intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tư hữu ruộng đất ở huyện Phong Phú, tỉnh An Giang nửa đầu thế kỷ XIX

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

17
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Tư hữu ruộng đất ở huyện Phong Phú, tỉnh An Giang nửa đầu thế kỷ XIX trình bày khái quát về diên cách vùng đất Phong Phú; Nghiên cứu tình hình tư hữu ruộng đất ở huyện Phong Phú, tỉnh An Giang nửa đầu thế kỷ XIX để lại bài học thực tiễn về chính sách quản lý đất đai.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tư hữu ruộng đất ở huyện Phong Phú, tỉnh An Giang nửa đầu thế kỷ XIX

  1. 48 Bùi Hoàng Tân, Võ Ngọc Hiển TƯ HỮU RUỘNG ĐẤT Ở HUYỆN PHONG PHÚ, TỈNH AN GIANG NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX OWNING PRIVATELY LAND-FIELD IN PHONG PHU DISTRICT, AN GIANG PROVINCE IN THE FIRST HALF OF THE 19TH CENTURY Bùi Hoàng Tân, Võ Ngọc Hiển Trường Đại học Cần Thơ; bhtan@ctu.edu.vn Tóm tắt - Huyện Phong Phú, tỉnh An Giang ở nửa đầu thế kỉ XIX Abstract - Phong Phu district, An Giang province in the first half of the là một trong những vùng đất mới được khai phá, tuy có diện tích 19th century was one of the new lands to be explored; although the lãnh thổ tương đối lớn nhưng diện tích canh tác thực sự chưa land area was relatively large, the area of cultivation was not much. nhiều. Tình hình sở hữu ruộng đất nơi đây có sự khác nhau về tỉ Ownership of private land here was different in terms of proportions, lệ, ruộng đất tư chiếm đại đa số, song quy mô tư hữu còn nhỏ lẻ private field land occupied majority, but the scale of private ownership và manh mún, chưa đạt mức tập trung cao độ về đất đai như các was small and fragmented, not reaching the maximum concentration khu vực khác ở Nam Bộ. Sự khác biệt trong tư hữu đất đai do chịu like other areas in Cochinchina. The difference of ownership of private tác động bởi các yếu tố đặc trưng về lịch sử khẩn hoang, điều kiện land was influenced by characteristic factors of the history of tự nhiên và tình hình chính trị - xã hội của vùng đất Phong Phú. Ở reclamation, natural conditions and the political-socio situation of một khía cạnh khác, nghiên cứu tình hình quản lý đất đai huyện Phong Phu district. In another perspective, studying land management Phong Phú nửa đầu thế kỷ XIX còn là bài học lịch sử có giá trị thực in Phong Phu district in the first half of the 19th century will give tiễn đối với chính sách quản lý và sử dụng nguồn quỹ đất đai hiện nay historical lessons of practical value for the policy of managing and using ở thành phố Cần Thơ. the current land fund in Can Tho city. Từ khóa - tư điền; tư thổ; huyện Phong Phú; triều Nguyễn; thành phố Key words - private rice – field; private land; Phong Phu district; Cần Thơ Nguyen dynasty; Can Tho city 1. Đặt vấn đề Bờ phía tây là thủ sở đạo Trấn Giang cũ, phố xá trù mật buôn Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, giữ vai trò quyết định bán tấp nập; do sông Cái chảy xuống phía nam 12 dặm rưỡi trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy, việc nghiên đến cửa biển Ba Thắc, do cửa sông đi về phía tây tám dặm cứu về vấn đề sở hữu ruộng đất, nhất là tư hữu đất đai ở từng rưỡi đến ngã ba, ngã bắc chuyển sang phía đông, chảy 1 dặm địa phương như huyện Phong Phú, tỉnh An Giang nửa đầu thế rưỡi đến sông Bình Thủy, vào Hậu Giang, ngã phía tây chảy kỷ XIX góp phần khái quát về tình hình ruộng đất nơi đây với 78 dặm đến Ba Lãng, 160 dặm rưỡi nữa thì đến cửa bé đạo nhiều điểm khác biệt trong sở hữu do những đặc trưng về điều Kiên Giang, nhiều bùn lầy” [8, tr.211]. Các sông này vừa là kiện tự nhiên và tình hình chính trị - xã hội. Đồng thời bài viết tuyến giao thông huyết mạch, vừa cung cấp nước ngọt quanh còn góp phần phân tích rõ nét một số đặc điểm trong sở hữu năm cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp. ruộng đất ở địa phương Nam Bộ dưới triều Nguyễn. Trải qua các giai đoạn lịch sử, vùng đất Phong Phú có Đặc biệt, vùng đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn sự thay đổi về tên gọi và địa giới hành chính khác nhau. đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, trong đó lấy Trước thế kỷ VII, vùng đất này thuộc địa phận của thành phố Cần Thơ làm động lực trọng tâm thu hút nguồn vương quốc Phù Nam. Từ sau thế kỷ VII, vương quốc Phù lực đầu tư phát triển kinh tế bền vững của vùng. Vì thế, việc Nam suy vong, vùng đất này trở nên hoang vu và vô chủ. nghiên cứu bài học lịch sử về tình hình quản lý đất đai huyện Lớp cư dân sinh sống nơi đây lúc bấy giờ chủ yếu là người Phong Phú nửa đầu thế kỷ XIX sẽ là bài học mang giá trị Khmer định cư rải rác trên các giồng đất cao, song do lực ứng dụng thực tiễn trong hoạch định chính sách quản lý, khai lượng lao động còn hạn chế và khả năng canh tác lạc hâu thác và sử dụng nguồn quỹ đất đai đạt hiệu quả tối ưu và góp nên đất đai được khai hoang chưa nhiều. phần gia tăng giá trị kinh tế cho địa phương. Từ năm 1735, sau khi Mạc Cửu mất, Mạc Thiên Tích đã nối nghiệp cha làm Tổng trấn Hà Tiên, ông tiến hành công 2. Giải quyết vấn đề cuộc khai phá vùng đất phía nam sông Hậu. Năm 1739, Mạc 2.1. Khái quát về diên cách vùng đất Phong Phú Thiên Tích lập thêm Long Xuyên, Kiên Giang, Trấn Giang Phong Phú là đơn vị hành chính cấp huyện thuộc tỉnh An và Trấn Di. Trong đó, Trấn Giang là vùng đất dọc hữu ngạn Giang ở nửa đầu thế kỷ XIX, địa giới “cách phủ Tuy Biên sông Hậu tương ứng với huyện Phong Phú sau này và nơi hơn 50 dặm về phía đông nam; đông tây cách nhau 50 dặm, đây trở thành hậu cứ quan trọng về kinh tế và quân sự của nam bắc cách nhau 65 dặm, phía đông đến địa giới huyện trấn Hà Tiên. Theo Địa chí Cần Thơ, “Mạc Thiên Tích (trước An Xuyên phủ Tân Thành 6 dặm, phía tây đến địa giới huyện đó có tên là Mạc Thiên Tứ) được phong làm tổng trấn nối Kiên Giang tỉnh Hà Tiên 44 dặm, phía nam đến địa giới nghiệp cha. Từ Hà Tiên, ông đẩy mạnh công cuộc khai mở huyện Vĩnh Định phủ Ba Xuyên 3 dặm, phía bắc đến địa giới thêm vùng đất hữu ngạn sông Hậu. Năm 1739, ông đã hoàn huyện An Xuyên và Tây Xuyên 62 dặm” [8, tr.186]. Địa thành việc khai mở này và lập thêm 4 vùng đất mới mà “Gia hình nơi đây chủ yếu là đồng bằng phù sa được bồi đắp bởi Định thành thông chí” gọi là “đạo” gồm: Long Xuyên (Cà các sông lớn “Ở bờ phía tây Hậu Giang, cách huyện Phong Mau), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ), Trấn Phú 3 dặm về phía đông, rộng 4 trượng, sâu 2 trượng rưỡi. Di (Bạc Liêu), để sáp nhập vào đất Hà Tiên” [9, tr.25].
