TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 22 (47) - Thaùng 11/2016<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Tư tưởng của Huỳnh Thúc Kháng về đổi mới giáo dục ở<br />
Việt Nam đầu thế kỷ XX<br />
Huynh Thuc Khang’s ideas of educational innovation in Vietnam during the early<br />
twentieth century<br />
<br />
NCS. Nguyễn Hữu Sơn<br />
Học viện Khoa học Xã hội<br />
<br />
Nguyen Huu Son, Ph.D. student.<br />
Graduate Academy of Social Sciences<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Bài viết trình bày những quan điểm của Huỳnh Thúc Kháng về đổi mới nền giáo dục Việt Nam vào đầu<br />
thế kỷ XX trong bối cảnh xã hội Việt Nam có nhiều biến động, đan xen giữa các yếu tố thủ cựu và cách<br />
tân, giữa cựu học với tân học… Đó là những quan điểm về mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục và<br />
phương pháp giáo dục với tư cách cốt lõi, cơ bản của một nền giáo dục hiện đại mà xã hội Việt Nam cần<br />
phải thay đổi. Từ đó, rút ra giá trị và ý nghĩa nhân văn sâu sắc trong tư tưởng giáo dục của Huỳnh Thúc<br />
Kháng đối với đường lối đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay.<br />
Từ khóa: quan điểm, quan điểm của Huỳnh Thúc Kháng, quan điểm đổi mới giáo dục.<br />
Abstract<br />
This paper presents Huynh Thuc Khang’s ideas on educational innovation in the context of Vietnamese<br />
society during the early twentieth century, which changed rapidly and contained mixtures of conflicting<br />
elements such as Confucian and Western educational philosophies, traditional and modern ethical<br />
values. Huynh Thuc Khang believed that Vietnam needed new education with new objectives, new<br />
content, and new methods, focusing on building up core abilities and values for modern people. By<br />
pointing out humanistic values of Huynh Thuc Khang’s thoughts on education, the article provides<br />
experiences for the comprehensive educational innovation in Vietnam today.<br />
Keywords: ideas, ideas of Huynh Thuc Khang, ideas about educational innovation.<br />
<br />
<br />
<br />
Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947), sinh dạy học, tìm đọc nhiều sách báo có nội dung<br />
tại làng Thạnh Bình, tổng Tiên Giang tư tưởng mới, nuôi ý chí canh tân đất nước.<br />
Thượng, huyện Hà Đông, phủ Thăng Bình Sau này ông trở thành Bộ trưởng Bộ Nội vụ<br />
(nay là thôn Thạnh Bình, xã Tiên Cảnh, trong Chính phủ cách mạng liên hiệp, rồi<br />
huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam). Ông Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ<br />
nổi tiếng thông minh, học giỏi, đỗ đầu kỳ thi Cộng hòa khi Chủ tịch Hồ Chí Minh lên<br />
Hương năm 1900 và đến năm 1904 đỗ Tiến đường đi thăm nước Pháp năm 1946.<br />
sĩ kỳ thi Hội. Ông không ra làm quan mà đi Quá trình hình thành tư tưởng của<br />
<br />
89<br />
Huỳnh Thúc Kháng về đổi mới giáo dục dân tộc bằng sự tự lực, tự cường.<br />
theo khuynh hướng dân chủ tư sản chịu Ngay từ khi còn nhỏ, Huỳnh Thúc<br />
ảnh hưởng từ nhiều nguồn, đặc biệt là tư Kháng đã thẫm đẫm tinh thần, cốt cách<br />
tưởng Canh Tân ở thế kỷ XIX và các Tân người “quân tử”qua quá trình tích lũy nền<br />
thư, cùng những thành tựu của văn minh giáo dục Nho giáo phong kiến lâu đời của<br />
phương Tây truyền bá vào Việt Nam đầu gia tộc, dòng họ. Với kết quả đỗ Đình Tam<br />
thế kỷ XX. Giáp, đồng Tiến sĩ khi 28 tuổi (1904), thỏa<br />
1. Những điều kiện, tiền đề lý luận được nguyện vọng của gia đình (học hành,<br />
hình thành tư tưởng của Huỳnh Thúc Kháng thi cử, đỗ đạt) nhưng tự trong tư tưởng của<br />
về đổi mới giáo dục ông đã có những chí hướng đổi khác: “Lâu<br />
Về điều kiện lịch sử, đầu thế kỷ XX nay chí kỳ vọng của gia nghiêm cốt ở thi<br />
nền giáo dục Nho giáo phong kiến ở Việt đỗ đại khoa, nay thế là đạt mục đích, còn<br />
Nam từng bước suy tàn và đánh dấu sự việc làm quan chẳng phải là điều mong<br />
chấm dứt bằng kỳ thi cuối cùng do triều muốn. Vì thế, sau khi đỗ Tiến sĩ, liền cáo<br />
Nguyễn tổ chức vào năm 1919. Mặt khác, bệnh ở nhà làm điếu ông” [Chương Thâu –<br />
sự du nhập phương thức sản xuất tư bản Phạm Ngô Minh, 2010: 1455]. Bởi vì<br />
chủ nghĩa vào Việt Nam theo cùng bước trong những năm trưởng thành học hành đỗ<br />
chân xâm lược của thực dân Pháp nhằm đạt thì cũng là những năm Huỳnh Thúc<br />
