TỰ TỬ Ở TRẺ VỊ THÀNH NIÊN TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TIỀN GIANG<br />
Tạ Văn Trầm*, Trần Thanh Hải*, Huỳnh Công Thanh*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Tự tử ở trẻ em vị thành niên (VTN) là một vấn đề sức khỏe quan trọng ở nhiều quốc gia trên thế giới.<br />
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm dịch tễ và các yếu tố thúc đẩy hành vi tự tử của trẻ VTN.<br />
Phương pháp nghiên cứu: hồi cứu cắt ngang mô tả.<br />
Kết quả: 120 trường hợp tự tử ở trẻ VTN được cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang trong 02 năm<br />
(từ tháng 01/2005 đến tháng 12/2006). - Tuổi trung bình: 17,2, nhóm tuổi 17 – 19 tuổi chiếm 82%; nữ 55%,<br />
nam 45%, 50% là học sinh. Phương tiện tự tử: 97,5% tự tử bằng hóa chất độc, trong đó thuốc trừ sâu chiếm<br />
35%, thuốc dưỡng cây 6,7%, thuốc chuột 9,7%, thuốc tân dược 35%... có 2,5% tự tử bằng cách tự gây thương<br />
tích. 50% tự tử vào buổi trưa và chiều, 33,3% tự tử vào buổi tối, 16,7% vào buổi sáng, 80% không báo cho gia<br />
đình hành vi tự tử của mình. - Yếu tố thúc đẩy: 67% mâu thuẫn với cha mẹ, 10% thất bại trong học tập, 66%<br />
trục trặc trong tình yêu, 5,8% mâu thuẫn với bạn bè, 1,5% biết mình bị HIV/AIDS, 6,6% sau khi uống rượu<br />
say, 2,5% uống quá liều thuốc động kinh. Qua nghiên cứu, tác giả đưa ra các kiến nghị thích hợp nhằm phòng<br />
chống hữu hiệu tình trạng tự tử ở trẻ em VTN.<br />
ABSTRACT<br />
<br />
STUDY ON ATTEMPTING SUICIDE STATUS AMONG ADOLESCENT PATIENTS<br />
AT TIENGIANG GENERAL HOSPITAL<br />
Ta Van Tram, Tran Thanh Hai, Huynh Cong Thanh<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 4 – 2008: 147 – 153<br />
Suicide among adolescent is considered as a burning health problem in every countries around the world.<br />
Objective: To decribe the epidemiological characteristics of attempting suicide factors poromoting<br />
attempting suicide among adolescent<br />
Method: retrospective descriptive study<br />
Results: Including 120 adolescents attempting suicide received emergenuy treatment at Tiengiang General<br />
Hospital in peroid of 2 years, from 2005 to 2006. The average age of the children was 17.2 years, group of 17 – 19<br />
years accounted for 82%; Female accounted 55%, male accounted 45%; 50% of them were pupils. Means for<br />
attempting suicide: 98% used poisonous chemicals, in which 41.5% used pesticides, 1.7% used rodenticides,<br />
6.7% used plant growth hormones, and 35% used medicines, 2.5% self – infliction, 8.3% herbicides. 50% of the<br />
cases occurred at noon and afternoon, 16.7% occurred in the morning and 33,3% occurred at night. Factors<br />
promoting the attempting suicides: 67% conflict with their parents, 10%failure in learn study, 1.5% fall ills,<br />
6.6% break – up with lovers, 5.8% conflict with friends. Appropriate measures are recommended by the author in<br />
