NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
TRI THỨC DÂN GIAN CỦA NGƯỜI DAO
VÊ SỬ DỤNG THUÔC NAM
trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng
dưới øóc nhìn văn hóa
1. Đặt vấn đề
Trong thời gian qua, việc tiếp cận các vấn
đề liên quan đến chăm sóc sức khỏe cộng đồng
theo hướng nhân học/dân tộc học hiện nay đã
khá phổ biến. Theo đó đã xuất hiện những
nghiên cứu về thực trạng chăm sóc sức khỏe
của một số dân tộc thiểu số ở nước ta. Tuy
nhiên, việc nghiên cứu tri thức dân gian về sử
dụng thuốc nam trong chăm sóc sức khỏe giữa
các nhóm Dao ở các địa bàn Tuyên Quang,
Bắc Kạn và Quảng Ninh dưới góc độ văn hóa
đến nay vẫn chưa được đề cập đầy đủ.
Người Dao cư trú tập trung ở các tỉnh miền
núi phía bắc Việt Nam - nơi có điều kiện thuận
lợi để khai thác nguồn dược liệu. Việc chữa
bệnh bằng các loại cỏ cây là vốn kinh nghiệm
quý giá có từ lâu đời của đồng bào (Phạm
Quang Hoan, Hùng Đình Quý 1999: 313),
Người Dao tuy không có lý thuyết â âm dương,
hàn nhiệt, ngũ hành như Y học cổ truyền của
Trung Hoa hay y học cổ truyền chính thống
Việt Nam, nhưng từ xa xưa, họ đã hình thành
tập quán sử dụng thực vật, có những quan
điểm riên ø trong cách trị bệnh, có những cây
thuốc quý báu và kinh nghiệm chữa bệnh rất
hữu ích mà chúng ta ít biết đến. Mặt khác,
những cây thuốc quý đang đứng trước nguy
cơ bị tuyệt chủng: đồng thời những tri thức y
học dân gian quý báu hiện đang có nguy cơ
bị thất truyền.
Việc sử dụng cây thuốc của người Dao
không chỉ có ý nghĩa trong chăm sóc sức khỏe
cho cộng đồng mà còn mang giá trị văn hóa
NGUYỄN THỊ TÁM
rất lớn. Tri thức y học dân gian là một trong
các thành tố của văn hóa. Việc khai thác, kế
thừa và phát huy vốn tri thức ấy còn góp phân
gìn giữ bản sắc văn hóa tộc người (Trần Hồng
Hạnh 2002: 30). Vì vậy, bài viết góp phần bổ
sung nguồn tư liệu về tri thức địa phương sử
dụng thuốc nam trong chăm sóc sức khỏe của
ba nhóm Dao (Dao Đỏ, Dao Tiền và Dao
Thanh Y) tại ba điểm nghiên cứu: Tuyên
Quang, Bắc Kạn, Quảng Ninh; đặc biệt là
những phương thức chữa bệnh hữu hiệu của
đồng bào về một số bệnh mà y học hiện đại
còn gặp khó khăn hoặc chi phí cứu chữa quá
lớn nằm ngoài khả năng chi trả của những
người dân nghèo.
2. Tri thức của người Dao trong chăm sóc
sức khỏe và sử dụng thuốc nam
2.1. Quan niêm vê ôm đau vd bệnh tật
Những tri thức về chăm sóc sức khỏe của
người Dao xuất phát từ quan niệm của họ về
nguyên nhân gây ra bệnh tật. Trước đây, các
nhóm Dao cũng như những tộc người thiểu số
khác luôn cho rằng khi bị đau ốm có thể do
con ma quấy nhiễu. Họ quan niệm con người
có hai phần không thể tách rời: phần hồn và
phần xác, hồn năm trong cơ thể người nhưng
phân bổ ở các vị trí như mắt, mũi, chân, tay,
lưng, miệng, cổ, bụng, ngực... Người Dao Đỏ
coi hồn chính nằm ở phần đầu của một đứa bé
vì nó là phần cao nhất trong cơ thể con người
nên người ta kiêng xoa hoặc sờ vào đầu trẻ
con vì sợ chạm đến hồn chính và làm nguy
hại đến tính mạng đứa trẻ sau này. Tuy nhiên,
TẠP CHÍ VHDG SỐ 3/2016
người Dao Tiền ở Bắc Kạn khẳng định: hồn
chính của con người năm ở ngực vì tim duy trì
mọi hoạt động sông, tim ngừng đập thì sự sông
không còn nữa. Khi tất cả các hồn tụ họp đầy
đủ trong cơ thể con người thì con người mới
được khỏe mạnh, nếu thiếu thì sẽ sinh ra bệnh
tật, đau ốm. Người Dao Thanh Y ở Quảng Ninh
còn cho rằng, một số người chết "bất đắc kỳ
tử" thường có âm khí rất độc, những người vía
nhẹ đi dự đám ma đó khi về nhà có thể bị đau
ốm. Họ quan niệm, trong thế giới ma quỷ cũng
tồn tại tổ tiên, thần linh và ma ác. Vì thế, con
người phải biết thờ cúng tổ tiên và các thần
linh, tiến hành các nghi lễ như các phép thuật
để cầu hồn, xin những ma lành phù hộ, phòng
trừ các ma ác làm hại người. Nếu con người
không cúng bái cẩn thận thì sẽ bị ma quấy
rầy, gây ốm đau, thậm chí gây họa cho con
người, làm hại mùa màng và gia súc. Do đó,
biện pháp hữu hiệu mà người Dao vẫn hay sử
dụng, đó là mời thầy cúng đến cúng bái để
hóa dữ thành lành, ngăn chặn sự làm hại của
ma ác.
