YOMEDIA
ADSENSE
Vài nét tiếp cận lịch sử và giá trị văn xuôi Việt Nam hiện đại _2
93
lượt xem 13
download
lượt xem 13
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
1. Văn xuôi Việt Nam hiện đại là văn Quốc ngữ. Là văn xuôi thế kỷ XX. Dẫu những áng văn Quốc ngữ đầu tiên đã xuất hiện từ nửa sau thế kỷ XIX ở Nam Kỳ, nhưng nhìn tổng thể, văn học Việt Nam trong giai đoạn này vẫn là văn học Hán - Nôm.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Vài nét tiếp cận lịch sử và giá trị văn xuôi Việt Nam hiện đại _2
- Vài nét tiếp cận lịch sử và giá trị văn xuôi Việt Nam hiện đại
- 1. Văn xuôi Việt Nam hiện đại là văn Quốc ngữ. Là văn xuôi thế kỷ XX. Dẫu những áng văn Quốc ngữ đầu tiên đã xuất hiện từ nửa sau thế kỷ XIX ở Nam Kỳ, nhưng nhìn tổng thể, văn học Việt Nam trong giai đoạn này vẫn là văn học Hán - Nôm. Phải đến đầu thế kỷ XX khi xã hội thuộc địa hình thành và các phong trào yêu nước đã chuyển sang đường lối duy tân, với vai trò lãnh đạo là các nhà Nho chí sĩ trong các phong trào Đông du, Duy tân và Đông kinh nghĩa thục thì văn học dân tộc mới thật sự chuyển lên đường ray hiện đại với hai mục tiêu cấp thiết và bao trùm. Đó là yêu cầu Văn minh và Dân chủ. Hai mục tiêu vừa là sự khởi động, vừa xuyên suốt thế kỷ XX làm nên gương mặt thời hiện đại cho văn học dân tộc, hoặc làm nên gương mặt văn học hiện đại, thay cho mô hình trung đại có lịch sử kéo dài 10 thế kỷ, kể từ Thiên đô chiếu của Lý Công Uẩn cho đến Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Tú Xương... Vậy, nói thời hiện đại trong lịch sử văn học Việt Nam hay nói văn học hiện đại, đó là văn học thế kỷ XX với hai đặc tr ưng. Một là s ự chuyển đổi mô hình, t ừ trung đại sang hiện đại diễn ra gấp rút trong ba thập ni ên đầu thế kỷ - t ừ 1900 đến 1930; và s ự định hình gương mặt riêng c ủa nó, trên kết quả của hai quá tr ình cách mạng hóa và hiện đại hóa trong thời kỳ 1930 -1945. Và hai là s ự phát triển mau lẹ, nhanh gấp theo gia tốc lịch sử, gần nh ư là từng thập niên một trong cả thế kỷ XX - t hay vì tình trạng gần như đ ứng yên và khép kín trong một nghìn năm văn học Hán Nôm trung đại. Ở t hời điểm hôm nay, cuối 2009, tr ước Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội mà nhìn ngược lên đầu thế kỷ XX, chúng ta đ ã có một tầm nh ìn thật khoáng đãng để nhận chân và đánh giá đúng gương mặt lịch sử trên hành trình hơn 100 năm, qua các c hặng của nó. Tầm nhìn chúng ta không còn b ị án ngữ bởi các sự kiện dẫu có là “ long trời lở đất” đến mấy. Bây giờ là lúc, với tầm nh ìn ấ y, với khoảng cách ấy, c húng ta có thể đánh giá được đúng và sâu những gì đã diễn ra trong lịch sử và lịch sử văn học dân tộc.
