khác nhau. 2.2.2. Làm đất và dẫn nước vào ruộng - Làm đất: Khâu làm đất của người Thái phổ biến là theo lối “hỏa canh thủy nậu”. Nó được thực hiện với cách thức sau: tiến hành phát cây cỏ ở ruộng và nếu trong ruộng có rơm rạ thì trải rơm, rạ cho đều thửa ruộng, khi thấy cỏ trong ruộng đã bị héo, khô thì tiến hành đốt. Việc làm này giúp cho lượng tro bùn được hòa đều vào cả thửa ruộng làm tăng độ màu cho ruộng. Sau đó, đất được chuẩn bị để canh tác tiếp tục qua các khâu: cày, phơi, ải, bừa. + Cày vỡ đất, dùng trâu cày, lớp đất cày sâu không quá 10-15 cm. Việc cày đất và phơi đất ải được áp dụng từ xa xưa theo nguyên tắc: “làm nương cày ủ, làm ruộng thì cày ải” (dệt hạy bốm cha, dệt na bốm phản). + Phơi đất ải thường kéo dài trong khoảng 1 tháng, sau đó làm bờ, tháo nước vào bừa. + Bừa: Khâu này được người Thái thực hiện với tiêu chí “ban nuốn” (bừa kĩ), trước đây có nơi bừa đến 10 lượt mới cấy. Chiếc bừa cổ truyền là dụng cụ làm bằng răng gỗ hoặc tre. Lí do mà dân tộc này dùng các loại răng bừa trên là vì bừa răng gỗ tiện lợi hơn bừa sắt, ngoài làm ruộng nó còn được dùng làm nương; bên cạnh đó, khi vấp phải đá nếu gẫy răng bừa nào có thể thay thế ngay, hơn thế nữa dân tộc này không có truyền thống kinh nghiệm trong việc chế tác các công cụ lao động bằng kim khí nên họ không chủ động trong việc rèn đúc công cụ theo chất liệu này như người Mông. - Dẫn nước vào ruộng: Với địa bàn cư trú ở chân các dãy núi, bên cạnh các con suối lớn nhỏ trên những rẻo đất phù sa nhỏ hẹp, dân tộc Thái đã tận dụng tối đa diện tích đất ven suối để làm 212
  5. Tri thức bản địa trong canh tác lúa nước của dân tộc Thái tỉnh Sơn La ruộng nước. Và vì lẽ đó, đất đai trong canh tác nông nghiệp chủ yếu là ruộng bậc thang nối chồng nhau. Để đảm bảo nguồn nước phục vụ tưới tiêu, người Thái đã tạo ra hệ thống "mương - phai - lái - lin" trong việc canh tác lúa nước [7]. Việc “dẫn thủy nhập điền” để cung cấp nguồn nước cho các ruộng nước được thực hiện qua hệ thống "mương - phai - lái - lin". “ Mương” là đường để dẫn nước vào ruộng. Trong quá trình đào các mương dẫn nước, thường có ba loại mương: mương chìm (mương đào), mương nổi (mương đắp) và mương nửa nổi nửa chìm (vừa đào vừa đắp), tùy vào địa hình của từng loại ruộng mà đào các loại mương phù hợp để dẫn nước tới các chân ruộng cao thấp khác nhau. Nguồn nước ở mương bắt đầu được dẫn về bởi các phai. “Phai” là các con đập chắn ngang dòng suối được xây dựng từ nguồn nguyên liệu sẵn có như đất, đá, gỗ, tre... Có hai loại phai là phai đá và phai cây, phai quyết định lượng nước trong mương. Phai vững thì mương có nước tưới cho ruộng và mùa vụ đảm bảo năng suất tốt. Ngược lại, phai vỡ thì mùa màng thất bát. Bởi vậy, khẳng định tầm quan trọng của phai, người Thái có câu tục ngữ "Po tai păng; po nhăng phai mẳn" (phai vỡ như cha chết, phai vững như cha còn). Để bảo vệ cho mương vững chắc, nhất là những loại mương đắp nổi, người ta thêm những kè phụ, gọi là “lái”. Trong trường hợp địa hình phức tạp không thể đào mương hoặc đắp mương dài liên tục được thì người ta làm máng dẫn để thay thế, gọi là “lín”. Trong trường hợp do ruộng nước cần tưới ở độ cao, sau khi đắp phai nước đã dâng lên cao mà chưa đủ độ cao để chảy vào ruộng thì người Thái lựa chọn giải pháp làm “cọn” để đưa nước lên cao. Cách làm “cọn” là nhờ vào sức mạnh của dòng nước, tác động vào cánh chắn để quay bánh xe, các ống nước ở bánh xe sẽ múc nước và đưa lên cao đổ xuống máng, từ đó nước theo ống máng chảy vào ruộng. Việc xác định vị trí để xây dựng các cọn nước được tính toán chi tiết sao cho các bánh quay của cọn nước hoạt động đủ để đưa nước lên các máng dẫn để đưa nước vào ruộng. Hệ thống “mương - phai - lái - lin” và cọn nước là phương thức khai thác tài nguyên nước một cách khôn khéo và linh hoạt của các dân tộc sống ở vùng núi trong canh tác ruộng nước mà trong đó điển hình là dân tộc Thái. Đối với người Thái, thủy lợi là vấn đề quan trọng hàng đầu trong qui trình gieo trồng cây lúa nước cần sự hợp sức của cộng đồng, bởi vì một cá thể hay một gia đình không thể làm được. Do vậy, trong xã hội truyền thống của người Thái đã sớm hình thành ý thức cộng đồng. Từ lao động đã tạo ra sự liên kết sức mạnh cộng đồng. Sức mạnh ấy có cội nguồn từ nhu cầu tạo ra nhiều lúa gạo để đáp ứng nhu cầu của con người. 2.2.3. Chọn giống, làm mạ và gieo trồng - Chọn giống: Lúa làm giống phải là hạt mẩy đều. Lúa giống được chọn ngay từ lúc thu hoạch, lúa chọn làm giống phải ở những đám ruộng tốt nhất, chín già nhất. Khi thu hái chỉ lấy bông mẹ chắc hạt và chín đều, cắt từng bông lúa buộc lại thành bó (cum), khi phơi lúa giống phải để cả cum, phơi thật khô rồi cất lúa giống chờ vụ gieo hạt năm sau. Sống với nghề trồng lúa nếp, người Thái đã chọn được nhiều loại giống lúa thích nghi đối với từng loại ruộng. Những nơi ruộng có đất tốt thì thường trồng các giống lúa nếp tan (tan Ngấn, tan Lanh, tan Lương, tan Nhe), còn ở những ruộng trung bình thường trồng các giống (Nhoi, Bong, La). Một số giống lúa bản địa của dân tộc Thái ở các địa phương được thống kê qua Bảng 3. - Làm mạ và gieo trồng: Quá trình làm mạ, người Thái thường ngâm thóc giống trong chum 2 ngày, ủ thóc giống 2 ngày 2 đêm trong lá mùng (trong quá trình ngâm thóc giống cứ 20 kg thóc giống lại hòa 1 lạng muối cho vào cùng). Sau đó gieo mạ 40 ngày, dầm mạ 50 ngày thì đem cấy. - Cấy lúa: Là khâu quan trọng nhất để đảm bảo sự phát triển của cây lúa nước. Kinh nghiệm cấy cổ truyền của người Thái phải thực hiện hai lần: giâm mạ gọi là “xắm”, nhổ mạ “dầm”, đi cấy thật gọi là “đăm”, nó được tổng kết trong thành ngữ Thái “pú xắm, đăm cả” (nghĩa là: dầm mạ, cấy mạ). 213
  6. Đặng Thị Nhuần Bảng 3. Tên giống lúa bản địa của người Thái Sơn La STT Giống lúa Tiếng Thái Thời gian từ lúc Cấu tạo hạt thóc Địa điểm thu thập gieo mạ đến lúc được thu hoạch (ngày) Xã Huyện Khảu tan Hạt bé, tròn, gạo trắng, Púng Thuận 1 Tan Nhe Trên 180 ngày nhe thơm. Tra Châu Tan Khảu tan Vỏ hạt gạo ửng đỏ, hạt Púng Thuận 2 Trên 180 ngày Lanh lanh tròn, gạo trắng, thơm Tra Châu Vỏ hạt vàng, hạt tròn, hạt Tan Khảu tan Púng Thuận 3 Trên 180 ngày to hơn tan nhe, gạo trắng, Ngấn ngân Tra Châu ít thơm Vỏ hạt vàng ửng, hạt tròn Tan Khảu tan Púng Thuận 4 Trên 160 ngày hơi dẹt, hạt trung bình, Lương lương Tra Châu gạo trắng, dẻo và ít thơm Khảu tan Púng Thuận 5 Tan Hin Trên 160 ngày Hạt màu xám, nhỏ , tròn hin Tra Châu Khẩu Bong Hạt thóc vàng, nhỏ, gạo Púng Thuận 6 bong Trên 160 ngày Lương trắng, dẻo Tra Châu lương Vỏ vàng nhạt, hạt to và Bong Khảu Chiềng Quỳnh 7 Trên 180 ngày dẹt, gạo trắng, ít thơm, Chồn bong chồn Bằng Nhai không dẻo lắm. Vỏ đen, hạt tròn to và hơi Bong Khảu Chiềng Quỳnh 8 Trên 180 ngày dẹt, gạo trắng, ăn dẻo và Đăm bong đăm Bằng Nhai không thơm. Vỏ vàng nhạt, hạt dài, Khảu lo Chiềng Quỳnh 9 Lo Chiến Trên 120 ngày góc cạnh, gạo trắng, rất chiến Bằng Nhai dẻo, ít thơm Vỏ vàng nhạt, hạt to hơi Khảu má Chiềng Quỳnh 10 Má Hỏ Trên 180 ngày dẹt, gạo trắng, ít thơm, ít hỏ Bằng Nhai dẻo Vỏ vàng nhạt, hạt to hơi Má Khảu má Chiềng Quỳnh 11 Trên 180 ngày dẹt, gạo trắng, ít thơm, ít Khưa khưa Bằng Nhai dẻo Vỏ hơi tím vàng, hạt to Khảu máy Chiềng Mường 12 Mảy Láy Trên 180 ngày dẹt, gạo trắng, ít thơm, ít lay Lao La dẻo Vỏ vằn đen vàng, hạt tròn Khảu lai Chiềng Mường 13 Lai Nhên Khoảng 150 ngày hơi dẹt, gạo trắng, rất nhên Lao La dẻo, rất thơm (Nguồn: Tư liệu điều tra thực địa) Tiêu chuẩn kĩ thuật của dầm mạ, cấy mạ là “bốn mươi ngày mạ, năm mươi ngày dầm” (xí xíp cả, hả xíp xắm). Như vậy, tuổi mạ được định là 90 ngày trong đó 40 ngày cây lúa phát triển ở ruộng mạ và 50 ngày sau lúa sẽ phát triển ở thời kỳ “dầm mạ”. Với phương pháp cấy 2 lần, cây lúa nếp mọc rất tốt, biện pháp kĩ thuật này có tác động rất lớn tới năng suất cây lúa, tục ngữ Thái có câu: “lúa tốt bởi phân, mạ tốt bởi dầm” (khẩu chăn pưa há, cả chăn pưa xắm). 214
  7. Tri thức bản địa trong canh tác lúa nước của dân tộc Thái tỉnh Sơn La 2.2.4. Tạo phân xanh cho ruộng Người Thái thực hiện cách tạo phân xanh như sau: theo lịch mùa vụ thì vào tháng 2, tháng 3 dương lịch, làm đất phát cỏ mọc quanh bờ ruộng. Sau đó, cày ruộng vùi xuống lớp dưới đất để ủ nước, qua thời gian các loại cây cỏ phân hủy làm chất màu cho đất ruộng. Ngoài ra, họ còn chặt một số loại cây như: cây chó đẻ (Baư bỏng bó); lá cây bát tràng (Baư tong tay); lá cây sống (Baư rau), các loại cây và lá này được hái và chặt nhỏ ủ lại ngay tại ruộng cho phân hủy tạo thành phân, khi cày lần 2 họ sẽ đem rải khắp đều ruộng, chính là nguồn phân hữu cơ rất tốt cho đất. 2.2.5. Chăm sóc, thu hoạch và bảo quản - Cách chăm sóc và bảo vệ: Sau khi cấy xong, người Thái để ruộng khan (khô) khoảng 10 ngày cho lúa bám rễ vào bùn, sau đó họ tháo nước vào, làm cỏ 2 - 3 lần, đối với những chỗ lúa xấu dùng phân bò hoặc phân lợn bón thêm. Đối với những ruộng phát hiện có sâu bệnh, người ta lấy cây sa nhân băm nhỏ và rải ở ruộng, mùi của cây sa nhân như một thứ “thuốc” đuổi sâu bệnh. - Thu hoạch: Khi lúa chín dùng dụng cụ tự tạo cầm tay (gọi là hép) cắt từng bông lúa, sau này dùng liềm để gặt lúa, rồi bó vào thành từng cum lúa để phơi trên những sàn bằng tre, hoặc nứa khoảng từ 3- 4 ngày (tùy thời tiết nắng nhiều hay ít). Họ tiến hành đập lúa ngay tại ruộng và vận chuyển về nhà. - Bảo quản: Khi cho lúa vào bồ chứa, người Thái thường dùng một số cây có mùi hắc để bên cạnh để chống mọt như cây ngải cứu (co lính lỉ), phơi khô để gần bồ thóc thường khi để như vậy thóc không bị mọt. 2.3. Đánh giá việc vận dụng tri thức bản địa vào sản xuất lúa nước bền vững Tri thức bản địa áp dụng trong việc phân chia các loại ruộng có tác dụng tìm ra phương thức canh tác phù hợp đối với từng loại đất. Những nơi ruộng có đất tốt dùng trồng các giống lúa nếp tan (tan Ngấn, tan Lanh, tan Lương, tan Nhe), còn ở những ruộng trung bình thường trồng các giống (Nhoi, Bong, La). Việc đặt các giống lúa sao cho phù hợp với từng loại ruộng có ý nghĩa rất lớn tới việc đảm bảo năng suất của từng giống lúa trên mỗi loại ruộng khác nhau. Việc dẫn nước, tạo mặt bằng cho từng thửa ruộng được thực hiện với mục đích đảm bảo nguồn nước và giảm bớt quá trình rửa trôi để đảm bảo độ phì cho đất. Đắp bờ ruộng nước của người Thái được thực hiện theo tiêu chuẩn trơn, nhẵn tựa bôi dầu (nặm mắn, kắn kiểng). Từ lúc bắt đầu đắp bờ cho tới khi lúa cho thu hoạch, ruộng phải quang đãng “sạch bờ tốt ruộng” (pe căn, chăn khẩu). Người Thái cho rằng làm như vậy sẽ giữ được nước ở ruộng và tránh được chuột tới làm ổ, phá hoại lúa. Lối canh tác dùng răng bừa tre, gỗ (không cần cày) của dân tộc Thái trước đây thích hợp với tính chất đất đai ở những thửa ruộng ở vùng núi, nếu dùng bừa hay cày sâu quá khi lớp đất mùn rất xốp và mỏng chỉ có ở phía trên sẽ làm xáo trộn xuống dưới sâu, hiệu quả canh tác giảm sút. Làm mạ ngâm giống vào nước ấm, cứ 20kg thóc giống lại hòa 1 lạng muối cho vào, khi hòa muối vào nước sẽ giúp cho những hạt thóc lép nổi lên trên được vớt bỏ, chỉ có những hạt chắc sẽ ở dưới. Điều này giúp những hạt thóc được ngâm thuộc hạt tốt nhất với cây mạ khỏe mạnh. Cách bảo vệ cây lúa ở ruộng nước, khi có sâu bệnh dùng bằng cây sa nhân cũng đem lại những hiệu quả tối ưu. Đây là loại cây cây chứa chất dầu nên nó có tác dụng xua đuổi côn trùng và các loại sâu gây bệnh cho lúa. Phương thức dùng cây sa nhân thay thuốc trừ sâu là một trong những cách bảo vệ được cây trồng không gây ảnh hưởng đến môi trường sống xung quanh, kinh nghiệm này có tác dụng tốt nhằm thích nghi với điều kiện địa lí sinh thái, góp phần đảm bảo nhu cầu lương thực tại chỗ, giảm thiểu tác động tiêu cực và tổn hại sự đa dạng sinh học trong hệ sinh 215
  8. Đặng Thị Nhuần thái nông nghiệp. 3. Kết luận Hiện nay, dân tộc Thái ở Sơn La một mặt sử dụng tri thức bản địa, đồng thời biết áp dụng khoa học công nghệ hiện đại trong sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, hoạt động nông nghiệp cho năng suất cao, sản lượng lương thực không chỉ phục vụ sinh hoạt mà còn cung cấp cho thị trường. Sản xuất nông nghiệp hiện đại bên cạnh việc áp dụng tiến bộ khoa học cần khai thác lợi thế, ưu điểm từ các phương pháp canh tác truyền thống của cộng đồng