intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vài thể hiện của từ ở tiếng Việt so sánh với tiếng Nhật

Chia sẻ: Khải Nguyên | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

76
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết bàn đến sự thể hiện từ ở (chỉ nơi chốn) so sánh với tiếng Nhật nhằm giúp cho các sinh viên nói tiếng Nhật dễ dàng hơn trong khi học tiếng Việt. Để bảo đảm tính khách quan, đa số các ví dụ dẫn trong bài viết được trích lại từ các giáo trình dạy tiếng Việt và giáo trình dạy tiếng Nhật (sách song ngữ). Mời các bạn cùng xem và tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vài thể hiện của từ ở tiếng Việt so sánh với tiếng Nhật

VÀI THỂ HIỆN CỦA TỪ “Ở” TIẾNG VIỆT SO SÁNH VỚI TIẾNG NHẬT1 LÊ THỊ MINH HẰNG – NGUYỄN VÂN PHỔ 1. Thường khi học một ngoại ngữ, người ta gặp nhiều khó khăn mà khó khăn lớn nhất có lẽ là sự khác biệt về tư duy ngôn ngữ. Không ít sinh viên phương Tây rất sõi tiếng Việt nhưng vẫn lạm dụng những từ đã, đang, sẽ, có… trong khi tạo câu, dấu ấn ngôn ngữ mẹ của họ vẫn thể hiện khá rõ. Có thể nói rằng khi học tiếng Việt, sinh viên mỗi nước có một vấn đề riêng. Theo dõi hàng trăm sinh viên Nhật học tiếng Việt ở các trình độ khác nhau (học tại Việt Nam và Nhật Bản), chúng tôi nhận thấy rằng họ rất dễ dùng sai từ ở, một từ có tần số sử dụng cao của tiếng Việt (tần suất ở trên tất cả các phong cách thể loại là 0,45%)2. Ngoài ra, chúng tôi còn tiến hành trắc nghiệm trên 20 sinh viên Nhật đang theo học tại Khoa Việt Nam học thuộc Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn tp.HCM: trong tổng số 680 câu hỏi đưa ra có đến 245 câu trả lời không đúng (bao gồm cả những câu trả lời sai hoặc đúng nhưng sinh viên còn nghi ngờ). Trong phạm vi bài này, chúng tôi muốn bàn đến sự thể hiện từ ở (chỉ nơi chốn) so sánh với tiếng Nhật nhằm giúp cho các sinh viên nói tiếng Nhật dễ dàng hơn trong khi học tiếng Việt. Để bảo đảm tính khách quan, đa số các ví dụ dẫn trong bài viết được trích lại từ các giáo trình dạy tiếng Việt và giáo trình dạy tiếng Nhật (sách song ngữ). 2. Trong tiếng Việt hiện đại, ở là một từ có nhiều chức năng và ý nghĩa khác nhau. Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học miêu tả ở là động từ và kết từ. Với tư cách là kết từ ở có 3 nghĩa: (1) biểu thị nơi, chỗ, khoảng thời gian sự vật / sự việc được nói đến, (2) biểu thị cái hướng của điều vừa được nói đến, (3) biểu thị căn nguyên của điều vừa nói đến (Hoàng Phê chủ biên, 1992, Trung tâm từ điển ngôn ngữ xuất bản, H.). Nguyễn Kim Thản phân chia ý nghĩa của từ ở ra làm hai loại: (1) chỉ nơi tồn tại của sự vật hay nơi tiến hành hành động (Nó làm việc ở nhà máy); (2) chỉ nơi xuất phát của hoạt động (Tôi ở Bến Tre lên). [10/335] Trong quyển Ngữ pháp tiếng Việt, các tác giả khái quát ý nghĩa chính của ở là kết từ chính phụ biểu hiện nơi chốn [15/166]. Nguyễn Anh Quế cho là ở biểu thị địa điểm xảy ra hành động [9/154].v.v.. Có thể thấy rằng ở được chú ý vừa như là một động từ vừa như một giới từ biểu hiện nghĩa vị trí; nó có thể tự mình làm vị từ trung tâm hoặc đi sau một vị từ khác. 2.1. Ở đứng trước danh từ chỉ nơi tồn tại của người hay sự vật. Vd(1): Anh có mặt ở công ty đến mấy giờ? 1 2 3 4 5 6 7 Nan ji made, kaisha ni imasu ka? [11/154] 6 7 5 4 3 2 Trong câu trên, động từ imasu đòi hỏi trợ từ3 đánh dấu nơi chốn ni, tương tự như có mặt đòi hỏi ở. Để định vị tồn tại của sự vật, ở cũng được biểu thị bằng từ ni. 1 Bài đã đăng ở tạp chí Ngôn ngữ, số 1/2002, H. Đặng Thái Minh, Nguyễn Vân Phổ. 1996. Từ điển tần số tiếng Việt hiện đại (trên máy tính). Trường ĐHTH tp.HCM. 3 Để chỉ những từ như ni, kara, o… của tiếng Nhật, đa số các sách dạy tiếng gọi là trợ từ, một số sách gọi là tiểu từ hoặc phân từ (particles). 