KHOA H“C & C«NG NGHª<br />
<br />
<br />
này. Được xếp vào lĩnh vực nghiên cứu di sản trọng yếu, tích và tác động, các phương án tác động. Ví dụ như,<br />
nghiên cứu này có tham vọng thể hiện một cách tinh tế việc tạo ra thuật ngữ “pusaka saujana” - Saujana thông<br />
T÷ vúng vå di sÀn ò }éng NamếÁ nhất ý tưởng về sự thống nhất và chuẩn hóa các cách<br />
thức tạo ra không gian - bao gồm cả mối quan hệ của<br />
thường được dịch sang tiếng Anh là “xa hết mức bạn có<br />
thể thấy” - trùng với nghĩa mới được chấp nhận trong khái<br />
chúng với di sản – và nắm bắt những khác biệt được thể niệm về cảnh quan văn hóa khi nghiên cứu kỳ quan phật<br />
GS. Nathalie Lancret hiện trong cách hiểu về di sản, trong các đối tượng được giáo Borobudur;<br />
thể hiện, và trong các khái niệm cũng như những kinh<br />
- Những từ biểu đạt ý nghĩa, giá trị và những hoạt<br />
nghiệm mà ta đã gọt xén.<br />
động liên quan đến di sản đặc biệt, những từ liên quan<br />
Các từ vựng về di sản, hé lộ những đa dạng văn hóa đến văn hóa địa phương, quan niệm của họ về sự thiêng<br />
Tóm tắt “Đi tìm sự thống nhất về mặt ngôn từ của các ngôn liêng và các mối liên hệ xã hội, các tổ chức kinh tế và<br />
ngữ trên thế giới, dù dưới bất kỳ góc độ nào, là việc làm Nắm bắt được sự khác biệt từ vựng trong lĩnh vực di chính trị của họ. Chẳng hạn như từ “anisong” trong tiếng<br />
Bài viết này trình bày một quan điểm nghiên thui chột văn hóa, điều này còn giết chết văn hóa bản địa sản được dựa trên nhận định của Serge Gruzinski nêu Thái được các nhà sư và người dân sử dụng để chỉ việc<br />
cứu, đưa ra các giả định và các vấn đề đã được đích thực. Nó đặt dấu chấm hết cho đời sống tinh thần trong tất cả các nhóm từ mà chúng tôi nghiên cứu - khái “đầu tư”, theo nghĩa rộng của từ này, được sử dụng chỉ<br />
nêu trong một đề tài nghiên cứu “Từ vựng về và trí tuệ sâu sắc của chúng ta, khiến chúng ta quên đi niệm “không thể dịch” vừa mang tính khái niệm, quy phạm công việc khôi phục các công trình tôn giáo trên nguyên<br />
di sản trong dự án kiến trúc và đô thị ở khu vực vai trò vĩnh cửu của lớp người kế cận– những người vốn vừa có giá trị tức thời - có nghĩa là không một trường hợp tắc “tích lũy công trạng” 5;<br />
Đông Nam Á. Lưu hành, tiếp nhận, sáng tạo”. đã quên mất sứ mệnh lịch sử của mình trong thế giới này. nào trong số các nhóm từ này máy tính phổ quát 4. Vì vậy<br />
“(Cheikh Anta Diop 1) việc xem xét các thuật ngữ này, thông qua các thuật ngữ - Những từ có trong cùng một ngôn ngữ, nhưng không<br />
Được xếp vào lĩnh vực nghiên cứu di sản trọng có cùng ý nghĩa, tùy theo người phát ngôn, người tiếp<br />
mà các tổ chức, và các nhóm tác giả khác nhau của các<br />
yếu, nghiên cứu này có tham vọng thể hiện một Như chúng ta đều biết, các hoạt động di sản là một<br />
tổ chức đó dùng để mô tả và chỉ ra giá trị di sản, cách bảo nhận, thậm chí tuỳ vào từng thời điểm hoặc tình hình cụ<br />
cách tinh tế nhất ý tưởng về sự thống nhất và vector mạnh mẽ thúc đẩy quá trình quốc tế hóa trong việc thể khi nó được sử dụng. Sự đa dạng về nghĩa của các từ<br />
tồn và cải tạo di sản, sẽ giúp hiểu ý nghĩa các từ, các hoạt<br />
