NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
TRI THỨC DÂN GIAN CỦA NGƯỜI DAO VÊ SỬ DỤNG THUÔC NAM
trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng dưới øóc nhìn văn hóa
1. Đặt vấn đề
Trong thời gian qua, việc tiếp cận các vấn đề liên quan đến chăm sóc sức khỏe cộng đồng theo hướng nhân học/dân tộc học hiện nay đã khá phổ biến. Theo đó đã xuất hiện những nghiên cứu về thực trạng chăm sóc sức khỏe của một số dân tộc thiểu số ở nước ta. Tuy nhiên, việc nghiên cứu tri thức dân gian về sử dụng thuốc nam trong chăm sóc sức khỏe giữa các nhóm Dao ở các địa bàn Tuyên Quang, Bắc Kạn và Quảng Ninh dưới góc độ văn hóa đến nay vẫn chưa được đề cập đầy đủ.
Người Dao cư trú tập trung ở các tỉnh miền núi phía bắc Việt Nam - nơi có điều kiện thuận lợi để khai thác nguồn dược liệu. Việc chữa bệnh bằng các loại cỏ cây là vốn kinh nghiệm quý giá có từ lâu đời của đồng bào (Phạm Quang Hoan, Hùng Đình Quý 1999: 313), Người Dao tuy không có lý thuyết â âm dương, hàn nhiệt, ngũ hành như Y học cổ truyền của Trung Hoa hay y học cổ truyền chính thống Việt Nam, nhưng từ xa xưa, họ đã hình thành tập quán sử dụng thực vật, có những quan điểm riên ø trong cách trị bệnh, có những cây thuốc quý báu và kinh nghiệm chữa bệnh rất hữu ích mà chúng ta ít biết đến. Mặt khác, những cây thuốc quý đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng: đồng thời những tri thức y học dân gian quý báu hiện đang có nguy cơ bị thất truyền.
Việc sử dụng cây thuốc của người Dao không chỉ có ý nghĩa trong chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng mà còn mang giá trị văn hóa
NGUYỄN THỊ TÁM
rất lớn. Tri thức y học dân gian là một trong các thành tố của văn hóa. Việc khai thác, kế thừa và phát huy vốn tri thức ấy còn góp phân gìn giữ bản sắc văn hóa tộc người (Trần Hồng Hạnh 2002: 30). Vì vậy, bài viết góp phần bổ sung nguồn tư liệu về tri thức địa phương sử dụng thuốc nam trong chăm sóc sức khỏe của ba nhóm Dao (Dao Đỏ, Dao Tiền và Dao Thanh Y) tại ba điểm nghiên cứu: Tuyên Quang, Bắc Kạn, Quảng Ninh; đặc biệt là những phương thức chữa bệnh hữu hiệu của đồng bào về một số bệnh mà y học hiện đại còn gặp khó khăn hoặc chi phí cứu chữa quá lớn nằm ngoài khả năng chi trả của những người dân nghèo.
2. Tri thức của người Dao trong chăm sóc sức khỏe và sử dụng thuốc nam
2.1. Quan niêm vê ôm đau vd bệnh tật
Những tri thức về chăm sóc sức khỏe của người Dao xuất phát từ quan niệm của họ về nguyên nhân gây ra bệnh tật. Trước đây, các nhóm Dao cũng như những tộc người thiểu số khác luôn cho rằng khi bị đau ốm có thể do con ma quấy nhiễu. Họ quan niệm con người có hai phần không thể tách rời: phần hồn và phần xác, hồn năm trong cơ thể người nhưng phân bổ ở các vị trí như mắt, mũi, chân, tay, lưng, miệng, cổ, bụng, ngực... Người Dao Đỏ coi hồn chính nằm ở phần đầu của một đứa bé vì nó là phần cao nhất trong cơ thể con người nên người ta kiêng xoa hoặc sờ vào đầu trẻ con vì sợ chạm đến hồn chính và làm nguy hại đến tính mạng đứa trẻ sau này. Tuy nhiên, TẠP CHÍ VHDG SỐ 3/2016
người Dao Tiền ở Bắc Kạn khẳng định: hồn chính của con người năm ở ngực vì tim duy trì mọi hoạt động sông, tim ngừng đập thì sự sông không còn nữa. Khi tất cả các hồn tụ họp đầy đủ trong cơ thể con người thì con người mới được khỏe mạnh, nếu thiếu thì sẽ sinh ra bệnh tật, đau ốm. Người Dao Thanh Y ở Quảng Ninh còn cho rằng, một số người chết "bất đắc kỳ
tử" thường có âm khí rất độc, những người vía nhẹ đi dự đám ma đó khi về nhà có thể bị đau ốm. Họ quan niệm, trong thế giới ma quỷ cũng tồn tại tổ tiên, thần linh và ma ác. Vì thế, con người phải biết thờ cúng tổ tiên và các thần linh, tiến hành các nghi lễ như các phép thuật để cầu hồn, xin những ma lành phù hộ, phòng trừ các ma ác làm hại người. Nếu con người không cúng bái cẩn thận thì sẽ bị ma quấy rầy, gây ốm đau, thậm chí gây họa cho con người, làm hại mùa màng và gia súc. Do đó, biện pháp hữu hiệu mà người Dao vẫn hay sử dụng, đó là mời thầy cúng đến cúng bái để hóa dữ thành lành, ngăn chặn sự làm hại của ma ác.
