AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 30 - 40<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG LỄ HỘI SEN ĐÔN-TA CỦA NGƯỜI KHMER NAM BỘ<br />
<br />
Võ Văn Thắng1, Đinh Văn To2<br />
1<br />
Trường Đại học An Giang<br />
2<br />
Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình giao thông tỉnh An Giang<br />
<br />
Thông tin chung: ABSTRACT<br />
Ngày nhận bài: 14/05/2019<br />
Ngày nhận kết quả bình duyệt: Studying about the Sen Dolta festival of the Khmer people with four main<br />
05/07/2019 rites at the temple and at each Khmer family which are the rice ball rite<br />
Ngày chấp nhận đăng: (Banh canh banh), the ancestor worshiping rite (Banh Sen Dolta), the<br />
08/2019 festival (Banh phchum banh) and the ancestor farewell rite (Banh chuônh<br />
Title: Dolta), the author points out that the outstanding philosophical values of the<br />
Human philosophy in the Sen Khmers in this festival are the spirit of filial piety toward ancestors,<br />
Dolta festival of the Southern grandparents, and parents. Accordingly, the author finds it essential to<br />
Khmer people preserve and promote these values in order to diversify the spiritual and<br />
Keywords: cultural life of Khmer compatriots and to make more prosperous and<br />
Festival, Sen Dolta, filial healthier not only at the present but also in the future.<br />
piety, Khmer<br />
Từ khóa: TÓM TẮT<br />
Lễ hội, Sen Đôn-ta, hiếu đạo,<br />
Khmer Trên cơ sở tìm hiểu nội dung lễ hội Sen Đôn-ta của người Khmer Nam bộ với<br />
bốn nghi lễ chính tại Chùa và tại gia đình mỗi người dân tộc Khmer: lễ đặt<br />
cơm vắt (Banh canh banh), lễ cúng ông bà (Banh Sen Đôn-ta), lễ hội (Banh<br />
phchum banh) và lễ tiễn ông bà (Banh chuônh Đôn-ta), tác giả bài viết chỉ ra<br />
những giá trị triết lý nhân sinh nổi bật của người Khmer trong lễ này, đó là:<br />
tinh thần hiếu đạo với tổ tiên, ông bà, cha mẹ, qua đó tác giả cho rằng, cần<br />
phải bảo tồn và phát huy những giá trị này nhằm làm cho đời sống văn hóa<br />
tinh thần của đồng bào Khmer ngày càng phong phú và lành mạnh hơn ở<br />
hiện tại và tương lai.<br />
<br />
<br />
1. MỞ ĐẦU hạ, Sen Đôn-ta, Okombok,... Mỗi lễ hội mang ý<br />
Có thể nói rằng, người Khmer Nam bộ đã mang nghĩa khác nhau trên cơ sở tiếp thu giáo lý của<br />
đến cho vùng đất này một nền văn hóa mang bản Phật giáo. Trong đó, lễ hội Sen Đôn-ta là lễ lớn<br />
sắc độc đáo với các đặc điểm tôn giáo và dân tộc nhất trong các lễ hội truyền thống của cộng đồng<br />
hòa quyện vào nhau. Bản sắc ấy thể hiện qua các Khmer, nó góp phần hình thành nhân cách của<br />
lễ hội, phong tục tập quán, đạo đức, lối sống, nghệ người Khmer qua nhiều thế hệ, tiêu biểu nhất là<br />
thuật kiến trúc của những ngôi chùa Khmer cổ lòng hiếu thảo với ông bà tổ tiên, gắn con người<br />
kính. Đặc biệt nhất trong nét văn hoá của người với gia đình và nguồn cội, thể hiện nét đẹp văn<br />
Khmer là các lễ hội mang tính truyền thống và hóa, đời sống tinh thần, tín ngưỡng của đồng bào<br />
đặc trưng như lễ Chol Chnam Thmay, Lễ Nhập<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
30<br />
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 30 - 40<br />
<br />
dân tộc Khmer Nam bộ - nét đẹp toát lên từ chữ cùng chia buồn với bạn bè là người tìm không gặp<br />
“Hiếu”. ông bà, cha mẹ...<br />
2. KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI SEN ĐÔN-TA Truyền thuyết thứ hai lại cho rằng, lễ Sen Đôn-ta<br />
CỦA NGƯỜI KHMER được bắt nguồn từ sự tích kinh điển của Phật giáo.<br />
Nếu như trong đời sống tâm linh của người Kinh Truyền thuyết kể rằng, trong thời Đức Phật còn tại<br />
theo đạo Phật có lễ Vu Lan diễn ra vào rằm tháng thế, vào một đêm khuya, trong hoàng cung,<br />
7 âm lịch (AL) hàng năm, được xem là mùa báo vua Bimbisara nghe tiếng gào thét, khóc lóc vì đói<br />
hiếu, thể hiện nét đẹp về lòng tri ân, hiếu thảo của khát. Nhà vua sợ hãi và truyền lệnh cho cận thần<br />
con cái với đấng sinh thành thì trong đời sống tâm mời các nhà bói toán xem nguyên do. Những nhà<br />
linh của người Khmer có lễ hội Sen Đôn-ta là lễ bói toán thưa rằng: “Đây là các ma quỷ chết oan,<br />
cúng ông bà, tổ tiên mang nét đẹp đậm đà bản sắc chết ức, không cha mẹ, không nhà cửa, anh em,<br />
văn hóa truyền thống, diễn ra trong ba ngày, từ 29 nay họ đến xin ăn uống. Nếu Hoàng Thượng<br />
tháng 8 đến ngày mùng 01 tháng 9 AL. Theo không lo cúng tế, e sợ có chuyện bắt 100 người<br />
phong tục của đồng bào Khmer Nam bộ, hằng nam, 100 người nữ và 100 con vật để làm lễ cúng<br />
năm, cứ vào ngày 29 tháng 8 đến ngày mùng 01 tế”. Nghe tin đó, hoàng hậu can gián: “Nếu Hoàng<br />
tháng 9 AL, đồng bào Khmer lại nô nức tổ chức lễ Thượng làm như vậy, 200 người này bị chết oan<br />
Sen Đôn-ta (người Khmer thường gọi là Pchum ức, những người thân của họ càng phẫn uất, vậy<br />
Ben) hay gọi là lễ cúng ông bà nhằm tưởng nhớ nó sẽ càng có hại cho mình và vương quốc”. Nhà<br />
đến công ơn và cầu phước cho linh hồn của các vua tìm đến chùa thỉnh ý Phật Thích ca và được<br />
bậc sinh thành, những người trong thân tộc quá cố Ngài bảo rằng: Đây là ma quỷ thuộc dòng tộc,<br />
và tri ân tổ tiên đã khai phá đất đai, phù hộ cho thuộc những người liên hệ đến nhà vua khi còn ở<br />
phum, sóc được bình an, thịnh vượng. Về nguồn dương gian nhiều đời, nhiều kiếp trước, nay ở<br />
gốc của lễ Sen Đôn-ta, có hai truyền thuyết được dưới âm phủ cực khổ thiếu ăn, thiếu mặc, đến cầu<br />
đề cập từ lâu đời. khẩn xin ăn uống nơi nhà vua. Nhưng ma quỷ<br />
chúng ta không thể cho vật thực, đồ ăn trực tiếp<br />
Truyền thuyết thứ nhất cho rằng, phần đông người<br />
