intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ đầu thế kỷ XX: Những vấn đề về xuất bản, biên soạn và phân loại

Chia sẻ: ViVatican2711 ViVatican2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

31
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Vào những thập niên đầu thế kỷ XX, truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ được xuất bản, tái bản với số lượng lớn và bày bán phổ biến khắp các hiệu sách với giá bình dân. Thời đó, truyện thơ Quốc ngữ được người dân Nam Kỳ lục tỉnh yêu chuộng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ đầu thế kỷ XX: Những vấn đề về xuất bản, biên soạn và phân loại

TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 33 (58) - Thaùng 10/2017<br /> <br /> <br /> <br /> Truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ u th<br /> Những vấn ề về xuất bản, biên soạn và phân loại<br /> <br /> Verse-narrative written in Vietnamese romanized script in the South of Vietnam in<br /> the early 20th century: Publishing, editing and classifying<br /> <br /> ThS. Dương Mỹ Thắm,<br /> Trường Đại học Văn Hiến<br /> <br /> Dương My Tham, M.A.,<br /> Van Hien University<br /> <br /> Tóm tắt<br /> Vào những thập niên đầu thế kỷ XX, truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ được xuất bản, tái bản với số lượng<br /> lớn và bày bán phổ biến khắp các hiệu sách với giá bình dân. Thời đó, truyện thơ Quốc ngữ được người<br /> dân Nam Kỳ lục tỉnh yêu chuộng. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử và nhu cầu thưởng thức của người<br /> dân thay đổi nên về sau ít ai còn lưu giữ loại truyện thơ này. Vì vậy, việc tìm kiếm tư liệu gặp rất nhiều<br /> khó khăn. Trong phạm vi bài viết, chúng tôi giới thiệu khái quát những vấn đề xuất bản, tình hình tư<br /> liệu và trên cơ sở đó phân loại truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ theo cách riêng.<br /> Từ khóa: truyện thơ, Quốc ngữ, Nam Kỳ, phân loại.<br /> Abstract<br /> In the early decades of the 20th century, verse-narrative written in Vietnamese Romanized script in the<br /> south of Vietnam was published and republished massively and sold in most of the bookstores with the<br /> reasonable price. Accordingly, the verse-narative was appreciated by readers from the six southern<br /> provinces. Because of historical conditions and the change of readers’ taste, however, only few people<br /> have stored this type of verse-narative. Therefore, it is challenging to search for its documentation. This<br /> paper aims to present the overview of publishing issues and the literary resources, from which verse-<br /> narrative written in Vietnamese Romanized script in the south of Vietnam is classified in a different way.<br /> Keywords: verse-narrative, Vietnamese Romanized script, Southern Vietnam, classification.<br /> <br /> <br /> <br /> Truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ được “Nam Kỳ” trong khái niệm truyện thơ<br /> viết bằng chữ Quốc ngữ, chủ yếu sử dụng Quốc ngữ Nam Kỳ là muốn đặt truyện thơ<br /> thể thơ lục bát và xuất bản ở Sài Gòn từ Quốc ngữ vào đúng bối cảnh lịch sử giai<br /> cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX. đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Gắn<br /> Truyện được sáng tác dựa vào truyện dân liền với sự ra đời và phát triển truyện thơ<br /> gian Việt Nam, truyện thơ Nôm, tuồng, tích Quốc ngữ là hình thức diễn xướng nói thơ.<br /> Trung Quốc, truyền thuyết Phật giáo và sự Để hình thức nói thơ ngày càng hấp dẫn<br /> kiện có thực ở Nam Kỳ. Người viết dùng từ người nghe, trong quá trình biên soạn<br /> <br /> <br /> 119<br /> TRUY N THƠ QUỐC NGỮ NAM KỲ U TH NHỮNG VẤN Ề VỀ XUẤT BẢN, BIÊN SOẠN VÀ PHÂN LOẠI<br /> <br /> <br /> truyện thơ Quốc ngữ, các “tác giả” đã kết thơ tái bản đến lần thứ 6, thứ 7 như Thoại<br /> hợp hình thức nói thơ với hình thức nghệ Khanh Châu Tuấn, Lâm Sanh Xuân Nương,<br /> thuật tuồng. Sự pha trộn này đã tạo nên một Phạm Công Cúc Hoa, Quan Âm diễn ca,<br /> bộ phận mới trong thể loại truyện thơ Quốc Nàng Út, Con Tấm con Cám, thơ Sáu Nhỏ,<br /> ngữ Nam Kỳ, đó là thơ tuồng. Truyện thơ Tiết Đinh San cầu Phàn Lê Huê; thậm chí<br /> Quốc ngữ Nam Kỳ bao gồm cả truyện thơ có những quyển tái bản lần thứ 12, 13 như<br /> Quốc ngữ và thơ tuồng Quốc ngữ được thơ Vân Tiên, thơ Sáu Trọng.