  2. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - VOL. 17, NO. 10.1, 2019 49 Dưới sự quản lý của họ Mạc, diện mạo vùng đất Phong tây bắc giáp huyện Đông Xuyên tỉnh An Giang, tây nam Phú lúc bấy giờ có sự thay đổi so với trước đó. Song, do giáp huyện Kiên Giang tỉnh Hà Tiên, phía đông và đông những điều kiện khách quan, Mạc Thiên Tích cho xây dựng nam giáp huyện Vĩnh Định và huyện Phong Nhiêu tỉnh An Phong Phú như một căn cứ đồn trú quân sự khi có hữu sự Giang. Về cơ bản, định danh Phong Phú là đơn vị hành ở Hà Tiên. “Thủ sở Trấn Giang ở phía Tây sông Cần Thơ chính thuộc tỉnh An Giang được sử dụng không thay đổi từ lập từ năm 1739, không chỉ là vị trí đồn thủ ở một địa điểm năm 1839 đến năm 1867 được giới hạn trong phần đất đai trên thủy bộ xung yếu mà là vùng khai mở rộng lớn dang 3 tổng Định An, Định Bảo và Định Thới tương ứng với tay đón người tứ phương từ miệt trên đổ xuống, miệt dưới phần lớn đất đai của thành phố Cần Thơ hiện nay. đổ về để khai phá lập nghiệp và đặc biệt trong bối cảnh 2.2. Tình hình tư hữu ruộng đất ở huyện Phong Phú, thường bị quân Xiêm và quân xứ Chân Lạp sang xâm lấn, tỉnh An Giang nửa đầu thế kỷ XIX quấy phá thì Trấn Giang (Cần Thơ) là một vùng hậu cứ của 2.2.1. Khái quát về ruộng đất tư Hà Tiên – Rạch Giá khi hữu sự” [9, tr.26]. Do vậy, tiến trình khẩn hoang ở Phong Phú thời Mạc Thiên Tích còn Ruộng đất tư hữu là hình thức sở hữu và sử dụng đối với khá chậm, đặc biệt ở những khu vực xa trung tâm lỵ sở. ruộng đất canh tác thuộc về tư nhân được ghi nhận trong số địa bạ của xã, thôn với tên gọi là tư điền, tư thổ để phân biệt Về cơ bản, vùng đất Phong Phú trong giai đoạn này đã với công điền, công thổ. Ruộng đất tư hữu xuất hiện khá sớm xuất hiện những lớp cư dân mới di cư vào và kể cả Hà Tiên trong lịch sử nước ta. Từ thế kỷ X, sở hữu tư nhân về ruộng sang “Cộng đồng dân cư ở đây từ ngày xưa gồm một bộ phận đất đã phát triển đáng kể và được ghi nhận ở hai điểm: quyền là binh lính và gia đình của quân binh Hà Tiên, Rạch Giá quyết định đối với ruộng đất tư hữu và nghĩa vụ đóng thuế theo chồng, theo cha về trú ngụ ở Trấn Giang. Một bộ phận cho nhà nước. Trên cơ sở đó, tư hữu về ruộng đất tồn tại với khác là những lưu dân từ miền ngoài đi vào, từ miền Đông các hình thức: tư hữu của địa chủ và tư hữu của nông dân tự đi xuống và ở lại trên đất Trấn Giang” [9, tr. 29]. Tuy nhiên, canh. Song, phần lớn tư hữu của địa chủ đã chiếm ưu thế và quá trình khai khẩn và canh tác chưa ổn định, họ thường tập gây nên tình trạng kiêm tính ruộng đất làm phá sản hình thức trung quanh khu vực lỵ sở, ven sông rạch, sống chủ yếu dựa tư hữu của nông dân tự canh. Do đó, vấn đề mâu thuẫn giữa vào nguồn lợi thủy sản và trồng trọt với quy mô nhỏ. nông dân và địa chủ trong xã hội là tất yếu. Tuy nhiên, trong những năm cuối thế kỷ XVIII, vùng Dưới triều Nguyễn, ruộng đất tư chiếm số lượng lớn đất Phong Phú chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các cuộc tranh trong các loại hình ruộng đất ở Nam Kỳ, được đo đạc và ghi chấp giữa Xiêm La và lực lượng chúa Nguyễn. Đặc biệt chép khá kỹ trong địa bạ theo cấp hành chính tỉnh, huyện, năm 1771 – 1773, cuộc nội chiến Tây Sơn với chính quyền tổng, xã thôn. Người sở hữu và canh tác trên ruộng đất tư sẽ chúa Nguyễn đã đẩy vùng đất này vào vòng xoáy của chiến chịu thuế theo hạng ruộng đất tư, họ được quyền mua bán tranh. Do vậy, công cuộc khẩn hoang ở nơi đây dường như hoặc chuyển nhượng diện tích ruộng đất thuộc sở hữu của dừng lại, kinh tế đình trệ và xã hội biến động. mình và được bồi thường nếu bị triều đình trưng dụng cho Đầu thế kỷ XIX, vua Gia Long đã cho định lại đơn vị việc công. Tuy nhiên, quyền tư hữu tư nhân đối với ruộng hành chính trong cả nước. Năm 1803, vùng đất Trấn Giang đất canh tác không phải là một quyền tuyệt đối, nếu chủ sở thuộc quyền quản lý của dinh Long Hồ. Sau đó, dinh Long hữu không canh tác hoặc bỏ hoang ruộng đất và không hoàn Hồ được thay đổi địa giới và đổi tên là dinh Hoằng Trấn, sau thành nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước thì sẽ mất quyền tư đổi thành dinh Vĩnh Trấn, về cơ bản Trấn Giang vẫn do dinh hữu đối với ruộng đất đó “mỗi gia đình chiếm những phần này quản lý. Năm 1808, trên cơ sở địa giới vùng đất Trấn đất mà mình có khả năng khai thác, cũng từ đó quyền sở hữu Giang, huyện Vĩnh Định được thành lập trực thuộc trấn Vĩnh tư nhân của các nông dân này được thiết lập (Sự thật không Thanh. Huyện Vĩnh Định thời vua Gia Long chỉ có 37 thôn. phải ai xí phần đâu là có quyền sở hữu đó, mà chỉ sở hữu Năm 1832, vua Minh Mạng bãi bỏ Gia Định thành, phân trên ruộng đất đã thực canh và chính quyền đã đo đạc rồi chia lại 5 trấn thuộc Gia Định trước đây thành 6 tỉnh Gia Định, ghi vào địa bạ hay điền bạ để đánh thuế)” [1, tr.111]. Định Tường, Biên Hòa, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. 