được, mà phải dâng cúng vật thực đồ ăn đến các<br />
Khmer ở Nam bộ thường sinh sống bằng nghề<br />
vị có giới đức rồi nhờ các vị có giới đức ấy tụng<br />
nông, trồng lúa nước. Vào vụ trồng lúa bắt đầu từ<br />
kinh hồi hướng thì các ma quỷ thuộc ân nhân đã<br />
tháng 4 và đến đầu tháng 8 AL là thời gian nhổ<br />
quá cố mới thọ hưởng được do phép hồi hướng<br />
mạ, cấy lúa. Đây cũng là thời điểm vào mùa mưa,<br />
đó. Ma quỷ được hưởng đầy đủ vật thực nên đêm<br />
nước lũ dâng lên. Khi đã cấy lúa xong, đồng bào<br />
thứ nhất không nghe tiếng rên khóc. Qua đêm thứ<br />
Khmer thường chống xuồng, chèo ghe đi thăm hỏi<br />
hai, nhà vua lại nghe tiếng rên khóc tiếp tục. Sáng<br />
ông bà, cha mẹ già yếu, có khi đi vài ngày mới<br />
sớm hôm sau, nhà vua đến chùa bạch với Đức<br />
tới. Vì vậy, họ luôn chuẩn bị cẩn thận lương thực,<br />
Phật. Đức Phật dạy tiếp rằng: “Đêm trước, ma quỷ<br />
thực phẩm mang theo dùng và phần quà bánh biếu<br />
được ăn no đầy đủ nên không rên la. Đêm sau,<br />
cho ông bà, cha mẹ đều được chuẩn bị rất cẩn<br />
chúng lại rên la tiếp là vì chỉ ăn uống đầy đủ mà<br />
thận. Khi đến nơi ở của ông bà, cha mẹ, có người<br />
chưa có đồ mặc nên bị rét lạnh”. Nhà vua nghe<br />
vui mừng sum họp, người lại đau buồn chia ly bởi<br />
xong, về hoàng cung cho người chuẩn bị y áo<br />
một trong những người thân của họ đã mất vì tuổi<br />
cùng vật thực làm lễ dâng cúng đến chư tăng và<br />
già sức yếu hay bệnh tật, nhưng phận làm con ở<br />
nhờ chư tăng hồi hướng tiếp. Nhà vua không còn<br />
xa, đường xá cách trở, lo bận mưu sinh, không<br />
nghe tiếng rên than của ma quỷ nữa. Từ đó về sau,<br />
thường xuyên đến thăm hỏi nên không hay<br />
mỗi năm, cứ đến mùa là nhà vua lại cho thỉnh mời<br />
biết…. Dần dần những người cùng đi, họ hẹn hò<br />
chư tăng đến để làm lễ hồi hướng cho ma quỷ và<br />
gặp nhau ở một chỗ nào đó để làm lễ nhớ ơn hoặc<br />
<br />
<br />
31<br />
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 30 - 40<br />
<br />
những người đã quá cố (Sơn Phước Hoan & Sơn này được tổ chức tại mỗi gia đình người dân tộc<br />
Ngọc Sang, 1999). Khmer. Trước đó, từng nhà dọn dẹp, trang trí<br />
Từ sự tích trong kinh điển Phật giáo nói trên, sạch đẹp. Trong ngày cúng ông bà này, mỗi gia<br />
người Khmer Nam bộ tổ chức Lễ Sen Đôn-ta đình chuẩn bị một mâm cơm thịnh soạn, có hoa<br />
hằng năm, nó trở thành phong tục, gắn với nghi quả, nhang đèn… rồi mời họ hàng và gia đình<br />
thức tôn giáo; họ nhờ sư sãi tụng kinh cầu phước sum họp đầy đủ cùng nhau cúng vái, mời linh<br />
cho ông bà, cha mẹ, họ tộc quá cố được mau hồn những người trong họ tộc đã quá cố về ăn<br />
chóng đầu thai kiếp khác sung sướng hơn. Sau uống. Chủ hộ khấn vái ba lần, mỗi lần rót trà,<br />
này, khi có sự xuất hiện của các ngôi chùa Phật rượu và gắp thức ăn mỗi thứ một ít vào chén,<br />
giáo, bà con người Khmer tụ hội về chùa để làm tiếp đó là đem ra sân, để cạnh hàng rào nơi sạch<br />
lễ cúng ông bà và quy định với nhau rằng, làm lễ sẽ và đốt nhang mời ma quỷ cùng về ăn. Vì theo<br />
Sen Đôn-ta trong 15 ngày, bắt đầu từ ngày 16 đến người Khmer, những linh hồn ma quỷ ấy đã dẫn<br />
cuối tháng 8 AL hàng năm, với bốn nghi lễ chính dắt ông bà của họ về nhà nhưng lại không dám<br />
tại chùa và tại mỗi nhà người dân Khmer, gồm: lễ lên ăn chung mâm nên họ phải mang ra ngoài<br />
đặt cơm vắt (Banh canh banh), lễ cúng ông bà cho ăn riêng. Họ khấn vái, mời ông bà, dòng họ<br />
(Banh Sen Đôn-ta), lễ hội (Banh phchum banh) và quá cố và ma quỷ ở lại ăn uống, vui chơi trong<br />
lễ tiễn ông bà (Banh chuônh Đôn-ta). ngày lễ.<br />
<br />
Một là, nghi thức Lễ đặt cơm vắt (Banh canh Ba là, lễ hội Banh Phchum Banh<br />
banh) Theo nghiên cứu của Trần Văn Bổn, trong<br />
Lễ đặt cơm vắt được tổ chức tại chùa. Các vị sư quyển sách Một số lễ tục dân gian người Khmer<br />
sãi, à cha phân công cho từng nhà, từng tổ (gọi Đồng bằng sông Cửu Long cho rằng, lễ hội này<br />
là Vênh) thay phiên nhau đem gạo nếp, thực có nơi còn gọi Lễ Hội linh. Lễ này được tổ chức<br />
phẩm, nhang đèn, tiền bạc… về chùa để tổ chức linh đình tại chùa, tất cả các gia đình trong<br />
nấu nướng và cúng liên tục trong thời gian 15 phum, sóc đều nấu một mâm cơm thật tươm tất<br />
ngày. Mỗi ngày nấu nhiều mâm cơm, đặc biệt mang đi chùa cúng vào ngày 30 tháng 8 AL.<br />
có một mâm cơm được vắt thành từng viên tròn Người Khmer quan niệm, ngày này là ngày hội<br />
bằng trái cam – người Khmer gọi là Bai banh những linh hồn người thân đã quá cố hội tụ về<br />
(cơm vắt). Theo các vị chức sắc ở phum, sóc thì chùa. Trước khi đem mâm cơm đến chùa, gia<br />
từ Bai banh bắt nguồn từ phạm ngữ Banh-đa, có chủ khấn vái bàn thờ tổ tiên trong gia đình. Bên<br />
nghĩa là phần cơm dâng cúng cho người đã chết. cạnh đó, người ta cũng có nhiều mâm cơm vắt<br />
Cơm vắt (Bai banh) được đặt trong mâm cùng (Bai banh) để cúng cho ma quỷ. Sau đó, gia<br />
với bánh trái, thức ăn, thức uống đem lên nhà đình, họ tộc, bạn bè (có nhà mời bạn bè là người<br />
hội (Sala) cúng Tam Bảo, có sự chứng kiến, Kinh láng giềng) cùng nhau ăn uống để đón<br />
tụng kinh của sư sãi nhằm cầu phước cho linh mừng Lễ. Tại chùa, các gia đình mời các vị sư<br />
hồn những người trong họ tộc đã quá cố. Sau tụng kinh cầu siêu và nhận hồng phúc mà chúng<br />
đó, người ta đem cơm vắt ra ngoài cúng cho ma con dâng cúng để sớm được siêu thoát.<br />
quỷ. Lễ đặt cơm vắt được cúng liên tục tại chùa Bốn là, lễ tiễn đưa ông bà (Banh chuônh Đôn-<br />
trong 15 ngày như thế. ta)<br />
Hai là, nghi thức Lễ cúng ông bà (Banh Sen Lễ tiễn đưa ông bà được tổ chức vào ngày cuối<br />
Đôn-ta) cùng tại mỗi gia đình. Mỗi gia đình đều làm một<br />
