intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

truyền kỳ mạn lục: phần 1

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:96

121
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

phần 1 "truyền kỳ mạn lục" do nxb văn nghệ ấn hành gồm các nội dung chính: câu chuyện ở đền hạng vương, chuyện người nghĩa phụ ở khoái châu, chuyện cây gạo, chuyện gã trà đồng giáng sinh,... mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: truyền kỳ mạn lục: phần 1

Lời tựa<br /> Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com<br /> Nhà văn Việt Nam, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thanh<br /> Miện, Hải Dương. Thuộc dòng dõi khoa hoạn, từng ôm ấp lý tưởng hành<br /> đạo, đã đi thi và có thể đã ra làm quan. Sau vì bất mãn với thời cuộc, lui về<br /> ẩn cư ở núi rừng Thanh Hóa, từ đó "trải mấy mươi sương, chân không bước<br /> đến thị thành". Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống<br /> đồng thời với thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc<br /> Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập truyện chữ Hán nổi tiếng<br /> viết trong thời gian ở ẩn, Tryền kỳ mạn lục (in 1768, A. 176/1-2) . Truyện<br /> được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời<br /> dịch ra chữ nôm. Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, viết bằng tản văn, xen<br /> lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả, hoặc<br /> của một người cùng quan điểm với tác giả. Hầu hết các truyện xảy ra ở đời<br /> Lý, đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ từ Nghệ An trở ra Bắc. Lấy tên sách là<br /> Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những truyện lạ) , hình như tác giả<br /> muốn thể hiện thái độ khiêm tốn của một người chỉ ghi chép truyện cũ.<br /> Nhưng căn cứ vào tính chất của các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không<br /> phải là một công trình sưu tập như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân<br /> lục... mà là một sáng tác văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Đó là một<br /> tập truyện phóng tác, đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự<br /> hình tượng trong văn học chữ Hán. Và nguyên nhân chính của sự xuất hiện<br /> một tác phẩm có ý nghĩa thể loại này là nhu cầu phản ánh của văn học.<br /> Trong thế kỷ XVI, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ XV;<br /> mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng<br /> lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong<br /> kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc<br /> sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực. Muốn phản ánh thực tế<br /> phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống<br /> đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước.<br /> Nhu cầu phản ánh quyết định sự đổi mới của thể loại văn học. Và Nguyễn<br /> Dữ đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân<br /> vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới.<br /> Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh<br /> sâu sắc hiện thực thế kỷ XVI. Trên thực tế thì đằng sau thái độ có phần dè<br /> dặt khiêm tốn, Nguyễn Dữ rất tự hào về tác phẩm của mình, qua đó ông bộc<br /> lộ tâm tư, thể hiện hoài bão; ông đã phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm<br /> của mình về những vấn đề lớn của xã hội, của con người trong khi chế độ<br /> <br /> phong kiến đang suy thoái.<br /> Trong Truyền kỳ mạn lục, có truyện vạch trần chế độ chính trị đen tối, hủ<br /> bại, đả kích hôn quân bạo chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong bại tục, có<br /> truyện nói đến quyền sống của con người như tình yêu trai gái, hạnh phúc<br /> lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, có truyện thể hiện đời sống và lý tưởng của sĩ<br /> phu ẩn dật... Nguyễn Dữ đã phản ánh hiện thực mục nát của chế độ phong<br /> kiến một cách có ý thức. Toàn bộ tác phẩm thấm sâu tinh thần và mầu sắc<br /> của cuộc sống, phạm vi phản ánh của tác phẩm tương đối rộng rãi, khá nhiều<br /> vấn đề của xã hội, con người được đề cập tới. Bất mãn với thời cuộc và bất<br /> lực trước hiện trạng, Nguyễn Dữ ẩn dật và đã thể hiện quan niệm sống của<br /> kẻ sĩ lánh đục về trong qua Câu chuyện đối