<br /> xuất bản ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX. Hình thức trình bày các quyển thơ cơ<br /> Sau khi giới thiệu hình thức xuất bản bản giống nhau. Trang bìa được in bằng<br /> truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ, bài viết s giấy màu loại mỏng, có hình minh họa một<br /> trình bày khái uát tình hình tư liệu, trên cơ cảnh nào đó trong truyện. Góc trên bên<br /> sở đó phân loại truyện thơ uốc ngữ Nam phải của trang bìa là giá quyển thơ, góc<br /> Kỳ theo cách riêng. trên bên trái là số lần tái bản. Nhưng đến<br /> 1. Hình thức xuất bản truyện thơ thập niên 50, hầu hết trên trang bìa của các<br /> Quốc ngữ Nam Kỳ quyển thơ không có số lần tái bản, và một<br /> Vào những năm đầu thế kỷ XX, các số quyển không in giá bán như những<br /> nhà in ở Nam Kỳ bắt đầu uan tâm đến quyển thơ đã in đầu thế kỷ XX. Tên thơ<br /> việc xuất bản truyện thơ. Đây là loại sách thường được in bằng hai loại văn tự, là Hán<br /> được in bằng chữ quốc ngữ, giá bán từ văn và Quốc ngữ, hoặc chữ Nôm và Quốc<br /> 0$20 (hai mươi xu) đến 0$60 (sáu mươi ngữ, đôi khi cũng có những trường hợp đặc<br /> xu) một quyển tuỳ theo độ dày, mỏng, trơn biệt kết hợp cả ba loại văn tự: Hán, Nôm và<br /> hay có hình. Vào thời điểm này, 1 tạ lúa quốc ngữ. Ngay dưới tên truyện thơ thường<br /> (68 kilos) có giá từ 2$00 (hai đồng) đến ghi rõ "bổn cũ soạn lại", "bổn cũ diễn<br /> hơn 3$00, tùy theo thời điểm được mùa chánh", "soạn y bổn Nôm", hay "tân soạn"<br /> hay mất mùa (1). Như vậy, để mua 1 quyển và tên người soạn, người đứng ra xuất bản.<br /> thơ người ta phải bán từ 6 đến 18 ký lúa. Cuối trang bìa là tên, địa chỉ nhà in và năm<br /> Điều rất thú vị là trong suốt gần 4 thập kỷ xuất bản được ghi bằng hai loại văn tự<br /> giá lúa ngày càng tăng nhưng giá truyện quốc ngữ và Pháp văn. Bìa sau thường in<br /> thơ vẫn giữ nguyên sau mỗi lần tái bản. Có danh mục các thứ thơ, tiểu thuyết, tuồng,<br /> những cuốn tái bản hơn 10 lần, kể cả thay cải lương đã và s xuất bản. Càng về sau,<br /> đổi nhà xuất bản, chủ bổn, người biên trang bìa càng được thiết kế đơn giản hơn,<br /> soạn… nhưng vẫn giữ nguyên giá ban đầu, bỏ bớt chữ Hán, Nôm, tên truyện thơ được<br /> như trường hợp thơ Vân Tiên (có hình), tái thể hiện bằng Quốc ngữ.<br /> bản lần thứ 13 nhưng giá vẫn giữ nguyên là Truyện thơ uốc ngữ đã được xuất bản<br /> 0$60. Đến thập niên 50, mỗi quyển thơ có ở Nam Kỳ với số lượng khá lớn, song do<br /> giá trung bình là 2$00. yếu tố thời gian và những biến cố lịch sử<br /> Thơ thường được in khổ 16cm x 24cm, nên chúng còn được lưu giữ không nhiều<br /> dày từ 16 đến 30 trang (kể cả bìa). Đặc biệt, tại các Thư viện quốc gia Việt Nam, Thư<br /> nếu có xen k hình v hoặc pha lẫn các hình viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ<br /> thức tuồng thì mỗi cuốn có thể dày đến 100 Chí Minh và Thư viện Khoa học Xã hội<br /> trang. Thơ bán rất chạy, số lượng mỗi lần in vùng Nam Bộ. Truyện thơ uốc ngữ được<br /> có thể từ 1.000 đến 3.000 bản. Nhiều quyển các nhà in xuất bản thành các tập sách độc<br /> <br /> 120<br /> DƯƠNG MỸ THẮM<br /> <br /> <br /> lập. Ngoài ra còn có các tác phẩm được in cầu Phàn Lê Huê, Tiết Giao đoạt ngọc,<br /> thành nhiều kỳ trên các báo, tạp chí như: Tống Tử Vưu (thơ), Tống Tử Vưu truyện,<br /> Lục súc tranh công, Nhị thập tứ hiếu trên Trần Đại lang, Trần Minh khố chuối, Trần<br /> Gia Định báo. Hiện nay, Thư viện quốc gia Sanh Ngọc Anh, Triệu Tử Long Đương<br /> Việt Nam đang là nơi lưu giữ truyện thơ Dương Trường Bản, Trò Đông thơ, Trụ<br /> quốc ngữ nhiều nhất và chủ yếu dưới hình Vương mê Đắc Kỷ, Trương Ngộ thơ, Tứ<br /> thức vi phim. đại kỳ thơ, Văn Doan diễn ca, Văn Doan<br /> Hiện tại, chúng tôi sưu tầm được gần thơ, Vân Tiên cờ bạc, Võ Tòng sát tẩu, Xử<br /> 200 tập thơ. Trong đó, trừ những tập tái án Quách Hoè… Ngoài ra cũng có nhiều<br /> bản có cùng tựa đề, tác giả người biên soạn bản khác trùng tên với các tác phẩm kể trên<br /> và nhà in, hiện đã thu thập được 156 tác nhưng khác tác giả và nhà in.<br /> phẩm, như: Bá Ấp Khảo loạn cung, Bá Nha Tất nhiên, số tác phẩm đã tìm được<br /> Tử Kỳ, Bạch Viên Tôn Các, Cậu Hai chưa phản ánh đầy đủ tình hình xuất bản<br /> Miêng [Miên], Cha Hồ Chú Nhẫn, Chàng truyện thơ uốc ngữ lúc bấy giờ, nhưng về<br /> Chuột Lệ Tiên, Chàng Nhái Kiển Tiên thơ, cơ bản đã ít nhiều bao quát gần hết số tác<br /> Chàng Nhái (thơ), Chiêu Quân cống Hồ, phẩm mà các nhà in cũng như độc giả khi<br /> Đào Trinh Luông Sanh, Đỗ Thập Nương, ấy quan tâm. Chỉ còn một số ít truyện thơ<br /> Đơn Hùng Tín, Dương Ngọc thơ, Hạng Võ Quốc ngữ Nam Kỳ đã được giới thiệu trên<br /> biệt Ngu Cơ, Hậu Chàng Nhái, Hậu Con các trang bìa sau của các truyện thơ, trên<br /> Tấm con Cám, Hậu Hoàng Trừu, Hậu báo mà hiện nay chúng tôi chưa tìm được,<br /> Lang Châu, Hậu Nàng Út, Hậu Phạm ví như Thơ Năm Tỵ, Thơ Bảy Tài, Hạnh<br /> Công, Hậu Thạch Sanh, Hậu Vân Nguyên cống Hồ, Thơ giết chó khuyên<br /> Tiên, Hoàng Trừu, Lâm Sanh Lâm Thoại, chồng, Bùi Kiệm kiện Phú Loan, Đơn<br /> Lâm Sanh Xuân Nương, Lang Châu thơ, Nguyệt Nga kêu oan cho Bùi Kiệm…<br /> Lang Châu toàn truyện, Lục Vân Tiên thơ, 2. Truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ<br /> Lưu Bình Dương Lễ, Lý