2.2.2. Diện tích ruộng đất tư Trong đó, tỉnh An Giang được chia ra làm 2 phủ: phủ Tuy Tổng diện tích ruộng đất tư huyện Phong Phú, tỉnh An Biên quản lý huyện Tây Xuyên và Phong Phú (nguyên là đất Giang và tỉ lệ so sánh được thống kê ở Bảng 1. huyện Vĩnh Định dưới thời vua Gia Long) và phủ Tân Thành Kết quả thống kê địa bạ huyện Phong Phú, tỉnh An Giang quản lý huyện Đông Xuyên và Vĩnh An. Năm 1835, vua Minh năm Minh Mạng thứ 17 (1836) cho thấy, diện tích ruộng đất Mạng cho tái thiết lại đơn vị hành chính, sáp nhập huyện tư ở huyện Phong Phú là 16754.2.7.0 xấp xỉ 8200,2 ha (đơn Phong Phú với một phần đất đai Ba Thắc lập thành huyện vị đo đạc hiện nay) chiếm 95,89% tổng diện tích ruộng đất Vĩnh Định thuộc phủ Ba Xuyên quản lý. Sau cuộc tổng đạc của huyện và chiếm khoảng 5,9% so với diện tích của thành điền và lập địa bạ trên toàn Nam Kỳ lục tỉnh năm 1836, huyện phố Cần Thơ hiện nay là 1.401,61 km2 [10]. So sánh với diện Vĩnh Định được giao về phủ Tân Thành quản lý, bao gồm 4 tích ruộng đất tư ở Nam Kỳ, ruộng đất tư ở huyện Phong Phú tổng: Định An, Định Bảo, Định Khánh và Định Thới. Năm có diện tích tương đối lớn, ví dụ như tổng Thanh Phong 1839, lấy đất trung tâm huyện Vĩnh Định kết hợp với đất bản (Định Tường) là 3931.6 mẫu, tổng Bình Trị Hạ (Gia Định) địa Ô Môn lập ra huyện Phong Phú gồm 3 tổng 19 thôn. là 1097.7 mẫu, tổng An Thủy Đông (Biên Hòa) là Căn cứ vào cách xác định tứ cận giáp giới và kết hợp 600.6 mẫu, tổng Bảo Ngãi (Vĩnh Long) là 1164.4 mẫu, tổng bản đồ [6, tr.143-153,167], huyện Phong Phú, tỉnh An An Thạnh (An Giang) là 642.9 mẫu, huyện Hà Châu Giang nửa đầu thế kỷ XIX nguyên là đất Trấn Giang được (Hà Tiên) là 580 mẫu… [4, tr.65]. Do đất đai ở đây được khai mở từ thế kỷ XVIII thời Mạc Thiên Tích. Diên cách khai phá từ thế kỷ XVIII, với điều kiện tự nhiên thuận lợi và huyện Phong Phú được xác định hữu ngạn sông Hậu, phía những chính sách khuyến khích khẩn hoang đã góp phần
  3. 50 Bùi Hoàng Tân, Võ Ngọc Hiển thúc đẩy quá trình tư hữu diễn ra mạnh mẽ. Định An Bảng 1. Thống kê diện tích ruộng đất huyện Phong Phú, Định Bảo 65,42% tỉnh An Giang năm Minh Mạng thứ 17 (1836) Định Thới Đơn vị tính: mẫu.sào.thước.tấc Tổng diện Công điền Tỉ lệ Tư điền Tư Tỉ lệ TT Tổng tích Công thổ % thổ % 24,67% 9,91% Định 1 1712.4.10.0 52.6.3.0 3,07 1659.8.7.0 96,93 An Định Hình 2. Biểu đồ thể hiện cơ cấu diện tích ruộng đất tư giữa các tổng 2 4186.3.14.0 53.0.1.0 1,27 4133.3.13.0 98,73 Bảo ở huyện Phong Phú, tỉnh An Giang năm Minh Mạng thứ 17 (1836) Định Tổng Định An với diện tích ruộng đất tư là 1659.8.7.0 3 11572.8. 5.0 611.8.3.0 5,29 10961.0.2.0 94,71 Thới xấp xỉ 812,3 ha chiếm 96,93% diện tích ruộng đất của tổng Tổng cộng 17471.6.14.0 717.4.7.0 4,11 16754.2.7.0 95,89 Định An. Đây là tổng có diện tích và tỉ lệ diện tích ruộng đất Nguồn: [2]. tư thấp nhất huyện, chỉ chiếm 9,91% tổng diện tích ruộng đất tư của huyện Phong Phú, do địa hình tổng Định An có Ruộng tư là loại ruộng thuộc quyền sở hữu tư nhân được điều kiện tự nhiên khá bất lợi với địa hình trũng thấp, nhiều xác lập sau khi đã được đo đạc và ghi nhận vào sổ địa bạ của cồn bãi ven sông nên rất khó để định cư và canh tác. Cư dân xã, thôn và chịu thuế theo hạng tư điền đã được quy định. sinh sống ở đây chủ yếu canh tác trên các giồng đất cao song Canh tác trên ruộng tư còn gọi là canh điền, ở huyện Phong họ vẫn sử dụng các nguồn lợi từ thiên nhiên là chủ yếu. Do Phú chủ yếu là canh sơn điền, tức là trồng lúa trên ruộng gò vậy, ruộng đất tư ở đây về cơ bản chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong cao. Canh thảo điền vẫn có, song chiếm diện tích rất nhỏ và tổng diện tích ruộng đất tư của huyện Phong Phú. Mặt khác, được phân bố ở thôn Đông Phú của tổng Định Bảo. do điều kiện khó khăn về tự nhiên nên sự can thiệp của triều Đất tư là loại đất đai thuộc quyền sở hữu của tư nhân Nguyễn ở khu vực này cũng khá mờ nhạt. được ghi nhận trong số địa bạ của xã, thôn và người canh Khi đó, tổng Định Thới với diện tích khoảng 10961 tác trên loại đất đai đó có nghĩa vụ nộp thuế theo hạng tư mẫu (xấp xỉ 5364,7 ha) chiếm 94,71% tổng diện tích ruộng thổ đã được nhà nước quy định. Canh tác trên đất tư ở đất toàn tổng và dẫn đầu về diện tích và tỉ lệ diện tích ruộng huyện Phong Phú còn gọi là canh viên, tức là canh tác trên đất tư ở huyện Phong Phú chiếm khoảng 65,42%. Nguyên đất vườn với cây ăn quả là chủ yếu. do tổng này có diện tích ruộng đất khá lớn, cùng với đó là Huyện Phong Phú có diện tích ruộng tư là 12731.4.11.0 hệ thống kênh rạch chằng chịt, đất phù sa màu mỡ thuận chiếm 72,87% và diện tích đất tư là 4022.7.11.0 chiếm lợi cho việc khai khẩn và canh tác nông nghiệp. Mặt khác, 23,02% tổng diện tích ruộng đất toàn huyện (Hình 1). tổng Định Thới được lập trên cơ sở sáp nhập các vùng đất DT ruộng tư vốn đã được khai khẩn từ các thế kỷ trước “nguyên trước DT đất tư là huyện Vĩnh Định và thổ Điểu Môn. Năm Minh Mạng thứ 72.87% DT ruộng đất khác 13 (1832), tách đặt thì tên huyện Vĩnh Định vẫn để như cũ, thuộc phủ Tân Thành thống hạt. Năm thứ 20 (1839) đổi tên 23.02% như ngày nay lại lấy thổ huyện Điểu Môn (tức tổng Định Thới) sáp nhập với huyện thuộc phủ Tuy Biên thống hạt” [8, tr.186]. Vì thế, chính sách công điền công thổ của nhà nước chưa thực sự can thiệp sâu ở nơi đây và diện tích 4.11% ruộng đất tư chiếm ưu thế hơn so với ruộng đất công. Hình 1. Biểu đồ thể hiện cơ cấu ruộng đất tư ở Riêng tổng Định Bảo có diện tích ruộng đất với khoảng huyện Phong Phú, tỉnh An Giang năm Minh Mạng thứ 17 (1836) 4133 mẫu (xấp xỉ 2023 ha) chiếm tỉ lệ rất cao 98,73% trong Qua biểu đồ cho thấy, diện tích ruộng tư chiếm tỉ lệ cao hơn tổng diện tích ruộng đất của tổng, song chỉ đạt tỉ lệ trung so với đất tư trong cơ cấu diện tích ruộng đất toàn huyện. Do bình 24,67% trong cơ cấu diện tích ruộng đất tư của toàn huyện Phong Phú nằm ở vị trí trung tâm của đồng bằng sông huyện. Bởi, đất đai ở đây vốn đã được Mạc Thiên Tích cho Cửu Long, được bao phủ bởi một hệ thống kênh rạch chằng chịt khai phá từ thế kỷ XVIII “cộng đồng dân cư ở đây từ ngày vừa là tuyến đường giao thông huyết mạch, vừa cung cấp nguồn xưa gồm một bộ phận là binh lính và gia đình của quân nước ngọt quanh năm thuận lợi cho việc trồng lúa. “Rạch Cần binh Hà Tiên, Rạch Giá theo chồng, theo cha về trú ngụ ở Thơ từ đầu vàm giáp sông Hậu (bến Ninh Kiều ngày nay) chảy Trấn Giang. Một bộ phận khác là những lưu dân từ miền tới Phong Điền (Cầu Nhiếm) cùng với rạch Bình Thủy từ bờ ngoài đi vào, từ miền Đông đi xuống và ở lại trên đất Trấn sông Hậu chảy vào Giai Xuân – Long Tuyền là thủy lộ có vai Giang” [9, tr.29]. Mặt khác, nơi đây còn là giao thoa giữa trò lịch sử quan yếu đối với công cuộc khai canh định cư của các nhánh sông lớn, do vậy đường sông trở thành mạch xứ Cần Thơ ngày trước” [9, tr.30-31]. Mặt khác, xã hội Phong giao thông thiết yếu. Cùng với đó là các làng xã ở tổng Phú phần lớn là người Việt, vốn đã quen với nghề làm ruộng, Định Bảo đã được hình thành trên các giồng đất trải dài do vậy, hầu hết đất đai khai khẩn họ canh tác lúa là chủ yếu. theo sông, rạch và sớm hội tụ nên các thị tứ, trung tâm Điều này góp phần lí giải nguyên do diện tích ruộng tư chiếm tỉ thương mại – văn hóa của một vùng từ cuối thế kỷ XVIII, lệ cao hơn so với diện tích đất tư ở huyện Phong Phú. sang thế kỷ XIX nơi đây đã trở thành lỵ sở chính của huyện Qua kết quả thống kê, diện tích và tỉ lệ diện tích ruộng Phong Phú “Chu vi 50 trượng rào bằng chông chà, ở địa đất tư ở 3 tổng của huyện Phong Phú như Hình 2. phận thôn Tân An. Trước kia là lỵ sở cũ của huyện Vĩnh
  4. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - VOL. 17, NO. 10.1, 2019 51 Định, nay là lỵ sở huyện này” [8, tr.193]. Vì thế, đất đai ở Riêng tổng Định Thới có 8463 mẫu ruộng tư (xấp xỉ tổng Định Bảo sớm được khai khẩn và thuộc về sở hữu tư 4142,4 ha) chiếm 66,48%, tỉ lệ lớn nhất trong cơ cấu diện nhân, ngược lại nhà nước chỉ có thể can thiệp vào những tích ruộng tư của huyện. Tổng có khoảng 2497.4.6.0 mẫu khu vực đất đai trũng thấp, đầm lầy hoặc nơi hoang vu mà đất tư (xấp xỉ 1222,3 ha) chiếm 62,08% tổng diện tích đất các cộng đồng dân cư không đủ sức khai phá, canh tác để tư của toàn huyện. Vùng đất Phong Phú nói chung và tổng thiết lập chế độ công điền công thổ vào nửa đầu thế kỷ XIX. Định Thới nói riêng phần lớn là cư dân người Việt “dấu Xem xét cụ thể diện tích từng loại ruộng và đất, nhận vết văn hóa truyền thống từ miền ngoài còn thể hiện rõ ở thấy có sự chênh lệch về tỉ lệ diện tích ruộng tư và đất tư Thường Thạnh, Phong Điền sau này như tục thờ Bà – Cậu giữa các tổng ở huyện được thể hiện ở Bảng 2: (Bà Thủy và Cậu Chai – Cậu Quí) tục thờ các chúa Trân, chúa Ngọc, nữ thần Thượng Động Cố Hỉ… Tại đình làng Bảng 2. Thống kê diện tích ruộng tư và đất tư ở huyện Phong Phú, tỉnh An Giang năm Minh Mạng thứ 17 (1836) Thới Bình có hai bài vị thờ Đồng Chinh Vương và Dực Đơn vị tính: mẫu.sào.thước.tấc Thánh Vương là hai hoàng tử con vua Lý Thái Tổ - vốn T Diện tích Tỉ lệ Diện tích Tỉ lệ được coi là ông tổ khai hoang của các cộng đồng di dân đi Tổng khẩn hoang ở vùng đất mới miền duyên hải Bắc Bộ và T ruộng tư % đất tư % 1 Định An 1131.6. 