Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
TRI THỨC DÂN GIAN<br />
CỦA NGƯ DÂN ĐÀ NẴNG<br />
? Đinh Thị Trang *<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
T<br />
ri thức là kết quả của các quá trình<br />
nhận thức của con người, là sự hiểu<br />
biết, sáng tạo và những khả năng, kỹ<br />
năng của con người qua quá trình đúc<br />
rút kinh nghiệm lâu dài trong đời sống cộng đồng để<br />
ứng dụng nó vào việc tạo ra cái mới nhằm mục đích<br />
phát triển kinh tế - xã hội. Những tri thức do nhân dân<br />
tạo ra, đúc kết trở thành những kinh nghiệm được lưu<br />
truyền trong dân gian từ đời này sang đời khác được<br />
gọi là tri thức dân gian. Giáo sư Ngô Đức Thịnh, một<br />
trong những chuyên gia nghiên cứu hàng đầu của<br />
Việt Nam về văn hóa đã cho rằng, tri thức dân gian<br />
bao gồm: 1) Tri thức về môi trường tự nhiên (địa lý, tránh được những mất mát về người cũng như tài sản<br />
thời tiết, khí hậu...); 2) Tri thức về con người (bản thân: trong quá trình ra khơi đánh bắt kéo dài hàng tháng<br />
y học dân gian và dưỡng sinh dân gian); 3) Tri thức trời lênh đênh trên biển cả mênh mông. Những tri<br />
ứng xử xã hội (ứng xử cá nhân và ứng xử cộng đồng); thức này thường dựa trên sự quan sát những hiện<br />
4) Tri thức sản xuất (kỹ thuật và công cụ sản xuất). tượng tự nhiên như: gió, chớp, sóng, mây, trăng sao,<br />
Ở Đà Nẵng, tri thức dân gian của cộng đồng ngư con nước,… để dự đoán. Ngày xưa, khi chưa có máy<br />
dân ven biển cũng bao gồm những tri thức về thời móc, thiết bị định vị, ngư dân đánh cá ngoài khơi<br />
tiết, con người, trong ứng xử xã hội, trong sản xuất,... mỗi khi muốn đi vào bờ thì phải nhìn sao mai mọc ở<br />
Trong quá trình nghiên cứu tư liệu và điền dã tại các hướng nào rồi theo hướng đó mà tiến.<br />
phường ven biển Đà Nẵng, chúng tôi đã thu thập Người dân miền biển Đà Nẵng có nhiều kinh<br />
được khá nhiều tư liệu liên quan đến tri thức dân gian nghiệm trước những tín hiệu tự nhiên, như sự thay<br />
của cư dân vùng đất này. đổi bất thường trên bầu trời hoặc những hiện tượng<br />
1. Tri thức dân gian thể hiện qua thời tiết lạ xung quanh mà đoán biết tình hình thời tiết ở vùng<br />
đất mình đang sinh sống. Đặc biệt, mỗi khi nhìn thấy<br />
Những tri thức về thời tiết được ngư dân Đà Nẵng sao tua rua là họ lại lo lắng một năm mất mùa:<br />
đúc kết tự bao đời nay. Nó thể hiện sắc thái riêng của<br />
địa phương, đồng thời có tính khái quát cao, có thể - Sao tua rua mọc, vàng cây chết lá.<br />
áp dụng cho nhiều địa phương khác trên cả nước. Sao tua rua lặn, chết cá chết tôm.<br />
Chính nhờ những kinh nghiệm được lưu truyền trong<br />
- Đời ông cho chí đời cha<br />
dân gian từ đời này sang đời khác mà người dân sống<br />
bằng nghề đánh bắt thủy hải sản trên biển phần nào Mây phủ Sơn Trà, không gió thì mưa.<br />
<br />
*<br />
ThS., Liên hiệp các hội Văn học - Nghệ thuật Đà Nẵng.<br />
<br />
42 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
- Chiều chiều mây phủ Sơn Trà Ngư dân thường quan sát mặt trăng, nếu thấy<br />