Công thơ, Lý Thi nhìn từ phương thức biên soạn<br /> Ân Đào Báo Nghĩa, Mục Liên Thanh Đề, Qua khảo sát thông tin trên trang bìa<br /> Nam Kinh Bắc Kinh, Nàng Chuột trinh tiết, của các tập truyện thơ, chúng tôi thấy hầu<br /> Nàng Út, Ngọc Cam Ngọc Khổ, Nhị thập hết các tác phẩm đều được miêu tả phẩm<br /> tứ hiếu, Nữ trung báo oán, Ông phò nhị cách của nó như: "Bổn cũ soạn lại", "bổn<br /> tẩu, Phạm Công Cúc Hoa, Phan Công thơ, cũ diễn chánh", "soạn y bổn Nôm", "soạn<br /> Phàn Lê Huê phá Hồng Thuỷ trận, Phụng theo bổn Nôm", "thơ mới", "thơ hậu"…<br /> Kiều Lý Đáng, Phụng Nghi Đình, Quan Âm Căn cứ vào nghĩa của các cụm từ và<br /> diễn ca, Quan Công phục Huê Dung, Sáu phương thức biên soạn tác phẩm, chúng tôi<br /> Trọng thơ, Sử Công, Tam Nương thơ, Tam tạm phân loại truyện thơ Quốc ngữ thành 4<br /> Tạng thỉnh kinh đông độ, Tề Thiên Đại nhóm: Phiên âm từ truyện Nôm (Soạn y<br /> Thánh loạn thiên đình, Thạch Sanh Lý bổn Nôm), bổn cũ soạn lại (dọn lại, sửa<br /> Thông, Thằng Lảnh bán heo, Thơ đi lại…), viết tiếp (thơ hậu), sáng tác (thơ<br /> Tây, Thơ mài gươm dạy vợ, Thơ Mụ Đội, mới). Theo chúng tôi, cách phân loại theo<br /> Thơ phật tổ ra đời, Thơ Sáu Nhỏ, Thoại nhận thức của người xưa về bản chất tác<br /> Khanh Châu Tuấn, Tiên Bửu thơ tuồng, phẩm cần được tham chiếu với nguồn văn<br /> Tiết Cương khởi nghĩa, Tiết Đinh San liệu của chúng để có một cái nhìn r hơn<br /> <br /> 121<br /> TRUY N THƠ QUỐC NGỮ NAM KỲ U TH NHỮNG VẤN Ề VỀ XUẤT BẢN, BIÊN SOẠN VÀ PHÂN LOẠI<br /> <br /> <br /> về truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ. 1942. Trên trang bìa chính của tác phẩm<br /> Ưu điểm của cách phân loại theo này có ghi rõ tác giả là cụ Đồ Chiểu. Ngoài<br /> phương thức biên soạn, miêu tả bản chất ra họ còn sử dụng cụm từ "soạn y bổn<br /> tác phẩm của người xưa là tính lịch sử của Nôm" đặt ngay dưới tên tác phẩm. Các<br /> nó, cho ph p sử dụng lại các từ, ngữ mà thông tin trên cho chúng ta thấy được tác<br /> các tác giả người biên tập truyện thơ uốc phẩm này có nguồn gốc từ bản Nôm của<br /> ngữ đã dùng. Cách phân loại này s làm Nguyễn Đình Chiểu và trong quá trình biên<br /> nổi bật công việc và ý thức của những soạn ra tác phẩm này người soạn đã tuyệt<br /> người đặt thơ, biên soạn, xuất bản thơ thời đối trung thành với bản Nôm. So sánh với<br /> bấy giờ. Truyện Lục Vân Tiên do các nhà nghiên<br /> 2.1. Phiên âm từ truyện Nôm (Soạn y cứu như: Ca Văn Thỉnh và Nguyễn Quang<br /> bổn Nôm) Tuân phiên âm thì bản “soạn y bổn Nôm”<br /> Qua khảo sát văn bản, cho thấy "soạn có nội dung hoàn toàn trùng khớp. Vậy<br /> y bổn Nôm" có nghĩa là tác phẩm này được chúng tôi có thể khẳng định “soạn y bổn<br /> soạn lại từ truyện thơ Nôm và người soạn Nôm” là phiên âm tác phẩm từ chữ Nôm ra<br /> tuyệt đối trung thành với bản Nôm. Nói quốc ngữ.<br /> cách khác, họ chỉ làm công việc của người Hai tập Lục Vân Tiên còn lại được nhà<br /> phiên âm Nôm ra quốc ngữ. Người làm in Bảo Tồn in lần thứ nhất, năm 1928 do<br /> công việc này đầu tiên là Trương Vĩnh Ký. Phạm Văn Thơm chịu trách nhiệm xuất<br /> Ông đã phiên âm, chú giải những truyện bản; và tác phẩm được nhà in Xưa Nay in<br /> thơ Nôm ra uốc ngữ như : Kim Vân Kiều lần thứ 3, năm 1929 do Phạm Văn Thình<br /> truyện (1875), Lục súc tranh công (1887), chịu trách nhiệm xuất bản. Trên trang bìa<br /> Phan Trần (1889)(2). Tiếp theo Trương của cả 2 tác phẩm này đều dùng cụm từ<br /> Vĩnh Ký là Trương Minh Ký: ông cũng đã "bổn cũ soạn lại" nhưng ở trang bìa phụ lại<br /> phiên âm các truyện thơ Nôm ra quốc ngữ dùng cụm từ "soạn y bổn cũ". Ngoài những<br /> và đăng trên Gia Định báo, như : Lục súc khó khăn vì không xác định được văn bản<br /> tranh công (đăng từ số 2, ngày 13/1/1891), nguồn mà 2 tác phẩm này sử dụng và<br /> Nhị thập tứ hiếu (đăng từ số 49, ngày không tiếp cận được văn bản Nôm, chúng<br /> 8/12/1896). tôi còn gặp vấn đề khác. Đó là việc dùng<br /> Truyện thơ uốc ngữ Lục Vân Tiên các cụm từ "bổn cũ soạn lại", "soạn y bổn<br /> xuất bản bằng uốc ngữ là một ví dụ điển cũ" không thống nhất trong cùng một tác<br /> hình cho loại “soạn y bổn Nôm”. Chúng tôi phẩm. Trong trường hợp này, “bổn cũ soạn<br /> sưu tầm được 7 tác phẩm Lục Vân Tiên, lại” có thể có nghĩa là phiên ra uốc ngữ<br /> trong đó có 3 tác phẩm là "bổn cũ soạn lại một tác phẩm vốn viết bằng chữ Nôm, việc<br /> có hát nam hát khách", 1 tác phẩm là "bổn “soạn lại” này chỉ là chuyển đổi hệ thống<br /> cũ diễn chánh" và 3 tác phẩm còn lại là văn tự ghi ch p tác phẩm. Xét về mặt nội<br /> "soạn y bổn cũ", "soạn y bổn Nôm" hoặc dung lẫn hình thức, 2 tác phẩm này giống<br /> "bổn cũ soạn lại". Trong số này, chúng tôi hoàn toàn với tác phẩm Lục Vân Tiên của<br /> quan tâm nhóm 3 tác phẩm "soạn y bổn Nguyễn Đình Chiểu đã được hiệu đính và<br /> Nôm". Tác phẩm đầu tiên là truyện thơ in trong Từ điển truyện Lục Vân Tiên(3)<br /> quốc ngữ Lục Vân Tiên do nhà in Phạm hoặc Nguyễn Đình Chiểu toàn tập(4). Vậy<br /> Văn Thình tái bản lần thứ 13 vào năm chúng ta có thể tạm kết luận mức độ trung<br /> <br /> 122<br /> DƯƠNG MỸ THẮM<br /> <br /> <br /> thành của 2 tác phẩm này với bổn Nôm của là người cuối cùng hoàn chỉnh văn bản. Vì<br /> Nguyễn Đình Chiểu gần như tuyệt đối. Vì những l trên, chúng tôi tạm thời xem<br /> vậy, chúng tôi tạm xếp 2 tác phẩm này vào người xuất bản truyện thơ "soạn y bổn<br /> loại "soạn y bổn Nôm". Nôm" là ngư ph n t ph .