7.0 8,89 528.2. 0.0 13,13 Trung Bộ. Tại đình Bình Thủy có thờ Đại càn quốc gia Nam 2 Định Bảo 3136.2. 8.0 24,63 997.1. 5.0 24,79 hải tứ vị thánh nương nương gốc là thần ở cửa biển Cần 3 Định Thới 8463.5.11.0 66,48 2497.4. 6.0 62,08 Hải, Quỳnh Lưu (Nghệ An) để bảo vệ người đi biển” Tổng cộng 12731.4.11.0 100 4022.7.11. 0 100 [9, tr.29]. Do vậy, nghề nông là công việc chính yếu của họ, hơn nữa Định Thới còn là khu vực đất đai phì nhiêu, Nguồn: [2] màu mỡ dễ khai phá với diện tích khá rộng, điều này đã Sự chênh lệch trong cơ cấu diện tích ruộng đất tư giữa giúp cho họ đã phát huy sở trường canh tác lúa nước. Bên các tổng đã tạo nên sự chênh lệch tỉ lệ giữa diện tích ruộng cạnh đó, Định Thới còn là vùng đất được sáp nhập sau nên tư và đất tư. Qua bảng thống kê cho thấy, huyện Phong Phú đất đai còn hoang hóa rất nhiều vì thế về sau nhà nước buộc có tổng diện tích ruộng tư khoảng 12731 mẫu (xấp xỉ phải đẩy mạnh nhiều chính sách khuyến khích khẩn hoang 6231,2 ha) và tổng diện tích đất tư là 4022 mẫu (khoảng nhằm để gia tăng diện tích đất canh tác. Điều này đã góp 1968,9 ha). Trong đó: phần tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình khai khẩn và Tổng Định An có ruộng tư với diện tích khoảng 1131 canh tác của cư dân do đó ruộng tư ở tổng Định Thới có sự mẫu (xấp xỉ 553,8 ha) chiếm 8,89% tổng diện tích ruộng tư chênh lệch lớn so với diện tích đất tư. của huyện và khoảng 528 mẫu đất tư, xấp xỉ 258,5 ha, chiếm 2.2.3. Quy mô sở hữu 13,13% tổng diện tích đất tư toàn huyện. Do tổng Định An Tư điền ở huyện Phong Phú phân bố ở 17/17 thôn với phần lớn là địa hình trũng thấp, nhiều cồn bãi ven sông chiếm 100% và tư thổ tập trung ở 14/17 thôn, chiếm tương ứng với phần đất đai quận Cái Răng dọc theo tuyến 82,35% tổng số thôn của huyện. phía Nam sông Hậu hiện nay nên đất đai kém màu mỡ để Bảng 3. Thống kê số xã, thôn có ruộng đất tư ở canh tác vườn, phần lớn đất đai khai khẩn chủ yếu trồng lúa. huyện Phong Phú, tỉnh An Giang năm Minh Mạng thứ 17 (1836) Mặt khác, yếu tố không thuận lợi của điều kiện tự nhiên nơi Đơn vị tính: xã, thôn đây đã trở nên cản trở sự đầu tư của nhà nước trong việc khai khẩn, đất đai trong giai đoạn đầu. Phần lớn đất đai chủ yếu Tổng số Tư điền Tư thổ TT Tổng do các cư dân Khmer quen sống trên gò đất cao khai phá để xã, thôn Có (%) Có (%) làm ruộng. Vì thế, ruộng ở tổng Định An chiếm diện tích lớn 1 Định An 3 3 100 3 100 hơn so với đất trong cơ cấu sở hữu tư về ruộng đất. 2 Định Bảo 8 8 100 6 75 3 Định Thới 6 6 100 5 83,33 Diện tích ruộng tư của tổng Định Bảo khoảng 3136 Tổng cộng 17 17 100 14 82,35 mẫu, (xấp xỉ 1535 ha) chiếm tỉ lệ 24,63% tổng diện tích ruộng tư của huyện. Đất tư khoảng 997 mẫu (xấp xỉ 488 Nguồn: [2] ha) chiếm 24,79% tổng diện tích đất tư toàn huyện Phong Theo đó, diện tích ruộng đất tư được phân bố ở hầu hết Phú. Lịch sử khai phá vùng đất Trấn Giang thời Tổng trấn các tổng trong huyện Phong Phú. Tuy nhiên, có sự chênh Mạc Thiên Tích gắn liền với khu vực đất đai tổng Định Bảo lệch về quy mô sở hữu giữa diện tích ruộng và đất tư ở các nên phần lớn đất đai ở đây thuộc sở hữu tư “Ruộng đất do tổng, cụ thể là: ai khai khẩn thì được trọn quyền sở hữu, không phải nộp Tổng Định Bảo, ruộng tư được phân bố ở các thôn: Nhơn địa tô. Di chuyển chỗ ở không phải khai báo. Không phân Ái (798.9.14.0), Tân An (791.6.1.0), Tân Lợi (79.3.6.0), Tân biệt giàu nghèo, không phân biệt Việt – Khmer – Hoa” [9, Thạnh Đông (423.6.3.0), Thới Bình (260.1.10.0), Thường tr.365]. Mặt khác, tổng Định Bảo có vị trí trung tâm của Thạnh (529.6.13.0), Trường Thành (187.3.6.0), Trường huyện Phong Phú đồng thời còn là nơi giao nhau giữa các Thạnh (65.5.0.0), diện tích bình quân 392 mẫu/thôn. Riêng nhánh sông lớn nên đất đai rất màu mỡ. Hơn nữa việc đảm tư thổ tập trung ở 6 thôn: Nhơn Ái (271.2.4.0), Tân An bảo lương thực và nhu cầu trao đổi mua bán của huyện rất (257.8.3.0), Tân Thạnh Đông (169.9.13.0), Thới Bình quan trọng, vì thế phần lớn đất đai ở đây được sử dụng để (78.4.0.0), Thường Thạnh (190.7.3.0), Trường Thành trồng lúa cũng là điều tất yếu. Điều này cũng góp phần lý (28.9.12.0) và bình quân 124,6 mẫu/thôn. giải nguyên do ruộng tư chiếm diện tích lớn so với đất tư Khi đó, tư thổ ở tổng Định Thới chỉ tập trung ở 5 thôn: nơi đây. Do đó, tổng Định Bảo tuy là nơi đặt lỵ sở của Bình Thủy (1088.7.7.0), Tân Lộc Đông (255.6.11.0), Thới An huyện Phong Phú, song đất dân cư tập trung ở thôn Tân (945.9.3.0), Thới An Đông (120.4.10.0), Thới Hưng (86.6.5.0) An, đất đai ở các khu vực còn lại chủ yếu canh điền.