Lễ cúng ông bà được tổ chức vào ngày cuối của chiếc thuyền bằng bẹ chuối, dài từ 50 đến 70cm,<br />
thời gian Lễ đặt cơm vắt (ngày 30/8 AL) và vào trang trí cờ phướn màu sắc rực rỡ. Sau khi nấu<br />
chiều cùng ngày, sau khi cúng trên chùa. Nghi lễ mâm cơm thịnh soạn, họ chuẩn bị bốn chén<br />
<br />
<br />
32<br />
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 30 - 40<br />
<br />
cơm, gắp thức ăn mỗi thứ một ít vào chén rồi chuối, có gắn thêm cờ phướn, hai hình nộm<br />
khấn vái và mang ra đặt trên thuyền, cùng với (tượng trưng cho tổ tiên) và các lễ vật cúng, mỗi<br />
lúa, gạo, muối, đậu, bánh trái… Chủ gia đình thứ một ít, có cả các gói gạo, muối, quần áo, tiền,<br />
đem thả trên sông hoặc kênh rạch, mé ruộng gần vàng mã… rồi người nhà thắp nhang đèn và mang<br />
nhà, nhằm đưa tiễn ông bà và ma quỷ cùng trở thuyền thả dưới dòng sông hay kênh rạch gần nhà<br />
về âm phủ, sau đó, tập trung về nhà cùng quây để đưa tiễn ông bà và những người thân quá cố về<br />
quần ăn uống, vui chơi với gia đình, họ hàng, bè lại thế giới bên kia.<br />
bạn. Đến đây xem như lễ hội Sen Đôn-ta kết Có thể nói, lễ hội Sen Đôn-ta của bà con người<br />
thúc. Ngày nay, lễ hội Sen Đôn-ta được người Khmer mang ý nghĩa rất sâu sắc về lòng hiếu<br />
Khmer tổ chức với thời gian ngắn hơn, trong ba kính, tưởng nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng<br />
ngày chính: dục của ông bà, cha mẹ, những người quá cố đối<br />
Ngày thứ nhất (ngày cúng tiếp đón): Mỗi gia đình với con cháu. Ngoài ra, Lễ này còn thể hiện nét<br />
đều dọn dẹp nhà cửa khang trang, lau chùi bàn thờ đẹp truyền thống của đời sống văn hóa tinh thần<br />
tổ tiên sạch sẽ ; sau đó, dọn mâm cơm, bánh trái, gắn với các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng trong<br />
rượu trà…, mời các thành viên trong gia đình ngôi chùa Khmer Nam bộ.<br />
cùng đốt nhang, đèn, khấn vái mời linh hồn ông 3. NHỮNG GIÁ TRỊ TRIẾT LÝ NHÂN<br />
bà và người quá cố về ăn uống cùng con cháu. SINH TRONG LỄ HỘI SEN ĐÔN-TA<br />
Đến chiều, mọi người ăn mặc tươm tất, tiếp tục CỦA NGƯỜI KHMER<br />
dọn mâm cơm mới cúng ông bà rồi mời linh hồn<br />
Từ xa xưa, đồng bào Khmer cho rằng, ngoài thế<br />
ông bà cùng đến chùa nghe sư sãi tụng kinh cầu<br />
giới hiện hữu còn có thế giới linh hồn; con người<br />
siêu và thuyết pháp cho đến tối. Ngoài ra, các vị à<br />
chỉ chết đi về thể xác, còn linh hồn thì vẫn tồn tại<br />
cha lấy những nắm cơm vắt đựng trên mâm cúng<br />
ở cõi vĩnh hằng. Xuất phát từ đó, theo phong tục<br />
Tam Bảo, mời sư sãi tụng kinh cầu siêu cho linh<br />
của đồng bào Khmer Nam bộ, hàng năm cứ vào<br />
hồn những người quá cố, rồi đem ra ngoài để<br />
ngày 29 tháng 8 đến ngày mùng 01 tháng 9 AL,<br />
chung quanh chánh điện cúng cho những vong<br />
bà con lại nô nức tổ chức lễ Sen Đôn-ta hay gọi là<br />
hồn cô đơn, không có con cháu.<br />
lễ cúng ông bà nhằm tưởng nhớ đến công ơn và<br />
Ngày thứ hai (ngày cúng chính): Vào buổi trưa, cầu phước cho linh hồn của các bậc sinh thành,<br />
bà con người Khmer chuẩn bị mâm cơm cùng những người trong thân tộc quá cố và tri ân tổ tiên<br />
bánh, trái… mang vào chùa để tổ chức cúng chính đã khai phá đất đai, phù hộ cho phum, sóc được<br />
(cúng tập thể). Sau khi được các vị sư tụng kinh bình an, thịnh vượng. Lễ hội thể hiện được truyền<br />
cầu siêu cho tất cả các linh hồn ông bà của mọi thống đạo lý “cây có cội, nước có nguồn” của<br />
nhà trong phum, sóc, bà con Phật tử cùng ăn cộng đồng dân tộc Việt Nam, mang tính nhân văn<br />
uống, trao đổi kinh nghiệm trong công việc đồng và tính giáo dục đạo đức sâu sắc. Điều này còn<br />
áng và vui chơi tại chùa. Buổi chiều, họ rước linh cho thấy, đạo đức Phật giáo và đạo đức xã hội vốn<br />
hồn ông bà về nhà, làm mâm cơm mới để cúng và có sự tương đồng và tương quan sâu sắc, tạo nền<br />
mời ông bà ở lại chứng kiến cuộc sống sung túc tảng đạo đức xã hội, duy trì lối sống tốt đẹp của<br />
của con cháu. người Khmer ở các phum, sóc. Lễ hội Sen Đôn-ta<br />
Ngày thứ ba (ngày cúng tiễn): Mỗi nhà, bà con là lễ hội lớn trong năm, mang màu sắc tín ngưỡng<br />
Khmer chuẩn bị một mâm cơm, họ mời vài vị sư dân gian xen lẫn tôn giáo, chứa đựng nhiều yếu tố<br />
sãi cùng họ hàng, thân tộc trong phum, sóc đến tích cực, mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống<br />
nhà tụng kinh cầu siêu để tiễn đưa linh hồn người của dân tộc, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Triết lý<br />
quá cố. Riêng phần chuẩn bị cho ông bà, người nhân sinh nổi bật nhất của Lễ hội Sen Đôn-ta là tư<br />
thân quá cố, bà con làm chiếc thuyền bằng bẹ tưởng hiếu đạo với tổ tiên, ông bà, cha mẹ.<br />
<br />
<br />
33<br />
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 30 - 40<br />
<br />
Trong hầu hết kinh sách của nhà chùa Khmer đều ai đối với cha mẹ không có lòng tin thì khuyến<br />
ghi lại rằng, từ khi được sinh ra cho đến khi khích, hướng dẫn cha mẹ an trú vào lòng tin; đối<br />
trưởng thành, con cái nhất định phải có bổn phận với cha mẹ theo ác nghiệp thì khuyến khích,<br />
báo hiếu đối với cha mẹ mình. Bổn phận, tiếng hướng dẫn cha mẹ an trú vào thiện nghiệp; đối với<br />
Khmer có nghĩa là Phia-ra-ci, đó là những nhiệm cha mẹ tham thì khuyến khích, hướng dẫn cha mẹ<br />
vụ được quy định khi con người bước vào những an trú vào bố thí; đối với cha mẹ theo tà kiến, ác<br />
vị trí xã hội. Có nhiều bổn phận khác nhau đối với kiến thì khuyến khích, hướng dẫn cha mẹ an trú<br />
các vị trí xã hội khác nhau như: cha mẹ đối với vào chánh kiến, trí tuệ. Như thế là làm đủ và trả<br />
con cái, con cái đối với cha mẹ, học trò đối với ơn đủ cho cha mẹ” (Thích Minh Châu, 2003, tr.<br />