thay thế cho một nền sản xuất lạc hậu với Kháng tận mắt chứng kiến cảnh nước mất<br />
phương thức sản xuất phong kiến thô sơ, tự nhà tan, triều đình quy hàng thực dân Pháp<br />
cung tự tiêu “khép kín” đã tồn tại hàng xâm lược, người người nhà nhà ly tán bởi<br />
ngàn năm. Sự thay đổi nền sản xuất xã hội loạn lạc, còn sĩ phu trung nghĩa theo Chiếu<br />
là một tất yếu của lịch sử, phương thức sản Cần Vương chống giặc. Tuy phong trào<br />
xuất tư bản chủ nghĩa làm thay đổi toàn bộ Cần Vương thất bại nhưng đã để lại những<br />
các quan hệ kinh tế - xã hội Việt Nam dấu ấn sâu sắc không thể nào quên trong<br />
truyền thống trong đó có vấn đề về giáo tâm trí của ông. Lần đầu tiên Huỳnh Thúc<br />
dục. Giáo dục Việt Nam đứng trước những Kháng đã phê phán giới trí thức Nho học<br />
đòi hỏi bắt buộc phải đổi mới, xóa bỏ nền trước những đổi thay của thế giới: “Chiến<br />
giáo dục Hán học bảo thủ, lạc hậu, giáo tranh Trung Nhật vang động thế giới, thế<br />
điều sang một nền giáo dục hiện đại và mà sĩ phu trong nước chôn đầu vào khoa<br />
thực dụng (nghĩa là giáo dục phải làm sao cử, ôm quyển ống, lều, chiếu, xem bảng<br />
đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã vào trường, chen lấn náo nhiệt chẳng biết<br />
hội, nhất là người học sau quá trình đào tạo thế giới có việc gì, rõ kỳ quái!”. Không chỉ<br />
thì phải thực hành và ứng dụng tri thức, kỹ giới sĩ phu mà cho đến quan lại triều đình<br />
năng vào trong thực tiễn). Huỳnh Thúc cũng với thái độ bạc nhược khi: “Tôi cùng<br />
Kháng là một trong những nhà Nho yêu các bạn thí sinh ngụ tại Kinh đô hơn cả<br />
nước đi tiên phong trong công cuộc đổi tháng, có yết kiến một vài quan lớn cùng<br />
mới tư duy với nguyện vọng xây dựng một nhà trưởng giả, nhưng thỉ chung chẳng<br />
xã hội mới, nâng cao hiểu biết cho quần nghe đề cập đến hiện trạng Trung Nhật, đủ<br />
chúng nhân dân, từng bước tiến tới thoát thấy cảnh bế tắc quá sức cũng là một việc<br />
khỏi sự lệ thuộc và sự áp bức của thực dân kỳ” [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh,<br />
xâm lược, khôi phục lại nền độc lập của 2010: 1452]. Tuy nhiên, điều đó không có<br />
<br />
90<br />
nghĩa là tư tưởng của Huỳnh Thúc Kháng Phạm Ngô Minh, 2010: 1505]. Huỳnh Thúc<br />
hoàn toàn đi theo cái bảo thủ của tinh thần Kháng đã tiếp nhận tư tưởng canh tân một<br />
“trung quân ái quốc” mà bước đầu đã có cách tự nhiên theo dòng chảy của lịch sử,<br />
những suy nghĩ mới về thời cuộc, về thời từng bước chuyển đổi nhận thức của mình<br />
đại mới trong mối liên hệ Việt Nam với từ lối tư duy bảo thủ theo ý thức hệ phong<br />
khu vực và thế giới. kiến Nho giáo sang lối tư duy năng động,<br />
Về tiền đề lý luận, bên cạnh những ảnh tích cực đổi mới trước những thay đổi của<br />
hưởng, tác động của hoàn cảnh lịch sử xã thời đại: “Canh tân là một cái sự thực trong<br />
hội, tư tưởng của Huỳnh Thúc Kháng về lịch sử loài người về đường tấn bộ, không<br />
đổi mới giáo dục xuất phát trên cơ sở tiếp ngả nào tránh khỏi, song lúc phát sanh ra,<br />
thu những tư tưởng canh tân của các nhà thường thường bởi thời thế yêu cầu một<br />
Nho yêu nước đi trước ở thế kỷ XIX cùng cách cần thiết,… chính là cái cớ còn mất<br />
với quan điểm canh tân trong các tân thư sống chết của một quốc gia một dân tộc, mà<br />
được truyền bá từ các quốc gia lân bang không phải là điều ngẫu nhiên có cũng<br />
như Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan… được mà không cũng được,…” [Chương<br />
Đặc biệt, sau khi Việt Nam đã trở thành Thâu - Phạm Ngô Minh, 2010: 314].<br />
thuộc địa nửa phong kiến của Pháp, sự du Song song với tư tưởng canh tân của<br />
nhập làn sóng văn minh phương Tây thông những nhà tư tưởng yêu nước Việt Nam đi<br />
qua các giao lưu thương mại đã buộc xã trước là sự truyền bá của tân thư vào Việt<br />
hội Việt Nam có những thay đổi. Điều này Nam vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.<br />
góp phần vào năng lực tiếp thu “tự giác”, Tân thư là những tài liệu, sách vở của<br />
chủ động của Huỳnh Thúc Kháng. Tất cả nhiều tác giả như Khang Hữu Vi, Lương<br />
tạo thành động lực thôi thúc ông có những Khải Siêu, Đàm Tự Đồng, Nghiêm Phục,<br />
chuyển biến đổi mới về nhận thức và hành Tôn Trung Sơn, v.v.. từ sự thành công của<br />
