intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tục thờ cá Ông ở ven biển Nam Trung Bộ

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

2
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tục thờ cá Ông là một truyền thống văn hóa độc đáo của các cộng đồng ven biển Nam Trung Bộ, thể hiện lòng tôn kính và biết ơn đối với loài cá voi. Theo tín ngưỡng của người dân nơi đây, cá Ông không chỉ là bạn đồng hành trong cuộc sống mà còn là vị thần bảo vệ ngư dân trước những hiểm nguy của biển cả. Nghi lễ thờ cúng cá Ông không chỉ mang ý nghĩa tâm linh mà còn phản ánh những giá trị văn hóa, lịch sử và phong tục tập quán của người dân vùng biển. Bài viết này sẽ khám phá nguồn gốc, ý nghĩa và các nghi lễ liên quan đến tục thờ cá Ông, từ đó làm nổi bật vai trò của nó trong đời sống và văn hóa của cộng đồng ven biển Nam Trung Bộ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tục thờ cá Ông ở ven biển Nam Trung Bộ

  1. 52 NGUYỀN THANH LỢI - TỤC THÒ CÁ ÔNG ỏ ... Chí Minh, Tiền Giạng, Bến Tre... những nơi đã từng lưu dấu chân của Nguyền Ánh TỤC THỜ CÁ ÔNG hoặc như truyền thuyết ở Bình Thuận kể rằng, vua Gia Long trong một lần ngự ở VEN BIỂN nam thuyền rồng ở Huế, chẳng may thuyền gặp phong ba, trôi dạt vào đến tận Bình Thuận. TRUNG BỘ _____________________• _____ Vua được cá Ông cứu, đưa thuyền vào bờ, nhưng cá thì kiệt sức mà chết [28, tr.36]. Riêng ở thôn Quảng Hội (xã vạn Thắng, NGUYỄN THANH LỢI huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà) lại có truyền thuyết liên quan đến Quan Công và 1. N guồn gốc tụ c thờ cá O ng ở ven ông Nam Hải. Một con phượng hoàng đẻ ra biển N a m T ru n g Bộ hai trứng, một trứng rổt xuống biển Đông Tục thờ cá Ông là một tín ngưỡng dân hoá thành ông Nam Hải (cá voi) và trứng gian khá phổ biến của ngư dàn ven biển kia rơi trên đất liền, được một vị hoà nước ta, từ Thanh Hoá vào đến tận Kiên thượng ấp trong đại hồng chung, sau 100 Giang. Ó ven biển Quảng Ninh cũng có tục ngày nở ra Quan Thánh, vị này sau bị dẹp thờ cá voi trong những miếu nhỏ ở những sau ót do chui ra từ trong chuông (?). nơi cá voi vào bờ hoặc nơi cá voi chết, song Còn sự tích nhà Phật kể rằng: Một hôm không có lăng thờ [23, tr.571]. Dọc theo bờ Phật Bà Quan Âm tuần du trên biển Đông, biển, hầu hết các làng chài đều có các lăng miếu thờ cá Ông với những nghi thức cúng thấy dân lành đói khổ, thường xuyên phải tê hết sức trang trọng. ra biển kiếm ăn trong điêu kiện mưa gió bão bùng, tính mạng có lúc bị đe doạ... Các thư tịch cổ như Thối thực kí văn, Động lòng thương, Phật Bà đã xé vụn chiêc Đại Nam nhất thống chí, Gia Định thành áo cà sa của mình, quăng xuống biến, biến thông chí... đều miêu tả cá Ông tính tình thành vô vàn con cá voi. Cùng với bộ xương hiền lành hay cứu người, là vật hiển linh, thường chỉ xuất hiện ỏ biển phía Nam, từ voi và “phép thâu đường’’ (phép rú t ngắn sông Gianh vào đến Hà Tiên. đường đi) đã được Phật Bà ban cho, cá voi làm nhiệm vụ cứu người giữa bão tôi Theo truyền thuyết của dân chài, thì tục thờ cá Ông bắt nguồn từ chuyện một Trong thần thoại Chăm, cá voi vôn là chàng sĩ tử bị thầy đồ rú t gươm chém đầu hoá thân của vị thần Cha-Aih-Va. Vì nôn và hoá thành cá voi, suốt bôn mùa bơi trên nóng trở về xứ sở sau thời gian rèn luyện biển để cứu người bị nạn. phép thuật, Cha-Aih-Va đã cãi lời thầy tự M ột tru y ề n th u y ế t khác kể về việc ý biến thành cá voi, ra sông lớn mà đi và Nguyễn Anh (sau này là vua Gia Long) sau đó bị trừng phạt. Cha-Aih-Va đổi tên trong quãng đời bôn tẩu của mình, được cá và tự xưng là Po Riyah (thần Sóng Biển), Ông cứu sông trong một lần thuyền sắp bị cũng có lúc hoá thân thành thiên nga, trở đắm, lúc đang bị quân Tây Sơn rượt đuổi thành ân nhân của những người bị đắm trên biển (rất giông truyền thuyết phổ biến thuyền [10, tr.l]. Cũng theo thần thoại này ỏ Vàm Láng thuộc xã Vàm Láng, huyện Gò (Bài ca Patan Gahlau), có một thời gian Công, tỉnh Tiền Giang). Dạng truyền dài, vua cá voi sông ở Lào và người ta đã thuyêt này cũng khá phổ biến ở các tỉnh lập những ngôi đền ở đây để thờ phụng Nam Bộ như Bà Rịa - Vũng Tàu, Tp. Hồ thần hộ mệnh [1, tr .117-118].