this study for attempting suicide prevention among adolescents.<br />
lai1. Nhưng nếu sống trong một môi trường<br />
ĐẶT VẤNĐỀ<br />
không tích cực, như không được người lớn và<br />
Vị thành niên là những người trong độ tuổi<br />
bạn bè tin cậy, lo lắng thái quá về kết quả học<br />
10 – 19. Tuổi VTN là thời rạng đông của một đời<br />
tập, thất vọng trong tình yêu, hụt hẫng trong các<br />
người, là giai đoạn đẹp nhất của một cuộc đời.<br />
mối quan hệ hoặc xích mích với cha mẹ, bạn bè,<br />
Biết bao điều kỳ diệu đến với tuổi VTN và cũng<br />
hoặc tìm đến rượu, thuốc lá, ma túy... trẻ VTN<br />
có những băn khoăn, bối rối trước sự thay đổi về<br />
dễ bị tổn thương tâm lý. Các trẻ VTN có thể bất<br />
cơ thể và tâm sinh lý. Việc hiểu biết một cách<br />
chấp tất cả để được “sống như mình muốn” và<br />
đầy đủ về lứa tuổi VTN, các em sẽ có hành vi<br />
lúc đó, tai họa tự tử có thể xảy ra. Tự tử là một<br />
đúng để chủ động bảo vệ sức khỏe của mình<br />
vấn đề y tế quan trọng ở các nước trên thế giới(2).<br />
hôm nay và chuẩn bị tốt cho cuộc sống tương<br />
* Bệnh Viện Đa Khoa Tiền Giang<br />
<br />
Chuyên đề Nhi Khoa<br />
<br />
1<br />
<br />
Ở lứa tuổi VTN, tự tử là một trong những<br />
nguyên nhân hàng đầu gây tử vong. Tại Pháp,<br />
năm 1993, có 13.000 trường hợp trẻ VTN tử vong<br />
do tự tử. Những hành vi tự tử gây nguy hiểm<br />
cho nạn nhân và thường để lại nhiều di chứng<br />
trên cơ thể và tâm lý lâu dài(4,5). Ở nước ta hiện<br />
nay, tự tử ở trẻ VTN rất thường gặp trong đời<br />
sống xã hội, là nguyên nhân gây tử vong đáng<br />
tiếc và để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng về sức<br />
khỏe và tinh thần(7,8). Xuất phát từ thực tế đó,<br />
chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm mục tiêu<br />
tìm hiểu các đặc điểm dịch tễ của các trẻ VTN tự<br />
tử, một số yếu tố thúc đẩy hành vi tự tử của trẻ<br />
VTN. Qua đó, đề xuất một số biện pháp điều trị<br />
và ngăn ngừa tự tử ở trẻ VTN ở nước ta.<br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊNCỨU<br />
Thiết kế nghiên cứu<br />
Hồi cứu mô tả.<br />
<br />
- Dữ kiện được thu nhận vào biểu mẫu soạn<br />
sẵn và xử lý dữ kiện bằng chương trình Epi –<br />
Info 6.<br />
<br />
KẾT QUẢ<br />
Giới<br />
Nam: 54 (45 %); Nữ 66 (54%).<br />
<br />
Tuổi<br />
Bảng 1: Phân bố theo tuổi<br />
T l %<br />
4%<br />
14%<br />
82%<br />
<br />
Trẻ từ 17 – 19 tuổi tự tử nhiều, chiếm tỷ lệ 82%.<br />
<br />
Nghề nghiệp.<br />
<br />
S ca<br />
26<br />
47<br />
17<br />
11<br />
13<br />
6<br />
<br />
T l %<br />
21%<br />
40%<br />
14%<br />
9%<br />
11%<br />
5%<br />
<br />
Tình huống xung đột cấp<br />
Bảng 4: Yếu tố thúc đẩy<br />
Y u t thúc đ y<br />
- B cha m la r y<br />
- B đi m kém, lưu ban<br />
- Th t tình<br />
- Bu n b n bè, cãi nhau<br />
- Sau u ng rư u<br />
- Bi t mình nhi m HIV/AIDS<br />
- Đang đi u tr đ ng kinh<br />
<br />
S ca<br />
80%<br />