người thầy, mê phum hay mê sóc đối với bà con 75). Công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ<br />
trong phum, sóc và ngược lại bổn phận của bà con rộng lớn như trời biển, làm sao con cái có thể đáp<br />
đối với mê phum, mê sóc, bổn phận của người đền bằng những giá trị tầm thường như tiền bạc,<br />
dân đối với đất nước,… Báo hiếu, tiếng Khmer có của cải vật chất. Của cải vật chất không thể so<br />
nghĩa là Ka-ta-nhu, là việc thực hiện bổn phận của sánh được với những tình cảm thiêng liêng quý<br />
con cái đối với cha mẹ. Để thực hiện những bổn báu mà cha mẹ dành cho con. Vì vậy, để đền đáp<br />
phận của mình, người con không chỉ phải biết và công ơn cha mẹ, ngoài việc kính yêu, hiếu thuận<br />
hiểu rõ bổn phận của bản thân đối với cha mẹ mà và phụng dưỡng, con cái phải hết lòng quan tâm<br />
còn phải biết về những bổn phận của cha mẹ đối cha mẹ về mặt tinh thần, chăm lo đời sống tâm<br />
với bản thân mình, để từ đó, giúp cha mẹ thực linh của cha mẹ, chỉ như thế mới có thể báo hiếu<br />
hiện bổn phận đối với con cái. Đó cũng là một một cách trọn vẹn. Ngoài việc lo cho cha mẹ từng<br />
việc làm có hiếu với cha mẹ, bởi vì đã làm điều miếng ăn, giấc ngủ và làm cho cha mẹ sống vui vẻ<br />
tốt, làm cho cha mẹ vui lòng. hạnh phúc, người con cần phải biết hướng cha mẹ<br />
Đức Phật Thích ca lúc còn tại thế, khi thuyết pháp đi trên con đường lành. Đó là lo cho cha mẹ trong<br />
về công ơn cha mẹ được ghi lại trong bộ Kinh đời sống hiện tại và tương lai, lo cho cha mẹ lúc<br />
Tăng Chi Bộ, thuộc Tạng Kinh Pali, đã dạy: "Có sinh tiền và cả sau khi khuất bóng. Người con<br />
hai hạng người, này các Tỳ kheo, ta nói không thể khuyến khích, hướng dẫn cha mẹ có cuộc sống<br />
trả ơn được. Thế nào là hai? Đó là Mẹ và cha. chơn chánh để hiện tại được an lạc, hoan hỉ, hạnh<br />
Nếu một bên vai cõng mẹ, này các Tỳ kheo, nếu phúc trong đời sống vị lai. Nếu cha mẹ không có<br />
một bên vai cõng cha, làm vậy suốt 100 năm cho chánh tín thì người con giúp cha mẹ có chánh tín,<br />
đến 100 tuổi. Như vậy, này các Tỳ kheo, cũng nếu cha mẹ không có chính kiến thì người con<br />
chưa làm đủ hay trả ơn đủ cho mẹ và cha. Nếu giúp cha mẹ có chính kiến, nếu cha mẹ sống tà<br />
đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội, và dù tại mạng, tà nghiệp thì người con hướng cha mẹ về<br />
đấy, mẹ cha có vãi đại tiện, tiểu tiện, dù như vậy, với chánh mạng, chánh nghiệp… Cha mẹ không<br />
này các Tỳ kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ tin Tam bảo thì người con hướng dẫn cha mẹ kính<br />
mẹ và cha...". Ngài giải thích, vì sao công ơn cha tin, giúp cha mẹ quay về nương tựa Tam bảo.<br />
mẹ đối với con cái to lớn đến thế: "Vì cớ sao? Vì Người con chẳng những giúp cha mẹ tạo nhân<br />
rằng, này các Tỳ kheo, cha mẹ đã làm nhiều cho duyên lành để có được đời sống an lạc trong hiện<br />
con cái, nuôi nấng, nuôi dưỡng chúng lớn, giới tại và vị lai mà còn có thể khuyến khích, hướng<br />
thiệu chúng vào đời này" (Thích Minh Châu, dẫn cha mẹ tu tập, hướng đến con đường giác ngộ,<br />
2003, tr. 75).Đức Phật cũng nêu rõ giới hạn của giải thoát, đó chính là tột cùng của sự báo hiếu.<br />
việc báo đáp cha mẹ bằng đời sống vật chất rằng, Đức Phật đã từng dạy về phước báo hiếu rằng,<br />
“Những ai đền ơn cha mẹ bằng cách nuôi dưỡng, “những gia đình nào có con cái hiếu thảo với cha<br />
cúng dường bằng của cải vật chất, tiền bạc thì mẹ, những gia đình ấy được chấp nhận ngang<br />
không bao giờ đủ để trả ơn cha mẹ. Nhưng những bằng với Phạm Thiên. Những gia đình nào, ở đó<br />
<br />
34<br />
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 30 - 40<br />
<br />
các con cái hiếu thảo với cha mẹ, những gia đình tâm. Người con phải thương yêu cha mẹ bằng cả<br />
ấy được chấp nhận như các bậc Đạo sư thời xưa. tấm lòng và sinh mệnh của mình. Một người con<br />
Những gia đình nào, ở đó các con cái hiếu thảo chí hiếu là người luôn mang tinh thần, tư tưởng ấy<br />
với cha mẹ, những gia đình ấy xứng đáng được khi cha mẹ còn hiện tiền hay ngay cả khi cha mẹ<br />
cúng dường” (Thích Minh Châu, 2003). Theo đã mất.<br />
quan niệm của Hindu giáo, Phạm Thiên hay Đại Thứ hai, làm việc thay thế cho cha mẹ (Kicca<br />
Phạm Thiên là vị thần sáng tạo của vũ trụ, giống kavana)<br />
như Thượng đế hay Sáng tạo chủ. Vị thần Brahma<br />
Trong quan niệm nhân sinh của người Khmer<br />
là một trong ba vị thần nổi tiếng của đạo Hindu,<br />
Nam bộ, khi con cái trưởng thành thì phải gánh<br />
hai vị còn lại là thần Vishnu và thần Shiva.<br />
vác tất cả những công việc mà trước đây cha mẹ<br />
Brahma là cha của Manu, con người đầu tiên trên<br />
làm. Đó là công nuôi nấng, dưỡng dục. Cha mẹ<br />
thế gian và từ đó loài người được sinh ra. Do đó,<br />
phải gánh bao khó nhọc, vất vả, gánh chịu mọi<br />
Phạm Thiên được tôn thờ như một đấng sáng tạo<br />
điều vì con cái. Chính vì vậy, con cái trong gia<br />
và sinh ra loài người. Theo Đức Phật, trong gia<br />
đình cần phải làm thay mọi việc để cha mẹ mình<br />
đình mà con cái biết hiếu thảo với cha mẹ thì gia<br />
có thời gian nghỉ ngơi, thụ hưởng những ngày<br />
đình đó sẽ được phước báo tốt, sẽ được tái sinh<br />
tháng nhàn rỗi cuối đời. Con cái không làm việc<br />
lên các tầng trời sắc giới. Trong Tiểu bộ<br />
đó xem như bất hiếu với cha mẹ.<br />
kinh (kinh Nipata), Đức Phật dạy “Thờ cha mẹ<br />
đúng pháp/ Buôn bán đúng (chơn chánh), thật thà/ Ba là, gìn giữ gia phong tốt đẹp (Kùlavam<br />
Gia chủ không phóng dật/ Được sinh Tự Quang sathapana)<br />
Thiên”. Con cái phụng dưỡng cha mẹ bằng đời Người Khmer quan niệm, người con hiếu thảo là<br />