Sấm rền Non Nước, trời đà chuyển mưa. trăng non (trăng từ khoảng mồng 8 đến 12 âm lịch)<br />
nằm nghiêng thì sau vài ngày sóng mặt biển thường<br />
- Mống đóng đằng tây mưa rây gió giật. rất cao, gió sẽ rất lớn, có thể có bão. Còn nếu trăng<br />
- Mống dài trời lụt, mống cụt trời mưa. khuyết mà nằm ngang thì trời trong xanh, rất đẹp, có<br />
thể ra khơi bình thường.<br />
- Mống cao gió táp, mống rạp mưa dầm.<br />
Họ còn dự đoán bão qua các hiện tượng như bùn<br />
- Mây kéo xuống biển thì nắng chang chang<br />
non ở biển, sóng trên gành, trên cửa, màu nước,...<br />
Mây kéo lên ngàn thì mưa như trút. Nước biển thường có màu xanh hoặc màu lục, nếu<br />
- Chớp phía đông, mưa giông đã tới. nước biển ở một vùng nào đó có màu xanh da trời<br />
càng nhạt thì thường hay xảy ra những cơn bão, mưa<br />
- Ba con chảy, bảy con cường.<br />
lớn; hoặc nước biển bỗng nhiên đổi màu sậm là dấu<br />
- Nắng ui ui thui chết người. hiệu sắp có một cơn dông hoặc bão.<br />
Và những kinh nghiệm đã được đúc kết lâu đời đó Ngư dân Đà Nẵng cũng như những cư dân nhiều<br />
phần nào đã giúp họ kịp thời lo liệu được những công địa phương khác cũng thường quan sát các hiện<br />
việc thường ngày trong cuộc sống: tượng của sinh vật để dự đoán thời tiết. Những khi<br />
- Mống Cu Đê trở về dọn gác. trời nắng to mà thấy rễ cây si nổi những túa trắng thì<br />
nhất định sẽ lụt:<br />
- Mây đen phủ kín Sơn Trà.<br />
- Rễ si ra trắng, chẳng nắng được lâu.<br />
Gấp lo thu dẹp kẻo mà có mưa.<br />
- Rễ si trắng xóa đâm ra.<br />
Những lúc thời tiết bất lợi cho nghề nghiệp thì<br />
ngư dân cũng dựa vào những hiện tượng tự nhiên Mưa to gió lớn hẳn là đến nơi.<br />
để mà tránh. Trên biển cả bao la, có lẽ đáng sợ nhất là Người ta quan sát thấy lá cây cỏ ống bị móp đầu<br />
gặp bão. Trước đây, khi các phương tiện truyền thông lá, thì sẽ có bão xảy ra, có bao nhiêu ngấn móp thì sẽ<br />
hiện đại chưa phát triển thì người ta dựa vào những tương ứng với bấy nhiêu cơn bão; hoặc cây tre mà có<br />
kinh nghiệm đã được các thế hệ cha ông đi trước trao mụn măng mọc ngay giữa khóm thì có bão.<br />
truyền lại cho thế hệ con cháu để dự đoán có thể có<br />
bão hay không. Ngư dân nơi đây cho rằng, nếu tháng Bên cạnh đó, người ta còn quan sát những con vật<br />
2, tháng 3 âm lịch mà có mây bay về hướng Bắc thì như chuồn chuồn, kiến, cua, ong... cũng có thể đoán<br />
gió to biển động, dễ có bão "Tháng giêng động dài, được thời tiết:<br />
tháng hai động tố". Nếu không khí tự nhiên oi bức, gió - Tháng bảy heo may chuồn chuồn bay thì bão.<br />
lặng kéo dài khoảng hai ngày, nhìn lên trời thấy mây<br />
- Kiến đắp thành thì bão, kiến ẵm con chạy rảo thì<br />
có hình dạng như những dãy núi đồ sộ, gió tăng dần,<br />
mưa.<br />
đây có thể là sắp có bão di chuyển về hướng đó.<br />
Ngư dân ven biển Đà Nẵng còn dựa vào sự khác<br />
Quan sát chớp cũng có thể đoán được bão. Những<br />
thường của loài cua đồng, loài cò để dự đoán thời tiết:<br />
khi có chớp xa phía đông nam hoạt động liên tục và<br />