chuẩn hóa các cách thức tạo ra không gian - xây dựng các không gian sống, phải chăng đó không đơn này trong trong các cấp độ ngôn ngữ khác nhau có thể thể<br />
động liên quan đến di sản trong tính đặc đặc thù, khác<br />
thuần chỉ là kết quả của những tác động kinh tế lên ngành hiện những vai trò nào đó liên quan đến hoạt động di sản.<br />
bao gồm cả mối quan hệ của chúng với di sản du lịch. Đối mặt với các chương trình di sản mang giá trị<br />
biệt của các từ này và việc nắm bắt ý nghĩa và giá trị ngữ<br />
– và nắm bắt những khác biệt được thể hiện nghĩa của chúng trong các dự án. Như trường hợp từ “burana” trong tiếng Thái không diễn<br />
toàn cầu, đặc biệt là ở khu vực Đông Nam Á, chúng ta đạt cùng một nghĩa so với các kiến trúc sư của Cục Mỹ<br />
trong cách hiểu về di sản, trong các đối tượng đang phải chứng kiến việc đi tìm các giải pháp mới để Do đó chúng tôi đã chọn nghiên cứu các dấu hiệu thuật tham gia vào các chương trình quốc gia về di sản và<br />
được thể hiện, và trong các khái niệm cũng như thay thế từ các khái niệm và các kinh nghiệm riêng, xuất ngôn ngữ cũng như là những cách biểu đạt sự khác biệt so với những tín đồ mà quan điểm và các hoạt động của<br />
những kinh nghiệm mà ta đã gọt xén. phát từ những quan điểm đối lập hay phản bác lại việc của các từ, những điều “không thể dịch” theo định nghĩa họ mang màu sắc đặc trưng của vùng đất đó. Đối với các<br />
áp dụng các tiêu chuẩn “toàn cầu”. Suy ngẫm của chúng của Barbara Cassin là “những gì chúng ta không ngừng kiến trúc sư, “burana” có nghĩa là sửa chữa và gia cố một<br />
ta xoay quanh những đề xuất được hiểu như những biểu (không) dịch. Nhưng điều đó có nghĩa là việc dịch nghĩa công trình trong khi vẫn cố duy trì nó ở trạng thái ban đầu.<br />
Abstract hiện của một “quyền năng thiết kế khác” - tham khảo từ những từ này, trong một ngôn ngữ này hay trong một ngôn Đối với các tín đồ, “burana” nghĩa là thường xuyên trùng<br />
Victor Segalen 2, trên cơ sở xem xét sự đa dạng của các ngữ khác làm nảy sinh vấn đề, đôi khi xuất hiện thêm một tu các bảo tháp và tu viện nhằm giành lại uy tín của mình,<br />
This article reports on a research position. It presents nền văn hóa, xã hội và ngôn ngữ riêng biệt trong khu vực từ mới hoặc tạo ra một nghĩa mới cho một từ cũ: đây là không phải nhằm bảo tồn tính xác thực của chất liệu cổ;<br />
the hypotheses and questions developed in a research Đông Nam Á, từ các nghiên cứu thực hiện ở Thái Lan và một biểu hiện của việc có rất nhiều từ, mà hệ thống ý niệm điều này được thấy rõ trong và qua các chính sách chính<br />
on “The words of heritage in the architectural Indonesia. không trùng nhau từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác”. thức về di sản.<br />
and urban project in Southeast Asia: Circulation, Bài viết này trình bày một quan điểm nghiên cứu, đưa Nhiều nhóm từ thu hút sự chú ý của chúng tôi: Mục đích của cuộc nghiên cứu không nhằm biên soạn<br />
Reception, Creation. Situated in the field of critical ra các giả định và các vấn đề đã được nêu trong một đề<br />