động nhằm canh tân nền giáo dục đất nước: công cuộc cải cách ở một số quốc gia Châu<br />
Trước hết là, tư tưởng Canh Tân Việt Á như Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc do<br />
Nam thế kỷ XIX chủ yếu từ các nhà Nho giới trí thức yêu nước khởi xướng tiếp thu<br />
không phải là tầng lớp quan lại của triều những tư tưởng tiến bộ và thành tựu văn<br />
đình. Trong đó, trước những thay đổi của minh của tư bản phương Tây. Nội dung tân<br />
tình thế đất nước và thế giới, Nguyễn Lộ thư đề cập tới yêu cầu phải cải cách thể chế<br />
Trạch là người có tư tưởng đổi mới đất chính trị, đổi mới tổ chức hoạt động kinh<br />
nước nhiều mặt được Huỳnh Thúc Kháng tế, giáo dục, văn hóa, xã hội, v.v.. theo<br />
quan tâm nhất. Ông đã nhận thấy được ở đường lối như các nước tư bản phương Tây<br />
trong tư tưởng canh tân của Nguyễn Lộ nhằm mục đích đổi mới tư duy, tự lực, tự<br />
Trạch một sự nhạy bén với thời cuộc: “cái cường bảo vệ nền độc lập và tạo ra sự phát<br />
lòng lo đời và cái khí ngạo đời”, nhưng triển mới. Người ta bắt đầu được nghe nói<br />
cũng rất buồn và thở than cho số phận sự tới lối học mới, và làm quen dần với khoa<br />
nghiệp tư tưởng của Nguyễn Lộ Trạch: học - kỹ thuật của phương Tây. Điều này<br />
“Con nhà quan ở đất Huế, học thức như đã làm cho Huỳnh Thúc Kháng bắt đầu có<br />
ông mà thủy chung ôm lòng nhiệt thành những biến chuyển tư tưởng, tiếp thu văn<br />
đến chết, cái tội chung của xã hội hủ bại ta hóa mới của khu vực và phương Tây, mở<br />
không sao tránh được” [Chương Thâu - ra một thời kỳ mới trong tư tưởng của ông:<br />
<br />
91<br />
“…như trong buồng tối bỗng chợt thấy tia điểm đổi mới giáo dục sau đó của Huỳnh<br />
ánh sáng lọt vào, những học thuyết mới Thúc Kháng bằng cách: “mang theo một<br />
“cạnh tranh sinh tồn”, “nhân quyền tự do”, quyển Pháp – Việt từ điển của Trương<br />
gần chiếm cả cái chủ tịch môn học khoa cử Vĩnh Ký, một quyển Lecture language, và<br />
ngày trước, mà một tiếng sét nổ đùng, có một quyển mẹo (Grammaire)… mỗi giờ<br />
sức kích thích mạnh nhất, thấu vào tâm não làm việc xong, vào khám thì học chữ Tây...<br />
người Việt Nam ta là “trận chiến tranh cùng nhau nghiên cứu, có hiểu biết Pháp<br />
1904” (Nhật Bản thắng Nga)” [Huỳnh văn nhiều ít” và dù chỉ tạm dừng ở chỗ<br />
Thúc Kháng, 2000: 107]. Huỳnh Thúc “đọc sách hiểu nghĩa, đặt câu và phiên<br />
Kháng đã thay đổi cách nghĩ, cách nhìn và dịch, biết được đại khái” nhưng cũng đủ<br />
hành động thực tiễn (1906): “…cùng các cho thấy tinh thần canh tân tiếp cận tư<br />
thân hào bằng hữu đề xướng chung vốn lập tưởng mới của phương Tây. Ông tiếp thu<br />
thương cuộc tại Phố (Hội An - Faifoo) lối làm việc của Tây khi được đưa từ<br />
cùng lập trường học, hội nông, trồng quế… buồng giam tù chính trị lên giúp việc<br />
Tùy theo phong khí biến đổi trong nước, phòng giấy Tham biện (Directeur): “…lúc<br />
nào ăn mặc theo Âu Tây, cúp tóc, náo nhiệt mới vào không hiểu gì cả. Nhưng dần dần<br />
một thời” – điều này làm cho “bọn thủ cựu rồi tìm ra mối manh, thấy rõ người Tây về<br />
ngó nghiêng cặp mắt” [Chương Thâu – mặt sổ sách, biên chép, số mục thứ lớp, cái<br />
Phạm Ngô Minh, 2010: 1456]. Ông đã góp gì ra vào cùng ghi ngày tính tháng, có môn<br />
phần vào xung đột ngày càng gay gắt giữa loại rành rẽ, nhân đó được môn học thực<br />
hai giới cựu học và tân học bằng một tinh nghiệm về mặt làm việc tập sự…”[Chương<br />
thần hết sức cầu thị: “…mua nhiều sách Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: 837 – 839].<br />
báo mới (của Trung Quốc mới xuất bản), Điều đặc biệt trong nhận thức của Huỳnh<br />
ngày rằm mỗi tháng họp giảng diễn thuyết Thúc Kháng khi xác định ở tù còn là “đi<br />
một lần, … mở một nhà học, rước thầy về học” ở nơi mà ông gọi là “thiên nhiên học<br />
dạy chữ Tây và Quốc ngữ cho con em…” hiệu”. Thời gian này đã làm cho tư tưởng<br />
[Chương Thâu - Phạm Ngô Minh, 2010: của ông không ngừng được mở rộng,<br />
1457]. phong phú thêm về mặt kiến thức cũng như<br />
Trước những tác động của điều kiện, nhận thức về các vấn đề thời đại khi tiếp<br />
hoàn cảnh lịch sử về tư tưởng lý luận canh xúc với văn minh phương Tây thông qua<br />
tân của các bậc tiền nhân và dòng chảy của việc tự học Pháp ngữ và làm việc cho cai<br />
tân thư, Huỳnh Thúc Kháng đã thể hiện sự ngục người Pháp.<br />