  5. 52 Bùi Hoàng Tân, Võ Ngọc Hiển chiếm 83,33% số thôn của tổng và bình quân diện tích là 416,2 can thiệp đối với những khu vực mà cư dân chưa đủ sức canh mẫu/thôn. Ngược lại, có 6/6 thôn có tư điền, chiếm 100% số thôn tác, do đó ruộng đất tư ở tổng Định Thới chiếm một diện tích của tổng và được phân bố đều ở các thôn: Bình Thủy đáng kể. Mặt khác, trong từng khu vực của huyện Phong Phú (1575.2.11.0), Phú Long (107.6.1.0), Tân Lộc Đông (1166.8.7.0), có điều kiện tự nhiên lẫn kinh tế - xã hội khác biệt. Chính vì Thới An (2866.5.9.0), Thới An Đông (1482.9.7.0), Thới Hưng thế, ruộng đất thuộc sở hữu tư ở huyện Phong Phú nửa đầu thế (1264.3.6.0), bình quân diện tích là 1410,5 mẫu/thôn. kỷ XIX không thể đồng đều trong quy mô và diện tích sở hữu. Riêng Ruộng đất tư ở tổng Định An phân bố ở cả 3 thôn: Với diện tích 16754/17471 mẫu ruộng đất tư, chiếm Đông Phú (764.6.14.0), Long Hưng (160.5.4.0), Phú Mỹ 95,89% tổng diện tích đất đai của huyện, trong khi ruộng đất Đông (206.4.4.0) chiếm 100% số thôn của tổng. Trong đó, công chỉ chiếm 4,11% với hơn 717 mẫu. Nếu so với các địa bình quân diện tích tư điền là 377 mẫu/thôn và bình quân diện phương khác thì ruộng đất tư ở Phong Phú chiếm tỉ lệ rất lớn. tích tư thổ là 176 mẫu/thôn. Cụ thể như: Châu Đốc chiếm tỉ lệ 91,91%, Kiến Đăng chiếm Nhìn chung, quy mô sở hữu ruộng đất tư còn nhỏ lẻ, xu tỉ lệ 91,42% (tỉnh Định Tường), Long Xuyên chiếm hướng tập trung vào tay các địa chủ chưa cao và phân bố không 92,80%... thấp hơn so với huyện Phong Phú (Bảng 4). đều giữa các tổng ở huyện Phong Phú. Điều đó phản ánh xã hội Bảng 4. So sánh tỉ lệ % diện tích ruộng đất tư ở huyện Phong Phong Phú chưa phân hóa giàu, nghèo sâu sắc như các khu vực Phú với một số địa phương Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XIX khác ở đồng bằng Nam Bộ. Riêng tổng Định Thới sự phân cực Đơn vị: mẫu.sào.thước.tấc giàu nghèo được thể hiện khá rõ nét so với hai tổng còn lại, địa Tổng Ruộng đất Diện Tỉ lệ chủ ở đây sở hữu lớn nhất khoảng 120 mẫu [2]. Về cơ bản, con TT Đơn vị diện tích tư tích (ha) % số này chưa thực sự lớn so với các địa phương khác, điển hình 1 Phong Phú 17471.6.14.0 16754.2.7.0 8200,2 95,89 là trường hợp ở “tổng Hòa Lạc (huyện Tân Hòa tỉnh Gia Định) 2 Châu Đốc 25295.2.9.0 23248.3.4.0 11378,6 91,91 có diện tích ruộng đất tư lớn nhất trong 10 tổng chọn làm thí 3 Sa Đéc 43874.9.5.1 42347.9.5.1 20726,7 96,52 điểm nghiên cứu (23402.5) thì tại tổng này 98,8%, diện tích 4 Kiến Đăng 66766.4.10.3 61035.1.9.1 29873,0 91,42 ruộng đất nằm trong tay lớp người khá giả, chỉ còn 1,1% ruộng 5 Long Xuyên 8527.3.4.0 7913.4.11.0 3873,1 92,80 đất tư thuộc về những người sở hữu nhỏ” [4, tr.139]. 6 Sóc Trăng 2238.6.1.0 2079.5. 5.0 1017,8 92,89 3. Kết quả nghiên cứu Nguồn: [3] 3.1. Ruộng đất tư ở huyện Phong Phú có sự chênh lệch Tỉ lệ này hoàn toàn phù hợp với tình hình chung của lớn trong phân phối sở hữu ruộng đất tư ở đồng bằng Nam Bộ. Bởi, vùng đất Phong Phú Ruộng đất tư ở huyện Phong Phú có sự chênh lệch lớn. vốn được khai phá từ thế kỷ XVIII nhờ công lao của tổng Cụ thể: trấn Mạc Thiên Tích, trước khi chuyển giao cho nhà Nguyễn quản lý thì vùng đất này đã có tên gọi và lỵ, sở rõ ràng. Về Tổng Định Thới có diện tích ruộng đất tư là 10961 mẫu cơ bản trong giai đoạn này, tư hữu về ruộng đất đã manh nha gấp 6,6 lần tổng Định An (1659 mẫu) và 1,2 lần tổng Định phát triển do những chính sách khuyến khích khẩn hoang của Bảo với khoảng 4133 mẫu. họ Mạc. Sang thế kỷ XIX, quá trình tư hữu hóa về ruộng đất Sự chênh lệch thể hiện trong cơ cấu diện tích sở hữu càng có điều kiện phát triển bởi, giai đoạn đầu của triều giữa ruộng tư và đất tư. Trong đó, với diện tích 12731 mẫu, Nguyễn, vua Gia Long chủ trương không thực hiện chính ruộng tư đã chiếm ưu thế và lớn hơn gấp 3,1 lần so với diện sách công điền công thổ ở Nam Kỳ. Đến thời vua Minh tích đất tư chỉ với 4022 mẫu ở huyện Phong Phú. Mạng thì vấn đề ruộng đất được siết chặt thông qua việc lập Sự chênh lệch này còn được thể hiện cụ thể trong từng địa bạ năm 1836. Tuy nhiên, đối với Nam Bộ nói chung và tổng: tổng Định Bảo có diện tích ruộng tư là 3136 mẫu nhỏ vùng đất huyện Phong Phú nói riêng thì chính sách này chưa hơn tổng Định thới 2,7 lần nhưng lớn hơn tổng Định An thực sự đạt hiệu quả trong khi ruộng đất tư đã phát triển và xấp xỉ 2,7 lần. Khi đó tổng Định Thới cách biệt tổng Định chiếm ưu thế. Điều đó càng chứng tỏ, ruộng đất tư ở huyện An với 7,5 lần về diện tích ruộng tư. Phong Phú ở nửa đầu thế kỷ XIX đang