<br /> Năm 1928, Nhà in Xưa nay xuất bản Bên cạnh đó, còn có một số truyện thơ<br /> truyện thơ uốc ngữ Lâm Sanh Xuân Quốc ngữ được soạn lại từ truyện thơ Nôm<br /> Nương. Trên trang bìa chính có ghi r đây nhưng “tác giả” không được gọi là người<br /> là bản in lần thứ nhất, giá 30 xu, người soạn hay người chép ra quốc ngữ như<br /> xuất bản là Lê Văn Tịnh. Ở bìa phụ Lê Văn thường lệ mà được gọi là "dịch giả". Theo<br /> Tịnh có dùng cụm từ "soạn y bổn cũ" và chúng tôi, nhiều khả năng chữ "dịch" ở đây<br /> ông nhắc lại một lần nữa bằng cụm từ có nghĩa là chuyển tác phẩm từ loại văn tự<br /> "soạn y bổn Nôm" trước khi bắt đầu câu này sang văn tự khác, và công việc chính<br /> thơ đầu tiên. Cụm từ "soạn y bổn cũ" hay của các "dịch giả" là phiên âm Nôm ra<br /> "soạn y bổn Nôm" đều khẳng định đây là quốc ngữ. Các "dịch giả" Nguyễn Đức<br /> truyện thơ được soạn lại từ truyện thơ Nôm Lương, Lê Duy Thiện và Nguyễn Kim<br /> và người soạn tuyệt đối trung thành với Đính thực chất là người phiên âm truyện<br /> bản gốc và chỉ phiên âm Nôm ra quốc ngữ. thơ Nôm sang quốc ngữ.<br /> Tuy nhiên, chúng tôi không thấy thông tin 2.2. Bổn cũ soạn lại<br /> nào về người phiên âm hay biên soạn tác Trong Từ điển từ ngữ Nam Bộ của<br /> phẩm này. Huỳnh Công Tín, cụm từ "bổn cũ soạn lại"<br /> Đối với loại truyện thơ "soạn y bổn có nghĩa là “giữ nguyên cái đã có, thực hiện<br /> Nôm", trên trang bìa của các tác phẩm theo cái cũ”(5). Với nghĩa này thì cụm từ<br /> thường không thể hiện thông tin về tác giả "bổn cũ soạn lại" rất gần nghĩa với cụm từ<br /> mà chỉ có người đứng ra chịu trách nhiệm "soạn y bổn Nôm". Theo chúng tôi “bổn cũ<br /> xuất bản, trừ trường hợp duy nhất là tác soạn lại” không chỉ là thực hiện theo cái cũ<br /> phẩm Lục Vân Tiên (1942) có ghi rõ tên tác mà là tác phẩm được soạn lại từ truyện thơ<br /> giả (cụ Đồ Chiểu). Dựa vào trường hợp Nôm, người biên soạn “tác giả” có thể dựa<br /> này, chúng ta có thể thấy những người xuất vào cốt truyện có sẵn để thêm bớt, thay đổi<br /> bản cho rằng tác giả của truyện thơ loại một vài tình tiết, nhân vật hoặc thay đổi câu<br /> này là tác giả của văn bản Nôm. Như vậy, chữ thậm chí có thể thêm vào các hình thức<br /> việc các tác phẩm khác không ghi rõ tên tuồng để sáng tạo ra một tác phẩm mới.<br /> tác giả có l vì chúng được phiên âm từ Khảo sát trên các trang bìa của truyện<br /> những truyện thơ Nôm khuyết danh. Vậy thơ Quốc ngữ Nam Kỳ, cụm từ "bổn cũ<br /> người phiên âm Nôm ra quốc ngữ là ai, soạn lại" là được dùng nhiều nhất, bên<br /> phải chăng chính là người xuất bản? Xét về cạnh đó chúng tôi tìm thấy những cụm từ<br /> bản chất, loại truyện thơ này là những khác có nghĩa rất gần như "bổn cũ dọn lại",<br /> truyện được phiên âm Nôm ra quốc ngữ, "bổn cũ sửa lại", "bổn cũ diễn chánh",<br /> mức độ trung thành với bản gốc là tuyệt "soạn theo bổn Nôm". Xét về nghĩa, theo<br /> đối nên chắc chắn người chịu trách nhiệm Đại Nam quốc âm tự vị, từ dọn có nghĩa "là<br /> xuất bản không thể chỉ nghe hoặc đọc ở sắp đặt, bài trí"(6); sửa có nghĩa là "lặp lại,<br /> đâu đó, ghi lại, rồi đứng ra xuất bản. Họ làm lại, sắp đặt làm cho chính đính, tề<br /> phải là người trực tiếp phiên âm hoặc ít ra chỉnh"(7). Như vậy, các truyện thơ uốc<br /> <br /> 123<br /> TRUY N THƠ QUỐC NGỮ NAM KỲ U TH NHỮNG VẤN Ề VỀ XUẤT BẢN, BIÊN SOẠN VÀ PHÂN LOẠI<br /> <br /> <br /> ngữ dùng cụm từ "bổn cũ dọn lại", "bổn cũ là Nguyễn Kim Đính đã dùng khả năng<br /> sửa lại" đều thuộc loại truyện thơ "bổn cũ ngôn ngữ của mình để thuật lại bằng tiếng<br /> soạn lại". Đối với các truyện thơ sử dụng Việt thông ua hệ văn tự uốc ngữ nội<br /> cụm từ "soạn theo bổn Nôm", vừa nghe dung "truyện Tàu" (truyện Trung Quốc)<br /> ua người đọc có thể nghĩ đây là loại vốn được viết bằng Hán văn. Hay nói cách<br /> truyện thơ "soạn y bổn Nôm", nhưng khi khác liệu có phải Nguyễn Kim Đính đã<br /> phân tích nghĩa của từng từ thì rõ ràng từ chuyển thể các truyện Trung Quốc có tên<br /> "y" và từ "theo" có nghĩa khác nhau. Một là Tống Tử Vưu, Trần Đại Lang dưới dạng<br /> đằng là giữ nguyên vẹn, trung thành tuyệt nguyên tác chữ Hán sang truyện thơ uốc<br /> đối với văn