12<br />
8<br />
7<br />
8<br />
2<br />
3<br />
<br />
T l %<br />
67%<br />
10%<br />
6,6%<br />
5,8%<br />
6,6%<br />
1,5%<br />
2,5%<br />
<br />
Phương ti n t t<br />
1) Thu c:<br />
- An th n, thu c ng<br />
-C ms t<br />
- Kháng Histamin<br />
<br />
S ca<br />
<br />
T l %<br />
<br />
20<br />
11<br />
5<br />
<br />
16,5%<br />
9%<br />
4%<br />
<br />
- Kháng sinh<br />
- Khác<br />
2) Hóa ch t:<br />
* Thu c tr sâu<br />
- Phospho h u cơ<br />
<br />
2<br />
5<br />
<br />
1,5%<br />
4%<br />
<br />
39<br />
<br />
32,5%<br />
<br />
- Carbamat<br />
- Chlor h u cơ<br />
* Thu c di t c<br />
* Nư c r a b n c u<br />
*D uh a<br />
* Thu c dư ng cây<br />
* Thu c di t chu t<br />
3) T gây thương tích<br />
<br />
6<br />
5<br />
10<br />
2<br />
2<br />
8<br />
2<br />
3<br />
<br />
5%<br />
4%<br />
8,3%<br />
1,7%<br />
1,7%<br />
6,7%<br />
1,7%<br />
2,5%<br />
<br />
S ca<br />
117<br />
3<br />
0<br />
0<br />
<br />
T l %<br />
97,5%<br />
2,5%<br />
0<br />
0<br />
<br />
Cách tự tử<br />
Bảng 6: Cách tự tử<br />
<br />
Bảng 2: Nghề nghiệp.<br />
Ngh nghi p<br />
H c sinh<br />
Làm ru ng vư n<br />
N i tr<br />
Làm mư n<br />
Khác<br />
<br />
Đ a ch<br />
- M Tho<br />
- Châu Thành<br />
- Ch G o<br />
- Cai L y<br />
- Huy n khác<br />
- T nh khác<br />
<br />
Bảng 5: Phương tiện tự tử<br />
<br />
- Tất cả các trường hợp tự tử ở trẻ VTN được<br />
cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang trong<br />
2 năm, từ 01/01/2005 đến 31/12/2006.<br />
<br />
S ca<br />
5<br />
17<br />
98<br />
<br />
Bảng 3: Địa chỉ.<br />
<br />
Phương tiện tự tử<br />
<br />
Đối tượng nghiên cứu<br />
<br />
L a tu i<br />
10 – 13 tu i<br />
14 – 16 tu i<br />
17 – 19 tu i<br />
<br />
Địa chỉ<br />
<br />
S ca<br />
60<br />
24<br />
12<br />
14<br />
10<br />
<br />
Chuyên đề Nhi Khoa<br />
2<br />
<br />
T l %<br />
50%<br />
20%<br />
10%<br />
12%<br />
8%<br />
<br />
Cách t t<br />
- U ng<br />
- T gây thương tích<br />
- Tiêm chích<br />
- Khác<br />
<br />
Thời điểm tự tử<br />
<br />
dài với tác nhân là môi trường sống và nền giáo<br />
dục(1,2).<br />
<br />
Bảng 7: Thời điểm tự tử<br />
Th i đi m<br />
- Sáng (6 gi - 12 gi )<br />
- Trưa (12 gi - 16 gi )<br />
- Chi u (16 gi - 19 gi )<br />
- T i (19 gi - 6 gi )<br />
<br />
S ca<br />
20<br />
32<br />
28<br />
40<br />
<br />
T l %<br />
16,7%<br />
26,7%<br />
23,3%<br />
33,3%<br />
<br />
Địa điểm tự tử<br />
Bảng 8: Địa điểm<br />
Đ a đi m<br />
- T i nhà<br />
- Nơi hoang v ng<br />
<br />
S ca<br />
108<br />
12<br />
<br />
T l %<br />
90%<br />
10%<br />
<br />
Hành vi sau tự tử<br />
Bảng 9: Hành vi sau tự tử<br />
Hành vi<br />
S ca T l %<br />
- Không làm gì đ n khi gia đình phát hi n.<br />
94<br />
78%<br />
- Báo cho m i ngư i bi t.<br />
14<br />
12%<br />
- Xa lánh m i ngư i.<br />
12<br />
10%<br />
<br />
Hậu quả<br />
Bảng 10: Hậu quả<br />
H u qu<br />
- S ng<br />