tiếp thu một cách “chủ động” bằng chính Những điều kiện và tiền đề tư tưởng<br />
năng lực nội tại cá nhân. Ngay cả đối với trên đã góp phần hình thành những tư<br />
những giá trị tiến bộ của văn minh phương tưởng của Huỳnh Thúc Kháng về đổi mới<br />
Tây, trong thời gian lao tù Côn Đảo suốt 13 giáo dục với nội dung mang đậm tính đặc<br />
năm (1908 – 1921), Huỳnh Thúc Kháng đã sắc của riêng ông.<br />
tự mình học Pháp ngữ nhằm tiếp cận 2. Nội dung tư tưởng của Huỳnh Thúc Kháng<br />
những giá trị, thành tựu văn hóa Pháp. Quá về đổi mới giáo dục ở Việt Nam đầu thế<br />
trình giúp việc cho các quan cai ngục kỷ XX<br />
người Pháp đã góp phần vào quá trình xây Trên cơ sở những yếu tố tác động của<br />
dựng cơ sở lý luận cho sự hình thành quan điều kiện lịch sử và tiền đề tư tưởng,<br />
<br />
92<br />
Huỳnh Thúc Kháng đã có những nhận thức luôn hướng tới việc: “… “đi học cốt để làm<br />
tích cực, nhạy bén trước những biến quan”, vì cái tánh đó cha truyền con nối,<br />
chuyển của thời cuộc. Ông đã đưa ra quan trước bày nay làm, dầu cho ngày nay phép<br />
điểm phải đổi mới thay thế nền giáo dục học phép thi đổi ra cách mới, công chiến<br />
phong kiến lạc hậu bằng việc tiếp thu thương chiến giặc tới bên chưn, mà người<br />
những thành tựu văn minh của giáo dục đi học trong nước vẫn ôm cái hy vọng “làm<br />
phương Tây và những cải cách tiến bộ ở quan” là chủ chốt.” [Chương Thâu – Phạm<br />
các quốc gia khác trong khu vực. Ngô Minh, 2010: 281]. Từ đó, ông chỉ trích<br />
Trước hết, Huỳnh Thúc Kháng tuy việc người học chỉ có một lối thoát mà<br />
xuất thân là một Nho sĩ đỗ đạt khoa cử của đồng thời là tham vọng duy nhất trên con<br />
triều Nguyễn nhưng nhận thức rõ được tình đường học vấn: có được một vị trí chốn<br />
cảnh “nô lệ” ở chốn quan trường dưới sự quan trường: “Người hạng nào cũng có thể<br />
cai trị của thực dân Pháp nên ông cự tuyệt mong làm nên quan được, nhưng đã lên<br />
nhận chức quan. Đồng thời từ sự tiếp thu, đến bực quan thì đối với dân “nhứt tự cách<br />
ảnh hưởng của tư tưởng Canh tân đất nước trùng sơn” trong khoảng quan dân bỗng<br />
và Tân thư từ bên ngoài mà ông có sự thay nhiên sinh ra xa nhau như trời và vực…<br />
đổi nhận thức, phê phán nền giáo dục Nho Quan là rất quý mà dân là rất tiện, trong xã<br />
học phong kiến lỗi thời, bảo thủ và trì trệ. hội ai cũng hăm hở mong quan, từ khi mới<br />
Trong bối cảnh cuối thế kỷ XIX, nền giáo để trái đào cắp sách đi học cũng đã mang<br />
dục phong kiến đang dần suy thoái cùng cái mộng tưởng làm quan trong não”. Điều<br />
với sự du nhập và từng bước hình thành hệ này là dễ hiểu, bởi dưới chế độ quân chủ<br />
thống giáo dục phương Tây hiện đại thì chuyên chế phong kiến thì triều đình phải<br />
một bộ phận không nhỏ tầng lớp trí thức đặt ra chế độ khoa cử nhằm bó buộc và<br />
Nho học chủ yếu vẫn “trung thành” với tứ lung lạc những kẻ sĩ, chỉ nhằm một mục<br />
thư - ngũ kinh, với cầm - kỳ - thi - họa đích duy nhất là bảo vệ quyền lợi của giai<br />
được xác định là nhân cách, lẽ sống của cấp cầm quyền, Huỳnh Thúc Kháng đã chỉ<br />
người quân tử, khinh miệt “kẻ tiểu nhân”. rõ: “…sĩ phu mà đã đi vào đường ấy thì<br />
Sự chi phối của nền giáo dục phong không những không khi nào nghị luận đến<br />
kiến Nho học đối với người học không còn quyền quân chủ mà lại là những phần tử<br />
được như trước mà tùy thuộc vào khả năng tận trung tận tín, làm vây cánh rất mạnh mẽ<br />
nhận thức của người học trước những cho triều đình.” [Chương Thâu – Phạm<br />
chuyển biến của thời đại về khoa học, kỹ Ngô Minh, 2010: 493].<br />
thuật và mục đích của bản thân người học Bên cạnh việc cho rằng tất cả mọi cái<br />
không còn xác định việc học hành đỗ đạt đều có chung một cái gốc là Hán học xưa<br />
làm quan, tuyệt đối trung thành dưới sự cai cũ gây ra: “…học thuyết tôn quân, gốc<br />
trị của chế độ quân chủ chuyên chế nữa. trong Hán học mà Hán học đã thành ra tro<br />
Huỳnh Thúc Kháng phê phán quyết liệt tàn, thì tâm lý tôn quân trong xã hội cũng<br />
nền giáo dục phong kiến bởi sự bảo thủ về theo mà nguội lạnh, muốn tôn quân quyền<br />
nội dung, giáo điều về phương pháp và hư mà bỏ Hán học ấy là một điều trái ngược”<br />
vô về kỹ năng, thực hành làm cho mục tiêu [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010:<br />