2 1 Vd(2): Ở phi trường có cả ngân hàng, cả nhà hàng. 1 2 3 4 5 Kuukoo ni wa ginko ya, resutoran nado ga arimasu. [11/192] 2 1 4 5 3 Trong các câu trên, ta thấy ni bao giờ cũng đi sau danh từ địa điểm, trong khi đó ở bao giờ cũng đi trước danh từ địa điểm. Trật tự trong tiếng Nhật đảo ngược hoàn toàn so với tiếng Việt: Tiếng Việt: động từ – giới từ (/ kết từ) – danh từ địa điểm Tiếng Nhật: danh từ địa điểm – trợ từ – động từ. Từ ở còn được dùng như một động từ, với nghĩa sống (tại), có (mặt). Trong trường hợp này, tiếng Nhật biểu hiện bằng trợ từ ni và động từ tồn tại aru (cho bất động vật), iru (cho động vật). Vd(3): Yamada sẽ ở Việt Nam 2 năm đấy. 1 2 3 4 Yamada kun wa ni nen kan Betonamu ni iru hazuda ya. [4/24-25] 1 4 3 2 Vd(4): Công ty ấy ở Hibiya. 1 2 3 4 Sono kaisha wa Hibiya ni arimasu. [11/183] 2 1 4 3 Thực ra, trợ từ ni trong tiếng Nhật đã được giới nghiên cứu chú ý từ lâu. Trong quyển English & Japanese in contrast, Susan H. Shinkawa đã viết: ni xuất hiện sau danh từ để chỉ vị trí cùng với động từ chỉ trạng thái tồn tại iru và aru và một vài động từ khác (bao gồm những động từ mà Taylor xếp vào loại những từ kèm (attachment) [14/163]). Nó biểu thị vị trí của vật đang được nói đến hoặc đối tượng hành động trong một câu [14/ 31]. Nó cũng có thể biểu thị “một điểm đến của một hành động” [3/73]. Trợ từ biểu thị vị trí ni có thể xuất hiện với một số động từ dưới đây: iru (tồn tại động vật), aru (tồn tại - vật), neru (ngủ), sumu (dừng lại), oku (để), tsuku (đến), tsutomeru (làm việc), iku (đi), kaku (viết) azukeru (gửi vào), tateru (đứng thẳng), tsukeru (gắn, dán) v.v.. Theo nghĩa này, sự có mặt của ni là do từng loại động từ qui định, chẳng hạn nếu là động từ hành động thì nó sẽ nằm trong quan hệ luân phiên với de. (Xem 2.2.). Trong tiếng Việt, ở còn được dùng kết hợp với các từ chỉ vị trí như trên, dưới, trong, ngoài. Trong tiếng Nhật cũng có các từ tương ứng: ở trên = (no) ue ni ở dưới = (no) sita ni ở trong = (no) naka ni ở ngoài = (no) soto ni Vd(5): Ở trong phòng này có ba người. 1 2 3 4 5 6 Kono heya no naka ni san nin iru. 3 2 1 3 6 4 Vd(6): Có trà ở trong lọ. 1 2 3 4 Ocha no ha wa kobin no naka ni arimasu. [4/10-11] 2 2 4 3 1 Vd(7): Hoa ở trên bàn. 1 2 3 Hana wa tsukue no ue ni arimasu. 1 3 2 Mika Waseda trong bài viết Expression of local relations in Japanese and Hungarian [6] phân biệt khả năng của cấu trúc tiểu từ (particle structure) với ni, de… và cấu trúc danh từ quan hệ (relative noun structure) với no naka ni, no ue ni… vốn có nghĩa từ vựng rõ rệt hơn [8/134]. So sánh: Vd(8a) Hako no naka ni enpitsu ga aru. (Trong hộp có cây bút chì) (8b) Hako ni enpitsu ga aru. (Trong / ở / trên… hộp có cây bút chì) Câu 8b đòi hỏi ngữ cảnh, nên nhiều sinh viên tỏ ra nghi ngờ tính xác thực của nó. Tương tự, câu 