đều đặn và có những tia sáng chéo nhau thì nơi điểm - Cua bò lên bờ thế nào cũng lụt.<br />
sáng nhất là hướng đang có bão hoạt động: - Cò bay ngược nước vô nhà.<br />
Đông Nam có chớp chéo nhau Cò bay xuôi nước ra biển.<br />
Thấp sát mặt biển hôm sau bão về. Nhiều lúc không may, đang làm nghề trên biển<br />
Trong quá trình đi biển, người dân cũng có thói mà gặp gió bão bất ngờ, ngư dân cũng vận dụng<br />
quen quan sát con sóng. Nếu có sự xuất hiện của sóng những kinh nghiệm của mình để bảo toàn mạng<br />
lừng, hướng lan truyền của sóng không trùng với sống. Khi xác định được tàu, thuyền nằm ở nửa vòng<br />
hướng gió là dấu hiệu cho thấy có bão đang hoạt động nguy hiểm thì phải lập tức cho tàu, thuyền chạy theo<br />
ở cách xa hàng trăm km. Nhìn chung hướng lan truyền hướng sao cho gió thực thổi chéo phía trước từ mạn<br />
của sóng gần trùng với hướng di chuyển của bão. phải khoảng từ 300 - 450 ở bán cầu Bắc và từ mạn trái<br />
<br />
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
43<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
nếu ở bán cầu Nam. Dựa vào la bàn, giữ lái cho tàu, Dân chài vùng biển có kinh nghiệm trong thời<br />
thuyền đi theo hướng ấy cho đến khi còn có thể lái điểm tốt nhất để đánh cá, khi gió nồm thổi về thì có<br />
được. Với phương pháp điều khiển trên tàu, thuyền nước lợ ở vùng sát bờ, nên cá thường ra xa bờ. Những<br />
có thể được đưa ra xa khỏi đường đi của tâm bão theo lúc đó, thuyền to không thể đánh bắt gần bờ nên có<br />
một đoạn đường ngắn nhất với một góc độ dường được bất cứ con gì cũng phải bắt cho được, không bỏ<br />
như thẳng góc với quỹ đạo di chuyển của bão. qua: “Nồm ngoài nước ngọt, chẳng để lọt con nào”.<br />
Đối với những trường hợp máy tàu, thuyền yếu, Những tri thức dân gian đó đã giúp ngư dân chống<br />
tốc độ chậm và hệ thống lái không tốt, không còn lại thiên tai, tránh được những tổn thất do thiên tai<br />
khả năng giữ được mũi tàu, thuyền gối sóng để thực gây ra. Ngày nay, khoa học kỹ thuật là công cụ hữu<br />
hiện ý định vượt ra ngoài vùng bão nữa thì họ phải hiệu để phòng chống thiên tai, tuy nhiên những kinh<br />
lựa và lái gối sóng thế nào để luôn có gió thực thổi ở nghiệm dân gian cũng có vai trò lớn giúp ngư dân<br />
bên mạn phải tàu, thuyền. Độ sâu nước của khu vực chuẩn bị tốt hơn chủ động hơn trước, trong khi đi<br />
tránh bão cũng cần phải thích hợp với mớm nước của biển và có khi phán đoán chính xác để tránh được<br />
tàu, thuyền. Khu vực tránh bão kín sóng nhưng nông những khi thiên tai bất ngờ.<br />
thì tàu, thuyền nếu không dễ bị mắc cạn thì cũng dễ<br />
bị lật nghiêng. Ở những nơi sâu quá cũng không tốt 2. Tri thức dân gian thể hiện qua nghề<br />
vì phải thả dài xích neo, bán kính quay trở tàu, thuyền Những tri thức về nghề đi biển của cư dân miền<br />
lớn dễ nguy hiểm khi bị rê neo. biển Đà Nẵng chẳng phải học trong sách vở hay<br />
Bên cạnh những kinh nghiệm về thời tiết còn là trường lớp mà là trong cuộc sống đời thường, trong<br />