của người học không rõ ràng. Dù rằng, 521]; Huỳnh Thúc Kháng cũng phê phán<br />
trong tâm thức của người Việt bao đời nay việc học trước đây thực chất không ngoài<br />
<br />
93<br />
mục đích “phục vụ” cho tầng lớp quan lại, ngoài như lối học của người Nam ta”<br />
triều đình phong kiến, vì mục tiêu là “vinh [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010:<br />
thân, phì gia”, nên ông cho rằng: “Nếu như 610]. Những nhận xét của ông thật xác<br />
ngày trước học Hán văn, chăm chú vào đáng và sâu sắc với xã hội Việt Nam hiện<br />
khoa danh lợi lộc, cốt làm sao cho đạt được nay của thế kỷ XXI khi không ít người học<br />
cái mục đích “thi đỗ làm quan”; thì ngày chưa xác định rõ nhu cầu, năng lực của bản<br />
nay cốt sao cho dựt được tấm bằng để kiếm thân cũng như yêu cầu kỹ năng nghề<br />
việc làm, mà việc làm ấy không ngoài nghiệp của xã hội đối với từng lĩnh vực<br />
phạm vi thân gia.” [Chương Thâu – Phạm việc làm mà học tập cốt chỉ để lấy mảnh<br />
Ngô Minh, 2010: 591]. Quan điểm về giáo bằng đại học nhằm dễ xin việc vào trong<br />
dục của Huỳnh Thúc Kháng đã thoát khỏi “biên chế nhà nước” cũng như chạy theo<br />
những phạm trù của Nho giáo (vốn dĩ lấy “thị hiếu sính bằng cấp” dẫn đến tình trạng<br />
quá trình tu dưỡng đạo đức, nhân cách con “thất nghiệp” tràn lan sau khi tốt nghiệp<br />
người làm trung tâm cũng như lấy việc tận hoặc làm việc trái với ngành, nghề đã được<br />
trung phục vụ chính quyền phong kiến và đào tạo: “…những quyền lợi của người làm<br />
dựa vào nó là cớ “sinh nhai, phì gia, vinh quan, cách đối đại đặc biệt với những học<br />
thân” cho cá thân, gia đình, dòng họ”) sinh thi đậu, đã gây cho dân ta ngày nay<br />
chuyển sang một phạm trù mới xác định một cái tâm lý “học để đi thi” không khác<br />
người học là trung tâm của sự phát triển xã gì cái tâm lý của sĩ phu xưa vậy” [Chương<br />
hội, phát huy vai trò lao động của con Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: 495].<br />
người trong phát triển kinh tế, đó là: Vì vậy, Huỳnh Thúc Kháng nhấn<br />
Về mục đích của giáo dục, Huỳnh mạnh ngay từ đầu người dân cần nhận thức<br />
Thúc Kháng cho rằng giáo dục phải làm rõ việc xác địch mục đích học tập, khoa cử<br />
cho người học có đầy đủ tri thức và kỹ là như thế nào, xác định dựa trên thực tế<br />
năng để đáp ứng được việc làm trong xã điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội của đất<br />
hội, nuôi sống bản thân, gia đình góp phần nước chứ không phải chạy theo lối học<br />
vào phát triển kinh tế đất nước. Ông đề cao mới, theo đám đông mà không hiểu biết gì.<br />
vai trò của tân học, xóa bỏ cựu học nhưng Huỳnh Thúc Kháng chú trọng đến mục<br />
đồng thời cũng chỉ ra giáo dục phải biết đích giáo dục kỹ năng nghề nghiệp, tính<br />
xác định mục tiêu cụ thể là thực hành nghề chuyên môn hóa như quan điểm từ truyền<br />
nghiệp đáp ứng yêu cầu lao động xã hội. thống của ông cha là “nhất nghệ tinh, nhất<br />
Đồng thời, trong điều kiện xã hội mới tập thân vinh”. Ông cho rằng, giáo dục phải<br />
trung đến yếu tố nghề nghiệp, việc làm thì chú trọng đến mặt ứng dụng, thực hành với<br />
Huỳnh Thúc Kháng lưu ý đối với quần tư cách là một nghề phù hợp với khuynh<br />
chúng nhân dân cần có sự lựa chọn việc hướng, năng khiếu của mỗi người và xã hội<br />
học tập sao phù hợp với bản thân, năng lực đang cần: “Trong nước, người nào cũng<br />
và đáp ứng được cái thực tiễn, chớ vì “tâm phải biết một nghề. Kỹ nghệ là nghề, khảo<br />
lý” chạy theo đám đông mà theo học không cứu là nghề, trước thuật cũng là nghề.<br />
hiểu biết gì vừa mất công vừa mất thời gian Muốn công nghệ được thịnh, giáo sư phải<br />
lãng phí vô ích: “Nói cho rõ là học cái hay biết trọng khiếu riêng của thiếu niên… Học<br />
bỏ cái dở mà lựa chọn lừa lọc rất cẩn thận, thuật mà càng chuyên môn, thời cuộc tấn<br />
không có cái “theo mù” và chỉ tô cái vỏ bề hóa mới càng chóng thịnh.” [Chương Thâu<br />
<br />
94<br />
– Phạm Ngô Minh, 2010: 268]. Mục đích từng viết: “Giáo dục nhất định theo sự tất<br />
của giáo dục mới theo Huỳnh Thúc Kháng yếu trên đường sanh hoạt một dân tộc…”<br />
không phải là con đường học để đi thi, để [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010:<br />
đỗ đạt làm quan, mà là học để có tri thức, 575]. Tuy nhiên, Huỳnh Thúc Kháng vốn<br />