- Trên độ dài hơn một thế kỷ, việc phân kỳ văn học hiện đại, nếu có một cái mốc lớn cho cả thế kỷ thì đó là năm 1945, năm diễn ra Cách mạng tháng Tám kết thúc chế độ thuộc địa - bán phong kiến để chuyển sang kỷ nguyên Dân chủ cộng hòa. Năm mà sự thay đổi của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trực tiếp và tức khắc kéo theo sự thay đổi của đời sống văn học, nhưng vẫn trên mô hình đã được kiến lập và hoàn thiện sau ngót nửa thế kỷ chuyển động trên con đường hiện đại hóa, trên phạm vi cả nước. Có nghĩa là bước chuyển từ văn học trung đại (Hán, Nôm) sang văn học hiện đại (Quốc ngữ) đã chính thức diễn ra ở thời điểm chuyển giao giữa hai thế kỷ - XIX và XX. 2. Trước 1945, văn học hiện đại diễn ra qua hai giai đoạn. Giai đoạn 1 - mang nội dung giao thời, chuẩn bị cho sự hoàn thiện gương mặt hiện đại của văn học dân tộc có độ dài 30 năm, từ 1900 cho đến năm 1930. Đây là giai đoạn có sự tiếp sức của nhiều thế hệ viết - từ thế hệ Nho học như Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh... chủ yếu vẫn viết bằng chữ Hán chuyển sang thế hệ vừa Nho học vừa Tây học như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phạm Duy Tốn, Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách, Tản Đà, Nguyễn Công Hoan... Tính chất chuyển giai đoạn và nội dung giao thời để lại dấu ấn trên mấy thế hệ viết vào những năm 20 - tôi muốn xem là một phòng chờ, với các yếu tố tiền trạm, báo hiệu cho sự xuất hiện ba trào lưu văn học từ sau 1930. Với trào lưu lãng mạn - đó là văn xuôi của Tản Đà và Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách. Với trào lưu hiện thực - đó là các truyện ngắn đầu tiên của Phạm Duy Tốn, Nguyễn Công Hoan. Với trào lưu cách mạng - đó là các truyện, ký vàBản án chế độ thực dân Pháp viết bằng tiếng Pháp của Nguyễn Ái Quốc ở Paris. Xét từ góc độ ngôn ngữ thì 1900-1930 là thời kỳ giao thoa giữa nhiều loại chữ: Hán, Nôm, Pháp và Quốc ngữ. Sau 1930 dẫu văn Quốc ngữ đã tuyệt đối chiếm ưu thế, nhưng Phan Bội Châu khi là “ông già Bến Ngự” vẫn ưa viết thơ Nôm, và tác phẩm chữ Hán cuối cùng phải chờ đến Ngục trung nhật ký của Hồ Chí Minh, viết năm 1943. Giai đoạn 2 - thời kỳ 1930-1945, sau 30 năm chuẩn bị, có thể xem là mùa gặt ngoạn mục đầu tiên, với sự hoàn thiện diện mạo hiện đại của văn học dân tộc, đưa tới sự
- xuất hiện không ít các đỉnh cao tác giả, tác phẩm trên cả ba trào lưu cách mạng, hiện thực và lãng mạn; ứng với ba yêu cầu của thời cuộc: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng cá nhân; tất nhiên ưu tiên số 1 phải là giải phóng dân tộc. Sau một thế kỷ nhìn lại sẽ thấy cả ba giòng đều có đóng góp trước yêu cầu hiện đại hóa; và việc phê phán hoặc phủ định gay gắt trào lưu lãng mạn trong cả một thời gian dài sau 1945 là quá nặng nề và không cần thiết, do áp lực của quá nhiều các cuộc cách mạng lớn nhỏ, trong hoàn cảnh chiến tranh kéo quá dài. Việc nhận lại giá trị cuốn Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh là có ý nghĩa tiêu biểu cho sự nhận thức lại đóng góp của trào lưu lãng mạn, gồm Thơ mới và văn xuôi Tự lực văn đoàn. Một số tiểu thuyết của Khái Hưng, Nhất Linh trong thời kỳ đầu như Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Đôi bạn... và nhất là truyện ngắn, bút ký của Thạch Lam cần được xem là những đóng góp đầu tiên cho yêu cầu giải phóng cá nhân, và là những bước đi đầu tiên trước yêu cầu hiện đại hóa trong văn xuôi. Giòng hiện thực là bước tiếp tục và nâng cao các giá trị hiện đại của văn xuôi trên các phương diện của nội dung xã hội và tư duy nghệ thuật, gồm những gương mặt tiêu biểu, như Ngô Tất Tố (với Tắt đèn, Việc làng, Lều chõng), Nguyễn Công Hoan (với kho truyện ngắn trào phúng gồm hàng trăm truyện), Vũ Trọng Phụng (với Giông tố, Số đỏ và nhiều phóng sự), Nguyên Hồng (với Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu), Tô Hoài (với Quê người, Trăng thề, Nhà nghèo), Nam Cao (với Chí Phèo, Sống mòn và nhiều truyện ngắn khác)... 3. Thời kỳ sau 1945 - đó là 40 năm chiến tranh, kể từ đầu thập niên 40 đến cuối thập niên 70. Không có một dân tộc nào trên thế giới trong thế kỷ XX phải chịu một cuộc chiến dài như thế. Dĩ nhiên, đây là thời kỳ đề tài chiến tranh bao choán tâm lực mọi người viết, gồm cả ba thế hệ: thế hệ tiền chiến, thế hệ chống Pháp và thế hệ chống Mỹ. Tất cả mọi trang viết đều hướng vào mục tiêu cứu nước. Văn học phải “vị nhân sinh” một cách triệt để. “Văn hóa - nghệ thuật là một mặt trận”. Nhà văn là chiến sĩ. Vũ khí là súng và bút. Kể từ Nam Cao, Trần Đăng trở đi, ai cũng tự nguyện vào chiến trường. Bởi được viết ở chiến trường là hạnh phúc nhất. Hạnh phúc “cùng xương thịt với nhân dân”. Hạnh phúc không là người ngoài cuộc...
- Dẫu với tất cả sự khiêm tốn của đội ngũ, các giá trị tư tưởng và nghệ thuật của văn xuôi chống Pháp và chống Mỹ, nhất là chống Mỹ, vẫn được kết tinh trên nhiều tác phẩm ký, tiểu thuyết viết ở chiến trường hoặc ở các tuyến đầu, như của Nguyễn Đình Thi, Nguyên Ngọc, Nguyễn Thi, Phan Tứ, Trần Hiếu Minh, Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức, Lê Văn Thảo, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Hữu Mai, Xuân Thiều, Hồ Phương, Nam Hà, Tô Nhuận Vỹ... Với tôi, văn xuôi của Nguyễn Thi như trong Người mẹ cầm súng và Ở xã Trung Nghĩa, dẫu với bất cứ khoảng lùi nào của thời gian, cũng vẫn cứ là kiệt tác, trên sự hài hòa của một hiện thực cực kỳ dữ dội, khốc liệt với một chất thơ, chất trữ tình rất mực dịu dàng, trong trẻo. Ngót 40 năm chiến tranh, ký ức về nó là rất sâu trong tâm trí nhiều thế hệ. Đề tài chiến tranh, cho đến nay vẫn cứ là một đề tài lớn, một kho chất liệu không thể nào vơi cạn trong nghĩ suy và cảm xúc của con người. Sau hai (hoặc ba) thế hệ sống và viết trong chiến tranh, sẽ đến các thế hệ mới viết về chiến tranh sau chiến tranh. Nếu các thế hệ trước chủ yếu viết cho công chúng trong chiến tranh, thì các thế hệ sau là viết cho công chúng số lớn, trong thời bình. Đó là điểm phân biệt, đưa lại những thay đổi trong cảm hứng, cách tiếp cận và cách viết về chiến tranh từ thập niên 80 trở đi, cho đến nay, qua các tên tuổi mới thuộc thế hệ giữa 