sống chơn chánh (chánh mạng), hành động, việc người con phải biết gìn giữ gia phong đạo đức tốt<br />
làm, nghề nghiệp chơn chánh (chánh nghiệp), đời đẹp, người con phải phát huy những giá trị truyền<br />
sống tinh cần không phóng dật, nỗ lực làm lành, thống tốt đẹp của gia đình, gia tộc, không được vì<br />
lánh dữ, tu tập các thiện pháp, đoạn trừ các ác bản thân mà có những hành vi xấu xa, vượt ra<br />
pháp thì sau khi mạng chung sẽ được sinh lên cõi những chuẩn mực đạo đức, gia phong của gia<br />
Tự Quang Thiên, là nơi an lạc. Người Khmer rất đình, dòng họ. Khi đến tuổi trưởng thành thì<br />
tin tưởng và tôn sùng đạo Phật. Những lời răn dạy người con phải lấy vợ, lấy chồng, sinh con đẻ cái<br />
trong Kinh Phật luôn được họ khắc ghi sâu sắc. để giữ gìn và duy trì nòi giống của dòng tộc.<br />
Chính vì lẽ đó, người Khmer quan niệm rằng, con<br />
Bốn là, bảo quản tốt tài sản thừa tự (Dàyai<br />
cái phải luôn làm tròn năm bổn phận báo hiếu đối<br />
jàpati pajjana)<br />
với cha mẹ mà nó thể hiện như là triết lý nhân<br />
sinh trong lễ hội Sen Đôn-ta, đó là: Người Khmer cho rằng, cha mẹ phải có bổn phận<br />
với con cái. Khi con cái lập gia đình, nếu các con<br />
Thứ nhất, phụng dưỡng cha mẹ (Bhavana)<br />
ra ở riêng thì cha mẹ phải góp vốn cho con để xây<br />
Đối với những người con hiện còn cha mẹ đang dựng nhà cửa và có vốn làm ăn. Vốn ở đây tùy<br />
sống trên đời thì phải hết lòng cung kính, tôn thuộc vào khả năng kinh tế của cha mẹ, nếu cha<br />
trọng cha mẹ, không làm cha mẹ buồn khổ; những mẹ giàu có, khá giả thì có thể cho con tài sản, tiền<br />
lúc họ bệnh tật thì phải cung phụng ăn uống, bạc, nếu nghèo khó thì có thể cho cây, lá, dụng cụ<br />
thuốc thang, chỗ ngủ, y phục... Cũng giống như gia dụng trong nhà,... Do đó, họ cho rằng, những<br />
dân tộc Việt, người Khmer quan niệm chăm lo tài sản của gia đình là nhờ công sức, mồ hôi và<br />
cho cha mẹ về mặt vật chất là thực hiện đạo hiếu nước mắt của cha mẹ tạo dựng nên. Vì vậy, bổn<br />
dưỡng. Người con phải dâng cơm, rót nước, quạt phận làm con khi được thừa hưởng những tài sản<br />
nồng ấp lạnh lúc cha mẹ bệnh tật hay tuổi già do cha mẹ để lại cần phải bảo quản tốt tài sản ấy<br />
bóng xế. Tuy nhiên, quan trọng hơn cả là sự hiếu<br />
<br />
35<br />
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 30 - 40<br />
<br />
và làm cho chúng sinh sôi nảy nở. Đó là biểu hiện cho vong hồn người thân quá cố sớm siêu thoát,<br />
sự hiếu thảo đối với cha mẹ. đầu thai kiếp khác được phước báo sung túc hơn.<br />
Năm là, tạo phước hồi hướng khi cha mẹ đã quá Theo phong tục của người Khmer trước đây, lễ<br />
vãng (Đakkinànuppadana) Sen Đôn-ta kéo dài trong nửa tháng, khi công việc<br />
gieo cấy ngoài đồng đã xong. Trong những ngày<br />
Đối với những cha mẹ đã quá vãng, con cái phải<br />
này, từ lúc sớm tinh mơ, khi trời chưa rạng sáng<br />
tạo thật nhiều công đức để hồi hướng phần công<br />
(khoảng từ 3- 4 giờ sáng), từng nhà, mọi người<br />
đức đó đến cha mẹ, vì nếu như cha mẹ đã quá cố<br />
chuẩn bị mâm cơm cùng thức ăn và bánh trái<br />
không may tái sanh vào cõi khổ, theo phước mà<br />
ngon mang đến chùa, nhờ sư sãi tụng kinh cầu<br />
người con đã hồi hướng, họ sẽ mau thoát ra cõi<br />
nguyện mọi điều tốt lành cho vong hồn những<br />
khổ để tái sinh ở cõi lành. Theo truyền thống của<br />
người thân đã mất, sau đó, họ rải cơm vắt ba vòng<br />
người Khmer, khi cha hoặc mẹ mất, trong gia<br />
bên trong chánh điện của chùa để cúng cho những<br />
đình sẽ chọn ra một người con trai để tu trước lửa.<br />
vong hồn cô đơn, không có con cháu. Họ quan<br />
Việc tu được thực hiện ngay tại chỗ thiêu người<br />
niệm rằng, người đã khuất sẽ đi hết chùa này đến<br />
quá cố, ngay sau khi các nghi thức tang ma được<br />
chùa khác để nhận thức ăn mà con cháu dâng<br />
thực hiện xong. Người con được chọn thường là<br />
cúng. Tương truyền rằng, nếu gia đình, con cháu<br />
chưa lập gia đình, các vị sư sẽ xuống tóc và thay<br />
nào không mang thức ăn, bánh trái vào chùa cúng<br />
đổi y phục cho người đi tu. Sau đó, người đi tu<br />
cho người đã khuất thì gia đạo sẽ không được<br />
được đưa lên chánh điện của chùa để thực hiện lời<br />
bình an, chuyện làm ăn không được thuận lợi, gia<br />
tuyên thệ và nghe giảng các điều răn. Thời gian tu<br />
đình sẽ không sung túc, thậm chí sẽ “không có cái<br />
trước lửa tùy theo điều kiện của mỗi người. Có<br />
ăn”. Chính quan niệm này là một lời răn dạy, một<br />
người chỉ tu trong vòng 24 giờ, nhưng cũng có<br />
triết lý nghiêm khắc mà bất kỳ một người con,<br />
người tu 7 ngày hoặc 3 tháng. Tu trước lửa không<br />
người cháu nào trong cộng đồng Khmer cũng phải<br />
phải nhằm giải thoát cho người xuống tóc mà là<br />
thực hiện lòng hiếu thảo của mình để tạo phước<br />
hướng đến yếu tố gột rửa, hóa giải tội lỗi của<br />
cho bản thân, cho gia đình và dòng họ. Do đó, báo<br />
người đã khuất để nhằm báo đáp công ơn sinh<br />
hiếu là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người, như<br />
thành, dưỡng dục.<br />
lời Đức Phật đã răn dạy “dù là tại gia hay xuất<br />
Có thể nói, người Khmer rất xem trọng việc báo gia, dù là Thanh Văn hay Chư Phật đều có bổn<br />
hiếu. Chữ “hiếu” được truyền tải trong Lễ Sen phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm phật”.<br />
Đôn-ta là bài học hiếu đạo của mỗi người đối với<br />
Ngày nay, do quá trình cộng cư với các dân tộc<br />
cả người sống và người đã khuất, thậm chí người<br />
anh em cùng với quá trình giao lưu văn hóa và sự<br />
đã khuất là tổ tiên, ông bà từ bao nhiêu đời trước,<br />
phát triển của xã hội, đồng bào Khmer tổ chức lễ<br />