  2. TCVHDG SỐ 4/2006 - NGHIÊN cứu TRAO Đ ổ l 53 Và trong dòng chảy của tín ngưỡng tiến hành, coi như một hình thức “giỗ ông” này, cùng tồn tại ở vùng Nam Đảo (châu vậy. Á), Nhật Bản những huyền thoại về các Quảng Nam - Đà Nẵng: Tam Hải (20/1 thần dạt vào từ biển. Đã có một truyền âm lịch), Thanh Khê (6/1 âm lịch), Mân thuyết về con cá voi thần kì, chở đến cho Thái, Thọ Quang (26/1 âm lịch), Tân người miền núi phía Nam Việt Nam một Chánh (16/2 âm lịch), An Vĩnh (20/2 âm hài nhi cứu thế, giải phóng loài người khỏi lịch), An Bàng (15/1 âm lịch), cẩm Thanh bị đau khổ. Trong khi đó ở Campuchia lại (10/2 âm lịch) [7, tr.46]. không tìm thấy dấu vết gì về sự thờ cúng Quảng Ngãi: Bình Thạnh (18/1 và 15/8 này [8, tr.122]. âm lịch), Bình Thuận (15/2 và 15/8 âm Tục thờ cá Ông vốn là tín ngưỡng của lịch), Bình Dương (8/1 và 15/7 âm lịch), người Chăm (thuộc khu vực văn hoá Nghĩa An (16/1 âm lịch), Phổ Thạnh (3/1 Malayo - Polynési) mà những lưu dân âm lịch). người Việt trên bưốc đường Nam tiến đã Bình Định: Nhơn Hải (12/2 âm lịch), tiếp thu được trong quá trình giao lưu văn Đề Gi (10/4 âm lịch), Tiên Châu (15/12 âm hoá và tín ngưỡng này đã ăn sâu vào kí ức cư dân ven biển thông qua việc tổ chức các lịch), lăng Õng ở sô 72 Nguyễn Huệ, Quy lễ hội cúng cá voi hằng năm diễn ra trên Nhơn (5/2 âm lịch). vùng đất mới này [16, tr.24-27]. Khánh Hoà: Trí Nguyên (12/5 âm lịch), 0 miền Bắc, do ảnh hưởng của văn hoá Khánh Cam (6/4 âm lịch), Cam Linh (16/7 Trung Hoa, chuyên đánh bắt cá voi nên âm lịch), Bá Hà 1 (16/2 âm lịch), Xương không có tục thờ này. Trong dân gian hay Huân (23/6 âm lịch), Cù Lao (16/6 âm lịch), lưu truyền câu “Tại Nam vi thần, tại Bắc vi Trường Tây (16-17/7 âm lịch), Vĩnh Trường ngư” (ở miên Nam là thần, miền Bắc chỉ là (11- 2 âm lịch). cá) là vì vậy. Bình Thuận: Thuỷ Tú (20/6 âm lịch), Về tín ngưỡng, đa số ngư dân Nam Bình Thạnh (16/6 âm lịch), Hưng Long (15- Trung Bộ theo đạo thờ cúng ông bà tổ tiên. 17 âm lịch), Hiệp Hưng, Bình Hưng (15- Trong hoạt động ngư nghiệp, họ coi trọng 17/2 âm lịch), Liên Hương, Tả Tân (15-17/6 việc thờ cúng các vị thần hữu hình và vô âm lịch). hình như Hà Bá, Ngũ vị Long vương, Bát Nhìn chung, ngày tháng cúng tuỳ Bửu công chúa, Các Bác, Bà chúa Xứ, Bà thuộc vào ngày Ông “lụy”, ngày vua ban sắc chúa Đảo, ông Sứa, Rái Cá, ông Nược (cá phong hoặc theo phong tục, công việc làm heo), bà Tám (rùa biển), Mộc Trụ thần xà, ăn mà định ngày cúng, song hầu hết lễ bà Lạch (rắn biển)... Tuy nhiên, cá Ông là cúng cầu ngư tập trung vào hai mùa xuân vị phúc thần được ngư dân thờ cúng tôn và mùa thu. Mùa xuân rộ nhất là cuối nghiêm, kính tín vởi những nghi thức, lễ tháng giêng, đầu tháng hai âm lịch. Mùa hội uy nghiêm nhất. thu rộ nhất là mùng 10/8 âm lịch, thời 2. Đ ặc đ iể m thờ cúng điểm kết thúc vụ cá. Lễ tế cá Ong thường kết hợp với lễ cầu ngư, lễ xuồng thuyên 2.1. N g h i th ứ c c ú n g t ế hằng năm, mang tính chất tạ ơn thần Vê thòi gian mở lễ hội cá Ong thì không thánh và cầu mong mùa màng bội thu tốt có ngày thông nhất chung, mà mỗi nơi tuỳ đẹp. Lễ hội được tổ chức trong ba ngày đêm thuộc vào ngày cá Ông đầu tiên luỵ hoặc liền, có nơi kéo dài đến năm hoặc bảy ngày ngày nhận sắc vua phong. Lễ hội này được đêm.