có kỹ năng, hiểu biết nghề nghiệp làm việc dĩ xuất thân là một nhà Nho chịu ảnh<br />
trong xã hội, nuôi sống bản thân, nuôi sống hưởng của nền Hán học nên ông không phủ<br />
gia đình và góp phần phát triển xã hội. nhận những giá trị tích cực của việc học<br />
Về nội dung giáo dục, theo Huỳnh tập chữ Hán mới tư cách là công cụ trong<br />
Thúc Kháng xác định cốt lõi cần đào tạo về ghi chép của nước ta suốt mất ngàn năm<br />
kỹ năng ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) qua cũng như mối quan hệ giao lưu Việt –<br />
và tri thức hiểu biết về khoa học, kỹ thuật Hoa trên nhiều lĩnh vực văn hóa – kinh tế<br />
cho người học trong bối cảnh xã hội phát cho nên: “…mù chữ Hán vẫn có điều bất<br />
triển mới: tiện” [Chương Thâu - Phạm Ngô Minh,<br />
Nếu như trước đây việc dạy kỹ năng 2010: 573].<br />
ngôn ngữ (gồm: tiếng nói và chữ viết) chủ Bên cạnh đó, vai trò của tri thức khoa<br />
yếu tập trung vào dạy chữ Hán, thực hiện học kỹ thuật không chỉ với tư cách là làm<br />
trên cơ sở dạy Tam tự kinh hay Minh tâm thay đổi nhận thức của người học mà còn<br />
bảo giám mang tính kinh điển nhằm thực giúp cho kế sinh nhai nghề nghiệp người<br />
hành lễ nghi đạo đức trong gia đình, dòng học trong thực tiễn đời sống xã hội mới<br />
họ, cộng đồng thì nay tập trung dạy Quốc cũng không kém phần quan trọng trong nội<br />
ngữ thông qua dạy lịch sử Việt Nam và thế dung giáo dục theo quan điểm của Huỳnh<br />
giới, địa lý, bác vật (khoa học tự nhiên), Thúc Kháng. Ông cho rằng, có ngôn ngữ<br />
toán pháp. Ông coi chữ Quốc ngữ là tiếng rồi thì mới đọc và học được những tri thức<br />
mẹ đẻ: “…vẫn nhận chữ Quốc ngữ là tiếng khác, do đó việc tiếp thu tri thức khoa học<br />
nước nhà, làm nền cho môn học phổ chính là sự mở rộng hiểu biết của tư duy<br />
thông…” [Chương Thâu – Phạm Ngô làm cho tư tưởng con người được tự do<br />
Minh, 2010: 574]. Mặt khác, Huỳnh Thúc không lệ thuộc vào sự “ngu muội” thiếu<br />
Kháng đã có sự nhận thức rất tiến bộ trước hiểu biết, lạc hậu, hạn hẹp về tầm nhìn,<br />
bối cảnh thời đại khi xác định chữ Pháp là tính tích cực, sáng tạo được mở rộng: “Học<br />
chìa khóa cho việc tiếp thu văn hóa, văn giới nước ta không có tư tưởng tự do,<br />
minh phương Tây: “…hoàn cảnh sanh hoạt không có năng lực sáng tạo, mất hẳn tính<br />
của nước ta ngày nay, chữ Pháp là cần chất phán đoán, chỉ một mực nhắm mắt<br />
nhứt” [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, theo mù làm nô lệ cho người xưa”<br />
2010: 574], bởi vì mọi giao thương với khu [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010:<br />
vực và thế giới của Việt Nam lúc bấy giờ 269]. Do đó mà ông nhận định: “…muốn<br />
chủ yếu đều thông qua sự bảo hộ của chính tư tưởng được tự do, thời tâm trí phải biết<br />
quyền thực dân Pháp. Điều đó có ý nghĩa tự lập mới được. Tự lập nghĩa là tự mình<br />
như ngày nay, khi Anh ngữ trở thành công xét, tự mình tin … phải có não khảo cứu…<br />
cụ giao tiếp thông dụng cho mọi hoạt động phải lấy khoa học làm chủ nghĩa” [Chương<br />
giao lưu hội nhập quốc tế đòi hỏi phải xác Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: 269].<br />
định giáo dục kỹ năng tiếng Anh trở thành Trong quá trình học thì người học cần phải<br />
ngoại ngữ thứ hai cho mọi người, như ông có tư duy khoa học để nghiên cứu tìm tòi<br />
<br />
95<br />
nội dung của môn học trong thực tiễn, đó là 2010: 268]. Ngoài ra, phương pháp giáo<br />
căn cứ vào thực tiễn, lý tính chứ không mơ dục còn phải là gắn liền giữa lý thuyết với<br />
hồ, chủ quan, cảm tính. Huỳnh Thúc thực hành, trong đó chú trọng đến ứng<br />
Kháng đã chỉ ra hạn chế của nội dung học dụng thực nghiệm khi Huỳnh Thúc Kháng<br />
tập rập khuôn, máy móc và thậm chí là sáo chỉ ra thực trạng người học: “ra ở đời, nhiều<br />
rỗng của nền giáo dục phong kiến là: điều có học mà vô dụng, nhiều điều xã hội<br />
“Ngày trước học Hán văn, đọc sách làm cần lại không biết” [Chương Thâu – Phạm<br />
văn, theo lối từ chương không cần biết đến Ngô Minh, 2010: 269]. Quan điểm này của<br />
thực dụng học văn của thánh hiền là thế Huỳnh Thúc Kháng có một ý nghĩa lớn cho<br />
nào, nên mài miệt theo mậu thuyết Tống đến ngày nay với thực trạng giáo dục Việt<br />
nho mà hết ngày” [Chương Thâu – Phạm Nam vẫn chưa có sự gắn kết thực sự giữa<br />