rộng hơn nữa là những người đã chết, cô quả<br />
Sen Đôn-ta chỉ trong ba ngày. Tuy nhiên, dù thời<br />
không người cúng tế. Họ quan niệm, kiếp này,<br />
gian tổ chức có rút ngắn lại so với truyền thống<br />
con người sống ở trần gian làm nhiều việc thiện<br />
trước đây, nhưng triết lý hiếu đạo vẫn còn duy trì.<br />
thì chết sẽ được lên các cõi trời, còn làm nhiều<br />
Theo đó, trong ngày đầu là ngày cúng tiếp đón thì<br />
điều ác thì khi chết sẽ bị giam cầm nơi địa ngục...<br />
vào buổi sáng, mọi người trang hoàng lại bàn thờ<br />
Hằng năm, cứ vào thời gian từ 15 đến 30 tháng 8<br />
Phật trong nhà, dọn dẹp một giường thờ với<br />
AL, Diêm Vương xá tội vong nhân, những vong<br />
mùng, mền, chiếu, gối và bộ quần áo mới để rước<br />
hồn đói khát này sau khi rời ngục tối tìm đến các<br />
ông bà về dự. Khi dọn xong mâm cơm cùng thức<br />
chùa chiền để hưởng vật thực của con cháu cúng<br />
ăn, trà rượu và bánh trái ngon với bốn chén cơm<br />
kiến. Nhân mùa lễ Sen Đôn-ta, mọi người Khmer<br />
và bốn đôi đũa để bốn góc giường thờ, gia chủ<br />
trong phum, sóc mang thức ăn và bánh trái ngon<br />
mời họ hàng thân tộc trong phum, sóc đến thắp<br />
đến chùa, nhờ các nhà sư tụng kinh cầu nguyện<br />
nhang đèn cúng bái. Quanh mâm cơm cúng, mọi<br />
<br />
36<br />
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 30 - 40<br />
<br />
người cùng tập trung quanh giường thờ, phụ nữ Triết lý nhân sinh trong Lễ Sen Đôn-ta còn thể<br />
ngồi xếp chân sang một bên, đàn ông ngồi chồm hiện tính nhân bản của người Khmer, thể hiện qua<br />
hổm, cùng chắp tay lạy và đọc kinh cầu nguyện hình thức Phchumbanh (nghĩa là hội cơm nắm,<br />
cho vong hồn những người thân quá cố về hưởng cơm vắt) với những hành động cụ thể của bà con.<br />
vật thực. Sau ba lần rót trà rượu khấn vái, chủ nhà Chẳng hạn, vào buổi tối của ngày cúng đón tiếp,<br />
gắp thức ăn mỗi món một ít lên bốn chén cơm, rót các vị à cha lấy những nắm cơm vắt đựng trên<br />
một chút rượu và trà cúng, xong mang ra đặt ở mâm cúng Tam Bảo của mọi nhà dâng lên chùa<br />
bốn góc của hàng rào chung quanh nhà, mỗi nơi trong ngày để đem ra ngoài đặt chung quanh điện<br />
cắm một nén nhang mời vong hồn ông bà về dự lễ Phật cho những vong hồn cô đơn đang đói khát<br />
cùng con cháu. Buổi chiều, mọi người trong nhà ăn, vì những vị này không có con cháu đến chùa<br />
ăn mặc đẹp, dọn mâm cơm cùng thức ăn mới cúng dâng cúng. Phong tục này thể hiện lòng từ bi bác<br />
ông bà, đủ ba lần rót trà rượu khấn vái, chủ nhà ái. Sen Đôn-ta không chỉ là ngày lễ báo hiếu của<br />
mời vong hồn ông bà cùng đến chùa nghe nhà sư con cái đối với ông bà, cha mẹ mà còn là ngày lễ<br />
tụng kinh cầu siêu và thuyết pháp cho đến tối. của tình thân, tình người, không phân biệt huyết<br />
Trong lễ Sen Đôn-ta, những món ăn gần gũi, thân thống, giai cấp, già trẻ, giàu nghèo,... Mọi người<br />
thiết với đời thường như sản vật quê hương, trái sống ở trần thế hướng tới những vong hồn quá cố,<br />
cây vườn nhà, gạo nếp thơm được bàn tay khéo nhà nhà đều mang thức ăn, bánh trái vào chùa,<br />
léo của những người phụ nữ trong gia đình chế nhờ các nhà sư tụng kinh, cúng vái. Trong suy<br />
biến thành những món ăn có giá trị truyền thống nghĩ và hành động cầu siêu, cúng kiến là cầu<br />
đặc sắc của dân tộc như bánh tét (Num chruôt), mong không chỉ cho tổ tiên, ông bà mình mà còn<br />
bánh nếp (Num sêt), bánh ít (Num toi). Ngoài ra, cho tất cả vong hồn quá cố được giải thoát khỏi<br />
món “cơm nếp trộn mè đen” ăn với chuối cao chín đau khổ, được ăn no mặc ấm, đạt tới cảnh giới an<br />
và có cả bánh in thường được bà con phật tử làm vui ở bên kia thế giới. Quá trình cộng cư dẫn đến<br />
mang cúng dường chư tăng và đãi khách viếng sự giao lưu văn hóa đi liền với quan hệ tình cảm<br />
chùa. Đó là những sản phẩm do bà con lao động, cộng đồng, quan hệ chủng tộc giữa người Khmer<br />
sản xuất mới có. Bà con làm cúng ông bà tại nhà, với người Kinh, Chăm, Hoa trong phạm vi lãnh<br />
vừa mang đến chùa cúng dường chư tăng. Mọi thổ chung đã tạo nên sự tiếp biến văn hóa của<br />
người coi như thành quả lao động, ai cũng rất quý người Khmer trong lễ hội Sen Đôn-ta, bởi lẽ, lễ<br />
trọng. Có thể khẳng định, dù xưa hay nay, dù là cầu siêu lại là hơi thở của văn hóa Việt trong đạo<br />
truyền thống hay đương đại, tư tưởng hiếu đạo thờ cúng ông bà, khi cha mẹ mất đi thì cầu siêu,<br />
vẫn là triết lý xuyên suốt và có sức răn dạy vô tịnh độ mong cha mẹ được giải thoát, sống an yên<br />
cùng mãnh liệt đối với mọi người dân Khmer trong cõi cực lạc. Chữ hiếu trong ngày Sen Đôn-ta<br />
trong việc thực hiện bổn phận báo hiếu với tổ tiên, không dừng lại ở phạm vi cá nhân, gia đình mà<br />
ông bà, cha mẹ mình, được truyền dạy từ thế hệ lan tỏa ra tất cả cộng đồng, không dừng lại ở việc<br />
này sang thế hệ sau. Tư tưởng này còn thể hiện báo đáp cho ông bà, cha mẹ của chính mình mà<br />
trong ngày cuối cùng lễ hội, khi từng nhà làm tàu lan rộng ra cả chúng sinh, từ vong linh của người<br />
bè bằng bẹ chuối hoặc bẹ cau, trang trí thật lộng có thân bằng quyến thuộc cho đến những ai không<br />
lẫy với hình cá sấu, có treo cờ phướn hình tam có người thân, con cháu cúng kiến. Điều này có ý<br />
giác, họ đặt muối, gạo, bánh trái, nhang đèn rồi nghĩa như tư tưởng “xá tội vong nhân” của người<br />
mang thả ra sông hoặc kênh, mương hay con rạch Việt. Người Khmer quan niệm rằng, dâng cơm<br />
gần nơi ở của mình với quan niệm đưa người quá vào chùa, “bố thí”, “làm phúc”, cứu giúp đồng<br />
cố được trở về cõi âm một cách yên bình, suông loại tức là đã làm việc thiện thì núi phúc của họ<br />
