Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018<br />
<br />
<br />
UNG THƯ DẠNG TẾ BÀO NHẪN NGUYÊN PHÁT TẠI BÀNG QUANG.<br />
BÁO CÁO NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG<br />
Phan Thành Thống*, Phan Đỗ Thanh Trúc**, Châu Hải Tân **, Lê Trung Trực**, Tô Quốc Hãn*,<br />
Nguyễn Xuân Toàn**, Tô Quyền**, Lê Việt Hùng**<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: Ung thư dạng tế bào nhẫn nguyên phát tại bàng quang là một dạng ung thư biểu mô tuyến tiết<br />
nhầy có tế bào nhẫn hiếm gặp tại bàng quang, chiếm từ 0,5% đến 2,0% tất cả các loại ung thư nguyên phát<br />
của bàng quang. Khối u này thường có độ ác tính cao và xâm nhập vào thành bàng quang mà ít tạo nên sự<br />
phát triển vào lòng bàng quang. Triệu chứng bệnh nghèo nàn dẫn đến chẩn đoán chậm và tiên lượng xấu.<br />
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Báo cáo một trường hợp.<br />
Kết quả: Chúng tôi báo cáo một trường hợp nam 50 tuổi nhập viện vì phù toàn thân và tiểu máu. Kết<br />
quả siêu âm và CT scan cho thấy dày thành bàng quang lan tỏa theo dõi u bàng quang, 2 thận ứ nước nghi<br />
do xâm lấn. Bơm rửa bàng quang thu được nhiều dịch nhầy màu trắng. Giải phẫu bệnh của khối u sau khi<br />
cắt bỏ ghi nhận bướu bàng quang dạng carcinoma tuyến tiết nhầy, có thành phần tế bào nhẫn. Kết quả tầm<br />
soát ung thư từ đường tiêu hóa và tuyến tiền liệt không ghi nhận bất thường. Hiện theo dõi sau 3 tháng<br />
hậu phẫu, tình trạng bệnh nhân ổn định.<br />
Kết luận: Ung thư dạng tế bào nhẫn nguyên phát tại bàng quang là một dạng hiếm gặp của ung thư bàng<br />
quang, ít được báo cáo trong các tài liệu. Sự hiếm có và điều trị thành công bằng phẫu thuật cộng với hóa trị là hai<br />
đặc điểm đáng chú ý trong trường hợp này.<br />
Từ khoá: Ung thư biểu mô tuyến, ung thư bàng quang, ung thư dạng tế bào nhẫn nguyên phát tại bàng<br />
quang.<br />
ABSTRACT<br />
PRIMARY SIGNET-RING CELL CARCINOMA OF THE URINARY BLADDER (PSRCC)<br />
Phan Thanh Thong, Phan Do Thanh Truc, Chau Hai Tan, Le Trung Truc, To Quoc Han,<br />
Nguyen Xuan Toan, To Quyen, Le Viet Hung.<br />
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 4- 2018: 250 – 253<br />
<br />
Objectives: Primary signet-ring cell carcinoma (PSRCC) of the urinary bladder is a phenotype characterized<br />
by signet-ring cells containing intracellular mucin-filled vacuole which is really rare, accounts for 0,5% - 2% of<br />
all primary bladder cancers. PSRCC of the urinary bladder is a poorly differentiated adenocarcinoma and often<br />
invase bladder wall instead of developing to cavity of bladder. The patients have no specific symptom which leads<br />
to delayed diagnosis and poor prognosis.<br />
Materials and methods: Case report<br />
Results: We report a 50-year-old man hospitalized with edema and haematuria. Ultrasonography and<br />
computed tomography scan revealed a bladder tumor diffusedly invading the bladder wall, thickened bladder wall.<br />
We got a white mucous liquid from the bladder cavity. We decided to radical cystectomy, histopathological<br />
examination revealed signet-ring cell adenocarcinoma. We checked for primary cancer from gastrointestinal tract,<br />
<br />
* Bộ môn Tiết niệu ĐHYD TP.HCM **Khoa Ngoại-Tiết niệu BV Nhân Dân Gia Định<br />
Tác giả liên lạc: BS. Phan Thành Thống ĐT: 0987797171 Email: phanthanhthong2009@gmail.com<br />