  3. 54 NGUYỀN THANH LỢI - TỤC THÒ CÁ ÔNG ỏ ... 2.2. Đ ô i tư ợ n g th ờ tự Sắc Khánh Hoà tỉnh, N inh Hoà phủ, Trong tín ngưỡng thò cá Ông, Nam Đông Hải thôn, phụng sự Đông Nam Sát Trung Bộ là địa bàn có nhiều sắc phong Hải Lang Thát N hị Đại tướng quân chi hơn so với Nam Bộ và được bảo quản ở tình thần. Hộ quốc tí dân nẫm trứ linh ứng. trạng tốt. Cá Ông thường được phong với Kim phi 'thừa cảnh mệnh niễm thần hưu, các thần hiệu như: “Đông Hải cự tộc ngọc trứ phong vi Trừng Trạm Dực Bảo Trung lân tôn thần”, “ am Hải Đại Nam tướng N Hưng Hạ đắng thần. Chuân kì phụng sự quân”... thứ cơ thần kì tương hựu bảo ngã lê dân. Khăm tai! Lăng Ong ở làng Hưng Lương (xã Nhơn Lý, Tp. Quy Nhơn) hiện còn 6 sắc phong Khải Định nhị niên tam nguyệt thập của vua Minh Mạng (1826), vua Thiệu Trị bát nhật. (1843, 1844), vua Tự Đức (1850), vua Đồng An “Sắc mệnh chi bảo”. Khánh (1892) và vua Khải Định (1924) [19, Dịch nghĩa: tr.34]. Sắc cho thôn Đông Hải, p hủ Ninh Hoà, Đình Trường Tây (Nha Trang, Khánh tỉnh Khánh Hoà nơi đang thờ vị thần Đông Hoà) có 9 sắc thần, trong đó có sáu sắc Nam Sát Hải Lang Thát N hị Đại tướng phong cho cá ông vào các năm: Thiệu Trị quân, từ lâu đã giúp nước che dân nghe rất thứ 3 (1843), Thiệu Trị thứ 1 (1847), Tự Đức linh ứng. Trâm thừa mạng lớn, xét đức thứ 3 (1850), Tự Đức thứ 33 (1880), Đồng mỏng nên luôn nghĩ đến sự linh thiêng của Khánh thứ 2 (1887), Duy Tân thứ 3 (1909). thần, nay đặc phong Trừng Trạm Dực Bảo Các lăng Ong khác ở Khánh Hoà cũng thuộc Trung Hưng Hạ đang thần. Các người hãy loại có nhiều sắc phong trên địa bàn Nam theo đó mà phụng sự cho long trọng. Thần Trung Bộ: Cù Lao (phường Vĩnh Thọ, Tp. hãy giúp trẫm che chở dân đen. Kính thay! Nha Trang, một sắc đời Khải Định thứ 5 - Ngày 18 tháng 3 năm Khải Định thứ 2 1920), Xương Huân (Tp. Nha Trang, năm (1917) [3, tr.9] sắc), Cửa Bé (phường Vĩnh Trường, Tp. Nha Trang, bôn sắc), Bá Hà 1 (xã Ninh Thuỷ, (Phạm Hoàng Quân phiên âm và dịch huyện Ninh Hoà, bôn sắc), Lương Hải (xã nghĩa). Vạn Lương, huyện Vạn Ninh, một sắc). Trong các lăng Ông, thường ở chánh Dinh vạn Thuỷ Tú (phường Đức Thắng, điện có bàn thờ ông Nam Hải, chỉ có một Tp. Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận) có 24 sắc chữ “Thần” viết bằng chữ H án hoặc chữ phong, chỉ riêng đời vua Thiệu Trị (1841 - “Phước”, “Mặc tướng” và ngọc cốt trong 1847) đã có đến 10 sắc phong; vạn Tả Tân quách. Bàn thờ không có tượng, ngai. Phía (huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận) có 16 trên bàn thờ là bức đại tự lớn “ Nam Hải sắc, lâu nhất là sắc phong đời Minh Mạng chư thần". H ai gian bên thờ T ả b an liệt vị thứ 5 (1824); vạn Nam Nghĩa có sắc phong và Hữu ban liệt vị với đầy đủ các đồ thờ đời vua Thành Thái (1900); vạn Long Hải, cúng. Liên Hương có sắc phong đời vua Khải Trong sô' bảy bản văn tế bằng Hán Định; vạn Bình Thạnh, Phước Lộc (Lagi) có Nôm trên địa bàn thị xã Hội An (Quảng nhiều sắc phong đời các vua Nguyễn bị đốt Nam) thấy có cả một tập thể thuỷ thần, huỷ lúc tiêu thổ kháng chiến sau năm 1945 trong đó N am Hải cự tộc ngọc lân (cá voi) ở [24, tr.43-44]. vị trí thứ 8 trong số 60 đối tượng được Sắc thần lăng Õng thôn Đông Hải: thỉnh nhắc trong bài văn [20, tr.1461.
  4. TCVHDG SỐ 4/2006 - NGHIÊN cứu TRAO Đ ổl 55 Các lăng Ông ở Khánh Hoà trên chánh Các bưốc trong lễ hội cầu ngư ở Khánh điện có bài vị thường ghi "Nam Hải cự tộc Hoà là: lễ rưóc sắc, lễ nghinh thuỷ triều, lễ ngọc lân Đại tướng quân”. Trong các bản tế sanh, lễ chánh tế và h át thứ lễ. văn tế, ngoài “vị thần chủ” là Nam Hải, còn Nghi thức cúng cá voi ở Bình Thuận có cả các đối tượng khác trong hệ thông bao gồm: thần linh biển cũng được tỉnh nhắc đến Chiêu ngày thứ nhát: rước ô ng Sanh, như: Lý Ngư, Lý Lực, Hà Bá, ông Sứa, Rái ngư dân đưa kiệu ra sông hoặc cửa biển, Cá, ông Nược (cá heo), bà Tím (rùa biển), đọc văn tế, hát chèo bả trạo đưa Ông để Mộc Trụ thần xà (rắn biển), bà Lạch, ông rước Ông và các thuỷ thần vê dinh lăng vạn Hèo, cô Hồng (rắn biển). Đặc biệt, do đây là an vị. vùng đất chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của sự giao lưu văn hoá Việt - Chăm, nên hầu hết Sáng sâm ngày thứ hai: làm lễ cúng