- Ch t<br />
<br />
S ca<br />
111<br />
9<br />
<br />
T l %<br />
92,5%<br />
7,5%<br />
<br />
BÀNLUẬN<br />
Tuổi<br />
Trong độ tuổi VTN, còn chia ra làm 3 nhóm:<br />
từ 10 – 13 tuổi là giai đoạn đầu VTN, 14 – 16 tuổi<br />
là giai đoạn giữa VTN và 17 – 19 tuổi là giai<br />
đoạn cuối VTN. Trong nghiên cứu của chúng<br />
tôi, tự tử tăng dần theo tuổi, nhiều nhất là nhóm<br />
tuổi cuối VTN, 17 – 19 tuổi (82%). Kết quả này<br />
phù hợp với nghiên cứu của các tác giả khác trên<br />
thế giới và trong nước(5,7,8,9). Với tuổi 10 – 13 tuổi,<br />
quan niệm về tự tử của trẻ còn mơ hồ và không<br />
rõ ràng. Nguy cơ tăng dần khi trẻ ở tuổi giữa<br />
VTN; ý nghĩ và hành vi tự tử nhiều hơn do<br />
những biến đổi sâu sắc về tâm lý và thể chất.<br />
Nhóm tuổi tự tử nhiều nhất là nhóm tuổi cuối<br />
VTN. Ở nhóm tuổi này, nếu trẻ có nhân cách<br />
vững vàng, ổn định, thường ít có nguy cơ tự tử,<br />
và ngược lại, ở trẻ có nhân cách lệch lạc, yếu<br />
đuối, trầm cảm, thường dễ có nguy cơ tự tử hơn.<br />
Nhân cách được hình thành từ một quá trình lâu<br />
<br />
Chuyên đề Nhi Khoa<br />
<br />
Giới<br />
Trong nghiên cứu này, tỉ lệ nam/nữ là 1/1,22<br />
so với các tác giả khác, tỉ lệ nam/nữ trong<br />
khoảng 1/2 – 2/35,6,7. Các trẻ nữ VTN dễ có nguy<br />
cơ tự tử hơn, do các bé gái dậy thì sớm hơn,<br />
thường nhạy cảm với những thay đổi trong<br />
không khí của gia đình, dễ bị mặc cảm tủi phận,<br />
bị bỏ rơi và thường xuyên có cảm giác lo lắng,<br />
đặc biệt là các em hay bị lầm lẫn giữa tình yêu<br />
đích thực và tình bạn khác giới thân thiết. Khi đã<br />
nhận ra 2 loại tình cảm này, các VTN thường<br />
thất vọng và đau khổ, thường không kiềm chế<br />
được cảm xúc và sự đam mê, dễ dẫn đến những<br />
hậu quả đáng tiếc (quan hệ tình dục và có thai<br />
ngoài ý muốn) hoặc dễ bị lạm dụng tình dục.<br />
Điều này làm cho trẻ VTN nữ có ý định tự tử rất<br />
cao khi sự việc xảy ra(1,2).<br />
<br />
Nghề nghiệp<br />
Trong nghiên cứu của chúng tôi, mặc dù học<br />
sinh chiếm tỷ lệ cao nhất là 50%, nhưng điều này<br />
nói lên rằng chỉ có một nửa trẻ VTN tự tử là<br />
được học hành tử tế, còn lại các em vào đời quá<br />
sớm, có 42% trẻ VTN trong nhóm nghiên cứu<br />
nghỉ học ở nhà làm ruộng vườn, hoặc làm<br />
mướn, nội trợ và 8% là không làm gì cả. Hiện<br />
nay Nhà nước ta đang có những chính sách hỗ<br />
trợ đặc biệt, ưu tiên cho đào tạo nghề cho các<br />
em, để giúp các em không thi đậu tốt nghiệp<br />
phổ thông trung học hoặc không đậu vào các<br />
trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên<br />
nghiệp có điều kiện theo học văn hóa và học<br />
nghề tiếp tục, nhằm cung ứng cho xã hội lực<br />
lượng lao động đã qua đào tạo nghề dồi dào và<br />
hạn chế tình trạng trẻ VTN vào đời quá sớm với<br />
nhiều nguy cơ, cạm bẫy về các bạo lực tình dục,<br />
tệ nạn mãi dâm, ma túy dễ bị có thai ngoài ý<br />