sự báo hiệu từ những biểu hiện bất ổn của người nhà quá trình làm nghề trên biển. Từ khi ở tuổi thiếu niên,<br />
trước giờ ra khơi, chính nhờ như thế mà họ có thể những cậu con trai đã đi theo cha, anh ra biển để phụ<br />
tránh được những rủi ro, mất mát đáng tiếc: giúp những việc như nấu cơm, tát nước, khi đó họ<br />
được gọi là “vẹt sấp”; được một thời gian khi đã biết<br />
Thuận buồm xuôi gió thì đi chèo, chống, vung lưới thì gọi là “trai”; khi biết ứng<br />
Mặt nặng như chì ở lại nuôi con. phó với những tình huống trên biển thì gọi là “bạn”;<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
44 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
khi nào đánh cá có kinh nghiệm, dày dạn sóng gió thì làm nghề cho biết, việc chế biến nước mắm phải có<br />
thành “thợ”; khi về già, có nhiều kinh nghiệm trong bí quyết riêng, đó là những kinh nghiệm đã được các<br />
nghề, thì gọi là “ông lão lèn” vì sức yếu rồi nên cho giữ thế hệ đi trước trao truyền lại.<br />
chân cầm lèn đỡ vất vả hơn.<br />
Thứ nhất là việc lựa chọn nguồn nguyên liệu.<br />
Nghề khai thác biển ở Đà Nẵng hiện nay còn Người dân Nam Ô thường mua cá cơm than được<br />
khoảng 11 nghề đang hoạt động như: lưới vây (còn đánh bắt vào khoảng từ tháng 3 - 8 âm lịch trên vùng<br />
gọi là lưới rút), lưới cá cơm, lưới rập, lưới rê, lưới chuồn, biển Đà Nẵng. Người ta cho rằng, cá cơm than ở vùng<br />
xăm, mành đèn, lưới kéo, te ruốc, giã cào, câu. Mỗi biển Đà Nẵng có nguồn gốc từ Cà Mau, vào đầu tháng<br />
nghề đều có những ngư trường đánh bắt riêng nhưng 3 âm lịch, đàn cá đến vịnh Đà Nẵng và ở lại đến tháng<br />
thường dựa theo kinh nghiệm về con nước, biết được 8, do đó ngư dân thường chọn khoảng thời gian này<br />
lúc nước lên, nước xuống để tiện cho việc đánh bắt: để đánh bắt. Thời điểm này, cá nhiều hơn và ngon<br />
Tháng giêng tháng bảy kể là hơn nhờ dòng nước và thổ nhưỡng. Theo người dân<br />
Nam Ô, cá cơm than dùng để muối mắm phải còn<br />
Mùng năm tháng chín sinh ra cùng ngày tươi xanh, không to quá cũng không nhỏ quá. Bởi<br />
Tháng hai tháng tám chẳng chày nếu cá to thì khi muối xong cá lâu phân rã hoặc phân<br />
rã không đều, đến khi lấy nước mắm nhỉ sẽ có mùi vị<br />
Mùng ba, mười bảy mấy ngày thông thương<br />
không thơm, đặc biệt màu nước mắm không được đỏ<br />
Tháng ba tháng chín tỏ tường đậm, như thế nước mắm sẽ không ngon. Khi muối, cá<br />
Mười ba hăm bảy nước cường ai ơi không cần rửa lại, vì trước khi đưa lên bờ, cá đã được<br />
rửa bằng nước biển, nếu rửa bằng nước ngọt sẽ làm<br />
Tháng tư cùng với tháng mười cá mất ngon, để lâu khi muối dễ bị thối.<br />
Hai lăm mười một cùng ngày nước sinh Người dân cũng có bí quyết chọn và xử lý muối để<br />
Tháng năm tháng chín đinh ninh nhớ ngày muối cá, đó là loại muối có hạt to, xuất xứ từ những<br />
vùng sản xuất muối nổi tiếng như Sa Huỳnh (Quảng<br />
Tháng sáu tháng chạp hợp thay<br />
Ngãi) hay Cà Ná (Ninh Thuận) để có đủ độ mặn và lẫn<br />
Mùng bảy hâm mốt kể dày hết năm ít tạp chất. Họ đổ muối trên nền nhà lót gạch hoặc<br />