Người Dao còn dựa vào sự thay đổi của môi trường để lý giải cho việc ốm đau. Họ cho rằng, sự mắt cân bằng giữa cơ thể và môi trường hay do thời tiết, khí hậu thay đổi đột ngột cũng là nguyên nhân gây bệnh cho con người. Đặc biệt là vào những thời điểm giao mùa hoặc khi tiết trời hanh khô, con người dễ bị mắc các chứng cảm cúm, sổ mũi, bệnh liên quan đến khớp... trong đó người già và trẻ nhỏ là những đối tượng dễ bị mắc nhất.
Hiện nay, các thày lang cho rằng chế độ dinh dưỡng và lao động, việc phụ nữ sau khi sinh không kiêng cữ đủ cũng là nguyên nhân gây ra bệnh tật. Nhiều người phải làm việc vất vả, quá sức trong thời gian dài cộng thêm chế độ ăn uống thiếu chất nên dễ mắc các bệnh như suy nhược cơ thể, đau người. Trẻ em ăn uống thiếu chất cũng dễ bị còi xương và thường mắc các bệnh liên quan đến đường tiêu hóa như tiêu chảy, táo bón, rối loạn đường ruột do uống nước lã, ăn quả xanh.
2.2. Quan niệm về nghề thuốc và truyền nghề
Người Dao Đỏ gọi thày lang là Địa fạng, người Dao Tiền gọi là Địa miên, người Dao Thanh Phán gọi là Mai mỉa au. Đối với người Dao, thày lang để chỉ những người hành nghề chữa bệnh bằng các phương pháp y học dân gian như bốc thuốc nam, xoa bóp. bấm huyệt, chữa mẹo... Họ được coi là người có uy tín trong cộng đồng người Dao.
Các thày lang đều là những người có vốn hiểu biết về sử dụng cây thuốc và một số bài thuốc cũng như cách chẩn đoán, điều trị cho một số loại bệnh thông thường. Hành nghề thuốc, điều quan trọng nhất đối với một thày lang là cái tâm, cái đức, biết yêu thương và quý trọng tính mạng con người. Chữa bệnh cứu người luôn được coi là tôn chỉ hoạt động nghề nghiệp của các thầy thuốc, do đó sinh mệnh của người bệnh được đặt lên trên tất cả các mục đích khác.
Giữa người bệnh và thày lang luôn có mối quan hệ khăng khít với nhau, biểu hiện ở cách thức chữa bệnh. Những thày lang của nhóm Dao Thanh Y, Dao Thanh Phán ở Quảng Ninh và Dao Tiền ở Bắc Kạn thường ghi chép lại tên tuổi và địa chỉ của bệnh nhân và loại dược liệu hay bài thuốc đã cung cấp cho người bệnh một cách cẩn trọng. Mục đích của việc ghi chép này là để theo dõi tình trạng của bệnh nhân, đồng thời tìm ra nguyên nhân nếu họ phản hồi bệnh lý và kiểm tra sức khỏe thường xuyên của bệnh nhân để biết được kết quả khám chữa. Trong khi đó, người Dao Đỏ ở Cao Bằng và Tuyên Quang không có cuốn số ghi chép này. Hiện nay, các thày lang thường cho số điện thoại di động của mình để khi người bệnh muốn lấy thêm thuốc thì họ có thể gọi điện, trong trường hợp bệnh nhân ở xa thi thày lang có thể gửi qua các xe khách liên tỉnh.
Y thuật của thày lang được thể hiện qua vốn kiến thức, những tri thức về hình dáng cây thuốc, cách sơ chế, bảo quản và gọi tên các công dụng của mỗi loại cây thuốc; cách 10
kết hợp các vị thuốc tạo thành một bài thuốc chữa bệnh. Bên cạnh đó, y thuật của người hành nghề chữa bệnh còn biểu hiện ở những vốn tri thức hướng dẫn cho người bệnh về cách phòng bệnh cũng như kiêng ky cần thiết khi điều trị. Ngoài ra, các kỹ thuật nắm bắt về thời gian bị bệnh, mức độ đau, quan sát và kiểm tra bệnh nhân cũng là cơ sở quan trọng để thầy thuốc chẩn đoán được bệnh, đồng thời đưa ra phương pháp điều trị cụ thể, hữu hiệu. Trong một sô trường hợp, việc chữa khỏi cho bệnh nhân đôi khi được thể hiện qua sự "mát tay" của thầy thuốc. Yếu tố này mặc dù mang tính tâm linh, song nó lại chiếm vị trí quan trọng góp vào việc khẳng định uy tín cũng như khả năng cứu chữa của người thầy thuốc.