trên đà phát triển Bên cạnh đó, diện tích đất tư cũng có sự chênh lệch mạnh, đồng thời phản ánh chính sách công điền công thổ đáng kể: tổng Định Thới với 2497 mẫu trong khi tổng Định được thiết lập dưới ý chí chủ quan của nhà nước. An và Định Bảo chỉ có lần lượt 528 – 997 mẫu, sự chênh 3.2. Ruộng đất tư ở huyện Phong Phú có quy mô sở hữu lệch trong khoảng 4,7 lần. nhỏ lẻ và mức độ tập trung ruộng đất chưa cao Ngoài ra, sự chênh lệch còn thể hiện trong quy mô sở Qua nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn – An Giang xét thấy, hữu ruộng đất tư ở huyện Phong Phú. Theo đó, tư điền chiếm bình quân diện tích tư điền ở huyện Phong Phú lớn nhất chỉ 17/17 thôn cao hơn 1,2 lần so với tư thổ chỉ có 14/17 thôn. có 1410,5 mẫu/thôn và bình quân diện tích tư thổ lớn nhất là Sở dĩ có sự chênh lệch trong phân phối sở hữu ruộng đất tư 416,2 mẫu/thôn. Trong khi đó, so với các địa phương khác ở ở huyện Phong Phú vì lịch sử khai phá vùng đất này khá phức Nam Kỳ có những chủ đã sở hữu hơn nghìn mẫu như trường tạp. Trong đó, tổng Định An và Định Bảo là hai tổng được khai hợp địa chủ Mai Văn Lộc ở Tiền Giang có 1.106 mẫu ở thôn phá sớm đồng thời gắn liền với quá trình khai phá vùng đất Bình Ân, Lê Văn Hiệu sở hữu 2.278 mẫu ở thôn Bình Trấn Giang của Mạc Thiên Tích. Do vậy, phần lớn 2 tổng này Xuân… [5, tr.34]. Điều này cho thấy ruộng đất tư ở huyện chịu ảnh hưởng bởi nền kinh tế thương nghiệp của họ Mạc nên Phong Phú còn nhỏ lẻ, manh mún mà nguyên nhân chủ yếu việc khai khẩn đất đai chưa được quan tâm đúng mức. Riêng là do lịch sử khai phá và điều kiện kinh tế - xã hội ở nơi đây. tổng Định Thới do được sáp nhập sau cùng nên chính sách Mặt khác, lực lượng lao động ở Phong Phú chủ yếu là công điền công thổ vẫn còn hạn chế ở nơi đây, nhà nước chỉ những nhóm lưu dân và binh lính. “Cộng đồng dân cư ở đây
  6. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - VOL. 17, NO. 10.1, 2019 53 từ ngày xưa gồm một bộ phận là binh lính và gia đình của ổn định xã hội, do đó các vấn đề nhà ở, đất canh tác cần được quân binh Hà Tiên, Rạch Giá theo chồng, theo cha về trú giải quyết hài hòa lợi ích. Vấn đề đổi mới chính sách đất nông ngụ ở Trấn Giang. Một bộ phận khác là những lưu dân từ nghiệp theo hướng tăng quy mô đất canh tác nhằm tăng năng miền ngoài đi vào, từ miền Đông đi xuống và ở lại trên đất suất sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp Trấn Giang” [9, tr. 29] do vậy phần lớn họ không có vật lực đồng thời góp phần gia tăng vị thế của người nông dân Cần Thơ để đầu tư khai khẩn đất đai phải nhờ đến sự hỗ trợ của nhà nói riêng và dân tộc Việt Nam trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nước nên xu hướng tập trung ruộng đất vào tay các địa chủ hóa. Bên cạnh đó, chính sách đất đai cần chuyển sang cơ chế thị là rất hạn chế. Qua đó cũng phản ánh tình hình xã hội Phong trường với chủ trương giao đất sản xuất ổn định lâu dài cho hộ Phú chưa phân hóa sâu sắc như các địa phương khác ở Nam gia đình, cá nhân và cấp giấy chứng nhận; khuyến khích triển Kỳ với việc chưa hình thành mâu thuẫn giữa địa chủ và tá kinh tế trang trại hoặc xây dựng cánh đồng lớn. Ngoài ra, đất điền. Một khía cạnh khác, hầu hết ở các thôn của huyện nông nghiệp có thể phát huy hết tiềm năng trước hết cần phải Phong Phú đều có diện tích đất hoang nhàn và rừng tràm. cải cách thủ tục hành chính có giá trị thực tiễn, đảm bảo được Điều này chứng tỏ một số bộ phận quan lại của triều Nguyễn tính công bằng và thuận tiện nhất cho người dân, góp phần rút đánh giá chưa đúng về tình hình ruộng đất ở Nam Bộ nói ngắn thời gian giải quyết và tiết kiệm chi phí để nông dân có thể chung và huyện Phong Phú nói riêng. Vì nơi đây có quỹ đất vững tin đầu tư canh tác trên mảnh đất của mình. đai lớn, song dân cư còn thưa thớt nên diện tích đất đai còn Chính vì thế, việc nghiên cứu bài học lịch sử một cách hoang hóa rất nhiều. Vì thế, chắc chắn sẽ không có tình trạng thấu đáo sẽ dần xóa bỏ những hạn chế, yếu kém trong chính “Nam Kỳ chứa chất tệ hại đã lâu, cường hào cậy mạnh, bá sách quản lý đất đai, góp phần khai thác tiềm năng của đất chiếm, người nghèo không đất cắm dùi” [7, tr.915]. nông nghiệp một cách tối ưu nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư 3.3. Nghiên cứu tình hình tư hữu ruộng đất ở huyện và tăng cường khả năng huy động nguồn lực xã hội đóng góp Phong Phú, tỉnh An Giang nửa đầu thế kỷ XIX để lại bài vào sự phát triển của thành phố Cần Thơ trong tương lai. học thực tiễn về chính sách