Ai ơi nhớ lấy kẻo lầm. nền xi măng khô ráo từ 5 đến 10 ngày để cho muối rỉ<br />
ra hết vị đắng (clor) trong nước biển, phần còn lại chỉ<br />
Nghề đánh bắt cá trên biển cả cũng có lúc được toàn là natri. Sau đó, người ta cho muối vào các chum<br />
mùa tùy theo hướng gió hợp chiều mà ra khơi: hoặc hũ đưa vào nhà (kho) cất giữ khoảng hai đến ba<br />
- Thuyền ngược ta khiến gió nam năm mới đem ra muối cá, như vậy sẽ tạo ra loại nước<br />
mắm không đắng chát.<br />
Thuyền xuôi ta khiến gió nồm thổi lên.<br />
Họ sử dụng những chiếc thùng, chum, hũ to, nhỏ<br />
- Nồm mùa sông, dông mùa biển.<br />
được làm bằng gỗ bằng lăng hay gỗ mít, gỗ sồi để<br />
- Coi gió bỏ buồm. muối cá nên nước mắm thường để được lâu hơn,<br />
Không chỉ nghề đánh bắt trên biển khơi có nhiều ngon hơn.<br />
kinh nghiệm mà nghề cào nghêu gần bờ cũng có Ngoài ra họ còn có bí quyết trong cách pha muối<br />
kinh nghiệm riêng: và định ra được thời gian mắm chín để lấy nước mắm,<br />
Nạo nghêu rặt những đi lùi phân loại nước mắm. Đấy là bí quyết được ghi trong<br />
bia thờ tại ngôi nhà thờ tộc Đinh được xây dựng cách<br />
Tay đè cán nạo, vân bầm tím da. ngày nay khoảng trên hai thế kỷ. Theo đó con cháu<br />
Ngoài nghề khai thác biển thì ngư dân Đà Nẵng tùy mùa vụ, loại cá mà làm mắm giữ được cái gốc cốt<br />
còn có những nghề phụ gắn liền với biển, điển hình cách của nước mắm Nam Ô.<br />
như nghề nước mắm Nam Ô nổi tiếng khắp cả nước. Với những kinh nghiệm sản xuất nước mắm riêng,<br />
Nghề nước mắm Nam Ô được hình thành và phát có bí quyết nghề riêng cho nên nước mắm Nam Ô trở<br />
triển lâu đời. Theo các hộ gia đình có truyền thống thành một thương hiệu nổi tiếng tự bao đời nay.<br />
<br />
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
45<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
3. Tri thức dân gian thể hiện qua ẩm thực Và mỗi loại hải sản lại thích hợp với một cách chế<br />
Nhà nghiên cứu Trần Văn An tại cuộc Hội thảo biến riêng, tép Nam Ô thì thường có thịt béo hơn:<br />
khoa học toàn quốc Văn hóa dân gian với vấn đề biển Rủ nhau mua tép Nam Ô<br />
đảo được tổ chức tại Quảng Ngãi ngày 15.7.2016 cho<br />
Sẵn bờ cát trắng, phơi khô đem về.<br />
rằng, tri thức dân gian thể hiện qua ẩm thực trước<br />
hết là ở việc khai thác, sử dụng các nguồn nguyên Đối với ngư dân, hương vị của món ăn cũng cần<br />
liệu, sản vật biển đảo để làm món ăn, thức uống phải kết hợp tinh tế, chế biến nêm nấu phù hợp tùy<br />
chính hàng ngày. Sự có mặt ngày càng nhiều món ẩm vào từng loại. Họ đem kinh nghiệm đó lưu truyền đời<br />
thực sử dụng nguyên liệu từ biển đảo, một mặt làm này qua đời khác.<br />
phong phú rõ rệt bữa ăn hàng ngày của người dân<br />
- Tôm nấu sống, bống để ươn.<br />
địa phương, mặt khác thể hiện sự chiếm lĩnh sâu sắc<br />
của người dân đối với môi trường biển đảo. - Con tôm kho mặn thì bùi<br />
Trong khi đó, người Việt từ xưa đã có truyền thống Con cá kho mặn mất mùi không ngon.<br />
ẩm thực là “cơm - rau - cá”, chính vì vậy, trong bữa ăn<br />
- Mắm cơm, mắm nục, mắm kình<br />