Thày lang người Dao Đỏ ở Tuyên Quang đặt ra quy định tuyệt đối không chữa cho quá hai người bệnh trong cùng một thời điểm. Phải chữa khỏi cho hai người và cúng tạ ơn xong thì mới chữa đến người tiếp theo. Theo bà ĐTB, thôn Tầng, xã Phúc Sơn, Chiêm Hóa, Tuyên Quang, nếu chữa quá hai người cùng một lúc thì thuốc sẽ không linh nghiệm với người bệnh và thầy thuốc có thể bị ốm đau hoặc gặp những điều không tốt trong gia đình. Đây là nguyên tắc cơ bản mà các thầy thuốc đi trước luôn dặn đò và truyền lại cho học trò. Tuy nhiên, đối với các thày lang người Dao Đỏ ở Cao Bằng, người Dao Tiền ở Bắc Kạn và hai nhóm Dao ở Quảng Ninh, chúng tôi được biết họ không có nguyên tắc này.
Trong Cuộc sống hằng ngày, hầu hết người dân đều biết một vài bài thuốc thông dụng đề phòng khi bị cảm cúm. đứt tay... Nhưng đối với các bệnh nặng, đòi hỏi những bài thuốc khó và kỹ thuật riêng thì chỉ những người làm nghề thuốc chuyên nghiệp mới nắm bắt được.
Người Dao ở ba địa bàn nghiên cứu đều có đặc điểm chung là truyền nghề qua hình thức truyền miệng. Đối với những bệnh thông thường, người nào biết có thể chỉ cho những người không biết bằng cách chữa trị giúp hoặc hướng dẫn các cách nhận biết cây thuốc, các
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
kiêng ky khi thu hái thuốc hoặc trong khi sử dụng cây thuôc.
Đối với những thày lang hành nghề lâu năm và có uy tín trong cộng đồng, VIỆC truyền nghề đối với họ rất quan trọng bởi người được truyền nghề sẽ là người tiếp nhận vốn tri thức của nghề y để chữa bệnh cứu người, đồng thời qua đó góp phần lưu truyền nghề thuốc, nâng cao uy tín tay nghề. Đối tượng truyền nghề không cứ phải là con đẻ, có thể truyền cho người bên ngoài øia đình không kể đàn ông hay phụ nữ. Điểm chung trong nguyên tắc truyền nghề giữa hai nhóm Dao ở Quảng Ninh và người Dao Đỏ ở Tuyên Quang là họ luôn có tâm nguyện truyền nghề lại cho con dâu hoặc con trai, rất hiếm khi truyền cho con gái vì xuất phát từ quan niệm: con gái khi đi lấy chồng là con của nhà khác, còn con dâu mới là người của nhà mình và giữ bí quyết nghề nghiệp gia truyền. Các thày lang cũng sẵn lòng truyền nghề cho chính người bệnh mình đã chữa khi họ có ý muốn xin học nghề. Muốn theo nghề thuốc, người học phải tâm huyết với nghề và hành nghề vì mục đích lương thiện. Ngoài ra, họ cần phải có sự nhẫn nại theo thầy dạy đến cùng vì đôi khi có nhiều người không theo được phải bỏ dỡ giữa chừng. Tuy nhiên, không hắn có đầy đủ các đức tính ấy là có thể hình thành nên con đường nghiệp y và không phải ai được truyền nghề cũng đều trở thành thầy thuốc. Người Dao quan niệm, để. trở thành người hành nghề thuốc đôi khi cần có "cái duyên” và chữa khỏi bệnh hay không lại phụ thuộc một phần vào sự "mát tay" của thày lang.
2.3. Tri thức dân gian vềthuốc nam chu bệnh
Nguồn dược liệu các thày lang người Dao sử dụng cho việc chữa bệnh khá phong phú, bao gồm các loại: thảo dược và dược liệu từ động vật. Dược liệu thảo được mà người Dao sử dụng để chữa bệnh thường có hai loại:
Thứ nhất, những loại cây được trồng trong vườn nhà hoặc xung quanh nơi cư trú gồm: nôm hịp sí (cây dong đỗ), kở nhỏ pẹ, đèng tòong kia, sùng sỉ (cây gừng đỏ), pùa sam, TẠP CHÍ VHDG SỐ 3/2016
còn doảng (cây đẻ quạtÐ), lai lu (cây rau răm), zăm hào sỉ, phỏng piêu (cây dâu), tàng cha mía, tìm puông đở, cây toong, pởờ đào búa, mác Độc, chô tuôi mía, xủng choang, kêm muỗng chậu, hàng chày mỉa (cây mã đề), sành mạt mỉa (cây nhọ nồi), sà địa pỉa, chè mùa mỉa (rau diếp cá), tàng gái mỉa, ma lót (quả nhót), hủng fía giảm, củ phâu sứ (ta tô đỏ). củ phâu meng (ta tô xanh), pẩy puốn, địa phút ràng (dây đỗ vân), mè VÒn§, tâu pây SỐ sữn pua sứ... Như vậy. cô thể thấy, một số cây trồng vừa là cây ăn quả, gia vị, vừa là
cây thuốc chữa bệnh. Mặt khác, cũng cần phân biệt các loại cây trồng có ý thức và cây trồng ngẫu nhiên. Những cây trồng có ý thức là cây trồng có mục đích rõ ràng, có ý thức về quyền sở hữu, khai thác, sử dụng trong một thời gian nhất định (cây ăn quả, rau xanh, gia vị). Cây trồng ngẫu nhiên là loại dùng làm hàng rào bảo vệ, phân định ranh giới (Vũ Trường Giang 2008: 39).