bản Nôm, một đằng là kế thừa ngữ? Trong trường hợp này, theo chúng tôi<br /> văn bản Nôm và không nhất thiết phải giữ Nguyễn Kim Đính chỉ là người phiên âm<br /> nguyên văn bản gốc, tức có thể bổ sung, truyện thơ Nôm ra uốc ngữ, chứ không hề<br /> sửa chữa theo ý muốn chủ quan của người làm công việc của người dịch. Vì tác phẩm<br /> soạn. Vậy loại truyện thơ có sử dụng cụm Tống Tử Vưu của Nguyễn Kim Đính giống<br /> từ "soạn theo bổn Nôm" cũng được xếp hoàn toàn với Tống Tử Vưu truyện của<br /> vào loại truyện thơ "bổn cũ soạn lại". Huỳnh Tịnh Của. Điều này có nghĩa nó<br /> Về nghĩa của cụm từ "bổn cũ diễn cũng được xếp vào loại "Bổn cũ soạn lại"<br /> chánh", theo Đại Nam quốc âm tự vị từ và việc tác giả dùng cụm từ "Dịch truyện<br /> diễn có nghĩa là "rộng"(8); chánh có nghĩa Tàu" chỉ thể hiện tác phẩm này có nguồn<br /> là "việc chánh, ngay thật, chắc chắn"(9). gốc từ truyện Trung Quốc.<br /> Thực tế, các truyện thơ có sử dụng cụm từ Trong số các truyện thơ uốc ngữ mà<br /> "bổn cũ diễn chánh" như : Đào Trinh chúng tôi sưu tầm được có một số truyện<br /> Luông Sanh, Lục Vân Tiên, Nam Kinh Bắc thơ không sử dụng các cụm từ "bổn cũ<br /> Kinh, Thạch Sanh Lý Thông… là những soạn lại", "bổn cũ dọn lại", "bổn cũ sửa<br /> truyện được soạn lại từ truyện thơ Nôm, lại". Tuy nhiên, dựa vào bản chất của loại<br /> người soạn giữ lại cốt truyện thêm bớt, truyện thơ "bổn cũ soạn lại", chúng tôi đưa<br /> thay đổi tình tiết, câu chữ để tạo nên các ra hai yếu tố chính để làm cơ sở phân loại.<br /> tác phẩm mới. Vậy, các truyện thơ này Thứ nhất truyện phải được soạn lại từ<br /> cũng được xếp cùng nhóm với loại truyện truyện thơ Nôm; thứ hai, trên trang bìa thể<br /> thơ "bổn cũ soạn lại". hiện rõ truyện đã được diễn ra quốc ngữ,<br /> Trên trang bìa tác phẩm Tống Tử Vưu chép ra quốc ngữ, soạn lại và thêm thắt bởi<br /> do nhà in Đông Pháp xuất bản lần thứ nhất những “tác giả” cụ thể.<br /> năm 1929 và tác phẩm Trần Đại Lang 2.3. Sáng tác (Thơ mới)<br /> cũng do nhà in Đông Pháp xuất bản lần thứ Theo Đại Nam quốc âm tự vị, Thơ có<br /> nhất năm 1929, hoặc tác phẩm cùng tên nghĩa “là sách, chuyện” (Thư 書), hay “chữ<br /> Trần Đại Lang do nhà in Phạm Văn Cường nghĩa hoặc lời nói đặt ra có câu có vần theo<br /> xuất bản năm 1928 đều ghi "Dịch truyện điệu văn chương” (Thi 詩)(10). Đối với<br /> Tàu" ngay dưới tên tác phẩm. Cuối mỗi truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ, người ta<br /> trang bìa đều ghi thêm "Nguyễn Kim Đính dùng chữ Thơ (書)có nghĩa là chuyện để<br /> dịch và xuất bản". Vậy cụm từ "Dịch đặt tên cho tác phẩm. "Thơ mới" là truyện<br /> truyện Tàu" ở đây có nghĩa là gì? Có phải thơ được sáng tác mới hoàn toàn bằng chữ<br /> <br /> <br /> 124<br /> DƯƠNG MỸ THẮM<br /> <br /> <br /> quốc ngữ, tức nội dung cốt truyện không nội dung tác phẩm mới có thể nhận biết<br /> dựa vào truyện thơ Nôm. Trong trường hợp chúng thuộc nhóm "Thơ hậu".<br /> này, truyện thơ Quốc ngữ được trực tiếp 3. Phân loại truyện thơ Quốc ngữ<br /> biên soạn theo truyện cổ tích, tuồng, tích, Nam Kỳ theo nguồn gốc thể tài<br /> tiểu thuyết Trung Quốc hay các sự kiện Hiện nay, chúng tôi có gần 200 truyện<br /> lịch sử - xã hội Việt Nam mà không qua thơ uốc ngữ Nam Kỳ, phong phú về nội<br /> truyện thơ Nôm. Cách đơn giản nhất để dung, đa dạng về hình thức. Để thuận lợi<br /> nhận biết "Thơ mới" là dựa vào các chữ cho việc nghiên cứu, trước hết người viết<br /> dùng trên trang bìa của mỗi cuốn thơ, như : phải phân loại chúng theo từng nhóm. Các<br /> "thơ mới", "tân soạn". Đối với các truyện nhà nghiên cứu về truyện thơ Nôm đã có rất<br /> thơ không sử dụng những từ, ngữ quen nhiều ý kiến khác nhau trong việc phân loại<br /> thuộc trên thì chúng ta cần phải dựa vào truyện thơ Nôm. Họ dựa vào các tiêu chí<br /> cốt truyện để phân loại chúng. Những khác nhau để chia truyện thơ Nôm thành<br /> truyện thơ uốc ngữ được soạn trực tiếp từ các loại sau: “Truyện Nôm bình dân”,<br /> truyện cổ tích, tiểu thuyết Trung Quốc truyện Nôm bác học” (phong cách sáng<br /> hoặc được sáng tác dựa vào các sự kiện tác), “truyện Nôm khuyết danh”, “truyện<br /> lịch sử của Việt Nam không thông qua Nôm hữu danh” (tác giả)... Đối với truyện<br /> truyện thơ Nôm đều là "thơ mới". Trên thơ Quốc ngữ, chúng tôi xét thấy s không<br /> trang bìa của những truyện này thường thể thể phân chia theo tiêu chí phong cách sáng<br /> hiện rõ tên tác giả tức "người đặt thơ". tác, vì tất cả những tác phẩm mà chúng tôi<br /> 2.4. Viết tiếp (Thơ hậu) đang có đều là những truyện có nội dung<br /> "Thơ hậu" là truyện thơ uốc ngữ mang đậm tính chất uần chúng và nghệ<br /> được sáng tác mới hoàn toàn. Tác giả "Thơ thuật hết sức mộc mạc, giản dị. Nếu căn cứ<br /> hậu" lấy kết thúc truyện của "bổn cũ soạn vào mối quan hệ với