Nghiên cứu Y học <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014<br />
<br />
TƯƠNG QUAN GIỮA HÌNH THÁI XƯƠNG MẶT VÀ SỰ MỌC LỆCH, <br />
NGẦM CỦA RĂNG KHÔN HÀM DƯỚI <br />
Đặng Thị Thắm*, Nguyễn Thị Bích Lý* <br />
<br />
TÓM TẮT <br />
Mục tiêu: Nguyên nhân răng khôn hàm dưới mọc lệch, ngầm là do khoảng cách mọc răng không đủ trong <br />
vùng hậu hàm giữa mặt xa răng cối lớn thứ hai và bờ trước cành đứng xương hàm dưới. Khoảng cách này có <br />
liên quan đến sự tăng trưởng của mặt, trong đó những dạng hình thái mặt dài thường có chiều rộng cung răng <br />
hẹp hơn hình thái mặt ngắn nên thường thiếu chỗ mọc cho răng khôn hàm dưới. Nghiên cứu được thực hiện <br />
nhằm xác định và so sánh tỉ lệ răng khôn hàm dưới mọc lệch, ngầm trên những bệnh nhân ở các dạng hình thái <br />
mặt khác nhau. <br />
Phương pháp: Mẫu nghiên cứu bao gồm 100 phim sọ nghiêng và 100 phim toàn cảnh của bệnh nhân đến <br />
khám và điều trị tại khoa Răng Hàm Mặt – đại học Y Dược TP.HCM. Dựa vào bản vẽ nét của phim sọ nghiêng, <br />
thực hiện đo đạc góc trục mặt (BaNa‐PtmGn), góc mặt phẳng hàm dưới (PoOr‐GoMe) để phân loại bệnh hình <br />
thái mặt và đánh giá mức độ mọc lệch, ngầm của răng khôn hàm dưới trên phim toàn cảnh theo phân loại Pell – <br />
Gregory và Winter. <br />
Kết quả: Dựa theo số đo trung bình của góc trục mặt và góc mặt phẳng hàm dưới, các cá thể trong mẫu <br />
nghiên cứu được phân thành các nhóm theo dạng hình thái mặt khác nhau gồm: 37% hình thái mặt dài, 35% <br />
hình thái mặt cân xứng, 28% hình thái mặt ngắn. Tỉ lệ tổng thể răng khôn hàm dưới mọc lệch, ngầm là 54%; <br />
trong đó tỉ lệ răng khôn hàm dưới mọc lệch, ngầm cao nhất ở nhóm bệnh nhân có hình thái mặt dài (62,16%), kế <br />
đến là nhóm bệnh nhân có hình thái mặt cân xứng (54,29%) và thấp nhất ở nhóm bệnh nhân có hình thái mặt <br />
ngắn (42,86%), tuy nhiên khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. <br />
Kết luận: Trong phạm vi của nghiên cứu, có thể kết luận những bệnh nhân có khuôn mặt phát triển theo <br />
chiều ngang thì có tỉ lệ răng khôn mọc lệch, ngầm ít hơn bệnh nhân có khuôn mặt phát triển theo chiều đứng. <br />
Từ khóa: Răng khôn hàm dưới, sự mọc lệch, ngầm, hình thái mặt dài, hình thái mặt ngắn, phân loại hình <br />
thái mặt. <br />
<br />
ABSTRACT <br />
THE INCIDENCE OF MANDIBULAR THIRD MOLAR IMPACTIONS <br />
IN DIFFERENT SKELETAL FACE TYPES <br />
Dang Thi Tham, Nguyen Thi Bich Ly <br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 352 ‐ 357 <br />
Background: The cause of mandibular third molar impaction is said to be due to inadequate space between <br />
the distal of the second mandibular molar and the anterior border of the ascending ramus of the mandible. The <br />
amount of space is determined primarily by facial growth. This study aimed to evaluate and compare the <br />
incidence of mandibular third molar impactions between different patterns of facial growth. <br />
Method: Lateral cephalometric and panoramic radiographs of 100 healthy, Vietnam were examined. The <br />
facial type categorized by the facial axis angle, mandibular angle and the degree of impaction was determined by <br />
the Pell and Gregory system. <br />
* Khoa Răng Hàm Mặt, Đại Học Y Dược TP HCM <br />
Tác giả liên lạc: BS. Đặng Thị Thắm ĐT: 0945797975 <br />
<br />
352<br />
<br />
Email: thamdangrhm@gmail.com<br />
<br />
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 <br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Results: The facial type was determined by a measure of the facial axis angle and mandibular angle: 37% <br />
had a facial axis angle regarded brachyfacial, 35% had a facial axis angle regarded mesofacial, and 28% were <br />
dolichofacial. The overall rate of mandibular third molar impaction was 54%, the rate of impaction of mandibular <br />
third molars in brachyfacial group was 62,16%, in mesofacial was 54,29% and 42,86% in dolichofacial. <br />
Conclusions: Within the limitations of the study, it was concluded that the greater horizontal facial growth <br />
pattern of brachyfacial subjects have a lower incidence of mandibular third molar impactions than dolichofacial <br />
subjects. <br />
Keywords: Third molar, impaction, dolichofacial, brachyfacial, skeletal face type. <br />
<br />
MỞ ĐẦU <br />
Răng khôn là răng xuất hiện sau cùng trên <br />
cung hàm, cũng là răng có tỉ lệ mọc lệch, ngầm <br />
nhiều hơn bất kỳ răng nào khác(1). Khi răng khôn <br />
mọc lệch, ngầm có thể gây ra nhiều biến chứng <br />
ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như chất lượng <br />
cuộc sống của bệnh nhân. <br />
Nguyên nhân mọc lệch, ngầm của răng khôn <br />
hàm dưới đã được giải thích có liên quan đến <br />
nhiều yếu tố, trong đó yếu tố được phần lớn các <br />
nghiên cứu trên thế giới thừa nhận chính là do <br />
thiếu khoảng mọc răng từ giữa mặt xa răng cối <br />
lớn thứ hai đến bờ trước cành đứng xương hàm <br />
dưới. Do đó, đánh giá đúng đắn sự tăng trưởng <br />
của hàm dưới và mặt có thể hỗ trợ tiên đoán sự <br />
mọc của răng khôn hàm dưới. <br />
Khung xương mặt phát triển theo hướng về <br />
phía trước và xuống dưới; nếu tăng trưởng cân <br />
xứng, sẽ có sự hài hòa tương đối giữa hai <br />
hướng, và các giá trị số đo tương ứng trên phim <br />
đo sọ sẽ là góc trục mặt khoảng 900 ± 3 và góc <br />
mặt phẳng hàm dưới khoảng 220± 4. <br />
Người có hình thái mặt ngắn sẽ có chiều cao <br />
mặt phía trước ngắn và khuôn mặt rộng. Giá trị <br />
của cả hai góc mặt phẳng hàm dưới và góc hàm <br />
tương đối nhỏ và chiều cao cành đứng lớn hơn. <br />
Trên phim đo sọ, giá trị góc trục mặt > 930, hoặc <br />
góc mặt phẳng hàm dưới 930<br />
180-220<br />
<br />