Thứ hai, các loại thảo dược được khai thác trong rừng như: ảo cổ, toong ca, cô ông (cây mua), gâu HOOH§, gâu lắng, lá chống (cây lá chống), đừng tây (cây muồng), tàu vằn, toóng, nòm só, kiêm tsai, tìng cót, nging biệt (cầy núc nác), mùa chùa, khau mii, chải gai mía, chài đạt khê, sỉ ma puông, nòm họm, sà pên đẻng, lai cam lẩu, măng mả cha, tục chồm, mè chém, còn choang, dừn choan mao, kim choông mây, dàng chậu dung, mẹ đéng, đìa puộng siêu, đìa phan, đìa puông cuội, địa chủn, địa sản, cu de khăng, trình pầu, vườm sản puông, cù tại hây, puông khéc, puông tòi, ma thối, đu mác, bỏ mấy tÊ...
Các loại thảo dược có các dạng cây thân gõ, thân thảo, thân bụi, thân dây leo... Đối với mỗi loại thảo được, các bộ phận của cây được dùng vào mục đích chữa bệnh khác nhau, và các bộ phận khác nhau của cùng một cây có những tác dụng khác nhau tùy theo cách vận dụng chữa bệnh của thày thuốc. Có loại cây chỉ có một bộ phận (lá, thân, rễ, hoa, quả...) được sử dụng, có loại hai bộ phận (thân và lá)
11
được sử dụng, một số khác là ba bộ phận (thân, lá, rễ) và thậm chí có loại cả cây được sử dụng (Nguyễn Ngha' Thìn (chủ biên), 2001: 54). Hoặc để chữa một số bệnh nhất định, phải kết hợp nhiều bộ phận của cây thuốc hoặc nhiều cây thuốc mới có tác dụng tốt. Liều lượng sử dụng thường mang tính ước lượng, nhất là các loại lá, cành lá thường tính theo nắm, bó hoặc ngọn.
Mỗi loại dược liệu được ứng dụng cho từng đối tượng chữa bệnh khác nhau như: bệnh thông thường, bệnh của phụ nữ, bệnh của trẻ em, thuốc bổ... Thực tế cho thấy việc hiểu công dụng của từng loại dược liệu đối với từng loại bệnh là yêu cầu rất quan trọng trong điều trị bệnh. Trên cơ sở đó, thày thuốc căn cứ vào bệnh tật của từng bệnh nhân để có thể dùng một hoặc kết hợp nhiều loại được liệu khác nhau. Nếu một loại dược liệu có tác dụng với nhiều bệnh thì phải lựa chọn chữa trị loại bệnh nào có hiệu quả nhất (Vũ Trường Giang 2008: 42). Người Dao ở các địa bàn nghiên cứu thường có hai cách chính trong sử dụng thuốc để chữa bệnh: sắc uống và tắm. Cách dùng này phụ thuộc vào thể trạng của một số người; hoặc liên quan đến một số bệnh đặc thù (như phục hồi sức khỏe sản phụ sau sinh nở). Người Dao sử dụng các cây thuốc trong vườn nhà để cứu chữa kịp thời với một số trường hợp: cảm, cầm máu. tiêu chảy, giải độc, bị rắn cắn, táo bón, đái vàng, đái rắt, vết thương ngoài đa.
2.4. Kỹ thuật thu hái, chế biến, trồng và bảo vệ cây thuốc
Các thầy thuốc người Dao thường đi thu hái thuốc trên rừng bởi phần lớn số dược liệu mà họ đang sử dụng đều có nguồn gốc từ rừng. Địa điểm thu hái thuốc thường cách xa nhà, có những vị thuốc phải đi vào các khu rừng già, núi đá mới tìm được. Thuốc có thể thu hái sẵn vào những thời điểm thích hợp, hoặc khi có bệnh nhân đến tìm thì thầy thuốc mới lên rừng lấy.
Kết quả khảo sát cho thấy, các thày lang thường đi lây thuôc với tân suât một lân/tuân, 12
rất ít thày lang đi lấy thuốc nam hằng ngày vì còn tùy thuộc vào sức khỏe hoặc nhu cầu của người bệnh, có khi một tháng chỉ đi hai, ba lần; hiện nay, nguồn dược liệu có dấu hiệu khan hiếm nên các thày lang phải đi xa hơn để đảm bảo đủ số thuốc mà họ cần cho mỗi loại bệnh. Một số gia đình chuyên làm thuốc, các bậc cha mẹ thường dẫn theo con cháu lên rừng để chỉ cho mặt cây thuốc và đến khi về già, không đủ sức khỏe thì họ có thể nhờ con cháu đi thu hái hộ.