dân tộc. Tri thức bản địa trong sản xuất lúa nước của cộng đồng dân tộc Thái được tích lũy nhiều thế hệ đã trở thành bài học kinh nghiệm bổ sung hiệu quả, hỗ trợ phương thức sản xuất hiện đại. Do vậy, các ngành chức năng liên quan và cộng đồng địa phương tỉnh Sơn La cần xây dựng chiến lược phát triển lương thực hàng hóa bền vững dựa vào lợi thế của địa phương. Mặt khác, cần coi trọng và quan tâm nghiên cứu, ứng dụng hệ thống tri thức bản địa nhằm giới thiệu, khuyến khích áp dụng phục vụ phát triển sản phẩm lương thực từ lúa gạo mang thương hiệu Sơn La theo hướng tăng trưởng xanh, an toàn cho sức khỏe người tiêu dùng, bảo vệ và duy trì tính bền vững của hệ sinh thái nông nghiệp ở vùng núi. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Ban dân tộc tỉnh Sơn La, 2016. Báo cáo thống kê dân số chia theo dân tộc năm 2016. Sơn La. [2] Trần Bình, 2001. Tập quán hoạt động kinh tế của một số dân tộc ở Tây Bắc Việt Nam. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. [3] Đặng Thị Nhuần, 2016. Tìm hiểu phương thức canh tác của dân tộc Thái ở huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Hội nghị khoa học Địa lí toàn quốc lần thứ 9. Nxb Khoa học tự nhiên và công nghệ. [4] Ngô Xuân Sao, 2012. Tri thức bản địa trong canh tác lúa nương truyền thống của người Thái ở các xã miền núi phía tây Thanh Hóa. Tạp chí Dân tộc học số 1, tr. 31-38 [5] Mai Văn Tùng, 2016. Tri thức bản địa Thái trong sản xuất nông nghiệp. Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 382. [6] Cầm Trọng, 2005. Những hiểu biết về người Thái ở Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [7] Cầm Trọng, 1978. Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội Việt Nam. [8] Lê Thông, 2002. Địa lí các tỉnh và thành phố Việt Nam. Nxb Giáo dục, Hà Nội. [9] Trung tâm nghiên cứu sinh thái môi trường, 2001. Phương pháp thu thập và sử dụng kiến thức bản địa tập II. Nxb Nông nghiệp. ABSTRACT Indigenous knowledge in wet rice cultivation of the thai ethnic group, Son La province Dang Thi Nhuan Faculty of History - Geography, Tay Bac University This paper presents the results of the research on the indigenous knowledge in wet rice cultivation of the Thai ethnic group in some traditional residential areas in Son La province. By applying on site methods of surveying, interviewing, consulting community of rice farmers, this research, identifies the wet rice cultivation techniques, traditional technical methods from wet rice-field classification to the other stages such as turning over the soil, seeding and planting, caring, harvesting and preserving post-harvest rice. The results of the research show the positive aspects of the indigenous knowledge in wet rice cultivation, such as improving productivity and food yield, and properly using land and water resources, contributing to protecting the traditional locally agricultural ecosystems. Keywords: Indigenous knowledge, wet rice, the Thai ethnic group, Son La. 216
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2