đáp của người iều phu trong núi<br /> Nưa. ở ẩn mà nhà văn vẫn quan tâm đến thế sự, vẫn không quên đời, vẫn<br /> nuôi hy vọng ở sự phục hồi của chế độ phong kiến. Tư tưởng chủ đạo của<br /> Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia. Ông phơi bày những cái xấu xa của xã hội<br /> là để cổ vũ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong<br /> kiến, phủ định triều đại mục nát đương thời để khẳng định một vương triều<br /> lý tưởng trong tương lai, lên án bọn "bá giả" để đề cao đạo "thuần vương",<br /> phê phán bọn vua quan tàn bạo để ca ngợi thánh quân hiền thần, trừng phạt<br /> bọn người gian ác, xiểm nịnh, dâm tà, để biểu dương những gương tiết<br /> nghĩa, nhân hậu, thủy chung. Tuy nhiên Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ<br /> thể hiện tư tưởng nhà nho, mà còn thể hiện sự dao động của tư tưởng ấy<br /> trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến. Nguyễn Dữ đã có phần bảo lưu<br /> những tư tưởng phi Nho giáo khi phóng tác, truyện dân gian, trong đó có tư<br /> tưởng Phật giáo, Đạo giáo và chủ yếu là tư tưởng nhân dân. Nguyễn Dữ đã<br /> viết truyền kỳ để ít nhiều có thể thoát ra khỏi khuôn khổ của tư tưởng chính<br /> thống đặng thể hiện một cách sinh động hiện thực cuộc sống với nhiều yếu<br /> tố hoang đường, kỳ lạ. Ông mượn thuyết pháp của Phật, Đạo, v. v. để lý giải<br /> một cách rộng rãi những vấn đề đặt ra trong cuộc sống với những quan niệm<br /> nhân quả, báo ứng, nghiệp chướng, luân hồi; ông cũng đã chịu ảnh hưởng<br /> của tư tưởng nhân dân khi miêu tả cảnh cùng cực, đói khổ, khi thể hiện đạo<br /> đức, nguyện vọng của nhân dân, khi làm nổi bật sự đối kháng giai cấp trong<br /> xã hội. Cũng chính vì ít nhiều không bị gò bó trong khuôn khổ khắt khe của<br /> hệ ý thức phong kiến và muốn dành cho tư tưởng và tình cảm của mình một<br /> phạm vi rộng rãi, ông hay viết về tình yêu nam nữ. Có những truyện ca ngợi<br /> tình yêu lành mạnh, chung thủy sắt son, thể hiện nhu cầu tình cảm của các<br /> tầng lớp bình dân. Có những truyện yêu đương bất chính, tuy vượt ra ngoài<br /> khuôn khổ lễ giáo nhưng lại phản ánh lối sống đồi bại của nho sĩ trụy lạc, lái<br /> buôn hãnh tiến. Nguyễn Dữ cũng rất táo bạo và phóng túng khi viết về<br /> những mối tình si mê, đắm đuối, sắc dục, thể hiện sự nhượng bộ của tư<br /> tưởng nhà nho trước lối sống thị dân ngày càng phổ biến ở một số đô thị<br /> <br /> đương thời. Tuy vậy, quan điểm chủ đạo của Nguyễn Dữ vẫn là bảo vệ lễ<br /> giáo, nên ý nghĩa tiến bộ toát ra từ hình tượng nhân vật thường mâu thuẫn<br /> với lý lẽ bảo thủ trong lời bình. Mâu thuẫn này phản ánh mâu thuẫn trong tư<br /> tưởng, tình cảm tác giả, phản ánh sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến trong<br /> tầng lớp nho sĩ trước nhu cầu và lối sống mới của xã hội. Truyền kỳ mạn lục<br /> có giá trị hiện thực vì nó phơi bày những tệ lậu của chế độ phong kiến và có<br /> giá trị nhân đạo vì nó đề cao phẩm giá con người, tỏ niềm thông cảm với nỗi<br /> khổ đau và niềm mơ ước của nhân dân. Truyền kỳ mạn lục còn là tập truyện<br /> có nhiều thành tựu nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện, dựng nhân<br /> vật. Nó vượt xa những truyện ký lịch sử vốn ít chú trọng đến tính cách và<br /> cuộc sống riêng của nhân vật, và cũng vượt xa truyện cổ dân gian thường ít<br /> đi sâu vào nội tâm nhân vật. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài<br /> tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và<br /> ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng,<br /> súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực của<br /> thể truyền kỳ, là "thiên cổ kỳ bút", là "áng văn hay của bậc đại gia", tiêu biểu<br /> cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh<br /> hưởng của sáng tác dân gian.<br /> BÙI DUY TÂN<br /> Nguyễn Dữ là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên<br /> hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496) , được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất<br /> được tặng phong Thượng thư. Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ<br /> nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu<br /> Hương tiến, Nguyễn Dữ thi Hội nhiều lần, đạt trúng trường và từng giữ chức<br /> vụ Tri huyện Thanh Tuyền nhưng mới được một năm thì ông xin từ quan về<br /> nuôi dưỡng mẹ già. Trải mấy năm dư không đặt chân đến những nơi đô hội,<br /> ông miệt mài "ghi chép" để gửi gắm ý tưởng của mình và đã hoàn thành tác<br /> phẩm "thiên cổ kỳ bút" Truyền kỳ mạn lục. Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào<br /> chưa rõ, nhưng căn cứ vào tác phẩm cùng bài Tựa Truyền kỳ mạn lục của Hà<br /> Thiện Hán viết năm Vĩnh Định thứ nhất (1547) và những ghi chép của Lê<br /> Quý Đôn trong mục Tài phẩm sách Kiến văn tiểu lục có thể biết ông là người<br /> cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, có thể lớn tuổi hơn Trạng Trình chút ít.<br /> Giữa Nguyễn Dữ và Nguyễn Bỉnh Khiêm tin chắc có những ảnh hưởng qua<br /> lại về tư tưởng, học thuật... nhưng e rằng Nguyễn Dữ không thể là học trò<br /> của Nguyễn Bỉnh Khiêm như Vũ Phương Đề đã ghi. Đối với nhà Mạc, thái<br /> độ Nguyễn Dữ dứt khoát hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không làm quan với<br /> nhà Mạc mà chọn con đường ở ẩn và ông đã sống cuộc sống lâm tuyền suốt<br /> quãng đời còn lại. Truyền kỳ mạn lục được hoàn thành ngay từ những năm<br /> đầu của thời kỳ này, ước đoán vào khoảng giữa hai thập kỷ 20-30 của thế kỷ<br /> <br /> XVI.<br /> Theo những tư liệu được biết cho đến nay, Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm<br /> duy nhất của Nguyễn Dữ. Sách gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển, được viết<br /> theo thể loại truyền kỳ. Cốt truyện chủ yếu lấy từ những câu chuyện lưu<br /> truyền trong dân gian, nhiều trường hợp xuất phát từ truyền uyết về các vị<br /> thần mà đền thờ hiện vẫn còn (đền thờ Vũ Thị Thiết ở Hà Nam, đền thờ Nhị<br /> Khanh ở Hưng Yên và đền thờ Văn Dĩ Thành ở làng Gối, Hà Nội) . Truyện<br /> được viết bằng văn xuôi Hán có xen những bài thơ, ca, từ, biền văn, cuối<br /> mỗi truyện (trừ truyện 19 Kim hoa thi thoại ký) đều có lời bình thể hiện rõ<br /> chính kiến của tác giả. Hầu hết các truyện đều lấy bối cảnh ở các thời LýTrần, Hồ, thuộc Minh, Lê sơ và trên địa bàn từ Nghệ An trở ra Bắc. Thông<br /> qua các nhân vật thần tiên, ma quái, tinh loài vật, cây cỏ..., tác phẩm muốn<br /> gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, không còn kỷ cương trật tự,<br /> vua chúa hôn ám, bề tôi thoán đoạt, bọn gian hiểm nịnh hót đầy triều đình;<br /> những kẻ quan cao chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách nhiễu dân lành,<br /> thậm chí đến chiếm đoạt vợ người, bức hại chồng người. Trong một xã hội<br /> rối ren như thế, nhiều tệ nạn thế tất sẽ nảy sinh. Cờ bạc, trộm cắp, tật dịch,<br /> ma quỷ hoành hành, đến Hộ pháp, Long thần cũng trở thành yêu quái, sư sãi,<br /> học trò, thương nhân, nhiều kẻ đắm chìm trong sắc dục. Kết quả là người<br /> dân lương thiện, đặc biệt là phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ. Nguyễn Dữ<br /> dành nhiều ưu ái cho những nhân vật này. Dưới ngòi bút của ông họ đều là<br /> những thiếu phụ xinh đẹp, chuyên nhất, tảo tần, giàu lòng vị tha nhưng luôn<br /> luôn phải chịu số phận bi thảm. Đến cả loại nhân vật "phản diện" như nàng<br /> Hàn Than (Đào thị nghiệp oan ký) , nàng Nhị Khanh (Mộc miên phụ truyện)<br /> , các hồn hoa (Tây viên kỳ ngộ ký) và "yêu quái ở Xương Giang" cũng đều<br /> vì số phận đưa đẩy, đều vì "nghiệp oan" mà đến nỗi trở thành ma quỷ. Họ<br /> đáng bị trách phạt nhưng cũng đáng thương.<br /> Dường như Nguyễn Dữ không tìm được lối thoát trên con đường hành đạo,<br /> ông quay về cuộc sống ẩn dật, đôi lúc thả hồn mơ màng cõi tiên, song cơ bản<br /> ông vẫn gắn bó với cõi đời. Ông trân trọng và ca ngợi những nhân cách<br /> thanh cao, cứng cỏi, những anh hùng cứu nước, giúp dân không kể họ ở địa<br /> vị cao hay thấp.<br /> Truyền kỳ mạn lục ngay từ khi mới hoàn thành đã được đón nhận. Hà Thiện<br /> Hán người cùng thời viết lời Tựa, Nguyễn Thế Nghi, theo Vũ Phương Đề<br /> cũng là người cùng thời, dịch ra văn nôm. Về sau nhiều học giả tên tuổi Lê<br /> Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú đều ghi chép về Nguyễn Dữ và định<br /> giá tác phẩm của ông. Nhìn chung các học giả thời Trung đại khẳng định giá<br /> trị nhân đạo và ý nghĩa giáo dục của tác phẩm. Các nhà nghiên cứu hiện đại<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2