quản lý đất đai 4. Kết luận Từ kết quả khảo cứu lịch sử đã góp phần phản ánh quá trình tư hữu hóa về ruộng đất ở huyện Phong Phú đã diễn ra Qua nghiên cứu tình hình tư hữu đất đai ở huyện Phong mạnh mẽ lúc bấy giờ. Do vậy, khi triều Nguyễn cho thiết lập Phú, tỉnh An Giang nửa đầu thế kỷ XIX đã cho thấy diện chính sách ruộng đất công ở Nam Bộ đã ảnh hưởng đến xu tích sở hữu và quy mô tư hữu ruộng đất nơi đây có sự chênh hướng tư hóa ruộng đất nơi đây, điều này đã tác động lớn lệch rõ rệt, trong đó ruộng đất tư vẫn chiếm tỉ lệ lớn trong đến với xu thế phát triển kinh tế - xã hội ở Nam Bộ nói chung cơ cấu diện tích đất đai khai khẩn ở huyện Phong Phú. Điều và vùng đất Phong Phú nói riêng “Việc ra đời và ngày càng đó được thể hiện qua tình hình ruộng đất tư có sự phát triển được gia tăng của diện tích công điền công thổ ở đồng bằng mạnh và chiếm ưu thế so với ruộng đất thuộc sở hữu nhà Nam Bộ đã có tác động tiêu cực đến tiến trình phát triển kinh nước. Ở một khía cạnh khác, quy mô sở hữu tư đối với tế của đồng bằng Nam Bộ” [4, tr.212]. Do đó, trong quản lý ruộng đất ở huyện Phong Phú còn nhỏ lẻ, chưa có sự tập ruộng đất của triều Nguyễn, việc thực hiện chính sách công trung cao như các địa phương khác ở trung tâm đồng bằng điền công thổ đã tạo nên rào cản lớn đối với xu hướng tư hữu Nam Bộ, do chịu ảnh hưởng bởi lịch sử khai phá và đặc hóa đất đai ở huyện Phong Phú cũng như tiến trình phát triển điểm kinh tế - xã hội nơi đây. Việc nghiên cứu tình hình tư kinh tế nơi đây vào nửa đầu thế kỷ XIX. Lịch sử đã qua, song hữu ruộng đất tư ở huyện Phong Phú nửa đầu thế kỷ XIX bài học lịch sử về chính sách ruộng đất vẫn còn nguyên giá đã đúc kết nhiều bài học thực tiễn có ý nghĩa sâu sắc phục trị đối với việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã vụ yêu cầu cho nhiệm vụ nghiên cứu và hoạch định chính hội hiện đại, trong đó có chính sách quản lý đất đai ở thành sách quản lý đất đai ở thành phố Cần Thơ trong giai đoạn phố Cần Thơ ngày nay. hiện nay trong sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Cần Thơ ngày nay với vị trí là trung tâm chính trị, kinh TÀI LIỆU THAM KHẢO tế, văn hóa của đồng bằng sông Cửu Long là động lực thúc [1] Nguyễn Đình Đầu, Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Do đó, tiềm năng hoang lập ấp ở Nam Kỳ lục tỉnh, NXB Trẻ, 1992. tài chính từ vốn hóa nguồn đất đai của thành phố sẽ rất lớn [2] Nguyễn Đình Đầu, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn – An Giang (An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Sóc Trăng), NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1994. và tiếp tục tăng lên trong quá trình hiện đại hóa, đô thị hóa. [3] Nguyễn Đình Đầu, Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh, NXB Vì thế, trong chính sách quản lý và khai thác nguồn đất đai Thành phố Hồ Chí Minh, 1994. địa phương hiện nay, các cơ quan hữu quan không thể áp [4] Trần Thị Thu Lương, Chế độ sở hữu và canh tác ruộng đất ở Nam Bộ dụng mô hình quản lý cứng nhắc trong việc quy hoạch đất nửa đầu thế kỷ XIX, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1994. đai, thay vào đó nên áp dụng phương thức tiếp cận riêng về [5] Nguyễn Phúc Nghiệp (2013), “Một vài nhận xét về sở hữu tư điền tư thổ ở Nam Bộ nửa đầu thế kỉ XIX: trường hợp ở tỉnh Tiền Giang”, Tạp chí đất đai và giá trị đất được sử dụng như nguồn thu chính cho nghiên cứu Lịch sử, 8 (448), tr.31 – 36. ngân sách địa phương. Xây dựng cơ chế khai thác quỹ đất [6] Philippe Langlet, Quach Thanh Tam, Atlas Historique Des six Provinces của địa phương được hoạch định có tầm nhìn nhằm đem lại Du Sud Du Vietnam du milieu du XIXe au debut du XXe siècle, 2001. hiệu quả, khai thác tốt nội lực và tạo nguồn vốn ngân sách [7] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, bản dịch Viện Sử học, để đầu tư vào cơ sở hạ tầng đồng thời tạo được điều kiện tập 4, NXB Giáo dục, 2006. [8] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, bản dịch Viện Sử thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư đến, thông qua đó sẽ góp học, tập 5, NXB Thuận Hóa, 2006. phần phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội cho nhân dân. [9] Tỉnh ủy - Ủy ban nhân dân tỉnh Cần Thơ, Địa chí Cần Thơ, Cần Thơ, 2002. Mặt khác, sự phát triển kinh tế thị trường cần gắn kết với sự [10] Cổng thông tin điện tử Thành phố Cần Thơ https://www.cantho.gov.vn/ (BBT nhận bài: 20/6/2019, hoàn tất thủ tục phản biện: 10/10/2019)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2