tác giả để phân loại<br /> lại" làm mở đầu cho câu chuyện tiếp theo, truyện thơ Quốc ngữ, chúng tôi e rằng s<br /> đặc biệt cốt truyện được họ sáng tạo dựa không hợp lý vì ngoài truyện thơ Lục Vân<br /> vào sự tưởng tượng của bản thân tạo nên Tiên, số tác phẩm còn lại mà chúng tôi đang<br /> một tác phẩm hoàn toàn mới từ nội dung có đều là những truyện thơ khuyết danh. Vì<br /> đến hình thức. Qua tên gọi của tác phẩm, vậy, chúng tôi chọn cách phân loại theo<br /> chúng ta rất dễ nhận biết các truyện thơ nguồn gốc thể tài để phân loại truyện thơ<br /> quốc ngữ thuộc nhóm "Thơ hậu", vì tác giả Quốc ngữ Nam Kỳ. Cách phân loại này<br /> thường lấy chữ "hậu" kết hợp với tên "bổn giúp chúng ta thấy được thi pháp, phong<br /> cũ soạn lại" của nó, như Hậu chàng cách của từng thể tài. Theo đó, truyện thơ<br /> Nhái, Hậu Lang Châu, Hậu Nàng Út, Hậu Quốc ngữ Nam Kỳ có mấy loại sau:<br /> Phạm Công, Hậu Thạch Sanh, Hậu Vân Truyện thơ ổ tích, truyện thơ truyền<br /> Tiên, Hậu con Tấm con Cám, Hậu Hoàng thuyết Phật giáo, truyện thơ tuồng tích<br /> Trừu, Hậu Vân Tiên… Tuy nhiên, cũng có Trung Quốc, truyện thơ th i sự.<br /> những trường hợp ngoại lệ khác như tác 3.1. Truyện thơ cổ tích<br /> phẩm Cha Hồ chú Nhẫn. Đây là truyện thơ Chúng tôi dùng khái niệm truyện thơ<br /> quốc ngữ thuộc nhóm "Thơ hậu", nội dung cổ tích là để chỉ các loại truyện được kể<br /> được kể tiếp theo truyện Chàng Lía. Đối bằng văn vần có nội dung cốt truyện từ<br /> với trường hợp này, chúng ta phải dựa vào chuyện xưa, tích cũ được lưu truyền trong<br /> <br /> 125<br /> TRUY N THƠ QUỐC NGỮ NAM KỲ U TH NHỮNG VẤN Ề VỀ XUẤT BẢN, BIÊN SOẠN VÀ PHÂN LOẠI<br /> <br /> <br /> dân gian Việt Nam. Truyện thơ cổ tích có cứu, chúng tôi tiếp tục phân loại truyện thơ<br /> nội dung khá rộng, gồm nhiều loại đề tài cổ tích thành nhiều nhóm nhỏ, như: truyện<br /> với nhiều kiểu nhân vật khác nhau, như: thơ cổ tích thần kỳ, truyện thơ cổ tích thế<br /> truyện các nhân vật dũng sĩ, các nhân vật sự, truyện thơ cổ tích loài vật.<br /> tài giỏi, thông minh, truyện về các nhân vật 3.1.1. Truyện thơ cổ tích thần kỳ<br /> ngốc nghếch, các nhân vật bất hạnh, như: Truyện thơ cổ tích thần kỳ kể lại<br /> người mồ côi, người em út, người con những sự việc xảy ra trong đời sống gia<br /> riêng, người nghèo khổ, người quái dị hình đình và xã hội con người; mà ở đó những<br /> dạng, truyện về các con vật nói năng và xung đột, mâu thuẫn trong gia đình, như:<br /> hành động như con người, truyền thuyết về xung đột giữa anh chị em (Chàng Nhái<br /> các anh hùng thảo dã... Chủ đề quen thuộc Kiển Tiên, Chàng Chuột Lệ Tiên, Nàng<br /> của truyện thơ cổ tích là chính nghĩa thắng Út...), xung đột giữa dì ghẻ con chồng,<br /> gian tà, thiện thắng ác. Các vấn đề này giữa chị em cùng cha khác mẹ (Con Tấm<br /> được các tác giả dân gian thể hiện một cách con Cám), xung đột có tính bi kịch về hôn<br /> độc đáo, sống động trên cơ sở kế thừa nội nhân, gia đình (Thoại Khanh Châu Tuấn,<br /> dung và hình thức nghệ thuật của truyện cổ Phạm Công Cúc Hoa, Lâm Sanh Xuân<br /> tích. Truyện thơ cổ tích chiếm số lượng lớn Nương...) được giải quyết nhờ vào lực<br /> trong danh mục tác phẩm truyện thơ Quốc lượng siêu nhiên. Những ông Tiên, ông<br /> ngữ xuất bản ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX, Bụt... luôn đứng về phía thiện, trợ giúp cho<br /> như: Cha Hồ Chú Nhẫn, Chàng Chuột Lệ nhân vật đau khổ, đang gặp bế tắc để đưa<br /> Tiên, Chàng Nhái Kiển Tiên thơ, Chàng họ tới hạnh phúc. Đây là nhóm tác phẩm<br /> Nhái, Đào Trinh Luông Sanh, Dương Ngọc chiếm số lượng lớn nhất trong danh mục<br /> thơ, Hậu Chàng Nhái, Hậu Con Tấm con truyện thơ cổ tích.<br /> Cám, Hậu Hoàng Trừu, Hậu Lang Châu, 3.1.2. Truyện thơ cổ tích thế sự<br /> Hậu Nàng Út, Hậu Phạm Công, Hậu Truyện thơ cổ tích thế sự khác loại<br /> Thạch Sanh, Hậu Vân Tiên, Hoàng Trừu, truyện thơ cổ tích thần kỳ ở chỗ, truyện kể<br /> Lâm Sanh Lâm Thoại, Lâm Sanh Xuân lại những sự kiện khác thường ly kỳ nhưng<br /> Nương, Lang Châu thơ, Lang Châu toàn những sự kiện này được rút ra từ thế giới<br /> truyện, Lục súc tranh công, Lục Vân Tiên trần tục của con người, không có hoặc rất ít<br /> thơ, Lưu Bình Dương Lễ, Lý Công thơ, Lý yếu tố thần kỳ. Trong truyện thơ cổ tích thế<br /> Thi Ân Đào Báo Nghĩa, Nam Kinh Bắc sự yếu tố thần kỳ không có vai trò quan<br /> Kinh, Nàng Chuột trinh tiết, Nàng Út, trọng đối với sự phát triển của câu chuyện.