Với từng loại cây thuốc, người Dao ở mỗi địa bàn có những thời điểm thu hái thích hợp. Các loại thảo dược dùng cành, lá, thân có thể thu hái gần như quanh năm; một số cây lấy củ, hạt, người dân thường để củ già, quả chín mới thu hoạch. Những vị thuốc là hoa được thu hái vào mùa cây đơm hoa.
Mặc dù việc thu hái thuốc ở tất cả các nhóm Dao diễn ra quanh năm tùy theo nhu cầu của người bệnh nhưng phần nhiều loại cây phải thu hái theo mùa mới có và đảm bảo chất lượng thuốc. Đối với nhóm Dao Đỏ ở Tuyên Quang, mùa thu hái chủ yếu của đồng bào bắt đầu từ tháng hai đến tháng chín vì nghề làm thuốc của các thày lang chỉ là phụ bên cạnh nghề nông nên từ tháng mười trở đi, người dân bận rộn với các công việc thu hoạch sản phẩm trồng trọt trên nương nên họ không có nhiều thời gian đi thu hái dược liệu. Hơn nữa, thời điểm tháng mười, khí hậu đã bắt đầu chuyển sang lạnh, có sương muối làm cho một số cây thuốc trên rừng bị lụi và không sử dụng được. Nhóm Dao Tiền ở Bắc Kạn thu hái quanh năm nhưng chỉ khi có người bệnh đến hỏi thì thày lang mới đi lên rừng hái thuốc. Các thày lang ở thôn Nà Hin, xã Hà Hiệu hầu hết đều là các thầy cúng nên khi chữa bệnh, họ thường kết hợp cả hai phương pháp bốc thuốc nam và cúng bái. Các thày lang của nhóm Dao Thanh Y ở Quảng Ninh thường chọn thời điểm tháng ba đến tháng năm để thu hãi dược liệu, người Dao Thanh Phân chọn thời điểm từ tháng hai đến tháng năm âm lịch. Họ
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
cho rằng thời điểm này cây thuốc trên rừng đang xanh tốt và tích trữ nhiều được chất quý. Họ có thể thu hái với số lượng lớn để dự trữ trong nhà và bán ngoài chợ.
Các thày lang còn thu hái để sử dụng trong gia đình và mang thuốc bán tại các địa phương khác. Cây thuốc sau khi lấy về được sơ chế, rửa hoặc rũ bỏ đất cát, băm nhỏ riêng từng loại cây, phơi khô và bảo quản trong các bao nilon kín rồi mang đi chợ, các cửa hàng thuốc nam dược, đến nhà dân để bán cho bệnh nhân hoặc bán cho những người thu mua ở ngoài huyện Ba Chẽ hoặc thành phố Hạ Long, những người này thu mua và mang ra cửa khẩu Móng Cái bán lại cho thương lái Trung Quốc.
Nguồn dược liệu của người Dao sử dụng qua hình thức thu hái trong thiên nhiên, chủ yếu là trong rừng. Ngoài ra, một số cây có sẵn trong vườn nhà, nương rây, có khả năng chữa bệnh cũng được đồng bào tận dụng một cách triệt để. Mặt khác, khi khai thác nguồn dược liệu từ rừng, thầy thuốc người Dao thường cần trọng trồng lại những cây, dây mà họ đã cắt, chặt trên rừng nhằm phát triển cây thuốc. Tuy nhiên, không phải cây thuốc nào lấy từ rừng về trồng ở vườn nhà cũng sống, do chúng mọc ở các khu vực gần rìa suối ầm thấp, thích hợp với điều kiện khí hậu, độ ẩm ở rừng nên khi đem về nhân giống ở nhà, một số loài cây không thích ứng được. Ngoài các nguồn được liệu từ thảo được, người Dao còn biết sử dụng các bộ phận của động vật để điều trị một số loại bệnh.
Nếu như trước đây, tài nguyên cây thuốc rất dồi dào, người dân đi thu hái thuận tiện, thì hiện nay, nguôn dược liệu càng ngày càng khan hiếm và có nguy CƠ cạn kiệt, nhất là một số cây thuốc quý. Đông bào muốn lấy thuốc phải đi vào những khu rừng xa, thậm chí có loại mọc trên núi đá hoặc không tìm được nên khi điều trị cho người bệnh, thày lang phải thay thế bằng những loại cây khác, trong một số trường hợp hiệu quả chữa bệnh bị giảm đáng kể. TẠP CHÍ VHDG SỐ 3/2016
2.3. Tín ngưỡng HÊn quan đến nghề thuốc nam Tín ngưỡng liên quan đến tổ nghề
Đối với nghề bốc thuốc nam, khi truyền lại cho người ngoài, thày lang cần phải có đồ lễ cúng trình báo với tổ sư nghề thuốc. Người Dao Tiền ở Hà Hiệu, Ba Bể, Bắc Kạn thường đem đồ lễ theo cặp: đôi gà trống, đôi chai rượu và hai bát gạo nếp; người Dao Đỏ ở xã Phúc Sơn, Chiêm Hóa, Tuyên Quang mang một chai hoặc một can rượu trắng, một con gà sống, 10 ống gạo tẻ (1 ống = 300g). Ở trong cùng địa vực cư trú là huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh, nêu như nhóm Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả phải mang theo nhiều đồ lễ bằng hiện vật thì người Dao Thanh Phán ở xã Đồng Sơn chỉ mang bạc trắng hoặc tiền đến xin học nghề, thày lang sẽ tự chuẩn bị đồ lễ cúng. Những đồ lễ này không phải do thày lang yêu cầu mà xuất phát từ lòng thành của người học nghề, tuy nhiên, mỗi vùng có những đặc điểm khác nhau nên tự họ sẽ học hỏi và theo nhau trong cách mang đồ lễ. Ngoài ra, ở tất cả các nhóm Dao, người học nghề cần phải chuẩn bị sẵn một khoản tiền (khoảng 200 - 300 nghìn đồng) để thày thuốc mời thày cúng đến cúng nhập nghề cho mình.