Người Dao còn dựa vào sự thay đổi của
môi trường để lý giải cho việc ốm đau. Họ cho
rằng, sự mắt cân bằng giữa cơ thể và môi trường
hay do thời tiết, khí hậu thay đổi đột ngột cũng
là nguyên nhân gây bệnh cho con người. Đặc
biệt là vào những thời điểm giao mùa hoặc khi
tiết trời hanh khô, con người dễ bị mắc các
chứng cảm cúm, sổ mũi, bệnh liên quan đến
khớp... trong đó người già và trẻ nhỏ là những
đối tượng dễ bị mắc nhất.
Hiện nay, các thày lang cho rằng chế độ
dinh dưỡng và lao động, việc phụ nữ sau khi
sinh không kiêng cữ đủ cũng là nguyên nhân
gây ra bệnh tật. Nhiều người phải làm việc vất
vả, quá sức trong thời gian dài cộng thêm chế
độ ăn uống thiếu chất nên dễ mắc các bệnh
như suy nhược cơ thể, đau người. Trẻ em ăn
uống thiếu chất cũng dễ bị còi xương và thường
mắc các bệnh liên quan đến đường tiêu hóa
như tiêu chảy, táo bón, rối loạn đường ruột do
uống nước lã, ăn quả xanh.
2.2. Quan niệm về nghề thuốc và truyền nghề
Người Dao Đỏ gọi thày lang là Địa fạng,
người Dao Tiền gọi là Địa miên, người Dao
Thanh Phán gọi là Mai mỉa au. Đối với người
Dao, thày lang để chỉ những người hành nghề
chữa bệnh bằng các phương pháp y học dân
gian như bốc thuốc nam, xoa bóp. bấm huyệt,
chữa mẹo... Họ được coi là người có uy tín
trong cộng đồng người Dao.
Các thày lang đều là những người có vốn
hiểu biết về sử dụng cây thuốc và một số bài
thuốc cũng như cách chẩn đoán, điều trị cho
một số loại bệnh thông thường. Hành nghề
thuốc, điều quan trọng nhất đối với một thày
lang là cái tâm, cái đức, biết yêu thương và
quý trọng tính mạng con người. Chữa bệnh
cứu người luôn được coi là tôn chỉ hoạt động
nghề nghiệp của các thầy thuốc, do đó sinh
mệnh của người bệnh được đặt lên trên tất cả
các mục đích khác.
Giữa người bệnh và thày lang luôn có mối
quan hệ khăng khít với nhau, biểu hiện ở cách
thức chữa bệnh. Những thày lang của nhóm
Dao Thanh Y, Dao Thanh Phán ở Quảng Ninh
và Dao Tiền ở Bắc Kạn thường ghi chép lại
tên tuổi và địa chỉ của bệnh nhân và loại dược
liệu hay bài thuốc đã cung cấp cho người bệnh
một cách cẩn trọng. Mục đích của việc ghi chép
này là để theo dõi tình trạng của bệnh nhân,
đồng thời tìm ra nguyên nhân nếu họ phản hồi
bệnh lý và kiểm tra sức khỏe thường xuyên
của bệnh nhân để biết được kết quả khám chữa.
Trong khi đó, người Dao Đỏ ở Cao Bằng và
Tuyên Quang không có cuốn số ghi chép này.
Hiện nay, các thày lang thường cho số điện
thoại di động của mình để khi người bệnh muốn
lấy thêm thuốc thì họ có thể gọi điện, trong
trường hợp bệnh nhân ở xa thi thày lang có
thể gửi qua các xe khách liên tỉnh.
Y thuật của thày lang được thể hiện qua
vốn kiến thức, những tri thức về hình dáng
cây thuốc, cách sơ chế, bảo quản và gọi tên
các công dụng của mỗi loại cây thuốc; cách
10
kết hợp các vị thuốc tạo thành một bài thuốc
chữa bệnh. Bên cạnh đó, y thuật của người
hành nghề chữa bệnh còn biểu hiện ở những
vốn tri thức hướng dẫn cho người bệnh về cách
phòng bệnh cũng như kiêng ky cần thiết khi
điều trị. Ngoài ra, các kỹ thuật nắm bắt về thời
gian bị bệnh, mức độ đau, quan sát và kiểm
tra bệnh nhân cũng là cơ sở quan trọng để thầy
thuốc chẩn đoán được bệnh, đồng thời đưa ra
phương pháp điều trị cụ thể, hữu hiệu. Trong
một sô trường hợp, việc chữa khỏi cho bệnh
nhân đôi khi được thể hiện qua sự "mát tay"
của thầy thuốc. Yếu tố này mặc dù mang tính
tâm linh, song nó lại chiếm vị trí quan trọng
góp vào việc khẳng định uy tín cũng như khả
năng cứu chữa của người thầy thuốc.