<br /> Ngọc Cam Ngọc Khổ, Nữ trung báo oán, Nhân vật trung tâm thường chủ động và<br /> Phạm Công Cúc Hoa, Phan Công thơ, Sử tích cực hơn so với nhân vật trung tâm<br /> Công, Tam Nương thơ, Thạch Sanh LýN trong truyện thơ cổ tích thần kỳ. Những<br /> Thông, Thằng Lảnh bán heo, Thơ mài mâu thuẫn, xung đột trong truyện thơ cổ<br /> gươm dạy vợ, Thơ Mụ Đội, Thoại Khanh tích thế sự được giải quyết theo logic của<br /> Châu Tuấn, Tiên Bửu thơ tuồng, Trần hiện thực và thỉnh thoảng nhân vật trung<br /> Minh khố chuối, Trần Sanh Ngọc Anh, Trò tâm không nhận được “cái kết có hậu”. Các<br /> Đông thơ, Trương Ngộ thơ, Văn Doan diễn tác phẩm như: Cha Hồ chú Nhẫn, Hoàng<br /> ca, Văn Doan thơ… Trừu, Lưu Bình Dương Lễ, Mài gươm dạy<br /> Vì vậy, để thuận lợi cho việc nghiên vợ, Nữ trung báo oán, Thằng Lảnh bán<br /> <br /> 126<br /> DƯƠNG MỸ THẮM<br /> <br /> <br /> heo, Thơ Chàng Lía, Trương Ngộ, Thơ Văn truyện bắt nguồn từ những tích truyện cổ<br /> Doan, Văn Doan diễn ca... đều thuộc nhóm Trung Quốc được lưu truyền trong dân<br /> truyện cổ tích thế sự. gian hoặc những vở tuồng được lấy ra từ<br /> 3.1.3. Truyện thơ cổ tích loài vật tiểu thuyết Trung Quốc. Qua khảo sát trong<br /> Truyện thơ cổ tích loài vật là loại danh mục truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ,<br /> truyện kể bằng văn vần có tính chất thế truyện thơ tuồng tích Trung Quốc là nhóm<br /> sự, mượn chuyện về loài vật để nói bóng tác phẩm chiếm số lượng lớn thứ 2 sau loại<br /> gió, kín đáo chuyện đời, chuyện người, truyện thơ cổ tích, như: Bá Ấp Khảo loạn<br /> nhằm nêu lên bài học luân lí. Truyện thơ cung, Bá Nha Tử Kỳ, Bạch Viên Tôn Các,<br /> cổ tích loài vật có số lượng hạn chế nhất Chiêu Quân cống Hồ, Đỗ Thập Nương,<br /> trong danh mục truyện thơ Quốc ngữ Nam Đơn Hùng Tín, Hạng Võ biệt Ngu Cơ, Nhị<br /> Kỳ, như: Nàng Chuột trinh tiết, Lục súc thập tứ hiếu, Ông phò nhị tẩu, Phàn Lê<br /> tranh công. Huê phá Hồng Thuỷ trận, Phụng Kiều Lý<br /> Truyện thơ cổ tích là kết quả sáng tạo Đáng, Phụng Nghi Đình, Quan Công phục<br /> của các tác giả dân gian. Họ đã sáng tạo Huê Dung, Tam Tạng thỉnh kinh đông độ,<br /> bằng cách chỉnh lý, lắp ghép các tình tiết, Tề Thiên Đại Thánh loạn thiên đình, Tiết<br /> các môtip có sẵn trong kho tàng truyện cổ Cương khởi nghĩa, Tiết Đinh San cầu Phàn<br /> dân gian để tạo thành một câu chuyện hoàn Lê Huê, Tiết Giao đoạt ngọc, Tống Tử<br /> toàn mới. Trong quá trình biên soạn truyện Vưu, Tống Tử Vưu truyện, Trần Đại Lang,<br /> thơ cổ tích, tác giả dân gian đã “sửa đổi lại Triệu Tử Long - Đương Dương Trường<br /> mới” rất nhiều nội dung. Nội dung câu Bản, Trụ Vương mê Đắc Kỷ, Tứ đại kỳ thơ,<br /> chuyện trong truyện thơ cổ tích đã được cụ Võ Tòng sát tẩu, Xử án Quách Hoè…<br /> thể hóa, nhân vật dù mang lý tưởng nhưng Trên trang bìa của các quyển thơ<br /> cũng bắt đầu có tâm lý, tính cách, lời thoại Đương Dương Trường Bản, Triệu Tử Long<br /> cũng nhiều hơn… Tuy nhiên, sự sáng tạo đoạt ấu chúa, Quan Công phục Huê Dung,<br /> ấy dù nhiều hay ít cũng không thể vượt ra Quan Công phò nhị tẩu... đều ghi “đặt theo<br /> ngoài khuôn khổ của chuyện xưa, tích cũ. tích truyện Tam quốc” và đặt tên trùng khít<br /> 3.2. Truyện thơ truyền thuyết Phật giáo với các vở tuồng Đương Dương Trường<br /> Truyện thơ truyền thuyết Phật giáo là Bản, Quan Công phục Huê Dung trong<br /> loại truyện dân gian được kể bằng văn vần quyển Tuồng Tam Quốc (1930), chủ bút<br /> có các yếu tố kỳ diệu, huyễn tưởng nhưng Đặng Lễ Nghi, chủ bổn Phạm Văn Thình,<br /> lại được cảm nhận là xác thực, diễn ra nhà in Xưa Nay, in lần thứ tư, 42 trang.<br /> trong thời gian tôn giáo và thuộc nhóm đề Khi đặt thơ, tác giả không đơn thuần lấy<br /> tài Phật giáo. Dựa vào danh mục các tác trọn vẹn một chương, một hồi trong tiểu<br /> phẩm truyện thơ Quốc ngữ xuất bản ở Nam thuyết Tam Quốc để sáng tạo nên tác phẩm<br /> Kỳ đầu thế kỷ XX, chúng ta thấy có một số mà là dựa theo tích truyện được nhiều<br /> tác phẩm là truyện thơ truyền thuyết Phật người biết đến, giống với cách mở đầu và<br /> giáo, như: Mục Liên Thanh Đề, Quan Âm kết thúc của các vở tuồng. Tất cả những<br /> diễn ca, Thơ Phật Tổ ra đời… điều này gợi cho chúng tôi, phải chăng các<br /> 3.3. Truyện thơ tuồng tích Trung Quốc tác giả truyện thơ đã sáng tạo trên nội dung<br /> Truyện thơ tuồng tích Trung Quốc là của những vở tuồng nhiều hơn là từ những<br /> loại truyện được kể bằng văn vần có cốt trang viết của tiểu thuyết?<br /> <br /> 127<br /> TRUY N THƠ QUỐC NGỮ NAM KỲ U TH NHỮNG VẤN Ề VỀ XUẤT BẢN, BIÊN SOẠN VÀ PHÂN LOẠI<br /> <br /> <br /> Trong danh mục truyện thơ tuồng, tích các loại truyện thơ có cốt truyện bắt nguồn<br /> Trung Quốc có một số tác phẩm nếu chỉ từ hiện thực lịch sử- xã hội ở Việt Nam<br /> dựa vào nội dung thì không thể xác định được gọi là truyện thơ thời sự như: Cậu<br /> được nguồn gốc vì nội dung cốt truyện của Hai Miêng [Miên], Sáu Trọng thơ, Thầy<br /> chúng rất giống với loại truyện thơ cổ tích. Thông Chánh, Thơ đi Tây, Thơ Sáu Nhỏ,<br /> Trường hợp Trần Đại Lang, hiện tại chúng Vân Tiên cờ bạc… Người làm thơ ghi lại<br /> tôi có 6 bản trong đó có 2 bản do Nguyễn những sự kiện xảy ra theo như họ trông<br /> Kim Đính dịch có ghi rõ trên trang bìa thấy hoặc nghe kể. Chuyện xảy ra nghe<br /> “dịch truyện Tàu”. Tống Tử Vưu cũng là được thế nào người ta ghi lại thế ấy, chỉ<br /> một trường hợp tương tự, vì vậy, chúng tôi thêm vào đôi chút ý kiến chủ quan hoặc<br /> căn cứ vào nguồn văn liệu có trên trang bìa một số chi tiết cho truyện thêm hấp dẫn<br /> của văn bản. Hiện nay, chúng tôi có 6 bản chứ không hề tự ý dựng lên cốt truyện.