Ngô Minh, 2010: 591]. nhà trường với xã hội, hay nói cách khác là<br />
Nội dung giáo dục theo quan điểm của đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu của xã<br />
Huỳnh Thúc Kháng vừa thể hiện tính hai hội. Nguyên nhân một phần là sự ảnh<br />
mặt lại vừa thống nhất trong một quá trình, hưởng của nền giáo dục phong kiến hàng<br />
đó là: học ngôn ngữ, tập chữ viết làm công ngàn năm theo lối: “…trích cú tầm chương,<br />
cụ, cơ sở để học tập tri thức khoa học, kỹ chú thích từng câu từng chữ trong thánh<br />
thuật, tiếp cận được với những thông tin kinh hiền truyện để tô vẽ cho đạo lý tôn<br />
mới mẻ của thế giới nhằm nâng cao nhận quân, cách học ấy rất là áp chế tư tưởng,<br />
thức tư duy, làm cho tư tưởng tích cực, thúc phược tinh thần… chính là thích hợp<br />
sáng tạo, gắn với thực tiễn đời sống xã hội, với cái nhu cầu của nhà quân chủ để bảo trì<br />
đất nước và thời đại. quyền uy của mình và khu hết cả sĩ phu<br />
Về phương pháp giáo dục, muốn thực trong nước vào cái đường tối tăm chặt hẹp<br />
hiện được nội dung mới của giáo dục là đào có lợi cho mình.” [Chương Thâu – Phạm<br />
tạo kỹ năng ngôn ngữ và tri thức khoa học Ngô Minh, 2010: 492]. Phương pháp giáo<br />
kỹ thuật, Huỳnh Thúc Kháng cho rằng phải dục này đã làm cho người học trở nên thụ<br />
đi từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp, động: về mặt tư duy người học tiếp thu theo<br />
nghĩa là phải có tính hệ thống liên thông từ hướng “một chiều”, đánh mất đi tính phản<br />
tiểu học, trung học và phổ thông rồi đến biện “đa chiều” của tư tưởng; về mặt hành<br />
“chuyên môn”, ngày nay chính là giáo dục vi người học rập khuôn theo quan điểm<br />
phổ thông (mầm non, tiểu học, trung học) người dạy và nội dung sách vở mà không<br />
và giáo dục chuyên nghiệp (trung cấp – cao chú ý đến tính sinh động của hoàn cảnh<br />
đẳng – đại học). Mà giáo dục phổ thông thực tiễn xã hội luôn thay đổi. Vì lẽ đó, ông<br />
chính là nền tảng cơ bản để người học có yêu cầu phải: “Học đường phải dọn đường<br />
cơ sở tiếp thu những bậc học cao hơn, cho cho xã hội mới được. Muốn thế, phải: a)<br />
nên trong giáo dục việc đầu tiên là có dạy thực hành (pratique) trước rồi dạy lý<br />
phương pháp hệ thống: “…có chuyên môn luận (theorie) sau; b) dùng phép thực<br />
mà không có phổ thông lại là một điều nghiệm (experience) để dạy hơn là dùng<br />
hại… vì không có học thức phổ thông thời sách.” [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh,<br />
“không có não tổng hợp” … Giáo dục phổ 2010: 269]. Từ đó, ông chỉ ra lối học với tư<br />
thông bởi cớ ấy mà thành một việc trọng duy phản biện của người phương Tây là:<br />
yếu.” [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, “…nhờ cái mối tư tưởng tự do mà phát đạt<br />
<br />
96<br />
rất sớm. Tư tưởng được tự do, nên phàm phổ biến quan điểm về một nền giáo dục<br />
nhà hiền triết, sáng lập và phát minh được mới cho quần chúng nhân dân. Đó là một<br />
cái thuyết gì thì làm ra sách vở, công bố cuộc cách mạng trong quá trình chuyển<br />
cho người đời tha hồ biện bác phê bình. biến nhận thức của ông từ một nền giáo<br />
Nhờ lối biện bác phê bình ấy mà chân lý dục phong kiến sang một nền giáo dục mới<br />
càng bày tỏ ra, không bị cái gì che lấp” trên cơ sở tiếp thu những tư tưởng mới<br />
[Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: mang khuynh hướng dân chủ tư sản. Quan<br />
505]. Mặt khác, từ thực tiễn từ thực tiễn điểm của Huỳnh Thúc Kháng về đổi mới<br />
bản thân mình, Huỳnh Thúc Kháng khẳng giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ XX khác<br />
định vai trò quan trọng nhất của phương hoàn toàn với giáo dục phong kiến Nho<br />
pháp giáo dục là tự học, tự nghiên cứu. Ông giáo truyền thống và mang một ý nghĩa sâu<br />
cho rằng: “…muốn tư tưởng được tự do, sắc đối với sự phát triển mới có tính bước<br />
thời tâm trí phải biết tự lập mới được”, ngoặc của dân tộc đó là:<br />
đồng thời chỉ rõ: “học đường là nơi “dọn Thứ nhất, xác định mục đích giáo dục<br />
đường” cho xã hội, nên học đường phải gắn với nhu cầu thực tiễn phát triển nghề<br />
luyện tập não khảo cứu cho thiếu niên…” nghiệp, việc làm của con người trong xã hội;<br />
[Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: Thứ hai, nội dung giáo dục tập trung<br />