Với mỗi nghề đều có tổ sư riêng và việc thờ cúng người thày tổ là điều tất nhiên phải làm. Trong nghề thuốc của người Dao, bàn thờ tổ tiên cũng chính là bàn thờ tổ sư nghề thuốc. Do đó, khi có dịch bệnh, ốm đau hoặc gia đình có công việc đại sự, người ta thường thắp hương cầu khấn. Ngoài ra, thày lang phải cúng trình báo với tổ tiên trước khi đi hái thuốc cho người bệnh với mong muốn được mọi sự suôn sẻ, tốt lành. Một số thày lang tin rằng, nếu trước khi đi lấy thuốc mà không khấn vái tổ sư thì sẽ øặp nhiều bất trắc và có khi không tìm được cây thuốc mình cần. Song, số khác lại không quan tâm đến những kiêng ky hay lễ nghi đó nên có thể đi lấy thuốc mà không cần khấn vái, thắp hương. Tùy theo một số vùng và tùy thuộc vào thày dạy của người đó mà các lễ thức có thể có ở vùng này nhưng lại
13
không có ở vùng kia, người này ấp dụng nhưng người khác lại không. Chính những sự khác biệt đó đã tạo nên nét độc đáo trong tri thức dân gian của người Dao về sử dụng cây thuốc.
Sau khi người bệnh được chữa khỏi thì họ phải có nghĩa vụ đến tạ ơn thày thuốc hay nói cách khác là để thày lang làm lễ trình báo và tạ ơn tổ sư. LỄ vật người bệnh mang đến tùy thuộc vào sự hảo tâm cũng như điều kiện kinh tế của gia đình họ. Điểm chung của các thày thuốc người Dao ở các địa bàn nghiên cứu là họ không hề đòi hỏi lễ vật hay tiền bạc là bao nhiêu, tất cả là do sự tự nguyện của bệnh nhân. Trong trường hợp, người bệnh quá khó khăn, không có đủ tiền sắm lễ vật thì phải đến nhà trình bày rõ hoàn cảnh cá nhân để thày lang tự sắm đồ lễ trả ơn tổ sư nghề thuốc của mình. Việc làm này là bắt buộc và trở thành nguyên tắc đối với mỗi người hành nghề y. Nếu không làm như vậy thì gia đình và bản thân thày lang sẽ bị liên lụy hoặc bài thuốc không hiệu nghiệm, bệnh nhân sẽ bị tái phát hoặc thậm chí bệnh tình càng nặng thêm. Trong bối cảnh đó, người bệnh không tạ lễ thì thày lang vẫn tiến hành làm lễ, tuy nhiên lúc này mọi tai họa nếu diễn ra sẽ rơi vào phía người bệnh.
Người Dao Đó ở xã Phúc Sơn, Tuyên Quang khi được chữa khỏi thường mang các lễ vật đến tạ ơn, tùy theo mức độ bệnh nặng nhẹ khác nhau mà đồ lễ tạ ơn sẽ tương xứng. Khi người nhà bệnh nhân mang đến, thày thuốc sẽ mời thầy cúng đến làm lễ. Mục đích của lễ cúng này là trình báo với tổ tiên về việc chữa khỏi cho người bệnh, cầu xin cho người bệnh luôn khỏe mạnh và không bị phát lại. Điểm khác biệt giữa người Dao Đỏ ở Tuyên Quang và người Dao ở ba nơi còn lại là trước một ngày khi người bệnh báo sẽ mang lễ vật đến tạ ơn thì người thày thuốc sẽ đi lên rừng tìm cây thuốc gốc trong bài thuốc chữa cho bệnh nhân để ngày hôm sau nói cho người bệnh công dụng của vị thuốc đó. Cũng trong ngày hôm đó, thày thuốc sẽ hái luôn một thang thuốc cuối cho người bệnh uống để ngăn ngừa bệnh 14
tái phát. Nếu người bệnh có ý muốn học bài thuốc này thì có thể xin thày lang truyền dạy lại cho mình. Nhóm Dao Tiền ở Bắc Kạn và hai nhóm Dao ở Quảng Ninh thường không có nghi thức này. Sở dĩ có sự khác biệt đó có thể xuất phát từ phương thức truyền nghề của các thày lang ở mỗi vùng, cách ứng xử với cây thuốc và quan niệm về bệnh tật ở mỗi nhóm Dao có sự khác nhau.