muốn, nạo phái thai không an toàn... Tất cả sẽ để<br />
lại những hậu quả xấu về sức khỏe, tâm lý và xã<br />
hội và là yếu tố nguy cơ dễ dẫn đến hành vi tự<br />
tử ở các em VTN.<br />
<br />
3<br />
<br />
Địa chỉ<br />
Trẻ VTN tự tử ở rải rác khắp các huyện, thị,<br />
thành phố trong tỉnh và các tỉnh lân cận nhưng<br />
nổi trội nhất là ở các huyện Châu Thành, Chợ<br />
Gạo và Thành phố Mỹ Tho. Có thể do các nơi<br />
này nằm ở gần Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang,<br />
thuận lợi cho việc chuyển viện, ngoài ra, ở 2<br />
huyện Châu Thành và Chợ Gạo, đa số người<br />
dân là sống bằng nghề nông, ít có thời gian quan<br />
tâm, chăm sóc đúng mức cho trẻ nhằm phát hiện<br />
những vấn đề tâm lý của trẻ để giúp đỡ kịp thời.<br />
<br />
Yếu tố thúc đẩy<br />
Nguyên nhân thường gặp nhất là do bất hòa<br />
trong gia đình, bị cha mẹ la mắng (67%). Do tuổi<br />
các em đang lớn, có những biến đổi sâu sắc về<br />
thể chất và tâm lý nhưng chưa hoàn chỉnh. Do<br />
vậy, quan hệ gia đình có vai trò to lớn trong việc<br />
tạo nên cho trẻ những định hướng giá trị đúng<br />
với chuẩn mực xã hội. Bất hòa trong gia đình tạo<br />
nên tính cách bi quan, chán nản, dễ bực tức,<br />
nóng nảy, bất cần. Những tình huống xung đột<br />
xảy ra như bị cha mẹ la mắng, anh em cãi nhau,<br />
bị đánh đòn, bị trừng phạt trước mặt mọi người,<br />
bị rầy oan, bị trách móc khi trẻ đi chơi về<br />
khuya... tức tối vì sự bất công của cha mẹ, sự bất<br />
hòa với người thân, trẻ VTN dễ dàng tự tử. Về<br />
phương diện xã hội, khi có những hành động<br />
thiếu kiềm chế, trẻ không chỉ chống lại bản thân<br />
mình thông qua việc làm tổn thương mình mà<br />
còn chống lại cha mẹ, chống lại cộng đồng nên<br />
trẻ VTN có những hành vi sai lệch là nạn nhân<br />
của chính mình và là những nạn nhân của thiếu<br />
sót, những diễn biến không tích cực của xã hội,<br />
đặc biệt là các thiếu sót của gia đình. Do vậy,<br />
việc tìm cách hạn chế những hành vi nông nổi và<br />
đầy nguy cơ bất thường này không phải chỉ là<br />
việc giúp trẻ VTN có kỹ năng sống thích hợp,<br />
giúp các em biết cách làm chủ cảm xúc mà còn<br />
trách nhiệm của người lớn nói chung. Bên cạnh<br />
nguyên nhân bất hòa trong gia đình, bị cha mẹ<br />
rầy la, thì các yếu tố thất bại trong học tập như bị<br />
điểm kém, bị thi rớt, bị lưu ban cũng là yếu tố<br />
dẫn các em đến tự tử. Trong nghiên cứu của<br />
<br />
Chuyên đề Nhi Khoa<br />
4<br />
<br />
chúng tôi, cũng gặp 33 % các trường hợp trẻ tự<br />
tử là do kích động mạnh sau uống rượu kèm với<br />
những bế tắc trong cuộc sống trước đó, hoặc do<br />
thất tình, đổ vỡ trong tình cảm bạn bè, trong tình<br />
yêu chưa chín chắn, hoặc cãi nhau với bạn bè...<br />
Có 2 trường hợp sau khi biết mình bị nhiễm<br />
HIV/AIDS, các em không vượt qua nỗi đau khổ<br />
và đã uống thuốc tự tử.<br />
Nhân cách của trẻ VTN được hình thành từ<br />