<br /> Tống Tử Vưu, trong đó bản Nguyễn Kim Trong danh mục truyện thơ Quốc ngữ<br /> Đính (1929), nhà in Đông Pháp in lần thứ Nam Kỳ có một trường hợp đặc biệt là thơ<br /> 1, tại Gia Định gồm 16 trang có ghi rõ trên Vân Tiên cờ bạc. Đây là tác phẩm nhại<br /> trang bìa cụm từ “Dịch truyện Tàu”. Dù truyện thơ Lục Vân Tiên nhằm phê phán tệ<br /> không tìm được nội dung cốt truyện của nạn cờ bạc trong xã hội lúc bấy giờ một<br /> Trần Đại Lang và Tống Tử Vưu được lấy cách hài hước. Vì vậy, chúng tôi xếp Vân<br /> từ tích truyện nào nhưng cũng đủ để khẳng Tiên cờ bạc vào nhóm truyện thơ thời sự.<br /> định hai tác phẩm trên là những truyện thơ Tóm lại, truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ<br /> Quốc ngữ có nguồn gốc từ tích truyện của là loại truyện được người dân Nam Kỳ lục<br /> Trung Quốc. tỉnh yêu chuộng vào những thập niên đầu<br /> Ngoài ra, cũng có trường hợp người thế kỷ XX. Truyện được xuất bản, tái bản<br /> soạn truyện thơ nêu nguồn gốc của truyện với số lượng lớn và bày bán phổ biến khắp<br /> bắt nguồn từ tác phẩm của Trung Quốc, các hiệu sách với giá bình dân. Tuy nhiên,<br /> nhưng thực tế kiểm nghiệm lại không đưa do điều kiện thời gian và nhu cầu thưởng<br /> ra kết uả tương đồng. Mở đầu truyện thơ thức của người dân thay đổi nên về sau ít ai<br /> Nữ trung báo oán có câu: “Trải xem Kim còn lưu giữ loại truyện thơ này. Vì vậy,<br /> cổ kỳ quan” khiến người đọc hiểu là tác giả việc tìm kiếm tư liệu gặp rất nhiều khó<br /> biên soạn truyện này dựa theo Kim cổ ỳ khăn. Dựa vào phương thức biên soạn, các<br /> quan nhưng thực tế trong Kim cổ kỳ quan thông tin trên trang bìa, người viết chia<br /> lại không có truyện nào như thế. Trường truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ thành bốn<br /> hợp này, có thể hiểu là người viết chỉ nhóm chính: "Soạn y bổn Nôm", "Bổn cũ<br /> mượn tên tác phẩm Kim cổ kỳ quan cốt để soạn lại", "Thơ mới" và "Thơ hậu". Trong<br /> dẫn truyện. Vì vậy, chúng tôi dựa vào nội đó, nhóm tác phẩm “Soạn y bổn Nôm” về<br /> dung cốt truyện và tạm xếp Nữ trung báo bản chất là phiên âm Nôm ra chữ Quốc<br /> oán vào nhóm truyện thơ cổ tích thế sự, ngữ, tác giả người phiên âm không chủ ý<br /> chờ khảo sát thêm. thêm bớt, hay chỉnh sửa nội dung tác<br /> 3.4. Truyện thơ thời sự phẩm. Nhóm thứ 2 “bổn cũ soạn lại” là<br /> Bên cạnh truyện thơ cổ tích, truyện thơ nhóm chiếm số lượng đa số trong danh<br /> truyền thuyết Phật giáo, truyện thơ tuồng mục truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ. Đây là<br /> tích Trung Quốc, ở Nam Kỳ còn xuất hiện nhóm tác phẩm được độc giả ưu chuộng<br /> <br /> 128<br /> DƯƠNG MỸ THẮM<br /> <br /> <br /> nên được tái bản nhiều lần. Chúng tôi đặc 2. Bằng Giang (1992), Văn học Quốc ngữ ở<br /> biệt quan tâm và hứng thú với nhóm tác Nam ỳ 1865 – 1930. Nxb Trẻ, TP.HCM,<br /> trang 43.<br /> phẩm “Thơ mới” và “Thơ hậu”. Hai nhóm<br /> 3. Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Khắc Thuần<br /> tác phẩm này góp phần tạo nên sự phong (2004), Từ điển truyện Lục Vân Tiên, Nxb<br /> phú và đa dạng về nội dung, hình thức và Thanh Niên, trang 27.<br /> phương thức biên soạn truyện thơ Quốc 4. Ca Văn Thinh, Nguyễn Sỹ Lâm, Nguyễn<br /> ngữ Nam Kỳ. Thạch Giang (1980), Nguyễn Đình Chiểu toàn<br /> Bên cạnh đó, người viết còn kết hợp tập, tập 1, Nxb. Đại học và Trung học chuyên<br /> cách phân loại truyện thơ Quốc ngữ Nam nghiệp, trang 93-176.<br /> 5. Huỳnh Công Tín (2007), Từ điển từ ngữ Nam<br /> Kỳ theo nguồn gốc thể tài với cách phân<br /> Bộ, Nxb Khoa học Xã hội, TP.HCM, trang<br /> loại theo phương thức biên soạn. Sự kết 198.<br /> hợp này giúp người đọc có cái nhìn toàn 6. (8), (9) Huình Tịnh Paulus Của (1895), Đại<br /> diện về nguồn gốc truyện thơ Quốc ngữ Nam quốc âm tự vị, tập 1, Imp. Rey, Curiol &<br /> Nam Kỳ. Cie, Sài Gòn, trang 241, 234, 143.<br /> 10. Huình Tịnh Paulus Của (1896), Đại Nam<br /> Chú thích:<br /> quốc âm tự vị, tập 2, Imp. Rey, Curiol & Cie,<br /> 1. Nông cổ mín đàm, số 199 năm thứ 4, ngày Sài Gòn, trang 313, 403.<br /> 13/7/1905.<br /> <br /> <br /> <br /> Ngày nhận bài: 07/9/2017 Biên tập xong: 15/10/2017 Duyệt đăng: 20 10 2017<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 129<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1