Một số kiêng ky khi thu hái thuốc
Đối với các thày lang chữa bệnh bằng thuốc nam, những hình thức cúng bái hay kiêng ky là không thể thiếu, nhất là các nguyên tắc liên quan đến thu hái cây thuốc. Theo họ, những yếu tố này chiếm một phần rất quan trọng quy định tính hiệu nghiệm của bài thuốc chữa bệnh. Những nguyên tắc này hầu như chỉ được thực hiện trong quy mô gia đình, nhất là những hộ chuyên làm nghề thuốc, họ đặt ra một số quy tắc và truyền tụng cho thế hệ sau.
Khi đi lấy thuốc, các thày thuốc người Dao thường chọn ngày, giờ xuất hành. Xuất phát từ cầu nói: Mẩy hoi mai ke địa, chây hoi mai pấu quả (Ngày Tí không cúng bói, ngày Mùi không lấy thuốc) nên người Dao ở Tuyên Quang khi ởi lấy thuốc thường tránh ngày Mùi, vì họ quan niệm nếu đi vào ngày này trong tháng thì thuốc sẽ không hiệu nghiệm. Một số thày lang của người Dao Thanh Phán, xã Đồng Sơn, huyện Hoành Bò, tỉnh Quảng Ninh còn kiêng cả ngày sinh nhật của minh trong lịch đi thu hái thuốc, vì họ cho rằng đi vào ngày đó, bản thân sẽ bị đau ốm. Các thày lang người Dao Đỏ, Dao Tiền thường chọn ngày lẻ trong tháng là ngày tốt để đi thu hái dược liệu trên rừng. Ở Tuyên Quang và Cao Bằng, một số thày lang nhóm Dao Đó cho rắng: các ngày mồng I, I1, và 21 là những ngày tốt cho thu hái cây thuốc; còn người Dao Tiền ở Bắc Kạn lại coi những ngày 5, 7, 15, 17, 25, 27 thuận lợi cho thu hái dược liệu. Tuy nhiên, người Dao Thanh Y và Dao Thanh Phân ở Quảng Ninh đi không phân biệt ngày chẵn, lẻ, họ chọn những ngày tốt đầu tháng như mông l1, 2, 4, 5,
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
6, 8, 10 và kiêng ngày mồng 3, 7, 9. Việc chọn ngày tùy theo kinh nghiệm và những quy tắc riêng biệt của mỗi thày lang trong cách ứng xử với tài nguyên cây thuốc. Bản thân họ có những kiêng ky nhất định và truyền miệng cho nhau những quy tắc nghề nghiệp, chẳng hạn khi đi lấy thuốc, họ còn tránh những ngày mất của người già trong gia đình. Khung giờ lẻ tốt nhất là từ 7 giờ đến 9 giờ sáng vì nếu đi sớm hơn thì trên lá cây sẽ còn bám nhiều sương đêm làm giảm chất lượng của thuốc. Đặc biệt, họ tránh đi hái thuốc vào khung giờ Ngọ (11h - 14h) vì theo quan niệm của người Dao, đây là khung giờ của các vong hồn (khung moÒn§), nếu đi hái thuốc vào giờ này, rất dễ đi về tay không. Còn một nguyên nhân khác nữa, đó là vào thời điểm ì này, nước ở trong các cây sẽ rút xuống phần rễ nên phần lã và thân không còn nhiều chất thuốc. Đối với mỗi loại bệnh, các thầy thuốc người Dao đều dựa vào cây thuốc gốc (Tà diết khốm) để đoán biết mức độ khỏi nhanh hay chậm của bệnh. Trong khung thời gian của các thày lang nhóm Dao Tiền, buổi sảng sớm tĩnh mơ không thích hợp cho việc đi hái thuốc vì khi đó, lá cây còn dính sương làm giảm chất lượng thuốc và chữa bệnh sẽ không hiệu quả.
Trước ngày đi hái thuốc, các thày lang cần kiêng một số: điều như không quan hệ nam nữ, không giết mổ øia SÚC, gia cầm (phỏng vấn ông ĐVS, thôn 2, xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh) vì họ cho rằng những việc làm đó không sạch sẽ, khiến cho buổi đi lấy thuốc hôm sau không hiệu quả, đồng thời có thể làm giảm tính hiệu nghiệm của bài thuốc. Nhóm Dao Đỏ ở Tuyên Quang còn kiêng không lội xuống bùn ruộng trước ngày đi lấy thuốc, không nói cho người lạ biết mình sắp đi lấy được liệu vì họ cho rằng nếu không kiêng cữ thì bài thuốc chữa bệnh không phát huy được tác dụng (phỏng vấn bà ĐTB, thôn Tầng, xã Phúc Sơn, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang).