<br />
<br />
250 Chuyên Đề Thận – Niệu<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học<br />
<br />
prostate and no cancer from other organs was found. Our patient is in a stable state after 3-month follow-up post-<br />
radical cystectomy.<br />
Conclusions: PSRCC of the urinary bladder is really rare which is rarely reported in literature. The rarity<br />
and the successful management with surgical and adjuvant chemotherapy are two characteristics described in this<br />
report.<br />
Keywords: Adenocarcinoma, bladder cancer, primary signet-ring cell carcinoma of the urinary bladder.<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ Soi bàng quang<br />
Ung thư dạng tế bào nhẫn nguyên phát tại Ghi nhận bướu bàng quang to, thâm nhiễm<br />
bàng quang là một dạng ung thư biểu mô tuyến toàn bộ thành phải bàng quang, ăn lan ra vùng<br />
tiết nhầy có tế bào nhẫn hiếm gặp tại bàng cổ bàng quang, che lấp không khảo sát được 2<br />
quang. Saphir báo cáo trường hợp đầu tiên vào miệng niệu quản, sinh thiết 2 mẫu. Kết quả giải<br />
năm 1955(6). Đến năm 2014 có chưa tới 100 phẫu bệnh: Bướu bàng quang dạng carcinoma<br />
trường hợp được báo cáo. Chúng tôi trình bày tuyến tiết nhầy, có thành phần tế bào nhẫn (Hình<br />
một trường hợp bướu nguyên phát tại bàng 3). Chúng tôi tiến hành nội soi đường tiêu hóa<br />
quang dạng tế bào nhẫn được điều trị cắt bàng đánh giá và xét nghiệm các marker ung thư<br />
quang tận gốc, mở hai niệu quản ra da, chúng tôi đường tiêu hóa, tuyến tiền liệt để loại trừ ung<br />
lên kế hoạch hóa trị cho bệnh nhân này. thư từ nơi khác di căn đến nhưng không tìm<br />
thấy dấu hiệu ung thư từ nơi khác. Vì vậy chúng<br />
BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP<br />
tôi chẩn đoán trường hợp này là ung thư nguyên<br />
Bệnh nhân nam, 50 tuổi vào viện vì phù toàn phát tại bàng quang.<br />
thân và tiểu máu. Cách nhập viện khoảng 3 Bệnh nhân được chỉ định cắt bàng quang<br />
tháng, bệnh nhân tiểu máu và không điều trị gì. toàn phần (Hình 4), nạo hạch và đưa hai niệu<br />
Khoảng một tuần trước nhập viện bệnh nhân quản ra da, trong quá trình phẫu thuật ghi nhận<br />
thấy phù toàn thân, tiểu máu toàn dòng, tiểu khó hạch xâm lấn bó mạch chậu và thần kinh bịt hai<br />
nên nhập viện. Về tiền sử, bệnh nhân được mổ bên. Khối u được phân giai đoạn pT3bN1M0.<br />
mở lấy sỏi bàng quang cách 3 năm, tiền sử gia Hậu phẫu diễn tiến tốt, chức năng thận cải thiện<br />
đình không ghi nhận bệnh lý liên quan. dần, bệnh nhân xuất viện sau mổ 5 ngày. Chúng<br />
Cận lâm sàng ghi nhận bệnh nhân với tình tôi lên kế hoạch hóa trị bổ trợ sau phẫu thuật.<br />
trạng suy thận (Creatinin > 11,3 mg/dL), rối loạn Sau phẫu thuật 3 tháng, BN có tinh trạng<br />
điện giải, thiếu máu. Siêu âm: Hai thận ứ nước toàn thân tốt, chức năng thận cải thiện.<br />
độ III, dày thành bàng quang và máu cục lòng<br />
bàng quang, tràn dịch đa màng. Bệnh nhân được<br />
bơm rửa bàng quang thu được nhiều chất nhầy<br />
màu trắng trong (Hình 1). Giải phẫu bệnh khảo<br />
sát chất bơm rửa được cho kết quả hồng cầu, tơ<br />
huyết, tế bào viêm đa dạng, bạch cầu đa nhân, tế<br />
bào trung mạc.<br />
MSCT hệ niệu có cản quang cho kết quả: Dày<br />
không đều lan tỏa thành bàng quang, theo dõi u<br />
bàng quang (Hình 2); hai thận ứ nước, niệu quản<br />
2 bên dãn đến đoạn nội thành nghi do xâm lấn;<br />
hạch phì đại cạnh động mạch chậu 2 bên. Hình 1. Bơm rửa bàng quang ra nhiều dịch nhầy<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Chuyên Đề Thận – Niệu 251<br />
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 2. Hình ảnh MSCT dày không đều thành Hình 3. Carcinoma tuyến tiết nhầy, có thành<br />
bàng quang phần tế bào nhẫn<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 4. Bàng quang sau phẫu thuật cắt bàng quang toàn phần<br />
BÀNLUẬN cuống, dạng loét thâm nhiễm(9). Ung thư dạng<br />
tế bào nhẫn nguyên phát tại bàng quang có<br />
Ung thư dạng tế bào nhẫn nguyên phát tại thể phát sinh ở bất kỳ vùng nào của bàng<br />
bàng quang là một dạng phụ hiếm gặp của<br />
quang nhưng thường tìm thấy vùng đỉnh bàng<br />
ung thư biểu mô và chỉ chiếm 0,24% đến 2%<br />
quang(5). Điều đó làm ta khó phân biệt được với<br />
của tất cả các khối u bàng quang(7,8). Cho đến<br />
ung thư có nguồn gốc từ ống niệu rốn.<br />
năm 2014 có ít hơn 100 trường hợp đã được<br />
Cần phải phân biệt Ung thư dạng tế bào<br />
báo cáo trên thế giới kể từ khi Saphir báo cáo<br />
nhẫn nguyên phát tại bàng quang với ung thư<br />
trường hợp đầu tiên năm 1955(6).<br />
thứ phát do di căn từ nơi phát đến, vì chiến<br />
Nhìn chung, khối u này xảy ra ở tuổi trung<br />
lược điều trị hoàn toàn khác nhau. Ung thư<br />
niên (khoảng 50-60 tuổi) và thường được chẩn dạng tế bào nhẫn nguyên phát tại bàng quang<br />
đoán ở giai đoạn tiên triển, thường biểu hiện có cùng nguồn gốc mô học với carcinoma<br />
tiên lượng xấu sau đó(1). Triệu chứng lâm sàng tuyến của đường tiêu hóa, vú, phổi, túi mật và<br />
của ung thư tuyến bàng quang không có sự tuyến tiền liệt…Do đó, cần đánh giá để loại<br />
khác biệt với các khối u ác tính khác của bàng trừ khả năng di căn từ nơi khác (9,5). Trong<br />
quang(5). Triệu chứng chính bao gồm các triệu một loạt nghiên cứu 282 bệnh nhân ung thư<br />
chứng về kích thích đi tiểu và tiểu máu, các<br />
tuyến bàng quang do di căn ghi nhận: Xâm lấn<br />
triệu chứng đau hạ vị do tắc nghẽn ít gặp hơn. trực tiếp từ đại tràng (21%), tuyến tiền liệt<br />
Ung thư dạng tế bào nhẫn nguyên phát tại (19%), trực tràng (12%) và cổ tử cung (11%). Di<br />
bàng quang thường biểu hiện là thâm nhiễm ở căn xa từ ung thư dạ dày (4.3%), u sắc tố ác<br />
bàng quang và tổn thương thường liên quan tính (3,9%), phổi (2,8%) và vú (2,5%).<br />
đến phần lớn bàng quang. Tổn thương cũng Phương thức điều trị cho Ung thư dạng tế<br />
được mô tả qua nội soi bàng quang bởi các bào nhẫn nguyên phát tại bàng quang bao<br />
dạng: dạng polyp, dạng có cuống, không gồm phẫu thuật, xạ trị và hóa trị. Phẫu thuật là<br />
<br />
<br />
252 Chuyên Đề Thận – Niệu<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học<br />
<br />
biện pháp được lựa chọn xuyên suốt đầu tay KẾT LUẬN<br />
trong các báo cáo. Theo đánh giá của Erdogru<br />
Ung thư dạng tế bào nhẫn nguyên phát tại<br />
và cộng sự(2) việc cắt bàng quang toàn phần<br />
bàng quang là một dạng hiếm gặp của ung thư bàng<br />
đem lại lợi ích cho bệnh nhân. Một vài quang, ít được báo cáo trong các tài liệu. Nói chung<br />
phương pháp điều trị hiệu quả khác bao gồm bệnh thường được phát hiện ở giai đoạn tiến triển do<br />
hóa trị nội động mạch với cisplatin và độ ác tính cao và tiên lượng sống còn thường ngắn.<br />