một quá trình lâu dài với tác nhân là môi trường<br />
và nền giáo dục. Trong gia đình, trẻ chịu ảnh<br />
hưởng rất nhiều từ cha mẹ, còn trong xã hội, trẻ<br />
chịu ảnh hưởng nhiều từ thầy cô giáo, bạn bè,<br />
hàng xóm... Các mâu thuẫn do cha mẹ quá khắt<br />
khe, thường hay la mắng khiến trẻ hiểu lầm là<br />
cha mẹ không thương, ghét bỏ hoặc cha mẹ đặt<br />
quá nhiều kỳ vọng vào trẻ mà không quan tâm<br />
xem trẻ có khả năng đạt được hay không, hoặc<br />
trẻ đòi hỏi điều gì mà không được cha mẹ đáp<br />
ứng. Gia đình là nơi định hướng nhân cách, là sự<br />
hình thành các yếu tố tâm lý của trẻ. Vì vậy, khi<br />
nghiên cứu các nguyên nhân tâm lý tự sát ở tuổi<br />
VTN thường là do mâu thuẫn giữa các em với<br />
gia đình, nhất là cha mẹ của trẻ.<br />
Do vậy, việc giáo dục tính tự lập cho trẻ<br />
ngay từ nhỏ giúp các em có thể tự mình chống<br />
đỡ với các yếu tố nguy cơ stress và vượt qua<br />
khó khăn tâm lý của chính mình. Sự xuất hiện<br />
đúng lúc của cha mẹ, các thầy cô giáo, của tổ<br />
chức đoàn thể, của bạn bè giúp các em giải<br />
quyết các khó khăn về tâm lý, giúp cho các em<br />
tự mình đứng dậy hoặc tìm người tâm sự.<br />
Trong các trường học rất cần có một phòng tư<br />
vấn tâm lý học đường, trong các tổ chức Đoàn,<br />
Hội cũng có trung tâm tư vấn trẻ VTN, thường<br />
xuyên và đúng lúc giúp các em giải tỏa những<br />
áp lực tâm lý.<br />
Trong nghiên cứu của Nguyễn Lê Tuấn<br />
Anh(9), cũng ghi nhận 87,8% trẻ em từ 10 – 15<br />
tuổi tự tử là do những xung đột gia đình, trong<br />
nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Thoa6 về ngộ<br />
độc do ý định tự tử ở trẻ em, 68% là do bất hòa<br />
trong gia đình và bị la rầy.<br />
<br />
Phương tiện trẻ dùng tự tử<br />
Nghiên cứu cho thấy 97,5% các trường hợp<br />
tự tử bằng đường uống hóa chất hoặc thuốc,<br />
2,5% các trường hợp là tự gây thương tích cho cơ<br />
thể. Các trẻ sống ở các huyện, xã ven thành phố<br />
có huynh hướng sử dụng hóa chất, đặc biệt hóa<br />
chất bảo vệ thực vật làm phương tiện để tự tử.<br />
Đa số dân ở vùng này đều sống bằng nghề nông,<br />
hay trồng trọt, chăn nuôi, thường xuyên sử dụng<br />
các hóa chất thuốc trừ sâu, các loại thuốc diệt cỏ,<br />
diệt côn trùng, hoặc các hóa chất trị các bệnh cho<br />
cây. Các hóa chất này thường có sẵn trong nhà,<br />
trẻ dễ tiếp cận và dùng để tự tử. Các hóa chất trẻ<br />
thường sử dụng là thuốc trừ sâu rầy<br />
(Endosulfan, Thasodant, Basa, Bassan...), các loại<br />
thuốc diệt cỏ (Paraquat, Chlo hữu cơ, 2, 4 – D,<br />
Glyphosate), thuốc dưỡng cây... có trường hợp<br />
tự tử bằng thuốc diệt côn trùng, dầu hỏa, thuốc<br />
rửa bồn cầu...<br />
Các trẻ VTN sống ở thành phố, thị xã, ít có<br />
cơ hội tiếp xúc với các loại hóa chất nông nghiệp,<br />
do đó, chúng thường dùng các loại thuốc (chiếm<br />
35%) có sẵn trong các tủ thuốc gia đình. Thường<br />
nhất là các loại thuốc hướng tâm thần (Seduxen,<br />