- Những từ mà việc chuyển ngữ và dịch từ các ngôn một cuốn từ điển về các từ liên quan đến di sản trong các<br />
heritage studies, it intends to qualify the idea of a tài nghiên cứu “Từ vựng về di sản trong dự án kiến trúc và dự án kiến trúc, đô thị và cảnh quan. Các bước nghiên<br />
standardization and standardization of the modes đô thị ở khu vực Đông Nam Á. Lưu hành, tiếp nhận, sáng ngữ quốc tế thành ngôn ngữ quốc gia và ngược lại gây<br />
nhiều khó khăn, cụ thể là trong tiếng Indonesia và Thái cứu cũng không thể xem xét được hết mọi khía cạnh của<br />
of production of space - including in their relation tạo” 3. Đề tài này tập hợp các giáo viên, nghiên cứu viên vấn đề. Mục đích của công việc này là nắm bắt được các<br />
đến từ Indonesia, Thái Lan và Pháp trong nhiều ngành Lan. Ví dụ, các khái niệm thiêng liêng và phàm tục hay<br />
to patrimonies - and to understand the differences những khái niệm về tính vật chất hoặc phi vật chất của từ hoặc cụm từ để tiếp cận các quan điểm khác nhau về<br />
expressed in the ways in which one conceives the khác nhau - họ là kiến trúc sư, nhà quy hoạch đô thị, di sản, đồng thời nêu lên quá trình phát triển của các khái<br />
nhà nghiên cứu địa lý, cảnh quan, các chuyên gia pháp di sản, trong một chương trình di sản được khởi xướng<br />
heritage, the objects it designates, and the notions and tại Bali vào những năm 1990, đã dẫn đến sự ra đời của niệm, quy chuẩn và những biến đổi, mở rộng 6 riêng biệt.<br />
lý và các chuyên gia ngôn ngữ học trong các lĩnh vực Ban đầu, việc lựa chọn các từ dựa vào kinh nghiệm; dựa<br />
practices that it overlaps. nhiều từ mới. Những hệ thống khái niệm đối lập này đã<br />
hình thành ra các nhóm từ không tương ứng với cách mà trên việc quan sát những tình huống khác nhau và gây<br />
(1) Diop, Cheikh Anta. 2000. Các cơ sở kinh tế và văn hóa của một nhà xã hội Bali nhận thức và không có từ tương đương trong tranh cãi, đặc biệt là khi chuyển ngữ sang các ngôn ngữ<br />
nước Liên bang ở châu Phi. Paris Présence Africaine (xuất bản lần đầu tiếng Bali cũng như tiếng Indonesia; quốc tế. Đối với những từ được xem là có vấn đề, chúng<br />
GS. Nathalie Lancret 1974), tr. 25. tôi sẽ đặt nó trong bối cảnh nghiên cứu lịch sử phát triển<br />
Giám đốc trung tâm nghiên cứu AUSSER (2) Victor Segalen,Tiểu luận về tính chuộng ngoại lai: vẻ đẹp của sự đa - Những từ là chủ đề của nhiều cuộc thảo luận và của từ và trong cách dùng đương đại của nó, đồng thời<br />
ĐH Kiến trúc Quốc gia Paris-Belleville<br />
dạng; và các bài viết về Gauguin và châu Đại Dương, Sách bỏ túi, Paris, tranh cãi, mà trong đó nhiều nhóm tác giả khác nhau nêu tìm hiểu các nhóm tác giả, những người sử dụng các từ<br />
1986, tr. XX: “Và để nhanh chóng định nghĩa, dựa trên cảm giác việc ra những quan điểm trái chiều. Như trường hợp thuật ngữ<br />
chuộng ngoại: đó không có gì khác ngoài khái niệm về sự khác nhau; này, chúng tôi đi tìm hiểu cách tư duy của họ về xã hội,<br />
nhận thức về sự đa dạng; hiểu biết về một vài thứ không phải của chính<br />
“pusaka” trong tiếng Indonesia xuất hiện từ đầu những chính trị và kinh tế và các dự án di sản mà họ đang tham<br />