Thày lang người Dao Đỏ ở Tuyên Quang
đặt ra quy định tuyệt đối không chữa cho quá
hai người bệnh trong cùng một thời điểm. Phải
chữa khỏi cho hai người và cúng tạ ơn xong
thì mới chữa đến người tiếp theo. Theo bà ĐTB,
thôn Tầng, xã Phúc Sơn, Chiêm Hóa, Tuyên
Quang, nếu chữa quá hai người cùng một lúc
thì thuốc sẽ không linh nghiệm với người bệnh
và thầy thuốc có thể bị ốm đau hoặc gặp những
điều không tốt trong gia đình. Đây là nguyên
tắc cơ bản mà các thầy thuốc đi trước luôn dặn
đò và truyền lại cho học trò. Tuy nhiên, đối
với các thày lang người Dao Đỏ ở Cao Bằng,
người Dao Tiền ở Bắc Kạn và hai nhóm Dao ở
Quảng Ninh, chúng tôi được biết họ không có
nguyên tắc này.
Trong Cuộc sống hằng ngày, hầu hết người
dân đều biết một vài bài thuốc thông dụng đề
phòng khi bị cảm cúm. đứt tay... Nhưng đối
với các bệnh nặng, đòi hỏi những bài thuốc
khó và kỹ thuật riêng thì chỉ những người làm
nghề thuốc chuyên nghiệp mới nắm bắt được.
Người Dao ở ba địa bàn nghiên cứu đều có
đặc điểm chung là truyền nghề qua hình thức
truyền miệng. Đối với những bệnh thông
thường, người nào biết có thể chỉ cho những
người không biết bằng cách chữa trị giúp hoặc
hướng dẫn các cách nhận biết cây thuốc, các
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
kiêng ky khi thu hái thuốc hoặc trong khi sử
dụng cây thuôc.
Đối với những thày lang hành nghề lâu năm
và có uy tín trong cộng đồng, VIỆC truyền nghề
đối với họ rất quan trọng bởi người được truyền
nghề sẽ là người tiếp nhận vốn tri thức của
nghề y để chữa bệnh cứu người, đồng thời qua
đó góp phần lưu truyền nghề thuốc, nâng cao
uy tín tay nghề. Đối tượng truyền nghề không
cứ phải là con đẻ, có thể truyền cho người bên
ngoài øia đình không kể đàn ông hay phụ nữ.
Điểm chung trong nguyên tắc truyền nghề giữa
hai nhóm Dao ở Quảng Ninh và người Dao
Đỏ ở Tuyên Quang là họ luôn có tâm nguyện
truyền nghề lại cho con dâu hoặc con trai, rất
hiếm khi truyền cho con gái vì xuất phát từ
quan niệm: con gái khi đi lấy chồng là con
của nhà khác, còn con dâu mới là người của
nhà mình và giữ bí quyết nghề nghiệp gia
truyền. Các thày lang cũng sẵn lòng truyền
nghề cho chính người bệnh mình đã chữa khi
họ có ý muốn xin học nghề. Muốn theo nghề
thuốc, người học phải tâm huyết với nghề và
hành nghề vì mục đích lương thiện. Ngoài ra,
họ cần phải có sự nhẫn nại theo thầy dạy đến
cùng vì đôi khi có nhiều người không theo
được phải bỏ dỡ giữa chừng. Tuy nhiên, không
hắn có đầy đủ các đức tính ấy là có thể hình
thành nên con đường nghiệp y và không phải
ai được truyền nghề cũng đều trở thành thầy
thuốc. Người Dao quan niệm, để. trở thành
người hành nghề thuốc đôi khi cần có "cái
duyên” và chữa khỏi bệnh hay không lại phụ
thuộc một phần vào sự "mát tay" của thày lang.
2.3. Tri thức dân gian vềthuốc nam chu bệnh
Nguồn dược liệu các thày lang người Dao
sử dụng cho việc chữa bệnh khá phong phú,
bao gồm các loại: thảo dược và dược liệu từ
động vật. Dược liệu thảo được mà người Dao
sử dụng để chữa bệnh thường có hai loại:
Thứ nhất, những loại cây được trồng trong
vườn nhà hoặc xung quanh nơi cư trú gồm:
nôm hịp sí (cây dong đỗ), kở nhỏ pẹ, đèng
tòong kia, sùng sỉ (cây gừng đỏ), pùa sam,
TẠP CHÍ VHDG SỐ 3/2016
còn doảng (cây đẻ quạtÐ), lai lu (cây rau răm),
zăm hào sỉ, phỏng piêu (cây dâu), tàng cha
mía, tìm puông đở, cây toong, pởờ đào búa,
mác Độc, chô tuôi mía, xủng choang, kêm
muỗng chậu, hàng chày mỉa (cây mã đề), sành
mạt mỉa (cây nhọ nồi), sà địa pỉa, chè mùa
mỉa (rau diếp cá), tàng gái mỉa, ma lót (quả
nhót), hủng fía giảm, củ phâu sứ (ta tô đỏ).
củ phâu meng (ta tô xanh), pẩy puốn, địa
phút ràng (dây đỗ vân), mè VÒn§, tâu pây SỐ
sữn pua sứ... Như vậy. cô thể thấy, một số
cây trồng vừa là cây ăn quả, gia vị, vừa là
cây thuốc chữa bệnh. Mặt khác, cũng cần phân
biệt các loại cây trồng có ý thức và cây trồng
ngẫu nhiên. Những cây trồng có ý thức là
cây trồng có mục đích rõ ràng, có ý thức về
quyền sở hữu, khai thác, sử dụng trong một
thời gian nhất định (cây ăn quả, rau xanh, gia
vị). Cây trồng ngẫu nhiên là loại dùng làm
hàng rào bảo vệ, phân định ranh giới (Vũ
Trường Giang 2008: 39).
Thứ hai, các loại thảo dược được khai thác
trong rừng như: ảo cổ, toong ca, cô ông (cây
mua), gâu HOOH§, gâu lắng, lá chống (cây lá
chống), đừng tây (cây muồng), tàu vằn, toóng,
nòm só, kiêm tsai, tìng cót, nging biệt (cầy
núc nác), mùa chùa, khau mii, chải gai mía,
chài đạt khê, sỉ ma puông, nòm họm, sà pên
đẻng, lai cam lẩu, măng mả cha, tục chồm,
mè chém, còn choang, dừn choan mao, kim
choông mây, dàng chậu dung, mẹ đéng, đìa
puộng siêu, đìa phan, đìa puông cuội, địa
chủn, địa sản, cu de khăng, trình pầu, vườm
sản puông, cù tại hây, puông khéc, puông tòi,
ma thối, đu mác, bỏ mấy tÊ...
Các loại thảo dược có các dạng cây thân
gõ, thân thảo, thân bụi, thân dây leo... Đối với
mỗi loại thảo được, các bộ phận của cây được
dùng vào mục đích chữa bệnh khác nhau, và
các bộ phận khác nhau của cùng một cây có
những tác dụng khác nhau tùy theo cách vận
dụng chữa bệnh của thày thuốc. Có loại cây
chỉ có một bộ phận (lá, thân, rễ, hoa, quả...)
được sử dụng, có loại hai bộ phận (thân và lá)
11
được sử dụng, một số khác là ba bộ phận (thân,
lá, rễ) và thậm chí có loại cả cây được sử dụng
(Nguyễn Ngha' Thìn (chủ biên), 2001: 54). Hoặc
để chữa một số bệnh nhất định, phải kết hợp
nhiều bộ phận của cây thuốc hoặc nhiều cây
thuốc mới có tác dụng tốt. Liều lượng sử dụng
thường mang tính ước lượng, nhất là các loại lá,
cành lá thường tính theo nắm, bó hoặc ngọn.
Mỗi loại dược liệu được ứng dụng cho từng
đối tượng chữa bệnh khác nhau như: bệnh
thông thường, bệnh của phụ nữ, bệnh của trẻ
em, thuốc bổ... Thực tế cho thấy việc hiểu công
dụng của từng loại dược liệu đối với từng loại
bệnh là yêu cầu rất quan trọng trong điều trị
bệnh. Trên cơ sở đó, thày thuốc căn cứ vào
bệnh tật của từng bệnh nhân để có thể dùng
một hoặc kết hợp nhiều loại được liệu khác
nhau. Nếu một loại dược liệu có tác dụng với
nhiều bệnh thì phải lựa chọn chữa trị loại bệnh
nào có hiệu quả nhất (Vũ Trường Giang 2008:
42). Người Dao ở các địa bàn nghiên cứu
thường có hai cách chính trong sử dụng thuốc
để chữa bệnh: sắc uống và tắm. Cách dùng
này phụ thuộc vào thể trạng của một số người;
hoặc liên quan đến một số bệnh đặc thù (như
phục hồi sức khỏe sản phụ sau sinh nở). Người
Dao sử dụng các cây thuốc trong vườn nhà để
cứu chữa kịp thời với một số trường hợp: cảm,
cầm máu. tiêu chảy, giải độc, bị rắn cắn, táo
bón, đái vàng, đái rắt, vết thương ngoài đa.
2.4. Kỹ thuật thu hái, chế biến, trồng và
bảo vệ cây thuốc
Các thầy thuốc người Dao thường đi thu
hái thuốc trên rừng bởi phần lớn số dược liệu
mà họ đang sử dụng đều có nguồn gốc từ rừng.
Địa điểm thu hái thuốc thường cách xa nhà,
có những vị thuốc phải đi vào các khu rừng
già, núi đá mới tìm được. Thuốc có thể thu hái
sẵn vào những thời điểm thích hợp, hoặc khi
có bệnh nhân đến tìm thì thầy thuốc mới lên
rừng lấy.
Kết quả khảo sát cho thấy, các thày lang
thường đi lây thuôc với tân suât một lân/tuân,
12
rất ít thày lang đi lấy thuốc nam hằng ngày vì
còn tùy thuộc vào sức khỏe hoặc nhu cầu của
người bệnh, có khi một tháng chỉ đi hai, ba
lần; hiện nay, nguồn dược liệu có dấu hiệu
khan hiếm nên các thày lang phải đi xa hơn để
đảm bảo đủ số thuốc mà họ cần cho mỗi loại
bệnh. Một số gia đình chuyên làm thuốc, các
bậc cha mẹ thường dẫn theo con cháu lên rừng
để chỉ cho mặt cây thuốc và đến khi về già,
không đủ sức khỏe thì họ có thể nhờ con cháu
đi thu hái hộ.
Với từng loại cây thuốc, người Dao ở mỗi
địa bàn có những thời điểm thu hái thích hợp.