methotrexate và xạ trị, hoặc chỉ xạ trị sau cắt Hiện nay phẫu thuật đóng vai trò chủ yếu và chưa có<br />
bàng quang toàn phần. Cho đến nay chưa có phác đồ hóa trị tiêu chuẩn cho Ung thư dạng tế<br />
phác đồ hoá trị liệu tiêu chuẩn tồn tại cho Ung bào nhẫn nguyên phát tại bàng quang.<br />
thư dạng tế bào nhẫn nguyên phát tại bàng TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
quang vì tính hiếm hoi của chúng. Một số 1. El-Mekresh MM, El-Baz MA, Abol-Enein H, Ghoneim MA<br />
thuốc được áp dụng trong các trường hợp (1998), Primary adenocarcinoma of the urinary bladder: a report<br />
of 185 cases, British J Urol, 82, pp. 206-212.<br />
được báo cáo như: 5FU, methotrexate,<br />
2. Erdogru T, Kiligaslan I, Esen T(1995), Primary signet ring cell<br />
cisplatin, mitomycin, doxocycline, tegafur, carcinoma of the urinary bladder: review of the literature and<br />
cyclophosphamide và carboplatin(4). Chúng tôi report of two cases, Urol Int, 55, pp. 34-37.<br />
3. Grignon DJ, Ro J, Ayala A and Johnson D (1991), Primary<br />
báo cáo trường hợp này với cắt bàng quang Signet-Ring Cell Carcinoma of the Urinary Bladder, Am J Clin<br />
toàn phần và lên kế hoạch hóa trị toàn thân Pathol, 95: 13-20..<br />
tuy nhiên chưa có phác đồ điều trị tiêu chuẩn 4. Hirano Y, Suzuki K, Fujita K, Furuse H, Fukuta K, Kitagawa M,<br />
Aso Y (2002), Primary signet ring cell carcinoma of the urinary<br />
được thống nhất. bladder successfully treated with intra-arterial chemotherapy<br />
Theo dõi bệnh nhân sống được 8 tháng, hiện alon, Urology, 59, pp.601.<br />
5. Krichen Makni S, Ellouz S, Khabir A, Daoud J, Boudawara T<br />
tại chưa phát hiện dấu hiệu di căn qua MSCT. (2005), Primary signet ring cell carcinoma of urinary bladder. A<br />
Một phân tích năm 1991 dựa vào nhiều báo case report, CancerRadiother, 9, pp. 322-324.<br />
6. Saphir O (1955), Signet ring cell carcinoma of the bladder, Am J<br />
cáo cho thấy PSRCC có độ ác tính cao, những Pathol, 31, pp. 223-231.<br />
bệnh nhân không điều trị gì có thời gian sống 7. Sunghwan J, Soojin J, Kweonsik M, Jae-il C, Sunghyup C, Dongil<br />
K (2009), Primary signet ring cell carcinoma of the urinary<br />
trung bình khoảng 3,5 tháng. Nhìn chung sau<br />
bladder, Korean JUrol, 50, pp.188-191.<br />
điều trị, tỷ lệ sống 1 năm khoảng 60%(3).. Fiter và 8. Torenbeek R, Koot RA, Blonjous CE, De Bruin PC, Newling DW,<br />
cộng sự báo cáo tỷ lệ sống 5 năm lần lượt là 75%, Meijer CJ (1996), Primary signet-ring cell of the urinary bladder,<br />
Histopathology, 28, pp. 33-40.<br />
38% và 12% cho các giai đoạn II, III, IV(3). Một 9. Yamamoto S, Ito T, Akiyama A, Miki M, Tachibana M, Takase<br />
thống kê gồm 54 bệnh nhân tại Nhật Bản cho M, MatsumotoT, Mochizuki M (2001), Primary signet-ring cell<br />
thấy tỷ lệ sống 5 năm ở giai đoạn I-III là 50%, carcinoma of the urinary bladder including renal failure, Int J<br />
Urol, 8, pp.190-193.<br />
không có bệnh nhân nào ở giai đoạn IV sống quá<br />
2 năm(3).. Một nghiên cứu khác trên 12 bệnh nhân<br />
Ngày nhận bài báo: 10/05/2017<br />
ghi nhận tỷ lệ sống trung bình là 8,9 tháng(3).<br />
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/06/2018<br />
Ngày bài báo được đăng: 20/07/2018<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Chuyên Đề Thận – Niệu 253<br />