mình; và sức mạnh của tính chuộng ngoại lai, đó không gì ngoài khả năm 2000, được các hiệp hội di sản ưu tiên sử dụng để gia.<br />
năng Nhận thức điều khác. thay thế hai thuật ngữ vẫn thường được sử dụng trong<br />
(3) Nghiên cứu “Từ ngữ về di sản trong các dự án kiến trúc và đô thị luật (warisan và cagar budaya) có ý nghĩa di sản, “pusaka” Các dự án kiến trúc, đô thị và cảnh quan, “không<br />
trong khu vực Đông Nam Á. Lưu hành, tiếp nhận, sáng tạo “được tiến mang ý nghĩa biểu tượng và giá trị tinh thần lớn lao của gian thứ ba” của di sản<br />
hành như một phần của các dự án nghiên cứu được đề xuất bởi Bộ các vật thể;<br />
Văn hóa và Truyền thông Pháp vào năm 2014. Phối hợp với Nathalie Các dự án kiến trúc, đô thị và cảnh quan thiên về di<br />
LANCRET (ausser UMR số 3329, ENSA Paris-Belleville), mang lại cho - Những từ được sáng tạo ra, được đưa vào các bài<br />
các nhà nghiên cứu từ Viện khoa học xã hội chính trị (ISP số UMR<br />
phát biểu, văn bản và dự án di sản để gọi tên những điều (5) Pijika Pumketkao, trích dẫn như trên<br />
7220), Trung tâm Đông Nam Á (UMR Case số 8170), UMR PRODIG<br />
số 8586, trung tâm Nalanda Sriwijaya (ISEAS) của Đại học Gadjah mới - những khái niệm và mô hình, các loại hình phân (6) Các phương pháp tiếp cận dựa trên công trình gần đây về từ vựng<br />
Mada (Yogyakarta) và Hiệp hội Di sản Indonesia Trust ở Indonesia, và ngôn ngữ trong lĩnh vực khoa học nhân văn và xã hội, đặc biệt là<br />
Đại học Chiang Mai và các Hiệp hội bảo tồn tại Thái Lan: Laretna T. Từ vựng ở châu Âu trong triết học. Từ điển về những điều không thể<br />
Adishakti, Woralun BOONYASURAT Adele Esposito, Charles Goldblum, (4) Boris Jeanne, “Phỏng vấn Gruzinski”. Tracés. Revue de Sciences dịch do Barbara Cassin biên soạn, Những điều không thể dịch trong di<br />
Catrini Pratihari KUBONTUBUH, Vincent Negri, Helen NJOTO, Karine humaines [Trực tuyến] 12 | Năm 2007, đăng lên mạng vào ngày 18 tháng sản ở châu Phi cận Sahara cũng do Barbara Cassin và Danièle Wosny<br />
Peyronnie, Dwita Hadi Rahmi Angela SRISOMWONGWATHANA, 4 năm 2008, truy cập ngày 01 tháng 10 năm 2016. URL: http: //traces. biên soạn, Từ điển khái niệm du cư trong khoa học nhân văn của Olivier<br />
Pornthum THUMWIMOL, Wipakorn THUMWIMOL, Punto Wijayanto. revues.org/223; DOI: 10.4000/traces.223. Christin.<br />
<br />
<br />
<br />
8 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG S¬ 24 - 2016 9<br />
KHOA H“C & C«NG NGHª<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
sản là những đối tượng nghiên cứu chính của chúng tôi, Những đề xuất đôi khi cũng bị cho là không phù hợp Tuy nhiên, từ nhiều năm nay, chúng ta thấy sự xuất Những yếu tố chính của tập tư liệu được huy động để<br />
chúng tôi nghiên cứu thuật ngữ về các loại hình văn hoá với các dự án quốc gia, thường là các dự án này liên quan hiện của những yêu sách về di sản và xây dựng, các đề thực hiện các nghiên cứu điển hình là các dự án di sản -<br />
không gian hiện hữu và những tranh luận liên quan đến đến các quần thể kiến trúc và các quần thể đô thị thông xuất thay thế mà tác giả thường là không phải là đại diện trong các bài tham luận bằng văn bản và tranh ảnh – các<br />