người dân thường chuộng ăn cá hơn ăn thịt. Có lẽ do<br />
đặc thù địa hình nhiều sông suối, lại giáp biển nên Có muối có mắm, có mình có ta.<br />
lượng hải sản cung cấp cho người dân dồi dào. Ở Đà<br />
- Ai về nhắn với bạn nguồn<br />
Nẵng, từ xưa người dân đã biết nhiều cách chế biến<br />
các loại hải sản như kho, hấp, nướng,... Tuy nhiên, để Mít non gởi xuống, cá chuồn gởi lên.<br />
biết được con cá nào tươi, con cá nào ươn, ăn như thế Cá chuồn, mít non là món ăn dân dã trong vùng,<br />
nào là ngon và phải chế biến ra sao thì ngư dân nơi là món không thể thiếu trong thực đơn của người<br />
đây có kinh nghiệm riêng: dân Đà Nẵng nhất là nông thôn. Người ta thường<br />
- Không cá thì thà gắp mắm. mua cá chuồn tươi về xẻ dọc bụng, sau đó trở sống<br />
- Con cá đánh ngã bát cơm. dao dần cho mềm xương sống cá ra, chặt đầu vằm<br />
nhỏ với thịt heo mỡ và ruột cá, thêm gia vị tiêu, ớt,<br />
- Mua cá thì phải xem mang hành, nước mắm ngon bóp nhuyễn nhét vào bụng<br />
Mua thịt thì phải xem gan kẻo lầm. cá, gấp đôi hoặc gấp ba con cá lại, lấy dây buộc chặt<br />
Thức ăn của người dân biển chủ yếu là các loại hải tất cả đem rán chín, rồi “um cá” (bằng cách cho nước<br />
sản. Do đặc thù nghề nghiệp nên họ được ăn cá thoải và muối vào kho) sao cho nước vừa và sít là được, ăn<br />
mái và luôn rành rẽ những bộ phận ngon nhất của rất ngon. Nếu muốn để dành thì vào mùa cá chuồn,<br />
từng loài cá. Đặc biệt, với người dân biển thì có lẽ cá mua về xâu lại phơi nắng thật khô, cho vào bầu tre ủ<br />
lúc nào cũng là của ăn của để: kín để dành, mỗi khi ăn hái quả mít non vườn nhà, vạc<br />
hết gai, chẻ ra băm nhỏ hoặc thái thành lát mỏng nấu<br />
- Nhà biển ăn cá bỏ đầu<br />
với cá chuồn khô, khi chín thêm lá lốt, đó là món ăn<br />
Nhà quê thấy tiếc bèn xâu đem về. thường ngày khi mùa cá chuồn đến.<br />
- Nhứt đầu cá thu, nhì mui (môi) cá chuồn. 4. Tri thức dân gian thể hiện qua y dược<br />
- Nhứt đầu cá chang, nhì gan cá mập. Biển không những mang đến cho ngư dân Đà<br />
Sản phẩm của nghề biển được ngư dân đem chế Nẵng nguồn hải sản lớn mà từ lâu, bằng kinh nghiệm<br />
thành đặc sản nước mắm Nam Ô nổi danh khắp cả dân gian, ngư dân đã tìm ra từ biển nhiều phương<br />
nước. Nó trở thành món quà quê ý nghĩa mà mỗi thuốc tốt cho họ. Trước hết, biển mang đến một bầu<br />
người dân làng Nam Ô gửi gắm vào. Có lẽ do thổ không khí trong lành, mát mẻ về mùa hè và ấm áp<br />
nhưỡng và khí hậu giao hòa giữa núi và biển nên nơi vào mùa đông. Hơi nước và gió từ biển thổi vào góp<br />
đây đã tạo ra những sản vật, sản phẩm ngon lạ lùng: phần làm trong lành cho tầng khí quyển của đất liền.<br />
- Đợi mắm Nam Ô, đợi cua làng Gành. Các yếu tố của biển như nước biển, cát biển, có thể<br />
chữa một số bệnh ngoài da, phong thấp, suy nhược,<br />
- Nam Ô nước mắm thơm lừng bệnh đường hô hấp, viêm xoang, gai cột sống… cho<br />
Đi mô cũng nhớ mùi hương quê nhà. nên người dân thường đi tắm biển vào buổi sáng,<br />
<br />
46 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