cáo các lăng Ông đêu có ban thờ Thiên Y Ana yết và mổ heo, cắt phần lưng, bụng để nấu với niêm kính tín rấ t sâu sắc của cộng đồng các món cúng lễ, phần còn lại để sông đưa ngư dân. lên bàn thờ chính điện để tế. Sau đó làm lễ dâng trầu, dâng rượu, đọc sắc phong, bài Vạn Thuỷ Tú (Tp. Phan Thiết, tỉnh tế, hát múa bả trạo hầu Ông. Bình Thuận) thờ các vị thần là Nam Hải cự Buổi trưa đến chiêu tối thường tổ chức tộc ngọc lân tôn thần, Thuỷ Long thánh phi cúng lễ khai diên, tô chức múa hát bả trạo, nương nương tôn thần và Thái hiệu tiên sư hát tuồng tại nhà võ ca [27, tr.342-343], tôn thần. Phía sau chánh điện là nhà Tiên vãng thờ các bậc Tiền hiền, Hậu hiền, Quy mô tổ chức lễ hội tuỳ thuộc vào những người có công dựng làng, lập vạn. tình hình thu nhập của từng địa phương, vì Trên địa bàn huyện đảo Phú Quý (thuộc mọi chi phí đểu dựa vào sự đóng góp tự tỉnh Bình Thuận), bên cạnh các bài văn tê nguyện trong vạn ghe. Năm nào biển được nói đến các vị thần linh như thầy Nại, công mùa, không xảy ra chìm ghe, chết người, chúa Bàn Tranh, bà chúa Ngọc hay thần hư mất phương tiện đánh bắt thì việc cúng phò trợ cho nghê' nghiệp như bà Tằm, trong kiến được tô chức to hơn, các hoạt động vui dân gian hiện còn lưu giữ khá nhiều văn tế chơi sôi nổi và phong phú hơn, hát bội kéo bằng chữ Hán như: Nam Hải văn, Nam dài ngày hơn. Trâu bò, heo gà được giết Hải bổn mạn kí văn, Thừa ân Nam Hải thịt, ăn uống linh đình trong dịp cúng tế này. văn, Cáo cựu thần Nam Hải nhập liệm tản vị văn... [26, tr.860] 2.4. Đ á m ta n g c á O n g 2.3. L ễ h ộ i c ú n g c á Ô n g Cư dân ven biển từ Thanh Hoá vào đến phía Nam đều có tục thờ cá Ông. Do vậy, Cũng giông như ở Nam Bộ, lễ cúng cá khi gập cá Ông "luỵ" hay "lị”, ngư dân Ong ở các tỉnh Nam Trung Bộ vê cơ bản là thường tổ chức mai táng rất chu đáo. lễ cúng đình hằng năm. Thông thường cá voi chết do bị cá ép, bị Diễn trình tế lễ thần Nam Hải ở Quảng bệnh già, môi trường ô nhiễm, đôi khi cũng Nam - Đà Nẳng gồm năm phần vói các lễ: do vô ý vướng vào lưới đánh cá. Trường hợp lễ vọng (lễ cáo giỗ hay lễ tiên thường, có ý cá bị sóng lớn đánh dạt vào bờ nhưng chưa nghĩa báo cáo vê việc cúng giỗ, tế), lễ chết, ngư dân sẽ tìm mọi cách đưa cá xuống nghinh Ông Sanh (nghinh Ông), lễ tế cô nước, trở ra biển. Người đầu tiên thấy xác hồn, lễ chánh tế, lễ xây chầu bả trạo và hát cá Ông được xem là trưởng tang, coi như hội [7, tr.37-38]. con ông Nam Hải. Người đó phải đội dây
  5. 56 NGUYỀN THANH LỢI - TỤC THÒ CÁ ÔNG ỏ ... rơm mũ bạc như để tang cha mẹ mình. Dân Hải (huyện Núi Thành, Quảng Nam) khu làng tổ chức đám tang và xem anh ta như mộ có 60 - 70 hài cốt cá ông trên diện tích một vị cao niên được trọng vọng trong làng. l.OOOm2. Trên đảo Hòn Tranh (huyện Phú Nếu người đó là phụ nữ thì bị bãi miễn và Quý, tỉnh Bình Thuận) có một ngôi mộ trưởng tang phải là một người con trai chôn đến 72 con cá voi chết tập thê vào trong gia đình. Người này ở địa phương nào năm 1925. ớ Đầm Môn (huyện Vạn Ninh, thì được phép cung nghinh xác Ong vê cấp tỉnh Khánh Hoà) có trường hợp 11 con cá táng ở lăng của địa phương đó và thường voi lụy cùng một lúc. Những nơi phát hiện xuyên canh gác bên cạnh xác cá voi cho đến được cá Ong chết dạt vào bờ mà quá lởn thì khi hoàn tấ t công việc ma chay. phải dùng đăng quây lại dưói bến cho thịt Trong bài khảo cứu Tín ngưỡng và ruỗng mục ra. Ngư dân miền Trung quan ngạn ngữ dân gian vùng thung lủng Nguồn niệm rằng nêu vùng biển nào có cá Ong Sơn, tinh Quảng Bình (1901), Cadière mô chết tấp vào nhiều thì sẽ được mùa đánh tả: “Khi chôn cất, cá phải được phủ liệm bắt trong nhiều năm liền. trọn vẹn bang vải hoặc lụa. Người đầu tiên Trong lễ chôn cất cá Ông, có một điêu thấy cá được mang tước là trưởng nam và giông nhau giữa các địa phương là người thi hành phận sự ấy... Trưởng nam của cá đầu tiên thấy cá ồ n g luỵ, trong đám tang voi cũng thi hành phận sự y như một phải ăn mặc như trưởng nam. Cụ thể là trưởng nam trong gia đình với người quá nón rơm sô tưa, áo quần màu trắng, ống cô. Ong ta bận áo chế đại tang, đội mủ rơm, rộng, không vắt sổ, đường may lộn trái và áo rộng, xô lai, gấu áo bẻ ra ngoài, một tấm một mảnh nhỏ gắn