269]. Như vậy, trong các quan điểm đổi vào việc đổi mới tư duy tiếp cận với thành<br />
mới về phương pháp giáo dục, Huỳnh Thúc tựu văn minh, tri thức khoa học, kỹ thuật<br />
Kháng đã thể hiện tư duy biện chứng xác trên cơ sở nền tảng về ngôn ngữ dân tộc là<br />
định các phương pháp quan trọng là: giáo Quốc ngữ và hội nhập với thế giới bằng<br />
dục phải có phương pháp hệ thống từ thấp Pháp ngữ;<br />
lên cao, từ đơn giản đến phức tạp; cần gắn Thứ ba, xóa bỏ phương pháp giáo dục<br />
liền giữa lý thuyết với thực hành, chú trọng mang tính truyền thụ “một chiều”, đề cao<br />
phương pháp thực nghiệm với người học; tính phản biện “đa chiều” của tư duy và<br />
và xác định tầm quan trọng quả phương gắn liền với hiện thực xã hội, gắn lý thuyết<br />
pháp tự học, tự nghiên cứu đối với người với thực hành, thực nghiệm mang tính ứng<br />
học trong quá trình giáo dục nâng cao. dụng nghề nghiệp.<br />
3. Kết luận Tư tưởng đổi mới giáo dục của Huỳnh<br />
Dù chưa xây dựng một cách đầy đủ và Thúc Kháng thực sự mang tính thời đại cho<br />
hoàn thiện thành một hệ thống các vấn đề đến tận ngày nay, chỉ cần nhìn vào nền<br />
của giáo dục Việt Nam hiện đại đầu thế kỷ giáo dục thì có thể nhận diện được một dân<br />
XX trước sự lụi tàn của nền giáo dục Nho tộc, một quốc gia bởi vì: “…giáo dục là<br />
giáo phong kiến nhưng Huỳnh Thúc Kháng người thợ để vẽ ra bức tranh văn minh.<br />
xuất phát từ tấm lòng yêu nước, thương Ảnh hưởng ra bề ngoài, cuộc trị an ở bề<br />
dân, từ sự nhạy cảm với chính trị và thời trong, nhiều hay ít, thịnh hay suy, nguyên<br />
cuộc, ảnh hưởng bởi những tư tưởng Canh nhân chính ở giáo dục.” [Chương Thâu –<br />
tân của các bậc tiền nhân và nội dung của Phạm Ngô Minh, 2010: 269]. Do đó, trong<br />
các tân thư được truyền bá vào Việt Nam thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, việc tiếp tục<br />
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cùng với thực hiện Nghị quyết chuyên đề về “đổi<br />
những giá trị tiến bộ của văn hóa, văn minh mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào<br />
phương Tây, trở thành người tuyên truyền, tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,<br />
<br />
97<br />
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội 1. BCHTW Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI,<br />
nhập quốc tế” số 29-NQ/TW ngày 04 Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo<br />
dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp<br />
tháng 11 năm 2013 của Ban Chấp hành<br />
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị<br />
Trung ương khóa XI và tư tưởng chỉ đạo trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội<br />
Đại hội XII của Đảng về “tiếp tục đổi mới nhập quốc tế, số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11<br />
mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của năm 2013, Hà Nội.<br />
giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát 2. Chương Thâu - Phạm Ngô Minh (2010),<br />
Huỳnh Thúc Kháng Tuyển tập, Nxb Đà Nẵng.<br />
triển phẩm chất, năng lực của người học”<br />
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện<br />
với trọng tâm xác định là phải đổi mới mục Đại hội lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia<br />
tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp Sự thật, Hà Nội.<br />
giáo dục theo hướng tinh giảm, thiết thực, 4. Huỳnh Thúc Kháng (2000), Huỳnh Thúc<br />
phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành Kháng tự truyện và thư gửi Kỳ ngoại hầu<br />
nghề là hết sức cần thiết, cấp bách. Những Cường Để, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.<br />
vấn đề đổi mới giáo dục được Huỳnh Thúc 5. UBND Tỉnh Quảng Nam (2012), Thân thế và<br />
sự nghiệp cụ Huỳnh Thúc Kháng (1876 –<br />
Kháng đề ra từ đầu thế kỷ XX vẫn còn 1947), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.<br />
nguyên giá trị, ý nghĩa rất cần được tiếp 6. UBTWMTTQVN-Hội KHLS Việt Nam<br />
thu và kết hợp thực hiện trong quá trình (1997), Chí sĩ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng,<br />
đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Hà Nội.<br />
<br />
<br />
Ngày nhận bài: 10/10/2016 Biên tập xong: 15/11/2016 Duyệt đăng: 20/11/2016<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
98<br />