sẻ để tiếp tục hưởng phước, có một cuộc sống đầy càng cao, mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc về lòng<br />
đủ hơn cả khi còn sống. hiếu thảo, thiện nghĩa với ông bà, cha mẹ, với<br />
<br />
<br />
37<br />
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 30 - 40<br />
<br />
cộng đồng xã hội và tránh xa điều ác làm tổn hại họp, quây quần bên nhau. Sau khi làm lễ cúng ông<br />
đến sự đoàn kết gắn bó giữa gia đình, dòng tộc, bà xong, họ quây quần bên nhau, tổ chức ăn uống,<br />
làng xóm và giữa các dân tộc anh em đang cùng rồi cùng nhau hòa vào lời ca, tiếng hát, điệu múa<br />
chung sống. trong lễ hội Sen Đôn-ta sau một vụ mùa cực nhọc.<br />
Không chỉ dừng lại ở tư tưởng hiếu đạo, triết lý Có một điều thú vị là gần như bất kỳ người<br />
nhân bản, Sen Đôn-ta còn là dịp để bà con Khmer Khmer nào cũng mang trong mình một sự nhạy<br />
phát huy tính cộng đồng, đoàn kết, thân ái. Ảnh cảm với âm nhạc và yêu thích âm nhạc. Thông<br />
hưởng của một nền văn hóa nông nghiệp lúa nước qua lời ca, điệu múa, họ thể hiện được tính cách<br />
đã chi phối việc tổ chức lễ hội, không chỉ thể hiện đặc trưng của dân tộc là bình dị, gần gũi, lạc quan,<br />
ở thời điểm diễn ra lễ hội mà nó còn thể hiện cả ở vui tươi với những động tác tay chân phối hợp di<br />
những nghi thức, lễ vật mà người Khmer đã chuẩn chuyển nhịp nhàng theo điệu nhạc dân tộc. Người<br />
bị để đón Sen Đôn-ta, đồng thời, ta thấy dáng dấp Khmer sinh ra và lớn lên đã biết múa hát với<br />
của sự tiếp biến, giao thoa văn hóa và dáng dấp nhiều điệu múa như Răm Vông hay còn gọi là<br />
của cư dân vùng sông nước với nền nông nghiệp múa Lâm Thôn, Lăm Leo, Saravan,… Đặc biệt,<br />
trồng lúa. Lễ hội này vừa mang tính làng xóm, điệu múa Lâm Thôn là điệu múa phổ biến và quen<br />
vừa mang tính mở của một lễ hội cộng đồng. Bởi thuộc nhất với họ, bởi sự gần gũi, bình dân và tính<br />
lẽ, cứ mỗi dịp Sen Đôn-ta về, người Khmer cùng cộng đồng cao của nó ; bởi động tác múa thoải<br />
nhau quy tụ về chùa, là ngôi nhà chung của cả mái, thể hiện sự lạc quan, yêu đời pha chút hóm<br />
phum, sóc, cùng nhau hướng về một đời sống tâm hỉnh mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống của<br />
linh. Trong lễ hội Sen Đôn-ta truyền thống trước đồng bào Khmer không chỉ giúp mọi người quên<br />
đây, lễ hội kéo dài từ 14 đến 16 ngày. Trong thời đi những vất vả trong cuộc sống mà còn thắt chặt<br />
gian này, bà con trong phum, sóc tổ chức phân thêm tình đoàn kết trong cộng đồng. Khi tiếng<br />
công thay phiên nhau mang lễ vật, hoa quả, nhang nhạc vang lên, mọi người cùng uyển chuyển bước<br />
đèn, cơm vắt vào chùa cúng, họ có thể phân công chân theo nhịp điệu, di chuyển thành vòng tròn,<br />
thành từng tổ hoặc từng cụm nhà theo xóm luân không giới hạn số người tham gia. Thông thường,<br />
phiên nhau từng ngày để thực hiện nhiệm vụ dâng trong các dịp lễ hội, người Khmer tổ chức ca hát<br />
lễ vào chùa cho các vị sư à cha tụng kinh, cúng và múa Lâm Thôn quanh một bàn tròn, trên bàn<br />
kiến. Ngày nay, thời gian tổ chức lễ hội được rút thường bày biện một dĩa hoa quả, có thể có thêm<br />
ngắn lại nên bà con Khmer phân công nhau mang nén hương và hai ngọn tháp khắc từ thân chuối,<br />
các lễ vật vào chùa, sự phân công ấy thể hiện ở đây là nét văn hóa người Khmer còn lưu giữ mà ít<br />
chỗ, nhà mang bánh tét, nhà dâng nhang đèn, nhà người nhắc đến. Họ cho rằng, đó là điệu múa của<br />
chuẩn bị cơm nắm, cơm vắt,… Sự phân công ấy một vị thần lúc trước đã chỉ dạy tổ tiên nhảy múa<br />
thể hiện sự phối hợp nhịp nhàng và tinh thần đoàn để xua đi mệt nhọc và tà ma quấy rối trong cuộc<br />
kết sâu sắc của bà con Khmer, phát huy tính cộng sống. Nếu có dịp đến với một ngôi chùa Khmer và<br />
đồng mạnh mẽ trong sinh hoạt tâm linh. Có thể quan sát trong chánh điện, chúng ta sẽ dễ dàng<br />
nói, tính cộng đồng, sự gắn bó của người Khmer thấy phía sau lưng tượng Phật Thích ca có khắc<br />
là tình cảm son sắt đã được dày công vun đắp qua hình tượng một vị nữ thần đang nhảy múa và<br />
nhiều thế hệ, được thử thách qua những hoàn cảnh chung quanh là các loài quỷ dữ phá hoại Ngài.<br />
khó khăn để trở thành khối đại đoàn kết keo sơn Người Khmer cho rằng, chính vị thần này đã nhảy<br />
bền chặt, góp phần tô điểm thêm cho bức tranh đa múa để xua đuổi quỷ dữ, giúp cho Đức Phật thanh<br />
dân tộc tuyệt đẹp ở Nam bộ. tịnh tu hành. Do đó, điệu múa trở thành một<br />
truyền thống không chỉ có ý nghĩa giải trí mà còn<br />
Sen Đôn-ta là lễ hội lớn trong năm của đồng bào<br />
mang ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống<br />
Khmer Nam bộ, là dịp thứ hai trong năm, ngoài<br />
tâm linh của người Khmer; đó là xua đuổi ma tà,<br />
ngày Tết Chol Chnam Thmay, bà con được sum<br />
<br />
38<br />
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 30 - 40<br />
<br />
quỹ dữ phá hoại. Múa Lâm Thôn với các động tác chính của ngày hội. Đua bò có thể thức rất đặc<br />
khá đơn giản, chỉ cần nhìn người múa vài lần là biệt, không giống bất kỳ môn thể thao nào.<br />
có thể múa theo được. Trong các dịp lễ hội, giao Theo quan niệm của đồng bào Khmer vùng Bảy<br />
lưu văn hóa giữa các dân tộc, người Khmer Núi, đua bò có một ý nghĩa hết sức đặc biệt.<br />
thường mời vị khách mời người Kinh, người Người giành được giải cao trong năm không<br />
Hoa... cùng nhau múa Lâm Thôn với động tác những mang lại cho chủ nhân của đôi bò số tiền<br />
nhịp nhàng theo điệu nhạc. Do đó, đối với đồng thưởng khá nhiều mà còn mang đến cho cả phum,<br />
bào Khmer ở tỉnh An Giang, điệu múa Lâm Thôn sóc một vinh hạnh, niềm vui, một nghị lực gieo<br />