buổi chiều hoặc đi bộ, phơi nắng, vùi mình trong cát bệnh. Điển hình như mứt biển, đó là một loại rong<br />
trên bãi biển. biển ăn được (porphyra), loài tảo đỏ này lúc còn non<br />
thường có màu hồng, khi về già thì lại chuyển sang<br />
Ngư dân còn sử dụng một phương pháp chữa<br />
màu đỏ thẫm tím. Mứt biển không chỉ làm thức ăn<br />
chứng đau dạ dày khi trên biển rất hay mà các nhà<br />
thường nhật mà còn làm thực phẩm chức năng, hỗ<br />
truyền giáo phương Tây đến Đàng Trong vào thế kỷ<br />
trợ chữa bệnh. Ngoài thành phần chất đạm cao, mứt<br />
XVI còn ghi lại. Trong tác phẩm Hành trình và truyền<br />
biển ở Đà Nẵng còn chứa rất nhiều khoáng chất, các<br />
giáo do Ủy ban đoàn kết Công giáo Thành phố Hồ<br />
yếu tố vi lượng và các loại vitamin, trong đó nổi bật<br />
Chí Minh xuất bản năm 1994, giáo sĩ Alexandre de<br />
là yếu tố vi lượng iốt, canxi với hàm lượng cao, là một<br />
Rhodes kể lại rằng: “Tôi tưởng nên kể ở đây một bí quyết<br />
thực phẩm “dưỡng sinh” tốt phối hợp trong điều trị<br />
tuyệt diệu của giáo dân Đàng Trong dạy tôi để không<br />
nhiều bệnh mãn tính như: bệnh béo phì, đái tháo<br />
bị đau dạ dày khi đi biển. Thực ra không bao giờ tôi đi<br />
đường, tăng huyết áp, suy tuyến giáp và cung cấp<br />
biển mà không bị chứng đó hoành hành trong năm sáu<br />
canxi cho trẻ còi xương,...<br />
ngày đầu. Thấy tôi quặn đau, người ta mách tôi một liều<br />
thuốc rất hiệu nghiệm. Bệnh này là do thuyền tàu chòng Thay lời kết<br />
chành hoặc hơi khí biển bốc lên. Đây là liều thuốc: mổ<br />
Tri thức dân gian của ngư dân Đà Nẵng được đúc<br />
bụng con cá lớn lấy mấy con cá con trong đó, đem rán<br />
kết trong quá trình lao động và sinh sống lâu dài,<br />
lên, rắc chút hồ tiêu và ăn trước khi bước xuống thuyền.<br />
được lưu giữ trao truyền từ đời này qua đời khác và có<br />
Thế là tức khắc dạ dày cứng cáp khỏe mạnh, đi biển<br />
ý nghĩa thực tiễn to lớn. Những tri thức đó giúp ngư<br />
không núng. Tôi thấy bí quyết này kỳ diệu, nhưng còn<br />
dân vượt qua nhiều thiên tai và vận dụng vào khai<br />
kỳ diệu hơn khi dùng, từ đó tôi vẫn đem ra thực hành và<br />
thác có hiệu quả, đảm bảo được đời sống hàng ngày<br />
không bao giờ đau bệnh này nữa”.<br />
của họ. Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển,<br />
Để chống lại cái lạnh của gió biển vào mùa đông, đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng, những tri thức<br />
ngư dân cho biết, mỗi khi đi biển họ thường uống này phần lớn bị mai một. Người già có kinh nghiệm<br />
một chén nước mắm mặn để chống chọi với gió độc thì không có sức khỏe để đi biển, người trẻ đi biển<br />
và cái lạnh của biển khơi. chủ yếu sử dụng, phụ thuộc vào các phương tiện kỹ<br />
thuật hiện đại,... nên việc lưu giữ những tri thức này là<br />
Họ còn sử dụng nhiều loại rong tảo trong lòng<br />
vấn đề hết sức cấp thiết.<br />
biển, hoặc các loại cây lá ở những mõm núi sát biển<br />
như ghềnh Nam Ô, bán đảo Sơn Trà để chữa rất nhiều Đ.T.T.<br />
<br />
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
47<br />