Trên đường đi, nếu gặp phụ nữ mang bầu (mài fon) hoặc những người đang đeo tang (ai TẠP CHÍ VHDG SỐ 3/2016
khô) thì thày lang sẽ quay về nhà và chọn ngày khác để đi. Nếu cố tình đi thì thuốc của ngày hôm đó ít có tác dụng chữa bệnh, thậm chí người bệnh sẽ ốm nặng hơn nếu uống phải những thuốc này. Trong trường hợp. đang đi thu hái mà gặp trời mưa thì thày lang cũng trở về nhà để hôm khác đi lấy vì họ cho rằng mưa sẽ làm nhạt vị thuốc và làm giảm tác dụng chữa bệnh của các cây thuốc đó. Các thày lang đoán biết khả năng chữa khỏi cho người bệnh bằng cách dựa trên những điềm báo. Người Dao Tiền cho rằng khi đi hái thuốc, thấy con rắn bò ngang trên đường là bệnh đó chữa rất nhanh khỏi, còn nếu thấy nó bò đọc theo đường đi nghĩa là bệnh chữa lâu khỏi (phỏng vấn ông BVK, 70 tuổi, thôn Nà Hin, xã Hà Hiệu. huyện Bắc Kạn). Nhóm Dao Thanh Y cho rằng đi đường gặp con rắn (đà mẩn) thì có thể căn bệnh của bệnh nhân này chữa lâu dài mới khỏi, còn gặp con cáo (gen mao) thì chữa bệnh sẽ nhanh khỏi. Nếu gặp các con vật như cú mèo (wa cô). diều hâu (kiáng) thì cho là điềm dữ và không đi tiếp nữa. Cảnh tượng hai con rắn lồng vào nhau trên đường đi được người Dao Thanh Y coi là một điềm báo rất độc, trong trường hợp đó, thày lang lập tức quay về nhà vì họ cho rằng nếu đi tiếp sẽ nguy hiểm đến tính mạng của họ (phỏng vấn ông ĐVS, thôn 2, xã Bằng Cả, huyện Hoành Bỏ, tỉnh Quảng Ninh). Những kiêng ky này xuất phát từ những kinh nghiệm dân gian được các thày lang đúc kết lại và truyền lại cho những người kế tục.
3. Kết luận
Người Dao hiện còn lưu giữ được nhiều tri thức dân gian về sử dụng cây thuốc, đặc biệt là những bài thuốc gia truyền. Nhiều bài thuốc, cây thuốc của đồng bào đã phát huy tác dụng mạnh mẽ trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Mặc dù hiện nay, dưới tác động của nền kinh tế thị trường, cuộc sống của người Dao đã có nhiều thay đôi nhưng họ vẫn giữ được truyền thống chữa bệnh băng các cây thuốc nam. Việc tìm hiểu tri thức của họ trong sử dụng cây thuốc không chỉ có ý nghĩa gìn
15
giữ một di sản văn hóa mà còn hiểu được môi trường sống, cùng như mối quan hệ giữa văn hóa với các yếu tố kinh tế - xã hội của tỘC nPƯỜI.
Để bảo tồn và phát triển bền vững nguồn tài nguyên cây thuốc nhằm giữ øìn hiệu quả các nguôn øen quý hiếm, đông thời bảo vệ sức khỏe và nâng cao đời sống cho đồng bào người Dao, rất cần sự quan tâm, hỗ trợ, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hữu quan, các câp chính quyên và cộng đồng tại địa phương; cân phải xây dựng quy hoạch phát triển được liệu trong vùng. Vì vậy, việc tập trung điều tra trữ lượng của các loài cây thuốc trong rừng tự nhiên nơi người Dao cư trú cùng những vốn tri thức dân gian trong sử dụng cây thuốc; tăng cường nguồn tài chính cho công tác bảo tồn và phát triển; xây dựng được hệ thống vườn cầy thuốc tại địa phương là điều rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. T]
Tài liệu tham khảo
1. Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến (1971), Người Dao ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Trần Hồng Hạnh (2002), "Tri thức địa phương trong sử dụng thuốc Nam của người Dao đỏ (Nghiên cứu ở xã Tả Phìn, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai)", Dân tộc học, số 5.
3. Phạm Quang Hoan, Hùng Đình Quý chủ biên (1999), Văn hóa truyền thống người Dao ở Hà Giang, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
4. Trần Công Khánh (2002), Cây thuốc dân tộc và vấn đề bảo tồn trí thức bản địa về cách sử dụng cây thuốc, Trường Đại học Y Dược, Hà Nội.
5, Đỗ Tất Lợi (1991), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (xuất bản lần thứ 6), Nxb. Khoa học và kỹ thuật.
6. Lý Hành Sơn (2003), Các nghi lễ chủ yếu trong chu kỳ đời người của nhóm Dao Tiền ở Ba Bể, Bắc Kạn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Nguyễn Thị Thanh Vân (2005), "Bước đầu tìm hiểu cây thuốc của đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam" trong Nam Bộ dân tộc và tôn giáo, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Nguyễn Thị Thanh Vân, "Nhân học y tế - hướng tiếp cận nghiên cứu về chăm sóc sức khỏe cộng đồng ở vùng các tộc người thiểu số Việt Nam trong bối cảnh toản cầu hóa",
http:/www.anthdep.edu.vn, truy cập ngày 16/10/2013.
TS. NGUYÊN THỊ TÁM Viện Dân tộc học