sau lưng và đi giật lùi vải nhỏ kết đăng sau, nghĩa là anh ta được trước linh cữu trong đám tang. 0 Khánh xem như là người thân thuộc gần nhất của Hoà, tang phục thường may bằng vải đỏ. bậc linh thiêng vừa tạ thế. Chính anh ta là Toàn thê ngư phủ trong làng có bổn phận người sẽ cử hành mọi tang lễ và nhận nhiều tập trung đông đủ để cử hành lễ mai táng ăn lành nhất của cá voi" [6, tr.298]. cho trọng thể. Trước đây thòi gian hành lễ có thê từ ba đến 10 ngày tuỳ theo khu vực. Tuỳ theo ông Lớn hay ông Cậu, việc Ngày nay lễ diễn ra trong ba ngày ba đêm, chôn cât cá voi có khác nhau. Theo ngư dân chi phí rấ t tốn kém. thì cá voi lớn gọi là cá Ong, nhỏ hơn thì gọi là cá Cô và cá Cậu. Ngoài ra, tuỳ theo địa Đúng ba năm, thịt cá voi rữa hết, người phương và đặc điểm hình dáng, địa bàn ta tiên hành lễ quật mộ, hài côt đem vào hoạt động mà cá voi có nhiều tên gọi khác lăng thờ, gọi là “thượng ngọc cốt”. Ngọc cốt nhau: ông Khơi, ông Lộng, ông Chuông, ông được rửa bằng rượu trắng và phơi khô, do Kìm, ông Xưa, ông Đựng, ông Hoa, ông một ngư dân cao tuổi phụ trách và được cho Ngư, ông Thông, ông M áng, ông Thoi, ông vào các thùng, quách, khạp, niêm phong cẩn Mun, ông Đăng, ông Hổ... Khi chôn cất ông thận, đưa vào lăng thờ. Theo ngư dân, khi Lớn, người ta xây bọc ván xung quanh, không trúng mùa cá, họ đến đây làm lễ rưởc phía trên đổ cát trắng, nơi nào có điều kiện ngọc cốt, đô rượu trắng vào ngọc cót, hứng thì xây mộ tập thể bằng xi măng. Với ông lấy và đem rưới vào dàn lưới, cầu mong cho Cậu thì an táng nơi mộ phần. Các lăng Ông đánh bắt được nhiều cá tôm. Lăng Thuỷ Tú đều có các khu nghĩa trang dành để mai chứa hơn 100 bộ xương cá voi, trong đó có táng cá Ông như Tam Hải (huyện Núi hàng chục bộ xương gần 200 năm tuổi. Lăng Thành, Quảng Nam) có đến trên 300 mộ cá An Thạnh (xã Tam Thanh, huyện Phú Quý, voi (lớn nhất nước), lăng ồng ở xã Xuân tỉnh Bình Thuận) hiện còn giữ trên 70 bộ
  6. TCVHDG SỐ 4/2006 - NGHIÊN cứu TRAO Đ ổ l 57 xương cá voi, trong đó có bộ dài đến 25m (từ Phú Yên) có đến ba lăng thờ cá Ong. Tỉnh năm 1960) với trọng lượng cá voi trôn 40 Khánh Hoà có 50 lăng dọc theo các huyện tấn, bộ xưa nhất là năm 1841 [13], thị ven biển: Vạn Ninh (13 lăng), Ninh Hoà Ngoài việc chôn cất, người được coi là (15 lăng), Tp. Nha Trang (11 lăng), thị xã con ông Nam Hải phải chịu tang trong ba Cam Ranh (11 lăng), trong đó có 12 lăng năm. Tang phục thay đổi tuỳ nơi, nhưng phân bô' trên các đảo. Mỗi xã phường ven đêu phải bịt khăn điêu màu đỏ. Trong khi biển trong tỉnh thường có một lăng, có nơi có đến hai, ba, bốn lăng (nhiều thôn trong thọ tang, cử hành theo nghi lễ cổ truyền, một xã), thậm chí phường Vĩnh Nguyên hoàn toàn dựa vào Thọ Mai gia lễ nhưng (Tp. Nha Trang) có đến sáu lăng. Thôn Sơn rút ngắn hơn so với lễ tang người. Cũng Hải (xã Phước Dinh, huyện Ninh Phước, theo ngư dân, trong thời gian chịu tang Ninh Thuận) có hai điểm thờ. Bình Thuận này, người trưởng nam luôn mạnh khoẻ, có 26 lăng, dinh, vạn thờ cá voi, chỉ riêng nhưng về đường tài lợi chỉ ở mức trung huyện đảo Phú Quý đã có đến 9 lăng thờ bình. Mãn tang, người này sẽ làm ăn thịnh thần Nam Hải. vượng và gặp nhiều may mắn. Về niên đại, đa sô' các lăng Ông ở Nam 2.5. K iê n tr ú c lă n g O n g Trung Bộ có niên đại lâu hơn các lăng Ông Tín ngưỡng thờ cúng cá Ông gắn với ở Nam Bộ, cá biệt có những lăng được một loại hình kiên trúc mà cư dân ven biển thành lập rấ t lâu như: Thuỷ Tú (1762), thường gọi là lăng. Tuỳ theo quy mô lởn được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá cấp nhỏ, ở mỗi địa phương có những tên gọi quốc gia tháng 1-1996; lăng An Thạnh (xã khác nhau: lăng, vạn, dinh, lạch, đình, Tam Hải, huyện Phú Quý, tỉnh Bình điện, đền, miếu. Hầu như các làng ven biển Thuận) xây dựng năm 1781; lăng ông thôn làm nghề cá đều có lăng miếu thờ cúng Hưng Long (xã Nhơn Lý, Tp. Quy Nhơn) thuỷ thần mà tiêu biểu nhất là cá Ông với xây vào đầu thê kỉ XIX dưới thời vua Gia thần hiệu “ Nam Hải cự tộc ngọc lân tôn Long, trùng tu năm 1992; lăng Thạch Long thần'. Một số địa phương cũng gọi ông (Tp. Phan Thiết) xây năm 1795. Nam Hải vối những tên khác như Đông Hải đại vương, Nam Hải thuỷ thần... Lăng Kiến trúc của lăng Ong cơ bản mang Cô thôn Từ Thiện (Ninh Thuận) thờ bà dáng dấp một ngôi đình, vừa mang chức Nam Hải đại vương (cá voi cái). Tương tự, năng tín ngưỡng vừa mang chức năng thê các lăng thờ cá voi cái ở Cam Linh (thị xã tục. Lăng thường được xây gần sông, biển Cam Ranh, Khánh Hoà - năm 1945, một và quay ra hướng đông. Lăng thường được con cả voi cái dài 4m bị lính N hật bắn chết, chia làm ba phần. Phần trước là võ ca, coi trôi dạt vào bờ và được dân địa phương đưa như sân khấu, dùng làm nơi hát tuồng, vào lăng thờ cúng) và một số làng chài ở chèo đưa Ông, hò bả trạo... trong các kì hội Ninh Thuận, từ Vĩnh Hi vào đến Cà Ná lễ. Phần giữa là chánh điện, thờ ngọc cô't cá như ở Ninh Chữ, Sơn Hải, Cà Ná cũng gọi ông (xương cá voi), các bài vị thuỷ thần, các lăng thờ cá cái là lăng Cô. Tiền hiền, Hậu hiền. Phần nhà sau (có Ó Nam Trung Bộ, các lăng Ông phân những trường hợp xây ra hai bên), dùng để bô' dày đặc ở các tỉnh Bình Định, Phú Yên, hội họp, tiếp khách và là nơi phục dịch. Khánh Hoà, Bình Thuận. Quảng Nam - Đà Trước sân có bình phong chạm trổ long, li, Nang có 20 lăng, phường Mân Thái (quận quy, phụng. Sơn Trà, Tp. Đà Nằng) có tới hai lăng. Chỉ Các lăng thờ cá Ông ở Khánh Hoà riêng xã Hoà Tâm (huyện Tuy Hoà, tỉnh thường nằm trong các vạn chài, ở địa thế
  7. 58 NGUYỀN THANH LỢI - TỤC THÒ CÁ ÔNG ỏ... cao, thoáng, mặt hướng ra biển. Duy chỉ có quăng lưới, buông câu. Đội hình chèo lăng Ông phường Xương Huân (Tp. Nha thuyền gồm tổng mũi, tổng lái, tổng khoan Trang) nằm sâu trong nội ô (sô 4 Lê Lợi) và các tay chèo. Đây là loại hình diễn nhưng vẫn được ngư dân thờ cúng chu đáo xướng tổng hợp nhiêu làn điệu dân ca như: (khuôn viên của lăng hiện nay đã bị thu hò, vè, lí, hát tuồng, nói lối. Nội dung hát hẹp do quá trình đô thị hoá). Một sô điểm của bả trạo gần như một vở diễn, nên lời thờ cá Ông nằm chung trong đình làng như: hát đầy dãy những câu văn cầu siêu, cầu Trường Tây, Trí Nguyên, Trường Đông (Tp. hồn vói những lớp từ ngữ Hán lẫn Nôm xen Nha Trang), Bá Hà 1, Đông Hà (huyện Ninh kẽ. Múa bả trạo được tổ chức trong ngày Hoà). Lăng ông Cù Lao (phường Vĩnh Thọ, cúng ở lăng Ông của làng nghề cá hoặc ở Tp. Nha Trang) nằm trong cụm cơ sở tín miếu âm linh, thường tổ chức hằng năm ngưỡng dân gian gồm đình làng - ngôi tiền hay hai, ba năm một lần. hiền - chùa làng - lăng Ông. Hát bội là loại hình nghệ thuật quan Lăng Ông Thuỷ Tú được xây dựng trên trọng không thể thiếu được trong bất kì lễ khuôn viên rộng 1.963m2 với diện tích xây hội cúng cá Ông của ngư dân ven biển Nam dựng 530m2, kiến trúc hài hoà, cân đổi theo Trung Bộ. Hát bội trong lễ hội này còn gọi dạng chữ tam, gồm chánh điện, tiền vãng là hát thứ lễ, hát án hay hát cúng lăng. và võ ca. Ban đầu, lăng chỉ là một ngôi nhà Khai chầu hát thường là những tuồng tích gỗ, lợp lá. Năm 1882, lăng được xây bằng có tính chất “đánh đông dẹp bắc” như Tiết gạch, lợp ngói âm dương. Năm 1849, người Nhơn Quý chinh đông, Lưu Kim Đính hạ ta xây tiếp võ ca và năm 1916 xây cổng tam san, Mộc Q uế Anh dâng cây... Kết thúc kì quan. Nơi đây hiện đang lưu giữ bộ xương hát bao giờ cũng có màn "tôn vương", coi cá voi lốn nhất Đông Nam Á và trở thành như hết cơn bĩ cực đến thời thái lai, thường là tuồng Sơn Hậu. Các vở tuồng thường kết điểm tham quan văn hoá. thúc có hậu, ít cảnh binh đao chết chóc. 2.6. C ác s in h 'h o ạ t v ă n h oá d â n g ia n Thời gian diễn tuồng có khi kéo dài đến 2 - Hát bả trạo còn gọi là hò đưa linh, chèo 3 giờ sáng nhưng vẫn thu hút rất đông cầu ngư, hát bạn chèo đưa Ông là loại hình khán giả và người xem rấ t hào hung. Các nghệ thuật diễn xướng dân gian mang tính đêm hát này không dính dáng đến nghi lễ. nghi lễ, gắn vối tục thờ cá voi của cu' dân chỉ mang tính chất giải trí. ven biển từ Quảng Bình đến Bà Rịa - Vũng Tuỳ theo đặc điểm của các vùng miên, Tàu: “Các bản chèo - ít ra từ vùng nam Hải hoạt động không thể thiếu được trong lễ hội Vàn đến sát Bà Rịa - đều có những văn bản cúng cá Ông là đua thuyền, lắc thúng chai, giông nhau trên đại thê, để diễn xướng giã gạo, đấu võ cổ truyền, đi cà kheo, kéo trong các lễ đưa đám cá voi, mở mùa cá co, bóng chuyển, đá bóng