9a được chọn khi chúng tôi đề nghị sinh viên dịch “Có nước ở trong ly”: Vd(9a) Koppu no naka ni mizu ga haitte iru. (9b) Koppu ni mizu ga aru. Cần chú ý rằng danh từ quan hệ (relative nouns) không xuất hiện với những danh từ chỉ khu vực địa lý (như quốc gia, thành phố, quận, v.v.) và những danh từ chỉ các cơ quan (như trường học, văn phòng, v.v.) [8/134]. Như vậy ở đây có một điểm khác biệt là ở tiếng Việt, trong nhiều trường hợp có ba khả năng chọn lựa gần như ngang nhau (tất nhiên có sự khác nhau rất tế nhị về nghĩa): Ở trong lớp học / Ở lớp học / Trong lớp học, trong khi tiếng Nhật chỉ cần nói: kyoushitsu ni (te) khi đã xác định rõ tình huống giao tiếp [4/38-39]. Đối với người Việt Nam những từ định vị trên, dưới, trong, ngoài là rất quan trọng, nó phản ánh tương quan vị trí giữa người nói - người nghe - vật / người được nói đến. Do vậy trong nhiều trường hợp trên, dưới, trong, ngoài là bắt buộc, trong khi đó sự xuất hiện của ở là có chọn lựa. Ngược lại, trong tiếng Nhật các cấu trúc định vị như (...no ue) ni, (...no sita) ni, (...no naka) ni, (...no soto) ni trọng tâm ngữ pháp (và ngữ nghĩa) dường như đặt chủ yếu trên ni. Sự có mặt của ni là bắt buộc trong khi các yếu tố còn lại (no ue, no sita...) có thể vắng mặt. Và trong nhiều trường hợp lại phải chú ý đến động từ để có thể lựa chọn ni/de. Có lẽ vì chuyển dịch từ tiếng mẹ nên sinh viên Nhật thường nói: Vd: (10a) Xin bóc tờ giấy dán ở tường // Kabe ni hatte aru kami o haide kudasai. (10b) Tôi treo quần áo ở tủ (quần áo) // Yofukudansu ni yofuku o tsurushite imasu. (10c) Chị Thu không có ở phòng // Tu san wa o heya ni irasshaimasen. Trong khi người Việt Nam sẽ nói: (10a) Xin bóc tờ giấy dán trên / ở trên tường. (10b) Tôi treo quần áo trong / ở trong tủ. (10c) Chị Thu không có trong / ở trong phòng. Về hiện tượng này, chúng tôi đã tiến hành trắc nghiệm sinh viên trên 3 khả năng: (1) ở + danh từ vị trí (2) ở + trong / ngoài / trên / dưới + danh từ vị trí (3) trong / ngoài / trên / dưới + danh từ vị trí 3 Khác với dự đoán của chúng tôi, khả năng lẫn lộn rất cao: 18/20 sinh viên không trả lời đúng hoàn toàn 5 câu hỏi yêu cầu chọn 1 trong 3 khả năng trên. (Nếu khảo sát kỹ có thể thấy sự chọn lựa của họ dường như chỉ là hú hoạ!) Riêng đối với những khái niệm không gian rộng như trời, sông, biển… chúng tôi nhận thấy khả năng lầm lẫn của sinh viên Nhật càng lớn. Chẳng hạn: Vd(11a): * Ở trời có đám mây đen. 1 2 3 4 5 Có lẽ vì dịch từ: Sora ni kuroi kumo ga aru. 2 1 5 4 3 (11b): * Ở sông có 5 chiếc thuyền. Có lẽ vì dịch từ: Kawa ni go seki no funê ga ukan de iru. [16/23] Nhưng câu sau đây lại hoàn toàn bình thường: Vd(12) Ở dưới ghế có một con mèo trắng. 1 2 34 5 6 Isu no shita ni ippiki no neko ga iru. [16/24] 2 1 4 5 3 Thậm chí có trường hợp khi yêu cầu phân biệt: Tôi nằm bãi cỏ / Tôi nằm ở bãi cỏ / Tôi nằm trên bãi cỏ / Tôi nằm dưới bãi cỏ / Tôi nằm xuống bãi cỏ / Tôi nằm xuống ở bãi cỏ, sinh viên chỉ quan tâm đến hai từ trên và dưới (do áp lực tâm lý đã có khi học về những từ này). 