Các loại thảo dược dùng cành, lá, thân có thể
thu hái gần như quanh năm; một số cây lấy
củ, hạt, người dân thường để củ già, quả chín
mới thu hoạch. Những vị thuốc là hoa được
thu hái vào mùa cây đơm hoa.
Mặc dù việc thu hái thuốc ở tất cả các nhóm
Dao diễn ra quanh năm tùy theo nhu cầu của
người bệnh nhưng phần nhiều loại cây phải
thu hái theo mùa mới có và đảm bảo chất lượng
thuốc. Đối với nhóm Dao Đỏ ở Tuyên Quang,
mùa thu hái chủ yếu của đồng bào bắt đầu từ
tháng hai đến tháng chín vì nghề làm thuốc
của các thày lang chỉ là phụ bên cạnh nghề
nông nên từ tháng mười trở đi, người dân bận
rộn với các công việc thu hoạch sản phẩm
trồng trọt trên nương nên họ không có nhiều
thời gian đi thu hái dược liệu. Hơn nữa, thời
điểm tháng mười, khí hậu đã bắt đầu chuyển
sang lạnh, có sương muối làm cho một số
cây thuốc trên rừng bị lụi và không sử dụng
được. Nhóm Dao Tiền ở Bắc Kạn thu hái
quanh năm nhưng chỉ khi có người bệnh đến
hỏi thì thày lang mới đi lên rừng hái thuốc.
Các thày lang ở thôn Nà Hin, xã Hà Hiệu hầu
hết đều là các thầy cúng nên khi chữa bệnh,
họ thường kết hợp cả hai phương pháp bốc
thuốc nam và cúng bái. Các thày lang của
nhóm Dao Thanh Y ở Quảng Ninh thường
chọn thời điểm tháng ba đến tháng năm để thu
hãi dược liệu, người Dao Thanh Phân chọn thời
điểm từ tháng hai đến tháng năm âm lịch. Họ
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
cho rằng thời điểm này cây thuốc trên rừng đang
xanh tốt và tích trữ nhiều được chất quý. Họ có
thể thu hái với số lượng lớn để dự trữ trong nhà
và bán ngoài chợ.
Các thày lang còn thu hái để sử dụng trong
gia đình và mang thuốc bán tại các địa phương
khác. Cây thuốc sau khi lấy về được sơ chế,
rửa hoặc rũ bỏ đất cát, băm nhỏ riêng từng
loại cây, phơi khô và bảo quản trong các bao
nilon kín rồi mang đi chợ, các cửa hàng thuốc
nam dược, đến nhà dân để bán cho bệnh nhân
hoặc bán cho những người thu mua ở ngoài
huyện Ba Chẽ hoặc thành phố Hạ Long, những
người này thu mua và mang ra cửa khẩu Móng
Cái bán lại cho thương lái Trung Quốc.
Nguồn dược liệu của người Dao sử dụng
qua hình thức thu hái trong thiên nhiên, chủ
yếu là trong rừng. Ngoài ra, một số cây có sẵn
trong vườn nhà, nương rây, có khả năng chữa
bệnh cũng được đồng bào tận dụng một cách
triệt để. Mặt khác, khi khai thác nguồn dược
liệu từ rừng, thầy thuốc người Dao thường cần
trọng trồng lại những cây, dây mà họ đã cắt,
chặt trên rừng nhằm phát triển cây thuốc. Tuy
nhiên, không phải cây thuốc nào lấy từ rừng
về trồng ở vườn nhà cũng sống, do chúng mọc
ở các khu vực gần rìa suối ầm thấp, thích hợp
với điều kiện khí hậu, độ ẩm ở rừng nên khi
đem về nhân giống ở nhà, một số loài cây
không thích ứng được. Ngoài các nguồn được
liệu từ thảo được, người Dao còn biết sử dụng
các bộ phận của động vật để điều trị một số
loại bệnh.
Nếu như trước đây, tài nguyên cây thuốc
rất dồi dào, người dân đi thu hái thuận tiện, thì
hiện nay, nguôn dược liệu càng ngày càng
khan hiếm và có nguy CƠ cạn kiệt, nhất là một
số cây thuốc quý. Đông bào muốn lấy thuốc
phải đi vào những khu rừng xa, thậm chí có
loại mọc trên núi đá hoặc không tìm được nên
khi điều trị cho người bệnh, thày lang phải
thay thế bằng những loại cây khác, trong một
số trường hợp hiệu quả chữa bệnh bị giảm
đáng kể.
TẠP CHÍ VHDG SỐ 3/2016
2.3. Tín ngưỡng HÊn quan đến nghề thuốc nam
Tín ngưỡng liên quan đến tổ nghề
Đối với nghề bốc thuốc nam, khi truyền lại
cho người ngoài, thày lang cần phải có đồ lễ
cúng trình báo với tổ sư nghề thuốc. Người
Dao Tiền ở Hà Hiệu, Ba Bể, Bắc Kạn thường
đem đồ lễ theo cặp: đôi gà trống, đôi chai rượu
và hai bát gạo nếp; người Dao Đỏ ở xã Phúc
Sơn, Chiêm Hóa, Tuyên Quang mang một chai
hoặc một can rượu trắng, một con gà sống, 10
ống gạo tẻ (1 ống = 300g). Ở trong cùng địa
vực cư trú là huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng
Ninh, nêu như nhóm Dao Thanh Y ở xã Bằng
Cả phải mang theo nhiều đồ lễ bằng hiện vật
thì người Dao Thanh Phán ở xã Đồng Sơn chỉ
mang bạc trắng hoặc tiền đến xin học nghề,
thày lang sẽ tự chuẩn bị đồ lễ cúng. Những đồ
lễ này không phải do thày lang yêu cầu mà
xuất phát từ lòng thành của người học nghề,
tuy nhiên, mỗi vùng có những đặc điểm khác
nhau nên tự họ sẽ học hỏi và theo nhau trong
cách mang đồ lễ. Ngoài ra, ở tất cả các nhóm
Dao, người học nghề cần phải chuẩn bị sẵn
một khoản tiền (khoảng 200 - 300 nghìn đồng)
để thày thuốc mời thày cúng đến cúng nhập
nghề cho mình.
Với mỗi nghề đều có tổ sư riêng và việc
thờ cúng người thày tổ là điều tất nhiên phải
làm. Trong nghề thuốc của người Dao, bàn
thờ tổ tiên cũng chính là bàn thờ tổ sư nghề
thuốc. Do đó, khi có dịch bệnh, ốm đau hoặc
gia đình có công việc đại sự, người ta thường
thắp hương cầu khấn. Ngoài ra, thày lang phải
cúng trình báo với tổ tiên trước khi đi hái thuốc
cho người bệnh với mong muốn được mọi sự
suôn sẻ, tốt lành. Một số thày lang tin rằng,
nếu trước khi đi lấy thuốc mà không khấn vái
tổ sư thì sẽ øặp nhiều bất trắc và có khi không
tìm được cây thuốc mình cần. Song, số khác
lại không quan tâm đến những kiêng ky hay
lễ nghi đó nên có thể đi lấy thuốc mà không
cần khấn vái, thắp hương. Tùy theo một số
vùng và tùy thuộc vào thày dạy của người đó
mà các lễ thức có thể có ở vùng này nhưng lại
13
không có ở vùng kia, người này ấp dụng nhưng
người khác lại không. Chính những sự khác
biệt đó đã tạo nên nét độc đáo trong tri thức
dân gian của người Dao về sử dụng cây thuốc.
Sau khi người bệnh được chữa khỏi thì họ
phải có nghĩa vụ đến tạ ơn thày thuốc hay nói
cách khác là để thày lang làm lễ trình báo và
tạ ơn tổ sư. LỄ vật người bệnh mang đến tùy
thuộc vào sự hảo tâm cũng như điều kiện kinh
tế của gia đình họ. Điểm chung của các thày
thuốc người Dao ở các địa bàn nghiên cứu là
họ không hề đòi hỏi lễ vật hay tiền bạc là bao
nhiêu, tất cả là do sự tự nguyện của bệnh nhân.
Trong trường hợp, người bệnh quá khó khăn,
không có đủ tiền sắm lễ vật thì phải đến nhà
trình bày rõ hoàn cảnh cá nhân để thày lang tự
sắm đồ lễ trả ơn tổ sư nghề thuốc của mình.
Việc làm này là bắt buộc và trở thành nguyên
tắc đối với mỗi người hành nghề y. Nếu không
làm như vậy thì gia đình và bản thân thày lang
sẽ bị liên lụy hoặc bài thuốc không hiệu
nghiệm, bệnh nhân sẽ bị tái phát hoặc thậm
chí bệnh tình càng nặng thêm. Trong bối cảnh
đó, người bệnh không tạ lễ thì thày lang vẫn
tiến hành làm lễ, tuy nhiên lúc này mọi tai họa
nếu diễn ra sẽ rơi vào phía người bệnh.
Người Dao Đó ở xã Phúc Sơn, Tuyên
Quang khi được chữa khỏi thường mang các
lễ vật đến tạ ơn, tùy theo mức độ bệnh nặng
nhẹ khác nhau mà đồ lễ tạ ơn sẽ tương xứng.
Khi người nhà bệnh nhân mang đến, thày thuốc
sẽ mời thầy cúng đến làm lễ. Mục đích của lễ
cúng này là trình báo với tổ tiên về việc chữa
khỏi cho người bệnh, cầu xin cho người bệnh
luôn khỏe mạnh và không bị phát lại. Điểm
khác biệt giữa người Dao Đỏ ở Tuyên Quang
và người Dao ở ba nơi còn lại là trước một
ngày khi người bệnh báo sẽ mang lễ vật đến tạ
ơn thì người thày thuốc sẽ đi lên rừng tìm cây
thuốc gốc trong bài thuốc chữa cho bệnh nhân
để ngày hôm sau nói cho người bệnh công
dụng của vị thuốc đó. Cũng trong ngày hôm
đó, thày thuốc sẽ hái luôn một thang thuốc
cuối cho người bệnh uống để ngăn ngừa bệnh
14
tái phát. Nếu người bệnh có ý muốn học bài
thuốc này thì có thể xin thày lang truyền dạy
lại cho mình. Nhóm Dao Tiền ở Bắc Kạn và
hai nhóm Dao ở Quảng Ninh thường không
có nghi thức này. Sở dĩ có sự khác biệt đó có
thể xuất phát từ phương thức truyền nghề của
các thày lang ở mỗi vùng, cách ứng xử với
cây thuốc và quan niệm về bệnh tật ở mỗi nhóm
Dao có sự khác nhau.
Một số kiêng ky khi thu hái thuốc
Đối với các thày lang chữa bệnh bằng thuốc
nam, những hình thức cúng bái hay kiêng ky
là không thể thiếu, nhất là các nguyên tắc liên
quan đến thu hái cây thuốc. Theo họ, những
yếu tố này chiếm một phần rất quan trọng quy
định tính hiệu nghiệm của bài thuốc chữa bệnh.
Những nguyên tắc này hầu như chỉ được thực
hiện trong quy mô gia đình, nhất là những hộ
chuyên làm nghề thuốc, họ đặt ra một số quy
tắc và truyền tụng cho thế hệ sau.
Khi đi lấy thuốc, các thày thuốc người Dao
thường chọn ngày, giờ xuất hành. Xuất phát
từ cầu nói: Mẩy hoi mai ke địa, chây hoi mai
pấu quả (Ngày Tí không cúng bói, ngày Mùi
không lấy thuốc) nên người Dao ở Tuyên
Quang khi ởi lấy thuốc thường tránh ngày Mùi,
vì họ quan niệm nếu đi vào ngày này trong
tháng thì thuốc sẽ không hiệu nghiệm. Một số
thày lang của người Dao Thanh Phán, xã Đồng
Sơn, huyện Hoành Bò, tỉnh Quảng Ninh còn
kiêng cả ngày sinh nhật của minh trong lịch đi
thu hái thuốc, vì họ cho rằng đi vào ngày đó,
bản thân sẽ bị đau ốm. Các thày lang người
Dao Đỏ, Dao Tiền thường chọn ngày lẻ trong
tháng là ngày tốt để đi thu hái dược liệu trên
rừng. Ở Tuyên Quang và Cao Bằng, một số
thày lang nhóm Dao Đó cho rắng: các ngày
mồng I, I1, và 21 là những ngày tốt cho thu
hái cây thuốc; còn người Dao Tiền ở Bắc Kạn
lại coi những ngày 5, 7, 15, 17, 25, 27 thuận
lợi cho thu hái dược liệu. Tuy nhiên, người
Dao Thanh Y và Dao Thanh Phân ở Quảng
Ninh đi không phân biệt ngày chẵn, lẻ, họ chọn
những ngày tốt đầu tháng như mông l1, 2, 4, 5,
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
6, 8, 10 và kiêng ngày mồng 3, 7, 9. Việc chọn
ngày tùy theo kinh nghiệm và những quy tắc
riêng biệt của mỗi thày lang trong cách ứng
xử với tài nguyên cây thuốc. Bản thân họ có
những kiêng ky nhất định và truyền miệng cho
nhau những quy tắc nghề nghiệp, chẳng hạn
khi đi lấy thuốc, họ còn tránh những ngày mất
của người già trong gia đình. Khung giờ lẻ tốt
nhất là từ 7 giờ đến 9 giờ sáng vì nếu đi sớm
hơn thì trên lá cây sẽ còn bám nhiều sương
đêm làm giảm chất lượng của thuốc. Đặc biệt,
họ tránh đi hái thuốc vào khung giờ Ngọ (11h
- 14h) vì theo quan niệm của người Dao, đây
là khung giờ của các vong hồn (khung moÒn§),
nếu đi hái thuốc vào giờ này, rất dễ đi về tay
không. Còn một nguyên nhân khác nữa, đó là
vào thời điểm ì này, nước ở trong các cây sẽ rút
xuống phần rễ nên phần lã và thân không còn
nhiều chất thuốc. Đối với mỗi loại bệnh, các
thầy thuốc người Dao đều dựa vào cây thuốc
gốc (Tà diết khốm) để đoán biết mức độ khỏi
nhanh hay chậm của bệnh. Trong khung thời
gian của các thày lang nhóm Dao Tiền, buổi
sảng sớm tĩnh mơ không thích hợp cho việc đi
hái thuốc vì khi đó, lá cây còn dính sương làm
giảm chất lượng thuốc và chữa bệnh sẽ không
hiệu quả.
Trước ngày đi hái thuốc, các thày lang cần
kiêng một số: điều như không quan hệ nam
nữ, không giết mổ øia SÚC, gia cầm (phỏng
vấn ông ĐVS, thôn 2, xã Bằng Cả, huyện
Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh) vì họ cho rằng
những việc làm đó không sạch sẽ, khiến cho
buổi đi lấy thuốc hôm sau không hiệu quả,
đồng thời có thể làm giảm tính hiệu nghiệm
của bài thuốc. Nhóm Dao Đỏ ở Tuyên Quang
còn kiêng không lội xuống bùn ruộng trước
ngày đi lấy thuốc, không nói cho người lạ biết
mình sắp đi lấy được liệu vì họ cho rằng nếu
không kiêng cữ thì bài thuốc chữa bệnh không
phát huy được tác dụng (phỏng vấn bà ĐTB,
thôn Tầng, xã Phúc Sơn, huyện Chiêm Hóa,
tỉnh Tuyên Quang).
Trên đường đi, nếu gặp phụ nữ mang bầu
(mài fon) hoặc những người đang đeo tang (ai
TẠP CHÍ VHDG SỐ 3/2016
khô) thì thày lang sẽ quay về nhà và chọn ngày
khác để đi. Nếu cố tình đi thì thuốc của ngày
hôm đó ít có tác dụng chữa bệnh, thậm chí
người bệnh sẽ ốm nặng hơn nếu uống phải
những thuốc này. Trong trường hợp. đang đi
thu hái mà gặp trời mưa thì thày lang cũng trở
về nhà để hôm khác đi lấy vì họ cho rằng mưa
sẽ làm nhạt vị thuốc và làm giảm tác dụng chữa
bệnh của các cây thuốc đó. Các thày lang đoán
biết khả năng chữa khỏi cho người bệnh bằng
cách dựa trên những điềm báo. Người Dao Tiền
cho rằng khi đi hái thuốc, thấy con rắn bò ngang
trên đường là bệnh đó chữa rất nhanh khỏi,
còn nếu thấy nó bò đọc theo đường đi nghĩa là
bệnh chữa lâu khỏi (phỏng vấn ông BVK, 70
tuổi, thôn Nà Hin, xã Hà Hiệu. huyện Bắc Kạn).
Nhóm Dao Thanh Y cho rằng đi đường gặp
con rắn (đà mẩn) thì có thể căn bệnh của bệnh
nhân này chữa lâu dài mới khỏi, còn gặp con
cáo (gen mao) thì chữa bệnh sẽ nhanh khỏi.
Nếu gặp các con vật như cú mèo (wa cô). diều
hâu (kiáng) thì cho là điềm dữ và không đi
tiếp nữa. Cảnh tượng hai con rắn lồng vào nhau
trên đường đi được người Dao Thanh Y coi là
một điềm báo rất độc, trong trường hợp đó,
thày lang lập tức quay về nhà vì họ cho rằng
nếu đi tiếp sẽ nguy hiểm đến tính mạng của
họ (phỏng vấn ông ĐVS, thôn 2, xã Bằng Cả,
huyện Hoành Bỏ, tỉnh Quảng Ninh). Những
kiêng ky này xuất phát từ những kinh nghiệm
dân gian được các thày lang đúc kết lại và
truyền lại cho những người kế tục.
3. Kết luận
Người Dao hiện còn lưu giữ được nhiều tri
thức dân gian về sử dụng cây thuốc, đặc biệt
là những bài thuốc gia truyền. Nhiều bài thuốc,
cây thuốc của đồng bào đã phát huy tác dụng
mạnh mẽ trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Mặc dù hiện nay, dưới tác động của nền
kinh tế thị trường, cuộc sống của người Dao
đã có nhiều thay đôi nhưng họ vẫn giữ được
truyền thống chữa bệnh băng các cây thuốc
nam. Việc tìm hiểu tri thức của họ trong sử
dụng cây thuốc không chỉ có ý nghĩa gìn
15
giữ một di sản văn hóa mà còn hiểu được
môi trường sống, cùng như mối quan hệ giữa
văn hóa với các yếu tố kinh tế - xã hội của
tỘC nPƯỜI.
Để bảo tồn và phát triển bền vững nguồn
tài nguyên cây thuốc nhằm giữ øìn hiệu quả
các nguôn øen quý hiếm, đông thời bảo vệ
sức khỏe và nâng cao đời sống cho đồng bào
người Dao, rất cần sự quan tâm, hỗ trợ, phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hữu quan, các
câp chính quyên và cộng đồng tại địa phương;
cân phải xây dựng quy hoạch phát triển được
liệu trong vùng. Vì vậy, việc tập trung điều tra
trữ lượng của các loài cây thuốc trong rừng tự
nhiên nơi người Dao cư trú cùng những vốn
tri thức dân gian trong sử dụng cây thuốc; tăng
cường nguồn tài chính cho công tác bảo tồn
và phát triển; xây dựng được hệ thống vườn
cầy thuốc tại địa phương là điều rất cần thiết
trong giai đoạn hiện nay. T]
Tài liệu tham khảo
1. Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn
Nam Tiến (1971), Người Dao ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội.
2. Trần Hồng Hạnh (2002), "Tri thức địa phương trong sử
dụng thuốc Nam của người Dao đỏ (Nghiên cứu ở xã Tả
Phìn, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai)", Dân tộc học, số 5.
3. Phạm Quang Hoan, Hùng Đình Quý chủ biên (1999), Văn
hóa truyền thống người Dao ở Hà Giang, Nxb. Văn hóa dân
tộc, Hà Nội.
4. Trần Công Khánh (2002), Cây thuốc dân tộc và vấn đề
bảo tồn trí thức bản địa về cách sử dụng cây thuốc, Trường
Đại học Y Dược, Hà Nội.
5, Đỗ Tất Lợi (1991), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam
(xuất bản lần thứ 6), Nxb. Khoa học và kỹ thuật.
6. Lý Hành Sơn (2003), Các nghi lễ chủ yếu trong chu kỳ đời
người của nhóm Dao Tiền ở Ba Bể, Bắc Kạn, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội.
7. Nguyễn Thị Thanh Vân (2005), "Bước đầu tìm hiểu cây
thuốc của đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam" trong Nam
Bộ dân tộc và tôn giáo, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Nguyễn Thị Thanh Vân, "Nhân học y tế - hướng tiếp cận
nghiên cứu về chăm sóc sức khỏe cộng đồng ở vùng các
tộc người thiểu số Việt Nam trong bối cảnh toản cầu hóa",
http:/www.anthdep.edu.vn, truy cập ngày 16/10/2013.
TS. NGUYÊN THỊ TÁM
Viện Dân tộc học