cùng những hoạt theo cách thức trình bày mang tính hát bội động văn nghệ dân gian như hát dân ca, rõ rệt" [29, tr.265]. hát hò khoan... Hát bả trạo là gọi theo hình thức diễn 3. V à i n h ậ n x é t xướng. Bả là cầm, nắm; trạo là mái chèo. - Nằm trong dòng chảy của tục thờ Trong hát bả trạo, lời hát và động tác múa thần biển nước ta, tục thờ cá Ông của cư diễn tả lại quá trình đi biển từ lúc thuyền dân ven biển Nam Trung Bộ có những nét ra khơi đánh cá cho đến lúc về bên, trong độc đáo riêng. Từ việc tiếp thu tín ngưỡng hành trình dó có lúc vất vả chông chọi với của dân tộc Chăm, tục thờ cá ông của giông bão; có lúc biển lặng trăng thanh, người Việt ngày nay đã có những biến cải
  8. TCVHDG SỐ 4/2006 - NGHIÊN cứu TRAO Đ ổ l 59 rất cơ bản qua đô'i tượng thờ tự, nghi lễ, - Đà Nang, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học diễn xướng, kiến trúc, bài trí Văn hóa Hà Nội. - Nó góp phần bảo lưu các giá trị văn 8. Jean Chevalier - Alain Gheerbrant (1997), Từ điển biểu tượng văn hoá thê giới, Nxb. hoá truyền thông: nét đẹp của phong tục, Đà Nẵng - Trường Viết văn Nguyễn Du. các loại hình diễn xướng dân gian, nghệ 9. Nguyễn Văn Khánh - Giang Nam chủ thuật sân khấu, tinh thần cố kết cộng đồng. biên (2003), Địa chí Khánh Hoà, Nxb. Chính trị - Tục thờ này làm thoả mãn nhu cầu Quốc gia, Hà Nội. tâm linh của phần lớn ngư dân, tuy nhiên, 10. Nguyễn Văn Kim (1985), v ề tục thờ cũng cần phải gạt bỏ đi những yếu tô mê cúng cá voi (cá Õng) ở vùng ven biển Bên Tre, tín, lạc hậu. Tập tục này còn mang đậm giá Tài liệu đánh máy. trị nhân văn, thể hiện thê ứng xử vãn hoá 11. Trần Việt Kỉnh (2002), “Tìm hiểu thêm của ngư dân trưốc biển cả. vê' lễ hội cầu ngư ở Khánh Hoà” trong Khánh Hoà diện mạo văn hoá một vùng đất, tập 4, Bảo - Tục thờ cá Ong là loại hình sinh hoạt tàng Khánh Hoà - Chi hội Văn nghệ dân gian văn hoá dân gian độc đáo của cư dân ven Khánh Hoà. biển nước ta, cần được bảo tồn, nghiên cứu 12. Hình Phước Liên (1999), Lễ hội cầu ngư và có một thái độ ứng xử phù hợp. Có thể ở Khánh Hoà, Luận văn tốt nghiệp đại học, nghiên cứu, định hưống cho lễ hội này Trường Đại học Văn hoá Hà Nội. thành ngày hội văn hoá dân gian miền biên 13. Tuyết Linh (1996), “Danh thắng ở như một số địa phương bước đầu tổ chức huyện đảo Phú Quý”, Tạp chí Dãn tộc và thời thành công.o đại, số 26. 14. Nguyễn Thanh Lợi (2001), “Tục thờ cá N .T .L . Õng ở Khánh Hoà”, Tạp chí Khoa học công nghệ và môi trường Khánh Hoà, số tháng 6. TÀI LIỆU THAM KHẢO 15. Nguyễn Thanh Lợi (2003), “Tục thờ cá Ông ở Bà Rịa - Vũng Tàu”, trong Thông báo văn 1. Antoine Cabaton (1901), Nouvclles hoá dân gian 2002, Nxb. Khoa học xã hội, Hà rccherches sur le Cham, EFEO. Nội. 2. Nguyễn Chí Bền, Lê Thê Vịnh biên 16. Nguyễn Thanh Lợi (2003). “Giao lưu soạn (2003), Địa chí Phú Yên, Nxb. Chính trị văn hóa Việt - Chăm nhìn từ tục thò cá ông”, Quôc gia, Hà Nội. Tạp chí Văn hóa dân gian, số 2. 3. Trần Bích (2003), “ông thần Nam Hải”, 17. Nguyễn Thanh Lợi (2003), “Tín ngưỡng Báo Sài Gòn tiếp thị 2003. thờ cá voi ở thành phô' Hồ Chí Minh”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam A, số 6. 4. Tôn That Bình (1982), “Một sô' tín ngưỡng, tục lệ của cư dân vùng biển từ Bình Trị 18. Nguyễn Thanh Lợi (2004), “Tục thờ cá Thiên đến Bình Thuận”, Tạp chí Dán tộc học, Ong ỏ Nam Bộ” trong Nam Bộ đất và người, tập số 2. 2, Hội Khoa học Lịch sử Tp. Hồ Chí Minh, Nxb. Trẻ. 5. Phạm Vũ Dũng (1999), “Thò cúng cá Ông ở Khánh Hoà trong dòng thờ cúng của ngư 19. Ngọc Minh (1998), “Di tích văn hoá Quy Nhơn”, Tạp chí Xưa và Nay, số 48B, tháng 2. dân ven biển Nam Trưng Bộ” trong Văn hoá phi vật the Khánh Hoà, Nguyễn Văn Khánh chủ 20. Nguyễn Đức Minh - Trần Văn Nhân biên, Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà Nội. (1991), “Một sô' lễ hội nước ở hội An”, trong Đô 6. Đỗ Trình Huệ (2000), Văn hoá tín thị cô Hội An, Kỉ yếu hội thảo, Nxb. Khoa học xã ngưởng gia đình Việt Nam qua nhãn quan học hội, Hà Nội. giả L. Cadière, Nxb. Thuận Hoá, Huế. 21. Lê Quang Nghiêm (1970), Tục thờ cúng 7. Nguyễn Xuân Hương (1997), Tục thờ của ngư phủ Khánh Hoà, Tác giả xuất bản, Sài cúng cá Ông của ngư dân vùng biển Quảng Nam Gòn.