còn là một phương tiện giao lưu văn hóa với các trồng hứa hẹn đem lại một mùa bội thu. Lễ hội<br />
dân tộc, là một hình thức để thắt chặt tình đoàn đua bò như một nét độc đáo mà người Khmer góp<br />
kết, hữu nghị giữa các dân tộc cùng cộng cư trên vào sự đa dạng, đặc sắc của nền văn hóa Việt,<br />
địa bàn. giúp chúng ta hiểu nhiều hơn về con người ở một<br />
Trong sinh hoạt ngày Sen Đôn-ta của người vùng đất mang đậm dấu ấn đặc sắc của nền văn<br />
Khmer còn biểu hiện một giá trị văn hóa vô cùng minh lúa nước. Lễ hội đua bò đã được nâng cấp<br />
độc đáo, đó là lễ hội đua bò. Đây là một môn thể và trở thành một sản phẩm du lịch lễ hội, một<br />
thao “độc nhất vô nhị”, mang đậm màu sắc dân môn thể thao độc đáo riêng có ở tỉnh An Giang.<br />
gian truyền thống nhưng rất đặc trưng của đồng Từ năm 1992, lễ hội đua bò thu hút hàng chục<br />
bào Khmer ở tỉnh An Giang nên thường được gọi nghìn người từ các nơi trong nước lẫn du khách<br />
là Lễ hội đua bò Bảy Núi. Tục đua bò đã có từ lâu nước ngoài đến xem. Năm 2003, lễ hội đặc sắc<br />
đời. Cuộc đua thường được tổ chức trên ruộng có này đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch<br />
nước xâm xấp nên bà con còn gọi là “đua bò công nhận là một trong 15 di sản văn hóa phi vật<br />
bừa”. Lễ Sen Đôn-ta thường trùng với dịp vừa thu thể và được Tổng cục Du lịch công nhận là sản<br />
hoạch xong mùa vụ Thu - Đông. Để tạo không phẩm du lịch.<br />
khí vui chơi, giải trí sau một vụ mùa cực nhọc, 4. KẾT LUẬN<br />
các chủ bò thường tổ chức mang bò của mình ra<br />
Lễ hội Sen Đôn-ta mang giá trị triết lý nhân sinh<br />
thi đấu với nhau xem đôi bò nào khoẻ, bừa giỏi và<br />
rất lớn trong việc hình thành nhân cách của người<br />
chạy nhanh nhất. Theo phong tục của cộng đồng<br />
Khmer Nam bộ qua nhiều thế hệ, tiêu biểu nhất là<br />
Khmer, bà con nào trong phum, sóc có bò thường<br />
lòng hiếu thảo với ông bà tổ tiên, gắn con người<br />
mang đến để cày bừa các mảnh ruộng của nhà<br />
với gia đình và nguồn cội. Qua lễ hội, chúng ta dễ<br />
chùa mà không lấy tiền công nên gọi là “bừa công<br />
dàng nhận ra sự gắn kết giữa con người Khmer<br />
quả”. Do đó, để động viên, cổ vũ thêm, đồng thời,<br />
với ngôi chùa như một phần không thể tách rời<br />
cũng để trả công các chủ bò đã bừa công quả cho<br />
trong cuộc sống của họ. Đây là nét văn hóa đặc<br />
nhà chùa, trong những lần tổ chức đua bò trong<br />
trưng của đồng bào Khmer. Đối với họ, chùa là<br />
phum, sóc, Sãi cả của chùa thường khen thưởng<br />
không chỉ là nơi thờ Phật mà còn là nơi thiêng<br />
cho đôi bò thắng cuộc bằng phần thưởng tinh thần<br />
liêng, nơi gửi gắm niềm tin tuyệt đối, giúp họ<br />
như sợi dây “Cà tha” có lục lạc đeo ở cổ bò. Đôi<br />
vượt qua nhiều khó khăn, tạo niềm tin để vươn<br />
bò nào được nhận phần thưởng này là một món<br />
lên trong cuộc sống. Lễ hội mang nhiều giá trị<br />
quà tinh thần vô cùng to lớn và vinh dự cho gia<br />
nhân sinh sâu sắc, có tầm quan trọng to lớn trong<br />
đình chủ bò trong phum, sóc đó. Đua bò là dịp để<br />
việc giáo dục đạo đức, giáo dục lối sống của<br />
những người đàn ông trong phum, sóc, là những<br />
người Khmer. Triết lý nhân sinh trong Lễ hội Sen<br />
nhà nông chân lấm tay bùn hằng ngày được trổ tài<br />
Đôn-ta mang giá trị và ảnh hưởng tích cực, giúp<br />
dũng cảm, sự khôn khéo của mình trước cộng<br />
con người biết tôn trọng và hiếu đạo với tổ tiên,<br />
đồng và lúc này, họ được tôn vinh là nhân vật<br />
ông bà, cha mẹ; biết gắn với cội nguồn, đoàn kết<br />
<br />
<br />
39<br />
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 30 - 40<br />
<br />
với bà con láng giềng, phum, sóc và kết nối với Phùng Thị An Na.(2015). Ngôi chùa trong đời<br />
cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, nhân sinh quan sống người Khmer vùng Tây Nam bộ. Tạp chí<br />
được thể hiện qua Lễ Sen Đôn-ta vẫn còn bộc lộ Khoa học xã hội Việt Nam, 11, 102- 107.<br />
một số hạn chế mà chúng tôi sẽ đề cập trong một Sơn Phước Hoan. & Sơn Ngọc Sang. (1999).<br />
nghiên cứu khác. Để giữ gìn và phát huy những Truyện kể Khmer, tập 4. Hà Nội: Nhà xuất bản<br />
giá trị cao đẹp của triết lý nhân sinh trong lễ hội, Giáo dục.<br />
khắc phục những hạn chế, trước tiên, cần có sự<br />
Sơn Nam. (2009). Lịch sử khẩn hoang miền Nam.<br />
chỉ đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước, chính<br />
TPHCM: Nhà xuất bản Trẻ TP HCM.<br />
quyền các cấp nhằm giúp người Khmer nhận thức<br />
rõ vị trí, vai trò của mình trong việc giữ gìn Trần Văn Bổn. (1999). Một số lễ tục dân gian<br />
truyền thống của dân tộc, nhìn thấy rõ những giá người Khmer Đồng bằng sông Cửu Long. Hà<br />
trị nhân văn trong Lễ hội Sen Đôn-ta. Nội: Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO Thích Minh Châu. (2003). Kinh Tăng Chi Bộ. Hà<br />
Nội: Nhà xuất bản tôn giáo.<br />
Cục Thống kê tỉnh An Giang. (2010). Niên giám<br />
thống kê 2009. An Giang: Nhà xuất bản Cục Trần Ngọc Thêm. (Tháng 8, 2018). Về triết lý,<br />
thống kê tỉnh An Giang. triết lý nhân sinh và triết lý nhân sinh của<br />
người Nam Bộ. Bài viết được trình bày tại hội<br />
Huỳnh Ngọc Thu. (2013). Báo hiếu trong hành vi<br />
thảo Quốc tế Triết lý nhân sinh của người dân<br />
tôn giáo của cộng đồng Khmer Nam bộ. Tạp<br />
Nam bộ, Việt Nam, An Giang, Việt Nam.<br />
chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, 16, 53-<br />
59. Võ Văn Thắng. (2018). Về triết lý, triết lý nhân<br />
sinh và triết lý nhân sinh của người Nam Bộ.<br />
Liêu Ngọc Ân. (2013). Vài đặc điểm về đời sống<br />
Bài viết được trình bày tại hội thảo Quốc tế<br />
tâm linh của người Khmer Nam bộ. Tạp chí<br />
Triết lý nhân sinh của ngư