2.2. Ở đứng trước từ hay nhóm từ chỉ địa điểm mà hành động diễn ra. Trong trường hợp này, tiếng Nhật biểu thị bằng từ de. Sự có mặt của de là do đòi hỏi của một tiểu loại động từ (đây là động từ hành động) và trong nhiều trường hợp có thể được chuyển dịch sang tiếng Việt là ở / tại. Vd(13): Đã mua hoa ở cửa hàng hoa. 1 2 3 4 Hanaya de hana o kaimashita [11/163] 4 3 2 1 Vd(14): Trước đây, tôi đã học tiếng Việt ở Mỹ. 1 2 3 4 5 6 Izen, watashi wa Amerika de Betonamu go o benkyou shimashita. 1 2 6 5 4 3 Vd(15): Chị ấy làm việc ở thư viện trường. 1 2 3 4 5 Kanojo wa gakko no toshokan de hataraite imasu. [16/42] 1 5 4 3 2 Trong tiếng Nhật de là trợ từ chỉ vị trí, dùng được với tất cả các động từ, ngoại trừ động từ tồn tại. Nó biểu thị nơi chốn hoặc khung cảnh diễn ra hành động nói chung [14]. Martin cho rằng de có thể tương ứng với giới từ at trong tiếng Anh [5/65]. Henderson miêu tả: từ de cần thiết cho bất cứ hành động nào xuất hiện trong giới hạn của nó [2/75]. Mika Waseda cho de tương ứng với at / on. Theo tác giả này, ni thường được dùng cho câu miêu tả tình huống, còn de cho hành động; ni được xem là inner 4 particle bổ nghĩa cho động từ, còn de là outer particle bổ nghĩa cho cả động ngữ (verb phrase) [8/138]. Trong một số trường hợp de có thể thay thế bằng o. Chẳng hạn: Vd(16): Đến kỳ nghỉ hè tôi sẽ đi du lịch ở Hokkaido. 1 2 3 4 5 6 Natsu yasumi niwa Hokkaido o ryokoshimasu. [1/99] 2 1 6 5 4 Vd(17): Mỗi ngày, tôi đều đi dạo ở công viên. 1 2 3 4 5 6 Mainichi, koen o sanposhimasu. [1/99] 1 2 6 5 4 Đối với tiếng Việt, sau những kết cấu như đi dạo, đi chơi, đi du lịch, đi nghỉ… khả năng xuất hiện ở là có thể lựa chọn. (Tất nhiên, có sự khác biệt về ý nghĩa khá rõ, chẳng hạn: so sánh đi chơi rừng và đi chơi ở rừng, đi dạo cửa hàng và ?đi dạo ở cửa hàng v.v..) 2.3. Ở đứng trước yếu tố phụ chỉ địa điểm trong cấu trúc danh ngữ. Trong trường hợp này tiếng Nhật thường không dùng de hay ni, mà dùng từ no (ở đây no có nghĩa tương đương với của) để nối kết danh từ địa điểm với danh từ chính trong danh ngữ đó. Vd(18): Betonamu no samusa mo kibishiinda sodesune. [4/112-113] Tiếng Việt có 2 cách nói: Nghe nói cái rét ở / của Việt Nam cũng ác nghiệt lắm phải không? Vd(19): Sakujitsu, Nihon Taishikan no hito ga naninka anata o tazunete kimashita ga. [4/41] Hôm qua có mấy người ở / của sứ quán Nhật Bản đến hỏi anh. Vd(20): Nihon no bukka wa yasui desu ka? [11/32] Vật giá ở / của Nhật Bản không cao chứ? Vd(21): Tokyo no chikatetsu wa fuben desu ka? [11/32] Xe điện ngầm ở / của Tokyo bất tiện chứ? Trong các ví dụ vừa nêu, ta thấy ở nằm trong một danh ngữ, nó đứng trước định tố địa điểm để hạn định nghĩa của danh từ (người hay vật) đứng trước. Nhiều trường hợp có thể thay thế ở bằng của. Nhưng đối với người Việt Nam ở biểu thị vị trí, còn của biểu thị sở thuộc. Trên ý nghĩa đó chúng không thay thế cho nhau được. Một số dẫn chứng dưới đây sẽ cho ta thấy rõ điều đó: Vd(22a): Xin lỗi, cho tôi gặp anh X ở phòng doanh nghiệp. Trong khi đó sinh viên Nhật lại dùng của, có lẽ vì dịch từ: Sumimasen, eigyobu no X san o negaishimasu. Thật ra của được dùng trong một bối cảnh khác: (22b) Ông X là người của phòng doanh nghiệp đấy! Lại xét câu sau: (22c) Aitsu wa hahaoya kara okane o totta. (22d) Aitsu wa hahaoya no okane o totta. Cả hai câu (22c) và (22d) đều được sinh viên Nhật dịch là “Nó lấy tiền của mẹ nó” và cho rằng hoàn toàn không có khác biệt. Nhưng khi đặt trong tình huống cụ thể thì 5

ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0