  9. 60 NGUYỀN THANH LỢI - TỤC THÒ CÁ ÕNG ỏ ... 22. Nguyễn Anh Ngọc (2002), “Lễ hội cầu 27. Nguyễn Duy Thiệu (2002), Cộng đồng ngư ở Mân Thái” trong Các công trình nghiên ngư dân ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà cứu của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, tập 3, Nội. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 28. Trần Thương, “Những điều kì thú về cá 23. Nguyễn Hồng Phong - Vũ Khiêu chủ voi ở Bình Thuận”, Tạp chí Du lịch Việt Nam. biên (2003), Địa chí Quảng Ninh, tập 3, Nxb. 29. Tạ Chí Đại Trường (1989), Thần, người Thế giới. và đất Việt, California, USA. 24. Sở Khoa học công nghệ và môi trường 30. Trần Đại Vinh (1995), Tín ngưỡng dân Bình Thuận (1994), Một số vấn đề cấp bách về văn hoá - xã hội cư dân vùng biên Bình Thuận gian Huế, Nxb. Thuận Hóa, Huế. 1991-1993. 31. Lê Thế Vịnh, “Cá Ông trong tâm thức 25. Sỏ Văn hoá - Thông tin Bình Thuận người dân làm nghề biển ở Phú Yên” trong Tìm (chưa xuất bản), Địa chí Bình Thuận. hiểu đặc trưng di sản văn nghệ dân gian Nam Trung Bộ, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam - 26. Võ Thị Tân (2000), “Sưu tầm tư liệu Liên hiệp các hội Khoa học kĩ thuật Phú Yên - Hán Nôm trên đảo Phú Quý” trong cuốn Những Trường Cao đẳng Sư phạm Phú Yên (2005), thành tựu nghiên cứu khoa học (Nguyễn Thê Nghĩa chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. xuất bản từ năm 2007 đến hết năm 2010. TIN TỨC Có m ặt tại buổi đánh giá đề cương, ngoài (T iếp theo tr a n g 82) sự có mặt của các thành viên Hội đồng Việt giới thiệu diện mạo văn học dân gian khoa học, còn có TS. Phạm Văn Vang, theo thể loại: tục ngữ, câu đô', truyền Trưởng ban Ban Kê hoạch tài chính của thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, truyện Viện Khoa học xã hội Việt Nam; TS. Vi ngụ ngôn, giai thoại văn học, truyện Nôm Quang Thọ, Giám đôc Nhà xuất bản Khoa bình dân, vè, ca dao, kịch bản chèo, kịch học xã hội; PGS. TS. Võ Quang Trọng, Phó bản tuồng dân gian; do GS. TS. Nguyễn Viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hoá. Xuân Kính, PGS. TS. Trần Đức Ngôn, GS. Sau khi nghe GS. TS. Nguyễn Xuân TS. Kiều Thu Hoạch, PGS. TS. Nguyễn Thị Kính, Viện trưởng Viện Nghiên cứu văn Huế, PGS. TS. Nguyễn Chí Bên, TS. Vũ Tô' hoá trình bày đề cương biên soạn, các Hảo, PGS. Hà Vãn cầu , TS. Nguyễn Xuân thành viên trong Hội đồng (GS. TSKH. Tô Ngọc thanh; GS. Tsi Lê Chí Quế; PGS. TS. Yến,... biên soạn. Khổng Diễn; PGS. TS. Phạm Quang Hoan; Ngày 17 tháng 8 năm 2001, tại sô' 1 PGS. TS. Trần Đức Ngôn; PGS. TS. Liễu Giai, Hà Nội, Hội đồng khoa học do Nguyễn Tri Nguyên; PGS. TS. Trần Đức Viện Khoa học xã hội Việt Nam thành lập, Cường) đã nhận xét, nêu câu hỏi và đêu dưới sự chủ trì của PGS. TS. Trần Đức khắng định việc giám định văn bản và việc Cường, Phó Chủ tịch Viện Khoa học xã hội in chữ d ân tộc (hoặc p h ầ n p h iên âm tiếng Việt Nam, đã họp để đánh giá "Đề cương dân tộc) là hết sức đúng đắn và cần thiết. biên soạn Tổng tập văn học dân gian các Sau khi nghe GS. TS. Nguyễn Xuân Kính dãn tộc thiểu sô Việt N am ". Đây là công trả lời các câu hỏi và tiếp thu sự góp ý của trình do Nhà xuất bản Khoa học xã hội và Hội đồng, từng thành viên trong Hội đồng Viện Nghiên cứu văn hoá hợp tác thực đã bỏ phiếu kín đánh giá. Kết quả, Hội hiện. Công trình nhằm giới thiệu văn học đồng nhất trí tán thành việc biên soạn bộ dân gian các dân tộc thiểu sô' theo thê loại, Tông tập văn học dân gian các dân tộc dưởi hình thức song ngữ. Công trình gồm thiều số Việt Nam. 23 tập khố lớn, được tổ chức biên soạn và P .v
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2