Rotunda, aminazin), kế đến là các loại thuốc<br />
giảm đau – hạ nhiệt (Paracetamol, Decolgen,<br />
Aspirine, Panadol...) và một số loại thuốc thông<br />
thường khác trong gia đình.<br />
Có 3 trường hợp, các trẻ tự tử bằng cách tự<br />
gây thương tích cho cơ thể. Các em đã dùng dao<br />
đâm vào bụng sau khi bị la rầy và uống rượu.<br />
Có 3 trường hợp đều không gây thương tích<br />
nặng cho cơ thể và được cứu sống.<br />
<br />
Thời điểm tự tử<br />
Trong nghiên cứu này, thời điểm trẻ tự tử rải<br />
rác trong ngày. Điều này cho thấy trẻ không có<br />
khuynh hướng lựa chọn thời điểm tự tử, có thể<br />
trẻ thực hiện hành vi ngay sau những xung đột<br />
xuất hiện cấp thời. Tỷ lệ trẻ tự tử ở thời điểm tối<br />
từ 19 giờ đến 6 giờ sáng nhiều hơn (33,3%) trùng<br />
với thời điểm bị cha mẹ la rầy, la mắng sau một<br />
ngày làm việc căng thẳng và mệt nhọc.<br />
<br />
Chuyên đề Nhi Khoa<br />
<br />
Chính những xung đột này, kết hợp với ý<br />
tưởng tự tử đã có sẵn ở trẻ trong một thời gian<br />
dài có thể dẫn đến hành vi tự tử. Tự tử trong<br />
thời điểm sum họp gia đình, có cơ hội gặp<br />
nhau giữa các thành viên trong gia đình là đặc<br />
điểm của tự tử ở trẻ VTN. Khác với người lớn,<br />
tự tử ít xảy ra vào ngày nghỉ, giờ nghỉ, do<br />
những thời điểm này, ít gây chấn thương tâm<br />
lý cho người lớn hơn là các thời điềm làm việc<br />
căng thẳng ở cơ quan(3,6).<br />
<br />
Địa điểm tự tử<br />
90% trẻ VTN tự tử nơi dễ phát hiện,<br />
thường là tại nhà. Chỉ có 10% trẻ VTN tự tử<br />
nới vắng người. Một nghiên cứu của<br />
Granboulan V3, 80% trẻ tự tử tại nhà, nguyên<br />
cứu của Nguyễn Lê Anh Tuấn(7), cũng có kết<br />
quả 97,6% trẻ tự tử tại nhà.<br />
<br />
Điều này cho thấy trẻ không có ý lựa<br />
chọn địa điểm để thực hiện hành vi tự tử.<br />
Có thể là do trong độ tuổi VTN, môi trường<br />
mà trẻ tiếp xúc và gắn bó nhất là tại nhà,<br />
cũng có thể trẻ muốn tự tử tại nhà để phản<br />
kháng, để chống cự, trả thù lại những xung<br />
đột với cha mẹ mà trẻ luôn cảm thấy mình<br />
bị thiệt thòi, bị rầy oan, và đây cũng là nói<br />
lên một điều là trẻ tự tử là do những phản<br />
ứng quá mức nhất thời khiến trẻ thực hiện<br />
hành vi tự tử. Biết được điều này, các bậc<br />
cha mẹ, các nhà tư vấn tâm lý trẻ VTN cần<br />
quan tâm đến diễn biến tâm lý, hành vi của<br />
các em để kịp thời “hạ hỏa” nếu có điều gì<br />
bất ổn; là một hình thức thông thường để<br />
giúp các em vượt qua khó khăn, giúp các em<br />
giải tỏa mình bằng cách không nghĩ đến<br />
chuyện ấy, hoặc đối mặt mọi chuyện bằng<br />
cách viết ra nhật ký, khóc một trận cho thỏa<br />
lòng...<br />
Hành vi sau tự tử<br />
Sau tự tử, 78 % trẻ không làm gì, cho đến khi<br />
có triệu chứng thì người nhà phát hiện, chỉ có<br />
12% báo cho người nhà, bạn bè biết mình đã<br />
thực hiện hành vi tự tử, và 10 % các trường hợp<br />
<br />
5<br />
<br />