các giai đoạn khác nhau triển khai các dự án này: - lên ý thường ở đó thường có dân cư sinh sống từ lâu đời và của chính phủ trung ương hoặc chính quyền địa phương văn bản pháp lý quốc tế, hay của Thái Lan và Indonesia,<br />
tưởng, tái hiện lại hoặc đề xuất giải pháp, thực hiện, tiếp những nơi thờ tự là một phần của các hoạt động tôn giáo (ở cấp tỉnh, huyện, thành phố / thị xã) mà là của những các tài liệu được thực hiện bởi các hiệp hội bảo tồn di sản<br />
nhận công trình đã được thiết kế và thực hiện. Tập trung diễn ra thường xuyên. người dân, thường tập trung lại thành các hiệp hội, đứng - văn bản, sách, kế hoạch, lịch trình – và cả những sản<br />
vào phân tích những tình huống mâu thuẫn – tham chiếu trên quan điểm xây dựng và truyền tải một luận cứ và các phẩm này tại các sự kiện lớn - hội nghị quốc tế, triển lãm,<br />
Trong trường hợp tại Chiang Mai, khi một tổ chức xã<br />
mâu thuẫn, cách thức trùng tu, sử dụng không gian... kế hoạch/dự án chiến lược. Một điều đáng chú ý nữa là trường học mùa hè – là những thời điểm hợp lý để quảng<br />
hội dân sự có tên Little People in Conservation và người<br />
– nảy sinh do các dự án được thực hiện không đúng, những người này thường được coi là cầu nối giữa các địa bá về bảo tồn di sản.<br />
dân đã lên kế hoạch và thực hiện những hoạt động riêng<br />
hoặc thậm chí mâu thuẫn với lối suy nghĩ và cách làm phương, bởi họ thường là những người thuộc tầng lớp<br />
của họ để bảo tồn, phát triển và nâng cao giá trị các khu Tóm lại, giả thuyết nghiên cứu trong công trình này<br />
của những người sử dụng di sản. Được coi là “không thượng lưu, giữ những vị trí quan trọng trong các trường<br />
phố công cộng nội thành thì dự án của Cục Mỹ thuật tập được rút ra từ hai điểm. Giả thuyết không muốn minh<br />
gian thứ ba” của di sản, những tình huống như thế này đã đại học hoặc là các chuyên gia trong các nhóm adhoc -<br />
trung vào các tu viện lớn và các tòa nhà hoàng gia. chứng cho một nền văn hóa đã được quốc tế hóa của di<br />
xảy ra trong những công trình nghiên cứu nền tảng của xuyên quốc gia và quốc tế - và vai trò của họ trong các tổ<br />
sản, mà nó còn bộc lộ những hạn chế và khó khăn, cũng<br />
Homi Bhabha 7, để xem xét về tiềm năng đổi mới và quá Vì vậy, không nghi ngờ gì nữa khi các nước trong khu chức di sản. Theo giả thuyết của chúng tôi, những nhân<br />
không phải là quan điểm chủ yếu về những mô hình và<br />
trình làm mới công trình hiện có, các hoạt động di sản liên vực này đang bị tác động bởi các quy trình chung liên vật này tạo thành một cộng đồng tri thức mới. Chúng tôi<br />
những phương thức bảo tồn di sản các nền nền văn hóa<br />
quan. Những tình huống xung đột này, theo như chúng quan đến việc áp dụng các khung tham chiếu quốc tế, nhận thấy lộ trình và vai trò là cầu nối của họ trong các<br />
Đông Nam Á. Ngươc lại, giả thuyết nghiên cứu việc giao<br />
tôi giả định, đã gây ra nhiều cuộc tranh luận, đối thoại và chúng tôi tập trung vào các quy trình làm việc trong những mạng lưới vàc các cấp chính quền khác nhau, các sự kiện<br />
thoa các ý tưởng, các đối tượng và các phương thức bảo<br />
đàm phán; đã làm nảy sinh nhiều cái nhìn đa chiều và đôi tình huống có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các giá trị của di và các dự án mà họ đang tham gia, cũng như là việc lưu<br />
tồn di sản một cách năng động bằng cách xem xét các<br />
khi không đồng nhất về mặt di sản, cũng như là việc xây sản của nhiều công trình lịch sử, xã hội và văn hóa khác hành và phổ biến các tài liệu tham khảo về di sản đang<br />
quy mô khác nhau. Mục đích là để một lần nữa tìm ra<br />
dựng tầm nhìn và cả những đề xuất thay thế. nhau. Trong những trường hợp này, đó là những từ ngữ ngày một quan trọng trong tình hình hiện nay và những tài<br />
những kết quả mới được rút từ các cách thức đánh giá<br />
mô tả các dự án, thậm chí không thừa nhận các dự án, liệu này cũng đóng góp vào việc làm nổi bật các giá trị di<br />
Việc phục hồi Wat Chedi Luang ở Chiang Mai 8 là một di sản và áp dụng các kiến thức này trong các dự án kiến<br />
phản ánh sự khác biệt giữa các nền văn hóa và các ngôn sản cũng như là điển hóa các quy định bảo tồn di sản mới.<br />
dẫn chứng minh họa. Phụ trách dự án là Cục Mỹ thuật trúc đô thị và cảnh quan.<br />
ngữ khác nhau.<br />
của Bộ Văn hóa Thái Lan, đã quyết định tham khảo theo Trong giai đoạn đầu của quá trình nghiên cứu, chúng<br />
Nhiều quan sát ban đầu liên quan đến quá trình lưu<br />
nguyên tắc tính xác thực của Hiến chương Venice, chỉ cải Thách thức trong tư duy về các nền văn hóa di sản tôi xem xét ba loại dự án di sản:<br />
hành và phát hành từ điển quốc tế chuyên ngành, trong<br />
tạo lại phần dưới của tháp chính điện trong khi những tín của khu vực Đông Nam Á - Quần thể khảo cổ cổ đại, Borobudur (Indonesia) và đó đề cập đến mô hình định đề giá trị phổ quát hoặc<br />
đồ của tu viện muốn tái tạo hoàn toàn tòa nhà này. Dự<br />
Vấn đề văn hóa đặc thù bao hàm những ý nghĩa đặc Angkor (Campuchia) 9. Được lựa chọn như là biểu tượng khung tham khảo để chia sẻ trên toàn cầu, trong những<br />
án làm dấy lên những phản đối mạnh mẽ dễ thấy giữa<br />
biệt trong các thành phố của khu vực Đông Nam Á. Những của dân tộc, hai thắng cảnh này đã được ghi tên vào lĩnh vực nghiên cứu của chúng tôi – đó là những chuyển<br />
các giai cấp trong xã hội Thái Lan; đây là nguồn gốc của<br />
ý nghĩa đặc biệt này được đặc trưng bởi sự đa dạng dân Danh sách Di sản Thế giới - Borobudur vào năm 1991 và ngữ, dù là tiếng Pháp hay tiếng Anh, hai ngôn ngữ được<br />
một cuộc tranh cãi và những kiến nghị do các thành phần<br />
cư, người châu Á và người nước ngoài, do sự giao lưu Angkor vào năm 1992. Borobudur, là kết quả của một dự đánh giá cao, sang các ngôn ngữ khác trên thế giới. Vấn<br />
trong xã hội đưa ra nhằm đổi mới phương pháp bảo tồn<br />
văn hóa từ thời xa xưa. Kết quả của một truyền thống lâu án tái bối cảnh hóa khái niệm quốc tế về cảnh quan văn đề liên quan đến việc tiếp nhận, phù hợp hóa và giải thích<br />
di sản.<br />
đời từ sự truyền bá và sự giao thoa các hệ tư tưởng đã hóa nhằm xác định mô hình di sản mới. Song song với đó, các khái niệm và phương thức bảo tồn theo từ vựng được<br />
Những nội dung đề xuất có thể được đi ngược lại với tạo nên những không gian văn hóa độc đáo này. Cho đến một nghiên cứu được tiến hành tìm hiểu về lỗ hổng giữa sử dụng trong các tài liệu tham khảo quốc tế, “không gian<br />
các dự án do các tổ chức quốc tế lớn quản lý, nhất là do nay, các nền văn hóa phát triển theo thời gian này vẫn còn các thắng cảnh Borobudur và Angkor – những trao đổi thứ ba” – như chúng tôi giả định - là nơi sản sinh ra một hệ<br />
UNESCO quản lý. Những căng thẳng đặc biệt càng nhạy rất sống động, đang phải đối mặt với các quy trình bảo tồn kinh nghiệm, giao thoa các ý tưởng và nhân lực, vv - và thống văn hóa khác biệt, phản ánh những khả năng thích<br />
cảm khi đó là những thắng cảnh đang hoàn tất thủ tục di sản mới; các quy trình bảo tồn này sẽ xác định giá trị lĩnh hội các kiến thức trên quy mô xuyên quốc gia; ứng, tái lập và sáng tạo của các xã hội, được trải nghiệm<br />
để đăng ký vào Danh sách Di sản Thế giới và đang là quốc gia hay toàn cầu mà các nền văn hóa này vẫn cần và phát triển trong và bởi các tiến trình bảo tồn di sản.<br />
- Các thành phố lịch sử có dân cư trú 10, Yogyakarta<br />
minh chứng cho “giá trị độc đáo trên tầm thế giới”. Vì vậy, thống nhất lại. (Indonesia), Bangkok và Chiang Mai (Thái Lan), cả ba đều Vấn đề thứ hai tập trung vào những chuyển giao mới<br />
những thắng cảnh này bị đặt dưới áp lực của các cơ quan<br />
Kể từ cuối năm 1990, các nước trong khu vực đã có là đối tượng của dự án các thành phố lịch sử ở cấp quốc giữa các quốc gia Đông Nam Á với với các nước châu Á<br />
đại diện và các quy tắc bảo tồn được chuẩn hóa mạnh<br />
nhận thức về các vấn đề di sản, theo các cách thức riêng gia; Hơn nữa, quy trình đăng ký vào Danh sách Di sản khác, trong đó có Nhật Bản, Ấn Độ và Trung Quốc. Những<br />
mẽ; điều này sẽ làm mất hoặc làm giảm giá trị những<br />
và khung thời gian riêng của mỗi nước. Phong trào này Thế giới đang được tiến hành cho 2 thắng cảnh Chiang quan sát của chúng tôi cho thấy rằng một xu hướng bảo<br />
quan niệm truyền thống và các thói quen gìn giữ di sản ở<br />
được đánh dấu bởi quá trình chuyển đổi đô thị, đặc điểm Mai và Yogyakarta. Nghiên cứu tập trung vào các dự án tồn di sản đang nổi lên trên quy mô xuyên quốc gia thông<br />
địa phương. Chúng ta hãy xem ví dụ về nỗ lực đăng ký<br />
nổi bật trong nhiều thập kỷ nay; các vùng lãnh thổ đang bảo tồn và tái tạo của các “khu phố bình dân” được điều qua mạng lưới các hiệp hội xã hội dân sự, từ các trường<br />
đền Besakih vào danh sách Di sản Thế giới tại Bali. Việc<br />
bị ảnh hưởng bởi những thay đổi và sự tàn phá chưa phối bởi các hiệp hội di sản; đại học đến các hiệp hội giữa các thành phố. Những trao<br />
đồng ý hay từ chối dự án do các cộng đồng địa phương<br />
từng có, điều này càng làm tăng sự quan tâm chú ý đến đổi này sản sinh các giá trị mới giữa các quốc gia và quốc<br />
giải thích cho tính vô ước của các nền văn hóa di sản. Sự - Một tu viện vẫn đang hoạt động, Vat Pongsanuk,<br />
các di sản. Trong bối cảnh này, các chương trình di sản tế và làm xuất hiện một khung tham chiếu mới về các giá<br />
thất bại của việc đăng ký bắt nguồn từ một phong trào nội Lampang (Thái Lan). Việc nghiên cứu liên quan đến việc<br />
chủ yếu do các tổ chức và các chuyên gia quốc tế thuộc trị giữa các quốc gia và xuyên quốc gia. Điều này đặt ra<br />
quan kéo dài của những người dân Bali do cách đánh giá phục hồi các phòng cầu nguyện trong đó dự án, được điều<br />
phụ trách, thường là trong khuôn khổ di sản thế giới - câu hỏi về sự giao thoa bộ từ vựng quốc gia ở cấp vùng<br />
riêng của họ về một chương trình di sản. phối bởi hiệp hội The Little People in Conservation, giành<br />
quốc gia đầu tiên trong khu vực đã phê chuẩn Công ước miền, về việc dịch từ vựng về di sản quốc gia sang tiếng<br />
được danh hiệu “UNESCO Asia-Pacific Conservation<br />
là Philippines năm 1986, Thái Lan và Indonesia lần lượt Anh và về việc quảng bá bảo tồn di sản.<br />
Merit Award” năm 2008, vì dự án này đề xuất một mô hình<br />
(7) Bhabha Homi K. Rutherford Jonathan, “không gian thứ ba” vào năm 1987 và 1989 - hay các dự án hợp tác song bảo tồn được người dân địa phương và các nhà sư hỗ Cuối cùng, để mở rộng phạm vi nghiên cứu, cùng với<br />
Multitudes 3/2006 (số 26), tr. 95-107: “Nhưng, theo ý kiến của tôi, nếu lai phương, như trường hợp của thành phố Viêng Chăn vào trợ, trong khuôn khổ chương trình hợp tác với các nghệ các tài liệu tham khảo của châu Âu tập trung vào sự giao<br />
tạo là rất quan trọng, thì điều này sẽ khiến ta không tìm lại được hai thời<br />
năm 2000, để lập danh sách di sản kiến trúc, đô thị và nhân và chính quyền địa phương. thoa giữa các quốc gia phía Nam, các nghiên cứu sẽ tập<br />
điểm gốc mà từ đó thời điểm thứ ba xuất hiện; với tôi lai tạo là “không<br />
gian thứ ba” tạo ra khả năng xuất hiện tình trạng khác. Không gian thứ ba cảnh quan. Những chương trình này truyền tải tầm nhìn trung vào những gì là trọng tâm trong các hệ thống bảo<br />
này phá vỡ lịch sử tạo nên nó và tạo ra những cấu trúc mới, những sáng và các thể chế do Unesco xây dựng, phổ biến và những tồn di sản mới này ở cấp khu vực./.<br />
kiến mới về chính trị thoát ra khỏi nghĩa thông thường”. tiêu chí của châu Âu mặc dù một số tiêu chí này chỉ dùng<br />
(9) Trường hợp nghiên cứu này do Adèle Esposito, Vincent Negri,<br />
(8) Pijika PUMKETKAO, “di sản được xây dựng trong khu vực Lanna: để xác định và bảo tồn các nền văn hóa địa phương. Có Dwita Hadi Rahmi và Vipakorn Thumwimol thực hiện.<br />
xây dựng và phát triển khái niệm di sản ở Thái Lan,” luận án tiến sĩ đang không ít trường hợp việc nắm bắt những kiến thức về di<br />
được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Nathalie Lancret và Eggarin (10) Nghiên cứu do Laretna Adishakti, Charles Goldblum, Nathalie<br />
sản thuộc địa thông qua các nghiên cứu và các dự án bảo Lancret, Hélène Njoto, Punto Wijayanto và Pornthum Thumwimol thực<br />
Annukulyudhaton tại Đại học Paris-Est: Trường Đại học kiến trúc Paris-<br />
Belleville, kết hợp với Khoa Kiến trúc Đại học Kasetsart (Bangkok). tồn, gìn giữ vẫn theo cách tiếp cận quốc tế. hiện.<br />
<br />
<br />
<br />
10 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG S¬ 24 - 2016 11<br />