4X trở đi, như Chu Lai, Nguyễn Trí Huân, Trần Văn Tuấn, Bảo Ninh, Xuân Đức, Trung Trung Đỉnh, Nguyễn Bảo, Khuất Quang Thụy... Trên số lượng tiểu thuyết ngày càng nhiều, với tỷ lệ viết về chiến tranh lúc nào cũng cao - bạn đọc trước hết có thể tiếp xúc với một kho tư liệu khổng lồ mà các thế hệ đàn anh đã ghi lại. Từ khối tư liệu này - vẫn còn được tiếp tục bổ sung, như hai nhật ký của Nguyễn Văn Thạc và Đặng Thùy Trâm năm 2005, tất cả các thế hệ đến sau sẽ không thiếu chất liệu cho việc xây dựng những tác phẩm lớn (như Chiến tranh và hòa bình với trên dưới 500 nhân vật của L. Tonxtôi, hoặc Số phận một con ngườivới chỉ hơn một nhân vật của M. Solokhov - hai tác phẩm tiêu biểu, quen thuộc với độc giả Việt Nam), nếu mỗi người trong họ vẫn vẹn nguyên một trái tim thiết tha với Tổ quốc, một gắn bó xương thịt với Nhân dân; nếu số phận của Nhân dân và Tổ quốc luôn luôn là niềm khắc khoải lớn, không bao giờ vơi cạn trong con tim của họ.
- 4. Thời Đổi mới trong văn học không chờ đến năm 1986 là năm diễn ra Đại hội Đảng lần thứ 6, mà đến sớm hơn, vào nửa đầu thập niên 80 với một thế hệ “tiền trạm” là Nguyễn Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Quang Thân, Đoàn Lê, Nguyễn Huy Thiệp... Đây là những tác giả đã sớm có ý thức thay đổi cách nhìn, cách miêu tả để cho hiện thực đời sống đ ược hiện lên đúng với bản chất của nó, chứ không c òn bị nô lệ theo các quán tính cũ, với âm hưởng khẳng định, ngợi ca, hướng về cái mới, cái tiền tiến, cái anh hùng như là một cần thiết lịch sử của cuộc đấu tranh sinh tử với mọi loại kẻ thù. Đó không chỉ là kẻ thù xâm lược, mà còn là kẻ thù của chủ nghĩa tập thể, của con đ ường đi lên xã hội chủ nghĩa - dẫu đã bộc lộ những mặt khiếm khuyết, bất cập nhưng chưa đủ làm lay chuyển lòng tin của những con người vừa làm nên chiến thắng trong mùa xuân 1975. Trở về với cuộc sống hòa bình, với sinh hoạt đời thường, với mọi lam lũ, tất bật của sự mưu sinh và tồn tại trong một mô hình phát triển xã hội không còn như cũ - thời chiến, và không thuận theo quy luật trong nửa đầu thập niên 80 - những tiểu thuyết của các tên tuổi đã nêu trên như Gặp gỡ cuối năm, Cha và con... và, Những khoảng cách c òn lại, Cù lao Tràm, Thời xa vắng, Mùa lá rụng trong vườn, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Tướng về hưu... đã làm nên một đóng góp đặc sắc - nó là sự tiên báo, là sự chuẩn bị cho công cuộc Đổi mới rồi sẽ diễn ra dưới hai khẩu hiệu: “Lấy Dân làm gốc” và “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”... Đây là mùa gặt thứ ba của văn xuôi hiện đại, theo tôi hiểu - mùa gặt này sẽ kết thúc vào giữa thập niên 90, qua đóng góp của một thế hệ trước và sau 1975 - kể từ những tên tuổi đã nêu trên cho đến Nguyễn Quang Lập, Hoàng Minh Tường, Chu Lai, Nguyễn Khắc Trường, Bảo Ninh, Dương Hướng... trong đó đáng kể là bộ ba trong Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991:Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nỗi buồn chiến tranh, Bến không chồng.
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn