TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ PHẠM VĂN HÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN TH.S KINH TẾ Người hướng dẫn: PGS.TS Phan Thanh Phố

Hà Nội 2006

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong quá trình đổi mới nền kinh tế từ mô hình kinh tế chỉ huy tập trung

quan liêu bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,

dưới tác động của Nhà nước và Luật khoa học và công nghệ được Quốc hội

thông qua tháng 6 năm 2000, nước ta bước đầu đã hình thành một số thị trường

như: Thị trường hàng hoá - dịch vụ, thị trường tư liệu sản xuất, thị trường tài

chính, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học - công

nghệ vv... Tuy nhiên, sự phát triển của các. loại thị trường này còn ở trình độ sơ

khai, các yếu tố thị trường chưa được tạo lập một cách đồng bộ, nhất là thị

trường công nghệ.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định cần phảỉ: “Thúc đẩy sự

hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định

hướng xã hội chủ nghĩa” và “Khẩn trương tổ chức thị trường khoa học và công

nghệ, thực hiện tốt bảo hộ sở hữu trí tuệ; đẩy mạnh phát triển các dịch vụ về

thông tin, chuyển giao công nghệ” [16].

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khi nhấn mạnh: “Phát triển đồng bộ và

quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh

tranh lành mạnh… .” đã chỉ rõ “phát triển thị trường khoa học và công nghệ trên

cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn sản phẩm khoa học và công nghệ

(trừ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu phục vụ xây dựng đường lối, chiến lược,

chính sách phát triển quốc phòng và an ninh) trở thành hàng hóa” [20].

Trong các loại thị trường, mỗi loại đều có tầm quan trọng nhất định,

nhưng nếu gắn với sự nghiệp CNH - HĐH phát triển rút ngắn, thì như Đảng ta đã

xác định “Khoa học - công nghệ là động lực”, thì thị trường công nghệ có tầm

quan trọng đặc biệt. Thực tiễn cho thấy vai trò của Nhà nước trong việc hình

thành và phát triển thị trường này ở nước ta còn khá mới và còn nhiều bất cập

điều đó thể hiện trên nhiều mặt: nhận thức, cơ chế, chính sách, đầu tư vốn, nhất

là vai trò nhà nước đối với việc tổ chức các bộ phận, các yếu tố cấu thành và phát

triển đồng bộ TTCN.

Những yếu kém, bất cập này đang cản trở sự nghiệp CNH - HĐH phát

triển triển rút ngắn, xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và

chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khi Việt Nam đang trước thềm gia

nhập WTO. Nó đã và đang đòi hỏi cần có lời giải thoả đáng trên cả hai mặt lý

luận và thực tiễn ở nước ta hiện nay.

Để góp thêm phần mình vào việc tìm ra lời giải đó, tác giả chọn đề tài:

“Vai trò Nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ ở

Việt Nam” để nghiên cứu làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Xung quanh vấn đề này, đã có một số công trình và bài báo nghiên cứu

đăng tải như:

- “Phát triển các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng

XHCN ở Việt Nam”- Đề tài KX.01.07 thuộc chương trình KX.01 có mục tiêu là:

Xác định các loại thị trường cơ bản và đặc trưng của chúng; thực trạng một số

loại thị trường chủ yếu ở nước ta; kiến nghị các chính sách và giải pháp nhằm

tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường và hoàn thiện các loại thị trường trong đó

có TTCN ở nước ta.

- Một số suy nghĩ bước đầu về các loại thị trường cơ bản trong nền kinh tế

thị trường định hướng XHCN của TS Lê Xuân Bá, năm 2002.

- Một số vấn đề phát triển đồng bộ các loại thị trường trrong nền kinh tế

thị trường định hướng XHCN của TS Lê Đăng Doanh, năm 2002.

2

- Một số ý kiến về quy luật vận động của một số loại thị trường cơ bản

trong nền kinh tế thị trường hiện đại của PGS.TS Phan Thanh Phố, năm 2002.

- Một số vấn đề về hình thành và phát triển thị trường khoa học - công

nghệ ở Việt Nam của PGS. TS. Nguyễn Kế Tuấn, năm 2002.

- Một số ý kiến về tình hình thị trường công nghệ ở Việt Nam và hướng

tới xây dựng thị trường công nghệ ở Việt Nam trong giai đoạn 2002-2006 của

TS Đỗ Văn Vĩnh, năm 2002.

Gần đây đã có một số bài viết về vai trò của Nhà nước đối với việc hình

thành và phát triển các loại thị trường trên báo và tạp chí. Tuy nhiên, các công

trình khoa học đó chưa nhiều, chưa chuyên sâu, chưa trình bày một cách độc lập

và có hệ thống như tác giả sẽ thực hiện trong bản luận văn này.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

* Mục đích của luận văn:

Trên cơ sở làm rõ thêm lý luận và phân tích thực trạng về hàng hóa công

nghệ, TTCN và vai trò Nhà nước trong việc hình thành và phát triển TTCN, từ

đó đưa ra những phương hướng và giải pháp cơ bản để tăng cường hơn nữa vai

trò Nhà nước trong việc hình thành và phát triển TTCN trong thời gian tới ở

nước ta.

* Nhiệm vụ của luận văn:

- Luận giải những vấn đề cơ bản về hàng hóa công nghệ, TTCN và vai trò

của Nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị truờng công nghệ ở nước ta.

- Tổng quan kinh nghiệm nước ngoài về vai trò của Nhà nước đối với việc

hình thành và phát triển thị trường công nghệ.

- Phân tích đánh giá thực trạng vai trò của Nhà nước trong việc hình thành

và phát triển thị trường công nghệ, trong thời gian qua ở nước ta.

3

- Đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản tiếp tục tăng cường vai

trò của Nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ ở

nước ta trong thời gian tới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Luận văn lấy việc luận giải vai trò của Nhà nước trong việc hình thành và

phát triển thị trường công nghệ ở Việt Nam làm đối tượng nghiên cứu.

Thời gian nghiên cứu từ 1986, nhưng chủ yếu từ năm 1992 (được đánh

dấu bởi Nghị định 35/HĐBT nay là Chính Phủ về công tác quản lý khoa học -

công nghệ ban hành 28/01/1992) đến nay.

Phương hướng và các giải pháp đưa ra là các giải pháp cơ bản và vĩ mô

gắn với chuyên ngành kinh tế chính trị.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương

pháp luận chung được vận dụng thông qua phương pháp trừu tượng hoá, phân

tích và tổng hợp, lịch sử và logic. Ngoài ra còn vận dụng một số phương pháp

thống kê, đối chiếu, so sánh nhằm tạo ra một tổng thể phương pháp cho phép tiếp

cận nhanh đối tượng và mục tiêu nghiên cứu.

6. Đóng góp mới và ý nghĩa của việc nghiên cứu

* Đóng góp của luận văn

- Hệ thống hóa làm rõ thêm hàng hóa công nghệ, TTCN, vai trò của Nhà

nước và kinh nghiệm nước ngoài về việc hình thành và phát triển thị trường công

nghệ ở nước ta;

- Đưa ra những đánh giá có căn cứ khoa học về thực trạng vai trò của Nhà

nước trong việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ ở nước ta;

4

- Đề xuất có căn cứ lý luận và thực tiễn phương hướng và giải pháp cơ bản

tiếp tục tăng cường vai trò Nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị

trường công nghệ ở nước ta thời gian tới.

* Ý nghĩa của việc nghiên cứu

Kết quả luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc hoạch định

phát triển khoa học - công nghệ và phát triển TTCN ở nước ta. Nó cũng có thể

làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy trong các trường đại học

và cao đẳng những phần có liên quan.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn

được chia thành 3 chương, 8 tiết.

Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm về thị trường công nghệ và vai

trò nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ.

Chương 2: Thực trạng vai trò nhà nước trong việc hình thành và phát triển

thị trường công nghệ thời gian qua ở nứơc ta.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản tăng cường vai trò Nhà

nước trong việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ nước ta trong thời

gian tới.

5

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM VỀ THỊ TRƢỜNG CÔNG NGHỆ VÀ VAI TRÒ NHÀ NƢỚC TRONG VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG CÔNG NGHỆ

1.1. Hàng hoá công nghệ và thị trƣờng công nghệ

1.1.1. Hàng hoá công nghệ

* Một số khái niệm cơ bản

- Khoa học: Một hiện tượng của đời sống xã hội., nó vừa là hệ thống

những tri thức, vừa là sự sản xuất của cải tinh thần - sản xuất những tri thức cùng

hoạt động thực tiễn dựa vào tri thức đó. Mặc dù còn có thể có ý kiến khác nhau

nào đó, song có thể hiểu. Khoa học là một tập hợp các tri thức của nhân loại về

các phạm trù và quy luật vận động và phát triển khách quan của thế giới tự

nhiên, kỹ thuật, xã hội và bản thân con người.

Khoa học thuộc hình thái ý thức xã hội, mà tri thức của nó được biểu hiện

ở các phạm trù, định luật và quy luật về tự nhiên kỹ thuật, xã hội và bản thân con

người. Khi tri thức của con người về tự nhiên kỹ thuật, xã hội và bản thân con

người có sự biến đổi mới và sâu sắc hơn so với tri thức trước đó trong phạm vi

rộng hoặc hẹp, được gọi là cách mạng khoa học, Người ta phân loại khoa học

thành các loại sau:

+ Khoa học tự nhiên - kỹ thuật, nghiên cứu các quy luật tự nhiên và

phương thức chinh phục và cải tạo tự nhiên kỹ thuật;

+ Khoa học xã hội, nghiên cứu những hiện tượng xã hội khác nhau, các

phạm trù, các quy luật vận động phát triển của chúng và cả bản thân con người.

6

Xét về vai trò và tác dụng, có thể thấy khoa học bao gồm: khoa học cơ

bản, thực nghiệm và khoa học ứng dụng.

Chính vì thế, nên trong Điều 2 Luật Khoa học và công nghệ đã giải thích:

“Khoa học là hệ thông tri thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên,

xã hội và tư duy” [48].

- Công nghệ: Theo nghĩa rộng không chỉ là các phương tiện, thiết bị do

con người sáng tạo ra mà còn là các bí quyết biến các nguồn lực sẵn có thành sản

phẩm. Ngày nay người ta thường sử dụng thuật ngữ công nghệ theo nghĩa rộng

bao gồm 4 thành phần sau đây:

+Trang thiết được coi là “xương sống”, là “cốt lõi” của các hoạt động

chuyển hóa của đối tượng lao động.

+ Kỹ năng và tay nghề, thành phần này có liên quan đến kinh nghiệm nghề

nghiệp của từng người, hoặc nhóm người và nó được coi là “chìa khoá” của sản

xuất.

+ Thông tin, có liên quan đến các bí quyết, các quy trình, các phương

pháp, các dữ liệu, các bản thiết kế.

+ Tổ chức, thể hiện trong việc bố trí, sắp xếp, điều phối, quản lý, tiếp

thị… có liên quan đến nhiệm vụ liên kết các thành phần nói trên và kích thích

người lao động hăng hái làm việc để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh

doanh. Các thành phần nói trên có mối quan hệ tương tác với nhau hợp thành nội

dung của khái niệm công nghệ [41, tr.7].

Luật Khoa học và công nghệ, Điều 2 giải thích: “Công nghệ là tập hợp

các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để

biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm” [48].

- Mối quan hệ và sự khác nhau giữa khoa học và công nghệ.

7

Công nghệ không phải là “lực lượng độc lập và tự trị” hay khái niệm tự

nó, mà nó tuỳ thuộc trên mức độ lớn, nếu không muốn nói là sự tuỳ thuộc quyết

định bởi môi trường kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời

kỳ. Ngoài vai trò của môi trường chính trị, cần phải được nhấn mạnh đến môi

trường về tiềm lực khoa học công nghệ và tình hình nghiên cứu khoa học của

từng quốc gia và từng thời kỳ nhất định. Tiềm lực khoa học và công nghệ được

hiểu là tổng thể các nguồn lực kinh tế và tinh thần có được để phát triển khoa

học và công nghệ. Cơ cấu của tiềm lực khoa học và công nghệ bao gồm lực

lượng cán bộ khoa học công nghệ, nguồn tài chính và các cơ sở nghiên cứu thí

nghiệm và thực nghiệm. Nghiên cứu khoa học bao gồm nghiên cứu khoa học cơ

bản, nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu triển khai. Kinh nghiệm các nước trong

thời kỳ đầu của CNH - HĐH, việc nghiên cứu ứng dụng và triển khai thường

được coi trọng.

Khoa học và công nghệ là 2 khái niệm có mối quan hệ với nhau được thể

hiện thông qua họat động khoa học và công nghệ. Luật khoa học và công nghệ,

điều 2 giải thích: “Hoạt động khoa học và công nghệ bao gồm nghiên cứu khoa

học và nghiên cứu và phát triển công nghệ, dịch vụ khoa học và, hoạt động phát

huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và các hoạt động khác nhằm

phát triển khoa học và công nghệ” [48].

Không có những thành tựu trong nghiên cứu khoa học thì sẽ không có

những tiến bộ trong công nghệ. Nghiên cứu khoa học mà kết quả của nó là tạo ra

các sản phẩm khoa học tồn tại dưới hình thức sản phẩm công nghệ được ứng

dụng trong lĩnh vực tự nhiên, kỹ thuật và trong lĩnh vực xã hội nhân văn.

Ranh giới tương đối giữa khoa học và công nghệ là ở chỗ: nói khoa học là

nói về ý thức xã hội, nói đến việc nghiên cứu sáng tạo tri thức, phát minh để tạo

8

ra nhưng thành tựu về công nghệ. Còn nói công nghệ là nói đến kết quả của việc

nghiên cứu sáng chế phát minh, là nói đến hoạt động ứng dụng vào thực tiễn, là

nói đến việc cải tạo thực tiễn đời sống kinh tế, công nghệ và xã hội ngày một tiến

bộ hơn trước. Luận văn nghiên cứu công nghệ với tư cách là sản phẩm công

nghệ dưới hình thái hàng hóa được dùng để giao dịch, trao đổi, mua bán trên

TTCN. Toàn bộ hoạt động nói trên gắn liền với dịch vụ khoa học và công nghệ.

Điều 2 của Luật Khoa học và công nghệ, giải thích: “Dịch vụ khoa học và

công nghệ là các họat động phục vụ việc nghiên cứu khoa học và phát triển công

nghệ; các hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ; các

dịch vụ về thông tin, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến, ứng dụng tri thức

khoa học và công nghệ và kinh nghiệm thực tiễn” [48].

* Sản phẩm công nghệ là hàng hóa.

Trong điều kiện kinh tế thị trường, việc lý giải sản phẩm công nghệ là

hàng hoá bắt nguồn từ những luận cứ sau:

Thứ nhất: ngành khoa học công nghệ là ngành công nghiệp quan trọng sản

xuất ra sản phầm công nghệ.

Thật vậy, sản phẩm công nghệ do ngành khoa học - công nghệ tạo ra

thông qua việc độc lập hóa nghiên cứu và hoạt động nghiên cứu làm cơ sở tự

nhiên, cùng với việc phát triển của phân công lao động xã hội hoạt động này

ngày một phát triển độc lập với các ngành sản xuất vật chất khác để trở thành

ngành công nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt, mà sản phẩm của nó là sản phẩm

công nghệ. Hơn nữa các cơ quan nghiên cứu phát triển khoa học và công nghệ

trở thành chủ thể kinh tế kết hợp trách nhiệm và quyền lợi là cơ sở hình thành

quyền sở hữu tài sản của sản phẩm công nghệ - quyền sở hữu trí tuệ. Và sau

cùng là tính độc quyền của các thành quả công nghệ hay sản phẩm công nghệ là

9

điều kiện tồn tại với tính cách là một ngành công nghiệp độc lập và là một điều

kiện để sản phẩm của ngành công nghệ trở thành hàng hóa.

Thứ hai: Sản phẩm công nghệ vẫn có hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá

trị.

Thành quả khoa học và công nghệ được ứng dụng vào sản xuất có thể tạo

ra sản phẩm mới, đổi mới thiết bị công nghệ, phát triển lực lượng sản xuất, nâng

cao năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh, tăng trưởng và phát triển kinh tế -

xã hội, nghĩa là sản phẩm công nghệ có công dụng. Hơn nữa quá trình tạo ra sản

phẩm công nghệ ngành khoa học và công nghê cũng có những hao phí lao động

sống và lao động quá khứ được kết tinh trong sản phẩm công nghệ và được biểu

hiện dưới hình thức tiền tệ, có giá trị và giá cả.

Rõ ràng sản phẩm công nghệ vừa có công dụng làm thoả mãn nhu cầu của

người sử dụng vừa đi vào tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán, nghĩa là nó

cũng có hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, nên đủ tư cách là một hàng hóa.

* Hàng hóa công nghệ, về hình thức có thể phân thành các loại sau:

- Linh kiện cứng chỉ công nghệ tồn tại dưới hình thái hiện vật.

- Linh kiện mềm chỉ các tài liệu văn bản, bao gói mềm của thiết bị công

nghệ có thể ứng dụng vào sản xuất tồn tại với hình thức độc lập.

- Dịch vụ và tư vấn công nghệ với hình thái lưu động.

- Hình thức hỗn hợp.

* Tính đặc thù của hàng hóa công nghệ

Hàng hóa công nghệ khác với các hàng hóa khác ở những điểm sau đây:

Thứ nhất: Tính đặc thù về giao dịch, sự giao dịch các hàng hóa thông

thường là sự chuyển nhượng quyền sở hữu và quyền sử dụng của hàng hoá, còn

sự giao dịch hàng hóa công nghệ do tính đặc thù của nó nên không phải là sự

10

chuyển nhượng quyền sở hữu, mà chỉ chuyển nhượng quyền sử dụng công nghệ.

Sau khi bên mua có quyền sử dụng hàng hóa công nghệ thì bên bán ngoài việc

ký hợp đồng độc quyền với bên mua hoặc cấp cho bên mua giấy phép, vẫn có

quyền tiếp tục sử dụng và tiếp tục chuyển nhượng công nghệ đó cho người khác.

Ngoài ra, việc giao dịch các hàng hóa công nghệ thường phải xác định rõ ràng

quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên dưới hình thức hợp đồng. Bởi vì việc giao dịch

các hàng hóa công nghệ tương đối phức tạp, cùng với việc chuyển nhượng hàng

hóa công nghệ, còn nhiều khoản mục cung cấp có liên quan như: tư vấn công

nghệ, đào tạo cán bộ v.v... đều phải xác định theo hình thức hợp đồng.

Thứ hai: Việc thực hiện giá trị sử dụng hàng hóa công nghệ cần phải có

một quá trình. Nếu hàng hoá thông thường, công dụng của nó được biểu hiện

ngay sau khi tiêu dùng, trái lại hàng hóa công nghệ sau khi mua đem về ứng

dụng còn phụ thuộc khả năng tiếp nhận và môi trường điều kiện tương ứng của

bên mua. Bên mua cần có một quá trình thích ứng dần với công nghệ mới mua

về.

Thứ ba: Hàng hoá công nghệ chịu sự chi phối của hao mòn vô hình, nên

tuổi thọ của hàng hóa thông thường do hao mòn vô hình của hàng hóa công nghệ

quyết định. Tốc độ hao mòn vô hình của hàng hoá công nghệ càng nhanh thì tuổi

thọ của hàng hóa công nghệ càng giảm vì tốc độ tăng nhanh của khoa học công

nghệ . Do đó đòi hỏi phải ứng dụng nhanh và thực hiện khấu hao nhanh.

Thứ tư: Tính khó xác định về giá tri của hàng hóa công nghệ.

Nếu hàng hóa thông thường lượng giá trị của nó được xác định bởi thời

gian lao động xã hội cần thiết, trái lại hàng hoá công nghệ thường sản xuất đơn

chiếc, lao động sản xuất ra nó là lao động trí tuệ - lao động phức tạp, như Mác đã

11

nói trong bộ Tư bản [36].. Do vậy lao động này mang tính sáng tạo, tính rủi ro và

tính không xác định của nó về mặt giá trị là rất lớn.

1.1.2. Thị trường công nghệ

* Một só vấn đề chung về thị trường

C. Mác trong tác phẩn "Tư bản" và tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức", đã đề

cập đến lý luận xã hội hoá, lý luận về mối quan hệ giữa cách mạng kỹ thuật với

phân công lao động xã hội và mối quan hệ giữa chúng với sự hình thành và phát

triển thị trường [36]. V.I. Lênin trong các tác phẩm: "Sự phát triển chủ nghĩa tư

bản ở Nga", "Bàn về cái gọi là thị trường" và một số tác phẩm, bài viết trong

"Thời kỳ chính sách kinh tế mới" ở nước Nga, đã đề cập nhiều vấn đề lý luận về

sự phân công lao động xã hội - cơ sở của trao đổi - cơ sở của sự hình thành thị

trường. Người viết: "Khái niệm thị trường hoàn toàn không thể tách rời khái

niệm phân công xã hội được, sự phân công này, như CMác đã nói, là cơ sở

chung của mọi nền sản xuất hàng hóa". Người còn nhấn mạnh: "Hễ ở đâu và khi

nào có phân công xã hội và sản xuất hàng hóa thì ở đó và khi ấy, có thị trường.

Quy mô của thị trường gắn chặt với trình độ chuyên môn hóa của lao động xã

hội" [34].

Trong các lý thuyết của một số nhà kinh tế học khác như: Lý thuyết cân

bằng tổng quát của L.Walras; lý thuyết về thị trường của Alfred Marshlla và lý

thuyết về nền kinh tế hỗn hợp trong chủ nghĩa tư bản hiện đại đáng chú ý là lý

thuyết cân bằng tổng quát có liên quan đến tính đồng bộ của các loại thị trường

đầu ra và đầu vào của sản xuất; lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp có liên quan đến

vai trò của Nhà nước đối với thị trường trong nền kinh tế thị trường hiện đại, liên

quan đến khái niệm, chức năng và vai trò của thị trường [37].

Tiếp cận về lịch sử cho thấy: Thị trường hình thành và phát triển đi từ

thấp đến cao, tuỳ từng loại hoặc một số loại và chưa đồng bộ đến đa dạng phong

12

phú và đồng bộ. Mặc dù, ở mỗi nước, mỗi thời kỳ sự hình thành và phát triển các

loại thị trường có thể nhanh chậm và với mức độ có khác nhau, song đều lấy sự

phát triển của phân công xã hội và trình độ xã hội hoá sản xuất làm điểm xuất

phát.

Mặc dù còn có ý kiến khác nhau về khái niệm thị trường, song có thể hiểu:

Thị trường là lĩnh vực trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ, lĩnh vực mà ở

đó những người tham gia thị trường thường xuyên tác động với nhau để xác định

giá cả và sản lượng hàng hóa.

- Thông qua vai trò nối liền và thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng phát triển,

thị trường có những chức năng như: Thừa nhận hay không thừa nhận hàng hóa,

dịch vụ mà người sản xuất và cung ứng trên thị trường; thông tin cho người sản

xuất và người tiêu dùng những thông số hay tín hiệu về quy mô, cơ cấu, chất

lượng, mức giá cả, thời gian và không gian mà người mua có nhu cầu; điều tiết

(kích thích, kìm hãm, chuyển đổi) sản xuất, lưu thông và tiêu dùng thông qua các

quyết định của những người tham gia thị trường.

- Thị trường có thể chia thành nhiều loại, do dựa trên nhiều tiêu thức khác

nhau. Luận văn lấy tiêu thức quá trình tái sản xuất để phân loại. Theo tiêu thức

này, có thể chia thị trường thành 2 nhóm loại cơ bản: Nhóm thị trường các yếu tố

sản xuất gắn với đầu vào và thị trường hàng hóa,dịch vụ gắn với đầu ra của sản

xuất.

- Nhóm thị trường các yếu tố sản xuất bao gồm: Thị trường tư liệu sản

xuất; thị trường tài chính; thị trường sức lao động; thị trường bất động sản; thị

trường công nghệ...

- Nhóm thị trường hàng hóa, dịch vụ, gắn với đầu ra của sản xuất. dưới

góc độ thị trường "mở" có thể chia thành: Thị trường trong nước; thị trường

13

ngoài nước được thực hiện thông qua tiêu thụ trong nước và xuất khẩu ra nước

ngoài và xuất khẩu tại chỗ thu ngoại tệ.

* Khái niệm thị trường công nghệ

Lịch sử cho thấy từ trước đại chiến thế giới lần thứ hai, những điều kiện

cho sự ra đời của thị trường công nghệ chưa chín muồi, lúc này bí mật của những

thành tựu khoa học kỹ thuật đang ngự trị, nên việc chuyển giao kỹ thuật công

nghệ thông qua thị trường chưa được phát triển.

Sự xuất hiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại từ những năm

40 của thế kỷ XX, nhất là từ những năm 70 lại đây, đã làm cho khoa học - công

nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp đúng như dự báo của CMác khi phân

tích giai đoạn máy móc đại công nghiệp ở nước Anh vào 60 năm đầu của thế kỷ

XIX [36]. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, mà sự tác động của

nó đã làm xuất hiện đặc trưng thời gian cho một phát minh khoa học công nghệ

mới thay thế cho thế hệ kỹ thuật công nghệ cũ rút ngắn lại và hao mòn tài sản cố

định diễn ra nhanh hơn, kinh tế tri thức - một biểu hiện mới đạt trình độ phát

triển cao của lực lượng sản xuất xuất hiện - cùng với xu thế toàn cầu hoá hình

thành và phát triển. Trong bối cảnh đó, sự hình thành và phát triển thị trường

công nghệ trở nên tất yếu không thể thiếu được trong tính đồng bộ của nền kinh

tế thị trường hiện đại.

Các nước có trình độ kinh tế phát triển, thị trường công nghệ đạt trình độ

phát triển cao về quy mô, tốc độ và phong phú về nội dung. Chẳng hạn vấn đề sở

hữu trí tuệ, các hoạt động dịch vụ thông tin, tư vấn phát triển khá nhanh, đặt biệt

phải kể đến là hoạt động chuyển giao công nghệ giữa các ngành, các vùng và

giữa các quốc gia với nhau. Có thể nói, trong thời đại hiện nay, nhất là trong nền

14

kinh tế thị trường hiện đại, TTCN hình thành và phát triển là một tất yếu khách

quan.

Như đã phân tích ở trên về khái niêm, mối quan hệ và sự khác nhau giữa

khoa học và công nghệ và sự luận giải về hàng hóa công nghệ, trong luận văn

này chúng tôi không sử dụng khái niệm thị trường khoa học công nghệ theo

nghĩa rộng mà sử dụng khái niệm thị trường công nghệ theo nghĩa hẹp.

- Thị trường công nghệ theo nghĩa rộng là tổng thể quan hệ trao đổi, giao

dịch để biến thành quả nghiên cứu khoa học và công nghệ trở thành hàng hóa và

trở thành lực lượng sản xuất hiện thực. Xét về cơ cấu, nó bao gồm toàn bộ quá

trình từ triển khai hàng hóa công nghệ đến ứng dụng và lưu thông hàng hóa công

nghệ; do các bên bán, bên mua và trung gian tiến hành như triển khai, chuyển

giao công nghệ, tư vấn công nghệ và dịch vụ công nghệ, toàn bộ lĩnh vực và các

khâu lưu thông thành quả khoa học và công nghệ.

- Thị trường công nghệ theo nghĩa hẹp thể hiện rõ trong khái niệm dịch vụ

khoa học và công nghệ.

Thị trường công nghệ tuy còn có một số cách hiểu khác nhau, song có thể

hiểu: Thị trường công nghệ là một phương thức thương mại hóa các thành quả

khoa học công nghệ, liên kết có hiệu quả giữa khoa học với sản xuất kinh doanh,

là lĩnh vực trao đổi mua bán hàng hóa công nghệ, tư vấn, môi giới, giám định,

thưởng phạt, khiếu kiện giữa các chủ thể tham gia trên thị trường công nghệ.

- Phân loại thị trường công nghệ

- Theo hình thức sở hữu, các chủ thể có các cá nhân, doanh nghiệp hoặc

các công ty hoạt động trong các thành phần kinh tế.

- Theo hình thức mua bán, có các hình thức thị trường như: mua bán có

giấy phép, hợp tác nghiên cúưu phát triển, công trình chìa khóa trao tay, uỷ thác

triển khai.

15

- Theo tổ chức TTCN, có chợ giao dịch, chợ gọi thầu các vấn đề khó, chợ

công bố thông tin khoa học và công nghệ, cửa hàng công nghệ...

- Theo phạm vi, có TTCN trong nước, TTCN quốc tế, TTCN khu vực,

TTCN địa phương.

* Đặc trưng của thị trường công nghệ

Là một bộ phận trong hệ thống thị trường, song thị trường công nghệ lại

có những đặc trưng riêng:

Một là, hàng hoá trao đổi trên thị trường công nghệ không giản đơn là

trùng hợp với các yếu tố cấu thành khoa học và công nghệ, mà là những tri thức

đã kết tinh trong các phát minh, sáng chế, giải pháp công nghệ. Việc tạo ra

những loại hàng hoá này có những đặc trưng khác với những hàng hoá và dịch

vụ thông thường khác: có trường hợp trải qua thời gian rất dài trong đó có những

thất bại với nhiều phí tổn lớn; có trường hợp lại nảy sinh từ những hiện tượng,

những quan sát mang tính ngẫu nhiên. Trong tất cả các trường hợp, việc xác định

hao phí lao động để tạo ra hàng hoá là công việc hết sức khó khăn, thậm chí khó

có thể xác định chính xác được hết giá trị của nó.

Hai là, người cung ứng hàng hóa trên thị trường này là tất cả những người

có khả năng tạo ra được hàng hoá công nghệ để đem ra trao đổi trên thị trường.

Theo nghĩa đó, người cung ứng hàng hoá công nghệ có thể là:

- Các tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ nơi tập trung các nhà

khoa học trình độ cao với những trang thiết bị hiện đại chuyên nghiên cứu đưa ra

những phát minh có tính đón đầu hoặc theo yêu cầu các doanh nghiệp các tổ

chức khác.

- Các doanh nghiệp sử dụng lực lượng của mình hoặc liên kết với các tổ

chức, các cá nhân khác tạo ra thành tựu khoa học và công nghệ phục vụ yêu cầu

16

của chính mình và chuyển nhượng quyền sở hữu thành tựu đó cho các chủ thể

khác theo đúng các nguyên tắc của trao đổi hàng hoá trên thị trường.

- Các cá nhân có trình độ khác nhau tạo ra được những phát minh, sáng

chế mới bằng năng lực bằng sự say mê của mình. Họ giữ quyền sở hữu sáng chế

đó và chuyển nhượng cho chủ thể khác theo các nguyên tắc trao đổi hàng hoá

trên thị trường.

- Nhập khẩu hàng công nghệ từ bên ngoài để lưu thông trên thị trường này

bằng các phương thức và hình thức khác nhau.

Ba là, người mua hàng hoá để tiêu dùng trên thị trường công nghệ này là

tất cả các chủ thể (cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và xã hội) có nhu cầu

phát triển và nâng cao trình độ khoa học và công nghệ để đáp ứng yêu cầu tồn tại

và phát triển. Họ không có khả năng tự đáp ứng yêu cầu của mình và phải tìm

mua trên thị trường hàng hoá công nghệ mà mình cần.

Bốn là, môi trường pháp lý bảo đảm cho sự trao đổi hàng hoá này trên thị

trường công nghệ diễn ra trong khuôn khổ pháp luật. Điều này thể hiện trực tiếp

vai trò của Nhà nước đối với việc hình thành và phát triển TTCN, trong đó quan

trọng hàng đầu là các văn bản pháp qui thừa nhận sản phẩm khoa học - công

nghệ có đủ tư cách là hàng hoá, các văn bản pháp qui về đăng ký phát minh sáng

chế và sở hữu trí tuệ, đăng ký kinh doanh hànhg hóa công nghệ...

Năm là, quan hệ cung cầu về hàng hoá công nghệ diễn biến gắn với trình

độ phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có áp lực cạnh tranh trên thị trường và

trình độ phát triển các hoạt động nghiên cứu, sáng chế và phát minh. Do trình độ

khoa học và công nghệ là yếu tố quan trọng hàng đầu tạo nên năng lực cạnh

tranh của hàng hoá trên thị trường, nên áp lực cạnh tranh càng mạnh, nhu cầu đổi

mới và nâng cao trình độ khoa học và công nghệ của các doanh nghiệp, các tổ

chức càng cao, nhu cầu với hàng hoá này, do vậy càng mở rộng. Cũng như các

17

hàng hoá vật chất khác, mỗi hàng hoá công nghệ có chu kỳ sống riêng, tốc độ

phát triển khoa học và công nghệ càng cao, chu kỳ sống hàng hoá công nghệ

càng ngắn, sự nảy sinh nhu cầu mới sẽ là quá trình phát triển không có giới hạn.

Từ những đặc trưng đó, đối chiếu với thực tiễn có thể thấy rằng Việt Nam

chưa có TTCN theo nghĩa đầy đủ. Các yếu tố cấu thành thị trường này còn ở

trình độ sơ khai, tự phát. Chính đây là một trong những nguyên nhân hạn chế sự

phát triển khoa học và công nghệ, chậm nâng cao năng lực cạnh tranh và chủ

động hội nhập kinh tế của nước ta thời gian qua.

* Sự sự cần thiết và lợi ích của việc hình thành và phát triển TTCN

- Sự cần thiết

+ Việc phát triển TTCN càng nhanh và trình độ càng cao có tác dụng to

lớn đối với sự tiến bộ khoa học công nghệ, làm thay đổi mang tính nhảy vọt về

chất lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế với nhịp độ nhanh và theo

hướng ngày càng hợp lý, hiệu quả và hiện đại.

+ Hình thành và phát triển TTCN còn do yêu cầu phải thực hiện quan

điểm CNH - HĐH phát triển theo con đường rút ngắn hiện đại. Đại hội Đảng lần

thứ IX đã chỉ rõ: “Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và

có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước đi tuần tự, vừa có bước nhảy vọt”

[16, tr.91].

+ Sự hình thành và phát triển TTCN còn do yêu cầu phải tạo lập đồng bộ

các yếu tố, các loai thị trường trong quá trình xây dựng và phát triển nhanh nền

KTTT định hướng XHCN ở nước ta Sự chậm trễ trong việc hình thành và phát

triển TTCN là một trong những nguyên nhân làm cho thị trường nước ta hình

thành và phát triển chậm, thiếu đồng bộ.

+ Hình thành và phát triển TTCN, còn là sự cần thiết để thúc đẩy nghiên

cứu, sáng tạo, phát minh những thành tựu khoa học, đến lượt nó lại là nguyên

18

nhân thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Ở các nước đang phát triển trong

đó có nước ta, thị trường này mới bắt đầu sơ khai, do vậy trong thời gian tới cần

khẩn trương tổ chức TTCN, thực hiện bảo hộ sở hữu trí tuệ; đẩy mạnh phát triển

các dịch vụ về thông tin, tư vấn và chuyển giao công nghệ...

+ Cuối cùng sự hình thành và phát triển nhanh chóng TTCN còn do yêu

cầu phải nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa, sức cạnh tranh của doanh

nghiệp và của nền kinh tế, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế nhanh

chóng và hiệu quả.

- Lợi ích

Sự hình thành và phát triểnTTCN không chỉ là sự cần thiết khách quan mà

còn đem lại nhiều lợi ích sau đây:

+ Về phía cung, sự hình thành và phát triển thị trường này đem lại lợi ích

cho cả 3 phía:

Nhà nước giảm bớt tình trang bao cấp, giảm gánh nặng chi ngân sách,

đồng thời có thể tăng thu cho ngân sách nhà nước thông qua thu thuế trên thị

trường này.

Tăng khả năng đầu tư vốn cho nghiên cứu khoa học, nâng cao chất lượng

và khả năng ứng dụng các thành tựu khoa học, từ đó nâng cao thu nhập và cải

thiện đời sống của các nhà nghiên cứu khoa học.

Thông qua đòn bẩy lợi ích phát huy tác dụng của các doanh nghiệp trong

môi giới, tư vấn và kinh doanh hàng hóa công nghệ trên TTCN.

Về phía cầu, sự hình thành và phát triển TTCN đem lại lợi ích cho người

mua và sử dụng hàng hóa công nghệ để mở rộng và hiện đại hoá sản xuất kinh

doanh, nâng cao sức cạnh tranh, hội mhập đứng vững và chiến thắng trên thương

trường trong nước và quốc tế. Tất nhiên để lợi ích về phía cầu thành hiện thực,

thì vai trò nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt. Trong đó đáng chú ý là nhà

19

nước: cần tăng cường công tác giáo dục cho người sử dụng thầy rõ sự cần thiết

phải mua thành tựu khoa học - công nghệ, mua hàng hoá công nghệ; ban hành

các chính sách coi công nghệ là hàng hóa, Luật sở hữu trí tuệ, hình thành và bảo

vệ thương hiệu, từng bước xoá bỏ bao cấp và thói quen, ỷ lại vào nhà nước về

việc cung ứng sản phẩm nghiên cứu khoa học trong tất cả các doanh nghiệp, nhất

là các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài doanh nghiệp nhà nước

và doanh nghiệp cổ phần nhà nước sau cổ phần hóa.

1.2. Vai trò nhà nƣớc trong việc hình thành và phát triển thị trƣờng

công nghệ

1.2.1. Nhà nước và vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường

* Khái niệm Nhà nước

Trong lịch sử hình thành và phát triển Nhà nước, lý luận và kinh nghiệm

đã khẳng định những thăng, trầm, biến cố của lịch sử từ trước đến nay đều gắn

với vai trò Nhà nước.

Trong xã hội có giai cấp, Nhà nước là công cụ cơ bản về quyền lực chính

trị, có một bộ máy đặc biệt để cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý. Nhà

nước thể hiện ý chí của tất cả các thành viên thuộc giai cấp thống trị được hợp

nhất thành ý chí Nhà nước.

Ở nước ta hiện nay, Nhà nước Công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là

Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực Nhà nước thống nhất, không

phân chia, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nhưng có phân

công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước để thực hiện ba quyền lập pháp,

hành pháp và tư pháp [31].

* Vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường

20

Phân tích vai trò Nhà nước trong điều kiện KTTT, nhất là khi phân tích

những khuyết tật của cơ chế thị trường hay của “Bàn tay vô hình” trong mô hình

KTTT tự do cho thấy: không thể phát huy vai trò tích cực và giảm thiểu những

khuyết tật của cơ chế thị trường nếu không có vai trò quản lý vĩ mô của Nhà

nước.

Trong lịch sử hình thành và phát triển kinh tế thị trường, cơ chế thị trường

tự điều chỉnh - “Bàn tay vô hình” chỉ tồn tại gắn với mô hình KTTT tự do đến

hai thập niên đầu thế kỷ XX. Từ đó đến nay trên thế giới mô hình KTTT tự do đã

chuyển lên mô hình KTTT hỗn hợp hay KTTT hiện đại, chịu sự điều tiết của cơ

chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, một cơ chế bao gồm sự kết

hợp giữa “bàn tay vô hình”- của cơ chế thị trường và “bàn tay hữu hình” - của

Nhà nước [24].

Như vậy, nếu từ 2 thập niên đầu của thế kỷ XX về trước, mặc dù Nhà

nước nào cũng có vai trò kinh tế, nhưng không trực tiếp can thiệp điều tiết nền

kinh tế, mà chỉ là cơ quan cai trị xã hội. Song đến thập niên thứ hai của thế kỷ

XX, nhất là từ sau đại chiến thế giới lần thứ 2 đến nay Nhà nước không ở bên

trên, bên ngoài nền kinh tế, mà đã có vai trò quản lý vĩ mô nền KTTT.

Trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta, để phát huy mặt tích cực

và giảm thiểu những khuyết tật của kinh tế thị trường nhằm thúc đẩy tăng trưởng

theo mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh và đúng định

hướng XHCN không thể thiếu vai trò quản lý của Nhà nước.

Nhà nước thực thi vai trò là người tổ chức lãnh đạo và quản lý vĩ mô nền

kinh tế nhằm mục đích:

21

- Với vai trò “bà đỡ’’, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình

thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường, nhất là các thị trường chưa có

hoặc mới được hình thành, trong đó có thị trường công nghệ.

- Đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển bình thường, hạn chế

những đột biến không lành mạnh xảy ra.

- Đảm bảo môi trường sinh thái theo hướng hiệu quả kinh tế - xã hội.

- Giảm thiểu những hậu quả tiêu cực của xã hội do tính tự phát của cơ chế

thị trường, từ đó thực hiện có hiệu quả mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội

công bằng dân chủ văn minh và phát triển theo đúng định hướng XHCN.

1.2.2. Vai trò nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị trường

công nghệ - Nhìn từ góc độ nội dung

Nhà nước thực thi vai trò đối với việc hình thành và phát triển thị trường

công nghệ qua các nội dung sau đây:

Thứ nhất: Nhà nước tạo môi trường pháp lý cho việc hình thành và phát

triển thị trường công nghệ.

Nhà nuớc pháp quyền là quyền lực của nhà nước đối với nền kinh tế thể

hiện ở luật pháp. Trong nền KTTT Nhà nước điều tiết và quản lý bằng một hệ

thống luật, nhất là hệ thống các luật kinh tế một cách khoa học, đồng bộ và hiệu

quả. Ở những nước đang phát triển, trong đó có nước ta, TTCN chưa hình thành

hoặc còn sơ khai, thì vai trò “bà đỡ”- vai trò tạo môi trường pháp lý của nhà

nước để thị trường công nghệ sớm hình thành có ý nghĩa rất quan trọng.

Môi trường pháp lý có nhiều, song dưới góc độ TTCN bao gồm các khía

cạnh sau đây:

22

- Xây dựng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ phù hợp với xu

hướng tiến bộ khoa học và công nghệ trên thế giới và phù hợp với điều kiện lịch

sử cụ thể của mỗi nước trong từng thời kỳ;

- Nghiên cứu và ban hành các luật pháp, chính sách, các văn bản hướng

dẫn liên quan đến việc hình thành và phát triển TTCN, nhất là Luật khoa học -

công nghệ và Luật doanh nghiệp (ở nước ta Luật khoa học - công nghệ đã ban

hành tháng 6 năm 2000). Trong Luật này, những điều khoản sau đây cần được

coi trọng:

+ Phải xác định sản phẩm công nghệ là hàng hoá được trao đổi mua bán.

+ Thừa nhận và tạo điều kiện thúc đẩy sự hình thành và phát triển cơ chế

cung cầu hàng hóa công nghệ.

+ Thừa nhận TTCN là một bộ phận không thể thiếu được trong hệ thống

đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa.

- Nhà nước ban hành các luật, nghị định, chính sách và biện pháp liên

quan đến việc quản lý vĩ mô có hiệu quả các hoạt động giao dịch kinh doanh trên

TTCN . Các văn bản pháp lý có đủ 3 thành phần: đảm bảo vai trò quản lý của

nhà nước; đảm bảo hoạt động của các chủ thể tham gia TTCN; đảm bảo hỗ trợ

cho TTCN có thể triển khai và phát triển đồng bộ, lành mạnh và hiệu quả.

Tóm lại, để TTCN hình thành và phát triển về mặt pháp lý, Nhà nước cần

tạo cho TTCN một hệ thống luật pháp, pháp quy tương đối đầy đủ trên các mặt

như: đăng ký công nhận thành quả KH & CN; biện pháp thúc đẩy thương mại

hoá thành quả KH & CN; Hệ thống pháp lý đầy đủ về hợp đồng công nghệ cho

nghiên cứu phát triển công nghệ, chuyển giao công nghệ, tư vấn công nghệ, dịch

vụ công nghệ, môi giới công nghệ; đăng ký công nhận hợp đồng công nghệ; biện

23

pháp tăng cường quản lý quyền sở hữu trí tuệ đối với KH&CN, phát triển mạng

lưới dịch vụ thông tin hỗ trợ TTCN; Phát triển ngành dịch vụ trung gian trong đó

có môi giới công nghệ, đánh giá quyền sở hữu tài sản công nghệ, v.v...

Thứ hai: Nhà nước ban hành khung pháp lý về tổ chức hoạt động của thị

trường công nghệ

Nội dung khung pháp lý về tổ chức liên quan đến hoạt động của TTCN

gắn với 3 thành phần (hay 3 phía):

* Cơ quan quản lý và xúc tiến TTCN của nhà nước Trung ương, tỉnh

(thành phố)

Nhà nước cần có các văn bản pháp lý cho việc hình thành cơ quan quản lý

và xúc tiến TTCN trên cơ sở công nhận các cơ quan này là đơn vị sự nghiệp,

hình thành từ trung ương đến địa phương có chức năng nhiệm vụ được xác định

về mặt pháp lý.

Cấp Trung ương: Tổ chức này có tên gọi là “Trung tâm quản lý và xúc

tiến thị trường công nghệ”. Cơ quan này trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ,

được tổ chức thành các Ban có các chức năng:

- Quản lý phát triển xúc tiến TTCN

- Phổ cập kết quả nghiên cứu.

- Thông tin.

- Hợp tác quốc tế.

* Cấp tỉnh, thành phố, có tên gọi là: “Văn phòng quản lý và xúc tiến

TTCK”.

Văn phòng này trực thuộc Sở khoa học và Công nghệ, thực thi các chức

năng:

24

- Thẩm định đánh giá hàng hóa công nghệ.

- Thực hiện như là đơn vị giao dịch hàng hoá công nghệ.

- Quản lý vĩ mô

- Đào tạo nhân lực

* Các cơ quan trung gian: ( môi giới giao dịch công nghệ; Tổ chức hội

chợ giao dịch công nghệ; các Hội giao dịch công nghệ...).

* Các tổ chức nghiên cứu khoa học.

Nhà nước điều chỉnh, bổ sung đối với những luật pháp và chính sách đã

có, đồng thời ban hành các luật pháp văn bản còn thiếu liên quan đến các tổ chức

nghiên cứu khoa học. Dưới đây là một số văn bản cần thiết:

- Trong điều kiện KTTT, tổ chức nghiên cứu khoa học cần xác định là tổ

chức có chức năng: sản xuất những thành tựu KH&CN hay hàng hoá công nghệ.

- Luật hợp đồng công nghệ

- Luật thúc đẩy những thành quả KH&CN thành hàng hóa công nghệ có

thể trao đổi mua bán trên TTCN (kinh nghiệm của Trung Quốc).

- Một số văn bản khác liên quan đến việc quản lý chương trình KH&CN,

đánh giá, kiểm định thành quả KH&CN, nghiệm thu đề tài/dự án và đăng ký

thành quả KH&CN.v.v...

* Mạng lưới thế nhân, pháp nhân, các tổ chức, doanh nghiệp.

Nhà nước sớm có các văn bản lên quan đến việc hình thành mạng lưới

sau:

- Hệ thống dịch vụ giao dịch hàng hóa công nghệ.

Hệ thống này có chức năng khuyến khích tạo lập trung gian cung cấp dịch

vụ như địa điểm, thông tin công nghệ, luận chứng công nghê, đánh giá công

25

nghệ, môi giới công nghệ, giao dịch quyền tài sản công nghệ, đại diện chào đấu

thầu công nghệ, chợ giao dịch công nghệ. Các chức năng trên cần được nhà nước

ban hành các văn bản về khung tổ chức mang tính pháp lý vừa để làm cơ sở cho

tổ chức này hoạt động vừa để nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô của mình.

- Những cá nhân hay tổ chức môi giới công nghệ.

Người môi giới công nghệ là cá nhân, tổ chức, đơn vị có tư cách pháp

nhân được cơ quan có thẩm quyền của nhà nước công nhận. Thực hiện các chức

năng trung gian hoà giải để thúc đẩy sự thành công trong giao dịch hàng hóa

công nghệ của người khác, làm hoạt động môi giới hoặc làm đại diện và được

hưởng hoa hồng hợp lý. Tất nhiên để làm được chức năng này, những người

hoặc tổ chức làm môi giới phải kinh qua đào tạo và chịu sự kiểm tra và cấp giấy

phép của cơ quan quản lý KH&CN và cơ quan quản lý kinh doanh. Tổ chức môi

giới phải có cán bộ chuyên trách có tư cách làm môi giới phù hợp với số lượng

theo quy định của Nhà nước.

- Tổ chức giao dịch quyền tài sản công nghệ.

+ Tổ chức này do các tỉnh, thành phố thành lập.

+ Thực hiện góp cổ phần bằng thành quả công nghệ theo luật quy định.

+ Có các chức năng như: chuyển nhựơng quyền tài sản của doanh nghiệp

công nghệ cao, mới; mở rộng cổ phần để tăng đầu tư vốn cho cho doanh nghiệp

cao mới; thực hiện nghiệp vụ cùng tham gia mua công nghệ; thúc đẩy kết hợp

thành quả KH&CN với vốn.

Tại Điều 33 của Luật khoa học và công nghệ đã xác định: “Nhà nước có

chính sách và các biện pháp sau đây để xây dựng và phát triển thị trường công

nghệ:

26

(1) Khuyến khích mọi hoạt động chuyển nhượng, chuyển giao công nghệ

theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, các bên cùng có lợi; (2) Hoàn thiện chính

sách, pháp luật về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ; (3) Áp dụng các

chính sách ưu đãi đối với sản phẩm đang trong thời kỳ sản xuất thử nghiệm bằng

công nghệ mới; sản phẩm được làm ra từ công nghệ mới lần đầu tiên áp dụng tại

Việt Nam; hoạt động tư vấn khoa học và công nghệ; thiết bị công nghệ cao nhập

khẩu, xuất khẩu công nghệ; (4) Áp dụng chế độ thưởng cho tập thể lao động và

cá nhân có sáng chế, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và ứng

dụng công nghệ mới được chuyển giao; (5) Các tổ chức khoa học và công nghệ

được thành lập tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ, doanh nghiệp trực thuộc;

được hợp tác, liên doanh với tổ chức, cá nhân để tiến hành hoạt động chuyển

giao công nghệ [48].

Thứ ba: Nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô có hiệu quả thị trường công

nghệ.

Tại Chương VI, Điều 49 của Luật khoa học và công nghệ ban hành tháng

6 năm 2000 về nội dung quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ nói chung,

giúp chúng ta nhận rõ khái niệm, mục tiêu và nhiệm vụ quản lý nhà nước về

TTCN.

- Khái niệm quản lý vĩ mô TTCN được hiểu là: Quá trình lập kế hoạch, tổ

chức, điều tiết và kiểm tra các hoạt động của người sản xuất, người kinh doanh

và người sử dụng hàng hóa công nghệ làm cho hoạt động của thị trường này

được quy phạm hóa và đảm bảo trật tự theo đúng luật pháp nhằm thúc đẩy việc

áp dụng rộng rãi và có hiệu quả các thành quả của khoa học và công nghệ vào

sản xuất và đời sống [51].

- Mục tiêu quản lý thị trường công nghệ:

27

+ Bảo đảm việc tiến hành trao đổi hàng hóa công nghệ được thuận lợi.

+ Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các bên tham gia thị trường công nghệ.

+ Bảo vệ trật tự thị trường theo đúng luật pháp.

+ Bảo đảm công bằng trong giao dịch, cạnh tranh lành mạnh, hiệu quả với

giá cả hợp lý.

- Nhiệm vụ quản lý thị trường công nghệ:

+ Tích cực tạo điều kiện hỗ trợ việc sản xuất (nghiên cứu phát minh) hàng

hóa công nghệ.

+ Tổ chức việc lưu thông hàng hóa công nghệ một cách khoa học và có

hiệu quả.

+ Đôn đốc, kiểm tra, giám sát có hiệu quả việc tiêu dùng (sử dụng) hàng

hóa công nghệ.

+ Bảo đảm việc chuyển giao công nghệ thiết thực đúng luật pháp.

1.3. Kinh nghiệm về vai trò nhà nƣớc trong việc hình thành và phát

triển thị trƣờng công nghệ

1.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc

* Tổng quan

Năm 1978, Trung Quốc tiến hành cải cách mở cửa nền kinh tế theo lộ

trình (bước đi) và phương pháp xác định trên các lĩnh vực trong đó có KTTT và

thị trường công nghệ.

- Cải cách thể chế kinh tế, mở cửa để xây dựng nền kinh tế thị trường

XHCN.

28

Hội nghị Trung ương 3 khoá XI (năm 1978) Đảng Cộng sản Trung Quốc

đánh dấu bước khởi đầu của công cuộc cải cách và mở rộng của kinh tế Trung

Quốc. Quá trình này được tiến hành từng bước theo 3 giai đoạn chính:

+ Giai đoạn mở đầu cải cách - mở cửa: Từ tháng 11/1978 đến 9/1984:

Trọng điểm là cải cách ở nông thôn với việc khoán sản lượng đến hộ gia đình thí

điểm mở rộng quyền cho các doanh nghiệp. Về đối ngoại, thành lập 4 đặc khu

kinh tế ở tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến và mở cửa 14 thành phố cảng ven biển;

tiến hành cải cách hành chính lần thứ nhất.

+ Giai đoạn phát triển của cải cách - mở cửa (1984 - 1992). Tập trung ở

thành phố, trọng tâm là cải cách các doanh nghiệp Nhà nước, cải cách giá cả là

then chốt, "lấy thành phố lôi kéo nông thôn".

+ Giai đoạn thứ ba (từ 1992 đến nay và dự kiến đến năm 2010). Cải cách

tổng hợp và đồng bộ, tiếp tục coi cải cách DNNN là khâu trọng tâm cải cách thể

chế vĩ mô. Hình thành "mở cửa toàn phương vị" (từ mở cửa ven biển đến mở cửa

ven biên giới), tiếp tục tiến hành cải cách hành chính.

Nhiệm vụ chủ yếu của hai giai đoạn đầu là xoá bỏ thể chế cũ, còn giai

đoạn thứ ba là xây dựng thể chế mới - thể chế kinh tế thị trường XHCN.

Cải cách và mở cửa ở Trung Quốc được thực hiện trên cơ sở những đột

phá lý luận về kinh tế thị trường XHCN, đó là:

+ Lý luận về mục tiêu cải cách thể chế kinh tế.

+ Lý luận về cải cách chế độ sở hữu.

+ Lý uận về cải cách nông thôn.

+ Lý luận về cải cách chế độ xí nghiệp.

+ Lý luận về hệ thống thị trường.

29

+ Lý luận về cải cách thể chế quản lý vĩ mô.

+ Lý luận về phân phối thu nhập.

+ Lý luận về mở cửa, phát triển kinh tế đối ngoại.

Các nhà lý luận của Trung Quốc cho rằng kinh tế thị trường không mang

thuộc tính giai cấp và chế độ, kinh tế thị trường vừa phục vụ cho CNTB lại vừa

phục vụ cho CNXH. Nền kinh tế thị trường XHCN là sự kết hợp giữa chế độ

công hữu với kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa không chỉ mang tính chung mà

còn có nét đặc thù riêng ở từng nước và mỗi nước có thể đi theo con đường

mang màu sắc riêng của mình.

Dựa trên nguyên lý của chủ nghĩa Mác và lý luận của Đặng Tiểu Bình về

cải cách và mở cửa của Trung Quốc, các nhà kinh tế học Trung Quốc cho rằng

nền kinh tế thị trường XHCN có 5 đặc trưng cơ bản sau đây:

+ Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, trong

đó lấy kinh tế công hữu làm chủ thể, kinh tế quốc hữu làm chủ đạo.

+ Lấy phân phối theo lao động làm chủ yếu, kết hợp đa dạng các hình thức

phân phối khác. Phân phối theo lao động chủ yếu thực hiện trong khu vực quốc

hữu.

+ Nhà nước thực hiện điều tiết vĩ mô kinh tế.

+ Hoàn thiện hệ thống thể chế thị trường, thông qua thị trường để phân bổ

các nguồn lực.

+ Xây dựng chế độ bảo hiểm xã hội phù hợp với mục tiêu XHCN.

- Tạo môi trường cho sự hình thành và phát triển các loại thị trường.

+ Cải cách doanh nghiệp Nhà nước

30

Nhìn chung, các DNNN ở Trung Quốc đều hoạt động kém hiệu quả tỷ lệ

các DNNN làm ăn thua lỗ trong tổng số DNNN tăng từ 26% năm 1992 lên 50%

năm 1996 [51, tr.12].

Đến cuối những năm 1990, các doanh nghiệp Nhà nước đóng góp 1/3 sản

lượng công nghiệp, 2/3 việc làm ở thành thị và hơn 50% đầu tư vào tài sản cố

định. Trong lĩnh vực tài chính, bốn ngân hàng thương mại lớn của Nhà nước vẫn

nắm 2/3 tài sản của toàn bộ khu vực tài chính. Trong những năm gần đây, cải

cách hệ thống DNNN được coi là khâu trung tâm. Tuy nhiên, chương trình cải

cách DNNN kéo dài và gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, thay bằng cải cách đồng

thời toàn bộ các DNNN, Chính phủ Trung Quốc đã tập trung vào 1000 DNNN

lớn và chủ trương biến các doanh nghiệp này thành hạt nhân của loại hình doanh

nghiệp hiện đại.

- Chuyển đổi hệ thống ngân hàng. Hạt nhân của hệ thống ngân hàng Trung

Quốc là 4 ngân hàng thương mại Nhà nước, chiếm trên 90% tài sản của khu vực

ngân hàng và 2/3 tài sản tài chính.

Nhà nước đã thực hiện chuyển đổi các ngân hàng Nhà nước thành các Nhà

nước thương mại. Từng bước chuyển sự cho vay theo chỉ đạo của Nhà nước sang

cho ngân hàng chính sách. Nhà nước giảm sự can thiệp trực tiếp đối với việc

phân bổ nguồn vốn vay, tạo sự cạnh tranh hơn giữa các ngân hàng, tăng chất

lượng các khoản vay, từng bước cho phép các ngân hàng nước ngoài hoạt động.

Thực hiện cải cách chính sách lãi suất, giảm bớt số lượng lãi suất ấn định

chính thức, thực hiện đấu giá trái phiếu kho bạc, điều chỉnh lãi suất thường

xuyên hơn theo biến động của lạm phát; Ngân hàng Nhà nước dần dần mở rộng

khung lãi suất cho vay.

31

+ Tạo lập môi trường pháp lý và kinh tế cho các thị trường hoạt động.

Biểu hiện:

Cải cách giá cả.

Mục tiêu của cải cách giá cả là xây dựng thể chế giá cả thị trường nhưng

không để xảy ra những biến động đột ngột.

Cải cách giá cả được thực hiện theo 3 bước: Điều chỉnh, nới lỏng và gắn

với giá cả thị trường. Các bước quá độ trong xây dựng thể chế giá theo cơ chế thị

trường cũng được tiến hành từng bước: Trước hết là với giá nông sản hàng hoá

nhỏ, rồi đến hàng tiêu dùng lâu bền, các dịch vụ, sau đó là với tư liệu sản xuất.

Từ giữa những năm 1990 đã qúa độ từ chế độ hai giá đối với tư liệu sản xuất

sang chế độ một giá.

Trong quá trình cải cách, đã từng bước chuyển quản lý trực tiếp sang điều

tiết gián tiếp thông qua thị trường, thực hiện thu hẹp các mặt hàng sản xuất theo

kế hoạch và do Nhà nước định giá, giảm kế hoạch pháp lệnh mở rộng quyền tự

mua bán sản phẩm; cải cách chế độ bán buôn, bán lẻ trong thương nghiệp, cho

phép kinh tế phi quốc hữu tham gia các hoạt động thương mại, từng bước hình

thành thị trường hàng hoá. Cho đến cuối những năm 1990, ở Trung Quốc có

khoảng 95% hàng hóa tư liệu sản xuất là do quan hệ cung cầu trên thị trường

định giá.

32

Xây dựng khuôn khổ pháp lý

Xây dựng cơ sở pháp lý cho thị trường hoạt động là yêu cầu cấp thiết,

hàng loạt các bộ luật đã được xây dựng từng bước đáp ứng yêu cầu của nền

KTTT. Tính riêng nhiệm kỳ Quốc hội 1993 - 1998, số lượng các bộ luật được

thông qua đã bằng số lượng bộ luật được ban hành từ năm 1949 đến năm 1992

(152 luật).

Cho phép và hỗ trợ thành lập các công ty, văn phòng luật. Hiện nay Trung

Quốc có hơn 72 công ty luật và chủ yếu ở dạng hợp doanh.

Cải tiến và tăng cường giáo dục pháp luật. Thành lập mới nhiều khoa và

trường dạy pháp luật.

- Về thị trường công nghệ.

Cải cách, mở cửa và việc hình thành thể chế kinh tế thị trường ở Trung

Quốc đã thúc đẩy nhanh sự phát triển của khoa học - công nghệ. Cùng với sự

phát triển của các loại thị trường khác, thị trường công nghệ cũng được hình

thành và phát triển. Khoa học - công nghệ từng bước trở thành hàng hoá. Quá

trình phát triển thị trường khoa học - công nghệ ở Trung Quốc đã trải qua các

giai đoạn phát triển như sau:

+ Giai đoạn nảy mầm (1978 - 1981). Năm 1979 tại Đại hội Khoa học toàn

quốc, Đặng Tiểu Bình đã xác định khoa học - công nghệ là quan trọng nhất trong

4 hiện đại hoá. Quan điểm này đã tạo cơ sở lý luận cho khoa học công nghệ trở

thành hàng hoá.

Trong giai đoạn này, các cơ quan khoa học và các đơn vị sản xuất đã bắt

đầu có sự hợp tác liên kết với nhau để chuyển nhượng kết quả nghiên cứu, bước

đầu gắn khoa học - công nghệ với sản xuất một cách trực tiếp. Các hoạt động

33

dịch vụ khoa học, tư vấn khoa học - công nghệ và thông tin cũng bắt đầu được

phát triển ở các thành phố.

+ Giai đoạn hình thành bước đầu (1982 - 1984).

Tại kỳ họp thứ 4 (khoá V) ngày 31-12-1981, Quốc Vụ viện Trung Quốc

đã thông qua "Luật Hợp đồng kinh tế nước CHND Trung Hoa" trong đó có

những qui định về nguyên tắc hoạt động giao dịch khoa học - công nghệ - thông

tin, như chuyển nhượng kỹ thuật, tư vấn thông tin, dịch vụ kỹ thuật và được pháp

luật thừa nhận là hàng hoá.

Trong giai đoạn này, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xác định phương

châm chiến lược xây dựng kinh tế phải dựa vào khoa học - công nghệ và khoa

học - công nghệ phải hướng vào xây dựng kinh tế, phục vụ kinh tế. Từ đó đã

thúc đẩy thêm một bước quan trọng hình thành thị trường khoa học - công nghệ.

Nhiều tổ chức kinh doanh của khoa học và thông tin xuất hiện, qui mô thị trường

khoa học công nghệ mở rộng. Thị trường khoa học - công nghệ - thông tin bước

đầu hình thành.

+ Giai đoạn phát triển (từ 1985 đến nay)

Năm 1985, Quốc vụ viện Trung Quốc công bố "Qui định tạm thời về

chuyển nhượng kỹ thuật". Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc công bố

"Quyết định về cải cách cơ chế khoa học - công nghệ". Các quyết định đó đã chỉ

rõ thị trường công nghệ là bộ phận cấu thành quan trọng của thị trường hàng hoá

XHCN Trung Quốc và đề ra nguyên tắc quan trọng nhằm thúc đẩy nhanh khoa

học - công nghệ hàng hoá.

Ngày 01/4/1985 Trung Quốc chính thức thực hiện "Luật sáng chế phát

minh nước CHND Trung Hoa".

34

Tháng 5/1985, lần đầu tiên Hội nghị giao dịch thành quả khoa học - công

nghệ toàn quốc được tổ chức tại Bắc Kinh. Điều đó cho thấy thị trường khoa học

- công nghệ - thông tin ở Trung Quốc đã bước vào giai đoạn phát triển rầm rộ.

Tháng 6/1987, "Luật hợp đồng kỹ thuật nước CHND Trung Hoa" được

công bố và thực thi vào tháng 11/1987. Bộ luật này đã xác định rõ quyền lợi và

nghĩa vụ của hai bên giao dịch khoa học - công nghệ - thông tin và qui định các

nguyên tắc hoạt động giao dịch khoa học - công nghệ - thông tin được luật hoá

Trong những năm gần đây, ở các địa phương đã xuất hiện nhiều hình thức

thị trường và hoạt động giao dịch như thị trường khoa học - công nghệ có tính

chuyên nghiệp, thị trường công nghệ cao, thị trường thông tin.

* Một số bài học kinh nghiệm của Trung Quốc

Từ tổng quan thực tiễn cải cách thể chế kinh tế của Trung Quốc và phát

triển các loại thị trường trong đó có TTCN trong nền kinh tế thị trường XHCN ở

Trung Quốc, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:

Thứ nhất: Phát triển và hoàn thiện hệ thống thị trường trong đó có TTCN

là yêu cầu khách quan của kinh tế thị trường XHCN.

Kinh tế thị trường XHCN trước hết là kinh tế hàng hoá vận động theo qui

luật của KTTT. Nền kinh tế thị trường XHCN cũng tuân thủ các quy luật vận

động của kinh tế thị trường nói chung Các loại thị trường nói chung và TTCN

nói riêng là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền KTTT. Do vậy, việc hình

thành, phát triển và hoàn thiện hệ thống thị trường là yêu cầu khách quan, là điều

kiện tiền đề của kinh tế thị trường XHCN.

Thực tiễn phát triển KTTT ở Trung Quốc trong hơn 20 năm qua đã cho

thấy việc hình thành và phát triển hệ thống thị trường nói chung và TTCN nói

35

riêng là yêu cầu, là điều kiện khách quan, cơ bản cho tăng trưởng và phát triển

kinh tế - xã hội.

Thứ hai: Nhà nước cần đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, từng

bước xây dựng cơ chế thị trường để thúc đẩy sự phát triển các loại thị trường,

trong đó có TTCN.

Việc chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự

quản lý của Nhà nước mới là điều kiện để hình thành các loại thị trường.

Để cho các thị trường phát huy được vai trò, chức năng vốn có của nó phù

hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cần có sự tác động

của Nhà nước, nhất là ở giai đoạn đầu.

Kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy Nhà nước có vai trò đặc biệt quan

trọng thúc đẩy sự hình thành và phát triển nhanh chóng các loại thị trường như:

+ Tạo môi trường kinh tế cho các thị trường hoạt động. Dựa trên lý luận

cho rằng cạnh tranh là cơ chế vận hành cơ bản của KTTT. Chính phủ đã từng

bước hạn chế các rào cản để phát huy cơ chế cạnh tranh.

+ Từng bước thực hiện cơ chế giá cả theo yêu cầu của qui luật thị trường.

+ Tạo môi trường pháp lý cho các thị trường hoạt động.

Thứ ba: Hình thành hệ thống thị trường đồng bộ, phù hợp với lộ trình

chuyển đổi thể chế kinh tế.

Mỗi loại thị trường có qui luật hoạt động riêng nhưng có quan hệ chặt chẽ

với nhau. Trong cơ chế thị trường, các loại thị trường như thị trường hàng hoá -

dịch vụ, thị trường vốn, thị trường đất đai - bất động sản, thị trường công nghệ…

có tác động hỗ trợ nhau phát triển. Vì vậy, các loại thị trường này phải được hình

thành và phát triển một cách đồng bộ.

36

Ở Trung Quốc, trong giai đoạn đầu của cải cách và mở cửa (1978 - 1984),

cơ chế cũ từng bước bị hạn chế và cơ chế kinh tế mới dần dần được hình thành.

Đây cũng là thời kỳ nảy mầm và bước đầu hình thành các loại thị trường. Chính

phủ Trung Quốc đã ban hành một số chính sách nhằm tạo điều kiện kinh tế - xã

hội và pháp lý cho sự xuất hiện và hình thành các loại thị trường trong đó có

TTCN.

Từ giữa những năm 1980, khi cải cách và mở cửa chuyển sang giai đoạn

thứ hai, các loại thị trường cũng bước vào thời kỳ phát triển. Thị trường hàng

hoá dịch vụ (đặc biệt là thị trường tư liệu sản xuất), thị trường đất đai - bất động

sản, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường công nghệ... phát triển nhanh

chóng từ giữa những năm 1989 tạo thành một hệ thống thị trường khá đồng bộ.

Sự phát triển các loại thị trường ở Trung Quốc được diễn ra một cách có ý

thức, từng bước. Sự hình thành và phát triển các loại thị trường này gắn liền với

sự phát triển về tư duy lý luận và điều kiện thực tiễn cụ thể của Trung Quốc. Hệ

thống các loại thị trường xuất hiện trong cơ chế mới cũng diễn ra đồng thời với

việc từng bước hạn chế và xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Vì vậy, quá

trình tạo lập các loại thị trường không gây ra những đảo lộn lớn trong các hoạt

động kinh tế - xã hội.

Thứ tư: Cùng với sự hình thành môi trường pháp lý về luật pháp, chính

sách và cơ chế cần coi trọng việc hình thành hệ thống tổ chức quản lý và xúc tiến

TTCN.

- Trung Quốc đã xây dựng một hệ thống cơ quan quản lý và xúc tiến

TTCN trong toàn quốc bao gồm: Cấp Trung ương có Trung tâm Quản lý và Xúc

tiến TTCN thuộc Bộ Khoa học môi trường Trung Quốc.

37

Cấp tỉnh, thành phố có văn phòng TTCN hoặc sở giao dịch TTCN. Hiện

nay 100% tỉnh, 75% thành phố trong toàn quốc có Văn phòng TTCN.

Ở huyện có Ban TTCN, một số điểm ở nông thôn có trạm TTCN; hiện nay

ở 75% huyện có Ban TTCN.

- Trung Quốc rất chú trọng phát triển, hỗ trợ các tổ chức trung gian như:

Tổ chức dịch vụ tư vấn, môi giới giao dịch mua bán công nghệ để các bên có

nhu cầu bán và mua công nghệ có thể giao dịch để ký các hợp đồng chuyển giao

công nghệ. Hoạt động của tổ chức này làm sống động TTCN, mang lại hiệu quả

sản xuất kinh doanh. Hiện nay ở Trung Quốc có 50.000 doanh nghiệp hoạt động

mua bán công nghệ; có 1200 nơi đăng ký hợp đồng mua bán công nghệ, có

1.000.000 người làm việc, số người này được đào tạo và được cấp chứng chỉ mới

được hành nghề.

Trong thời gian 10 năm từ 1990 - 2001, số hợp đồng công nghệ tăng trung

bình một năm là 20%. Năm 2001 có 27.900 hợp đồng công nghệ được ký, tổng

giá trị là 78 tỉ NDT so với giá trị 20 tỉ NDT vào năm 1993.

Cho đến nay, sau hơn 15 năm, hệ thống tổ chức quản lý TTCN và hệ

thống pháp lý Trung Quốc vừa xây dựng vừa bổ sung đã đạt được sự đồng bộ và

hoàn chỉnh. TTCN Trung Quốc phát triển tới một TTCN được quản lý thống

nhất, hoạt động có trật tự; thúc đẩy nhanh việc chuyển hoá thành quả KHCN vào

đời sống sản xuất. TTCN được coi là một sáng tạo của Trung Quốc trong quá

trình chuyển đổi hoạt động kinh tế và KHCN sang cơ chế thị trường.

1.3.2. Một số bài học chung có thể tham khảo vận dụng ở Việt Nam

Thứ nhất: Thời kỳ đầu phải rất coi trọng vai trò “bà đỡ” của Nhà nước, tức

vai trò tạo môi trường, điều kiện thúc đẩy việc hình thành TTCN. Tạo điều kiện

cho việc nghiên cứu, sáng chế, phát minh để có nhiều hàng hóa công nghệ, đưa

38

ra lưu thông trên TTCN; tạo các hình thức tổ chức giao dịch hàng hóa công nghệ

trên TTCN, tạo điều kiện hình thành các dịch vụ hỗ trợ TTCN, quản lý có hiệu

quả quyền sở hữu trí tuệ.

Thứ hai: Chính phủ cần biến nhận thức vai trò động lực của khoa học-

công nghệ trong phát triển kinh tế - xã hội thông qua việc thừa nhận sản phẩm

công nghệ là hàng hóa từ đó sớm hình thành môi trường pháp lý, cơ chế, chính

sách cho việc hình thành và phát triển TTCN.

Thứ ba: Trên cơ sở Luật khoa học và công nghệ đã ban hành, sớm cụ thể

hoá thành khung tổ chức quản lý và xúc tiến TTCN ở các cấp và các bên tham

gia thị trường, đảm bảo cho TTCN hoạt động có hiệu quả. Cụ thể: phát triển hệ

thống các tổ chức khoa học công nghệ, chuyển đổi một số tổ chức khoa học công

nghệ sang hoạt động như doanh nghiệp; đồng thời Nhà nước cần tăng ngân sách

để hỗ trợ đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ; phát triển hệ

thống dịch vụ trung gian trên thị trường; tận dụng công nghệ thông tin để hỗ trợ

sự phát triển của thị trường công nghệ (chợ công nghệ trên mạng, công cụ tiện

ích, dịch vụ tư vấn công nghệ, môi giới công nghệ), dịch vụ môi giới công nghệ,

dịch vụ thẩm định và đánh giá công nghệ.

Thứ tư: Chính phủ cần giao trách nhiệm cụ thể cho các cấp, các ngành, các

địa phương quản lý và thúc đẩy đổi mới công nghệ. Đồng thời cung cấp công cụ

và nguồn lực nhất định để các tổ chức này hoàn thành nhiệm vụ.

Thứ năm: Nhà nước có cơ chế hỗ trợ thúc đẩy các đơn vị trong việc hình

thành và phát triển nhu cầu hàng hoá công nghệ, mua và ứng dụng hàng hóa

công nghệ để đổi mới kỹ thuật công nghệ góp phần cải thiện môi trường kinh

doanh và đầu tư theo hướng nâng cao năng lực cạnh tranh và chủ động hội nhập

kinh tế khu vực và quốc tế.

39

Những bài học kinh nghiệm nói trên với tinh thần “gạn đục khới trong” có

thể tham khảo vận dụng và nhân rộng kinh nghiệm để nhanh chóng hình thành

và phát triển đồng bộ các loại thị trường trong đó có TTCN ở nước ta hiện nay.

40

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG VAI TRÒ NHÀ NƢỚC TRONG VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG

CÔNG NGHỆ THỜI GIAN QUA Ở NƢỚC TA

2.1. Thực trạng khoa học và công nghệ và thị trƣờng công nghệ nƣớc ta

2.1.1. Tình hình khoa học và công nghệ - nhìn từ góc độ cung ứng hàng

hoá công nghệ cho thị trường công nghệ

* Tình hình nghiên cứu khoa học.

- Tình hình đầu tư tài chính cho nghiên cứu khoa học.

Nước ta đi lên CNXH với điểm xuất phát thấp lại trải qua nhiều năm chiến

tranh và chịu hậu quả lâu dài của chiến tranh, nên ngân sách cho đầu tư nghiên

cứu khoa học và triển khai có hạn. Mặc dù vậy, kinh phí từ ngân sách nhà nước

cấp cho hoạt đông khoa học công nghệ đã gia tăng qua các năm, năm 1996 đạt

12.215 triệu đồng, tăng dần lên 12.558 triệu đồng năm 1997, 18.494 triệu đồng

năm 1998, 17.680 triệu đồng năm 1999 và 41.196 triệu đồng năm 2000. Từ năm

2001 - 2003 ngân sách của nhà nước cho hoạt động công nghệ tiếp tục tăng đạt 2

% tổng chi ngân sách, năm 2001 đạt 46.250 triệu đồng, năm 2002 đạt năm

53.830 triệu đồng, năm 2003 đạt 52.094 triệu đồng (xem bảng 2.1).

Tuy vậy, theo số liệu của Viện Quản lý kinh tế Trung ương, đầu tư cho

nghiên cứu triển khai KH - CN ở nước ta chỉ mới chiếm khoảng 0,4% GDP,

trong khi ở một số nước trong khu vực thì tỉ lệ này lên tới 2 - 3 %. Sự bất cập về

kinh phí cho nghiên cứu khoa học trong mấy năm gần đây bước đầu đã giải

quyết bằng cách đa dạng hoá nguồn tài chính ngày càng có xu hướng phát triển.

Cùng với việc cắt giảm kinh phí từ ngân sách, chuyển một số viện nghiên cứu

phát triển sang cơ chế được cấp kinh phí một phần hoặc tự trang trải. Ví dụ: Viện

41

Máy và dụng cụ công nghiệp Bộ Công nghiệp, Viện Thiết kế tổng hợp xây dựng

Bộ Xây dựng, chuyển đổi từ cơ quan nghiên cứu khoa học sang cơ chế doanh

nghiệp khoa học và công nghệ đã làm cho nhiều đề tài nghiên cứu khoa học

được thực hiện, được đưa vào ứng dụng có kết quả, góp phần nâng cao hiệu quả

sản xuất trong các doanh nghiệp. Song các đề tài nghiên cứu khoa học chưa đa

dạng, chủ yếu mang tính điều tra khảo sát, thiếu các đề tài nghiên cứu nâng cao

chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hiệu quả ứng dụng còn thấp,

chưa thật sự gắn với đẩy mạnh sự nghiệp CNH - HĐH.

Bảng 2.1: Đầu tư từ ngân sách nhà nước cho hoạt động khoa học- công

nghệ (giai đoạn 2000 - 2003)

Kinh phí (tỷ đồng) % trong tổng chi ngân sách Năm

1996 12.215

0,96 1997 12.558

1,26 1998 18.494

1,28 1999 17.680

2 2000 41.196

2 2001 46.250

2 2002 53.830

2 2003 52.094

Nguồn: Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương và Chương trình phát

triển Liên Hợp Quốc (2004), Phát triển thị trường khoa học và công nghệ ở Việt

Nam, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, [57, tr.50].

- Tình hình về tiềm lực khoa học kỹ thuật

42

Cả nước ta có gần 300 cơ quan làm nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và

triển khai công nghệ. Mạng lưới các cơ quan khoa học - công nghệ tuy có được

tăng cường, song chưa được tổ chức một cách khoa học khiến cho lực lượng

khoa học bị dàn trải, nhiều khi cùng một nhiệm vụ lại do nhiều cơ quan cùng

thực hiện với lượng kinh phí hạn hẹp không thể tạo ra sản phẩm công nghệ được.

Theo tài liệu “Vấn đề tạo nguồn lực tiến hành CNH, HĐH” nhận xét khả

năng sáng tạo công nghệ của các cơ sở khoa học và công nghệ trong nước còn

hạn chế, chủ yếu là do thiếu hụt các trang thiết bị hiện đại. cơ sở vật chất kỹ

thuật dành cho nghiên cứu khoa học ở dạng chắp vá, không đồng bộ, thiếu bảo

dưỡng, dẫn tới cơ sở thiết bị không đủ tiêu chuẩn kỹ thuật cho nghiên cứu, thiết

bị lạc hậu rất nhanh chóng. Thông tin khoa học - công nghệ dành cho các viện

nghiên cứu đầu ngành, cho các nhà khoa học công nghệ thiếu về số lượng, chậm

trễ về thời gian. Theo nhận xét của các nhà khoa học nước ngoài, thông tin khoa

học công nghệ của Việt Nam còn xa mới bằng những điều kiện và thông tin khoa

học công nghệ của sinh viên các nước trong vùng như Thái Lan, Singapore,

Malaysia, Hàn Quốc.

Việt Nam có một tiềm năng lớn nguồn chất xám. Theo số liệu thống

kê,lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật từ đại học trở lên của Việt Nam đến cuối

năm 2002 là 1.300.000 người, trong đó tiến sĩ chiếm 10%, tập trung nhiều nhất ở

Hà Nội 19,2%, TP.HCM 14%. Trong các trường đại học, cao đẳng có 35.938

giảng viên, cán bộ khoa học có trình độ cao có 4.970 tiến sĩ chiếm 13,8%, có

9.543 thạc sĩ chiếm 26,5%. Việt Nam có khoảng 300.000 Việt kiều có trình độ

đại học trở lên, trong đó có rất nhiều nhà khoa học hàng đầu trong nhiều lĩnh vực

là người gốc Việt đang làm việc trong những tập đoàn kinh tế lớn của thế giới.

Hiện có khoảng 10.000 học sinh Việt Nam học ở nước ngoài, hàng năm chi phí

mất khoảng 200 triệu USD cho sinh sống và học tập ở nước ngoài. Song rất

43

tiếc,Việt Nam chưa khai thác được nguồn chất xám đó do cơ chế chính sách còn

nhiều điều bất cập (lương, điều kiện làm việc, nhà khoa học bị cơ chế hành chính

trói buộc, thủ tục thanh quyết toán...). Trong lúc đó, các công ty nước ngoài tại

Việt Nam đã đa dạng hoá phương thức thu hút nhân tài: Trao học bổng hỗ trợ

sinh viên năm cuối, đào tạo nghề miễn phí, tuyển chọn các sinh viên giỏi gửi đi

đào tạo thêm ở nước ngoài.

Hiện tượng cán bộ khoa học kỹ thuật chạy từ cơ quan nhà nước sang các

cơ quan nước ngoài, các sinh viên tốt nghiệp loại giỏi là nguồn tuyển dụng của

các công ty nước ngoài, trí thức Việt kiều không về làm việc, học sinh đi học

nước ngoài xong ở lại nước làm việc không về nước.

Lực lượng cán bộ khoa học trong nghiên cứu khoa học và công nghệ là

khá đông đảo, hơn 65.000 người trực tiếp hoạt động trong các lĩnh vực nghiên

cứu khoa học và triển khai, song xét về mặt chất lượng có nhiều hạn chế. Tuy

nhiên, so sánh với một số nước, theo số liệu của Liên hiệp các hội khoa học kỹ

thuật Việt Nam tại hội thảo khoa học “Kinh tế trí thức: Khoa học và thực tiễn ở

Việt Nam” cho biết tỷ lệ người nghiên cứu khoa học ở Việt Nam là 0,18/100

dân, trong khi ở Hàn Quốc là 2,19/100 dân gấp 12 lần Việt Nam, Mỹ 3,67/100

dân gấp 20 lần.

Phần lớn cán bộ và nghiên cứu viên không được làm việc liên tục trong

những mội trường đủ điều kiện cho lao động sáng tạo. Kiến thức có được bị mai

một, không có khả năng thích nghi với thành tựu mới. Hiện tượng chuyển sang

kinh doanh tự do hoặc làm lao động giản đơn cho các công ty và liên doanh nước

ngoài, một hiện tượng lãng phí chất xám.

44

Nhìn chung tiềm lực khoa học công nghệ nước ta còn nhỏ, theo báo Người

lao động, so với một số nước Việt Nam còn khoảng cách khá lớn, điều đó thể hiện ở bảng 2.2.

45

Bảng 2.2: Tiềm lực khoa học- công nghệ Việt Nam trong so sánh với một số nước

Việt Nam Hàn Quốc Đức Mỹ

Tỷ lệ người NCKH/100 dân 0,18 2,19 2,83 3,67

So với Việt Nam 1 12,2 lần 15,7 lần 20,4 lần

Chi cho KH - CN người/năm 1,25 USD 212 USD 511 794 USD

USD

So với Việt Nam 1 170 lần 400 lần 535 lần

Nguồn: Bộ Khoa học và Công nghệ (2003), Chiến lược phát triển KH

&CN Việt Nam đến năm 2010, Hà Nội, ban hành kèm theo Quyết định số

272/2003/QĐ-TTg [3].

- Đầu tư của các doanh nghiệp cho khoa học - công nghệ

Đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam rất thấp, mỗi

năm có khoảng 10% số doanh nghiệp nâng cấp thiết bị công nghệ; chi phí đổi

mới công nghệ chỉ khoảng 0,2- 0,3% so với doanh thu. Mức đầu tư bình quân

của các doanh nghiệp cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ không

quá 0,25% so với doanh thu, trong khi các nước công nghiệp tỷ lệ này thường là

5-6%, còn các nước phát triển lên đến 10%, đối với các ngành công nghệ cao

đầu tư cho nghiên cứu phát triển chiếm từ 10 -20% doanh thu. Con số này ở Ấn

Độ là 5%, Hàn Quốc là 10%. Hiện nay ở Việt Nam có hơn 150 ngàn doanh

nghiệp, qua điều tra 5.000 doanh nghiệp cho thấy kinh phí đầu tư cho nghiên cứu

phát triển khoảng 60 tỷ còn lại 835 tỷ đồng là doanh cho hoạt động chuyển giao

công nghệ. Như vậy là ở doanh nghiệp cơ cấu kinh phí đầu tư cho khoa học công

nghệ gồm đổi mới công nghệ chiếm 94% tổng đầu tư cho khoa học công nghệ

của doanh nghiệp, còn nghiên cứu và phát triển chiếm có 6%, quá thấp, cần được

tính đến.

46

Vốn tích lũy đầu tư cho nghiên cứu và phát triển khoa học và công nghệ

của các doanh nghiệp thấp, đã vậy nhưng nguồn tín dụng cho hoạt động khoa

học công nghệ lại còn quá hạn chế do thủ tục rườm rà, lãi suất chưa hấp dẫn,

phải thế chấp, thời hạn vay vốn lại ngắn.

Có thể nói, những bất cập này, làm cho khoa học và công nghệ nước ta

chưa bao giờ được đầu tư ở mức tới hạn, chứ chưa nói tới mức đầu tư thích đáng.

Với tình trạng đầu tư như vậy tiềm lực khoa học công nghệ nước ta chỉ đủ để

duy trì hoạt động cầm chừng, không thể thực hiện vai trò động lực mang tính đột

phá cho phát triển.

Theo đánh giá của Bộ khoa học và công nghệ trong “Tầm nhìn Việt Nam

2020”, trình độ khoa học công nghệ của nước ta thấp hơn hẳn so với đa số nền

kinh tế khác trong khu vực và trên thế giới. Tình trạng này được phản ánh cả

trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học lẫn về năng lực công nghệ của các ngành

kinh tế.

- Về sở hữu trí tuệ:

Trong 5 năm qua cả nước có khoảng 200 sáng chế được đăng ký, năm

1996 chiếm 2,5%, năm 2000 chiếm 7,2% trong tổng số đơn đăng ký sáng chế tại

cục sở hữu công nghiệp, thua xa các nước trong khu vực.

Hầu hết các sáng chế công nghệ ở Việt Nam năm trong tay nước ngoài.

Theo kết quả đăng ký công nghệ tại Việt Nam giai đoạn 1995 - 2003, tỷ lệ đơn

sáng chế của người Việt trung bình chỉ chiếm 3,4% tổng số đơn sáng chế nộp tại

Việt Nam, còn 96,6% của nước ngoài. Số sáng chế của người Việt được cấp

bằng chỉ chiếm 1,3% tổng số sáng chế được cấp bằng.Trong 12 năm qua 1990 -

2002 chỉ có khoảng 150 hợp đồng chuyển giao công nghệ được bộ KH - CN

47

chấp nhận. Một số lượng lớn các hợp đồng này là ký với các chi nhánh do các

công ty nước ngoài sở hữu.

* Tình hình công nghệ

Cho đến nay chưa có một đánh giá toàn diện về công nghệ nước ta theo tài

liệu “Vấn đề tạo nguồn lực tiến hành CNH- HĐH” và nhiều tài liệu khác đánh

giá trình độ và năng lực công nghệ trong nước còn ở mức thấp. Theo UNDP và

Viện quản lý kinh tế Trung ương khảo sát, đa số sử dụng công nghệ của những

năm 80 thế kỷ trước. Phát triển công nghiệp nước ta trong thời gian qua chủ yếu

là công nghiệp gia công, thiếu sự phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên

quan, các ngành sản xuất tư liệu sản xuất. Rất ít các sản phẩm xuất khẩu từ Việt

Nam được sản xuất trên công nghệ tiên tiến, hàm lượng chất xám ít và những

mặt hàng công nghiệp tỷ lệ nội địa hoá thấp như: dầu thô, gạo, than, cao su, hạt

điều, may mặc.

Mặt bằng chung về trình độ công nghệ và trang thiết bị của Việt Nam lạc

hậu tỉ lệ trang thiết bị kỹ thuật cũ, công nghệ lạc hậu và trung bình chiếm từ 60 -

70%, đã được đầu tư sử dụng trên 20 năm và thuộc nhiều thế hệ công nghệ khác

nhau, đan xem giữa các thiết bị công nghệ thế hệ cũ và thế hệ mới, trong đó

không ít thiết bị có từ 40 - 50 năm, chỉ có 25 - 30% số doanh nghiệp có công

nghệ hiện đại, hoặc cơ bản là hiện đại như trong ngành Bưu chính - Viễn thông,

dầu khí, công nghiệp thực phẩm.

Việc đầu tư đổi mới công nghệ của doanh nghiệp hiện còn rất chậm,

chiếm 10% số doanh nghiệp đầu tư đổi mới hàng năm. Diễn đàn kinh tế thế giới

xếp Việt Nam vào hạng thấp nhất về đổi mới công nghệ và khả năng cạnh tranh

của nền kinh tế. Phần lớn (80 - 85%) công nghệ được áp dụng vào Việt Nam là

48

từ nhập khẩu và xuất xứ từ các nước chưa phải tiên tiến. Dưới đây là một số

ngành công nghệ mũi nhọn:

- Về công nghệ thông tin

Ở nước ta, tính bình quân 100 người dân số điện thoại mới chỉ đạt 3,7

(trung bình thế giới 14,4), số máy tính mới có 0,5 (trung bình thế giới 5,8), số

điện thoại di động chỉ có 0,2 (trung bình thế giới là 4), số thuê bao Internet là 0,1

(trung bình APEC là 1,5; Mỹ là 3). Năm 2002 số máy điện thoại 100 người dân

đạt 6,92, số thuê bao Internet đạt đến con số 200.000 thuê bao. Tính đến tháng

12 năm 2003 mật độ điện thoại và Internet là 8,75 máy/100 dân và 3,2 người sử

dụng Internet/100 dân, còn quá thấp.

Bảng 2.3: Công nghệ thông tin Việt Nam

Chỉ tiêu/thứ hạng 2000 2002 2003

Số đường điện thoại/10.000 dân 145 125 129

Số người sử dụng Internet/10.000 dân 156 126 82

Số PC/10.000 dân 121 124 126

Số điện thoại di động/10.000 dân 138 144 125

Nguồn: Bộ Khoa học và Công nghệ (2006), Công nghệ thông tin Việt Nam

2005-2006: tiếp tục tăng trưởng ở mức cao, Báo Sài Gòn giải phóng số ra 15

tháng 8 năm 2006 [7].

Công nghệ phần mềm của Việt Nam cũng chưa phát triển, số người làm

phần mềm trên một triệu dân Việt Nam chỉ có 15, Ấn Độ 60, Trung Quốc hơn

100.

Việt Nam đã bước đầu mạnh dạng ứng dụng công nghệ thông tin trong

nhiều lĩnh vực. Chính phủ điện tử là việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quá

49

trình cải cách và điều hành của chình phủ là một ví dụ. Để thực hiện kế hoạch

chính phủ điện tử, ngày 25 tháng 7 năm 2001 Thủ tướng đã ký quyết định 112

phê duyệt đề án tin học hoá quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2005.

50

Bảng 2.4: Xếp hạng về chính phủ điện tử

Nước Chỉ số CPĐT Thứ hạng 2001 Thứ hạng 2003

Singapore 0,746 12 4

Hàn Quốc 0,744 13 16

Nhật Bản 0,693 18 28

Philippines 0,574 33 69

Malaysia 0,524 43 60

Thái Lan 0,446 56 103

Indonesia 0,422 70 76

Trung Quốc 0,416 74 93

Việt Nam 0,357 97 90

Mianmar 0,280 126 N/A

Campuchia 0,264 134 122

Lào 0,192 149 110

Nguồn: Bộ Khoa học và Công nghệ (2006), Công nghệ thông tin Việt Nam

2005-2006: tiếp tục tăng trưởng ở mức cao, Báo Sài Gòn giải phóng số ra 15

tháng 8 năm 2006 [7].

Theo bảng trên chỉ số chính phủ điện tử năm 2003 Việt Nam xếp hạng

97/173, tụt hạng từ 90 xuống 97, đứng tốp sau cùng với ba nước Lào,

Campuchia, Mianmar, trong khi Thái Lan từ 103 lên 56, Indonesia từ 76 lên 70.

Năm 2005 Chỉ số Chính phủ điện tử của Việt Nam trên bản đồ thế giới được xếp

hạng thứ 105/191 nước tham gia xếp hạng. Nhiều doanh nghiệp trong nước bước

đầu đã ứng dụng công nghệ thông tin trong sản xuất kinh doanh, có tới 90 %

doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin. Theo Hội Tin học Thành phố Hồ

51

Chí Minh (HCA) cho biết TTCN thông tin Việt Nam năm 2005 đạt doanh số 828

triệu USD, tăng 20,9%, gấp đôi tỷ lệ tăng trưởng chung của khu vực Châu Á -

Thái Bình Dương. Tổng giá trị ngành công nghiệp công nghệ thông tin lên tới

1,4 tỷ USD, tăng 49,6% so với năm 2004. Đáng chú ý là công nghiệp phần cứng

tăng mạnh do sự tăng trưởng nhanh của các công ty đa quố gia đang hoạt động

tại Việt Nam như Fujitsu, Canon. [Báo điện tử Bộ KH&CN- CNTTVN 2005-

2006]. Tuy nhiên, hệ thống công nghệ thông tin trong doanh nghiệp vẫn còn yếu,

số doanh nghiệp có Website riêng không quá 10%, 5% doanh nghiệp quan tâm

đến thương mại điện tử, 7- 8% triển khai mạng thương mại. Việc triển khai phần

mềm công nghệ thông tin tại nhiều doanh nghiệp còn mang tính rời rạc, lãng phí

thông tin, lãng phí nguồn lực, không thống nhất dữ liệu, khó khăn trong việc tái

sử dụng. Việc đánh giá mức độ phát triển xã hội thông tin, chỉ số xã hội thông tin

Việt Nam xếp thứ 53/53 nước tham gia xếp hạng.

- Về công nghệ sinh học

Hoạt động công nghệ sinh học của Việt Nam trong thời gian qua mới tập

trung vào công nghệ sinh học truyền thống phục vụ sản xuất nông nghiệp, còn ít

tập trung nghiên cứu phát triển ứng dụng công nghệ sinh học hiện đại phục vụ

nâng cao năng suất và chất lượng hàng hoá tiêu dùng, bảo vệ môi trường và sức

khoẻ con người. Đội ngũ chuyên gia nghiên cứu và cơ sở vật chất trang thiết bị

còn thiếu thốn, song chưa khai thác, tận dụng nguồn lực sẵn có này.

- Về công nghệ vật liệu mới

Nhiều vật liệu mới đã được nghiện cứu chế tạo. Chẳng hạn công nghệ sản

xuất dầu mỡ bôi trơn chất lượng cao, công nghệ sản xuất composit là loại vật

liệu mới có những tính chất đặc biệt mà loại vật liệu khác không có, được dùng

52

để đóng tàu, canô đã được sản xuất phục vụ nền kinh tế. Tuy nhiên, còn rất hạn

chế so với yêu cầu trong nước và còn thua xa sới nhiều nước trong khu vực.

- Công nghệ tự động hoá

Công nghệ tự động hoá đã được nghiên cứu và ứng dụng trong một số

ngành sản xuất. Các nhà khoa học Việt Nam đã thiết kế và chế tạo thành công

một số robot công nghệ ứng dụng trong môi trường sản xuất độc hại và không an

toàn: robot hàn, robot vạn năng phục vụ cho quá trình hoá nhiệt luyện, robot

phục vụ công nghiệp quốc phòng, robot quay phim robot lấy phôi sản phẩm

nhựa. Song có thể nói công nghệ tự động hoá được ứng dụng và chế tạo phục vụ

phát triển kinh tế còn rất thấp.

Tóm lại, trong 20 năm đổi mới (1986 - 2005) thắng lợi, hoạt động khoa

học-công nghệ nước ta tuy đã đạt được những thành tựu đáng tự hào, nhưng

trình độ công nghệ của nước ta nói chung chưa cao, quản lý khoa học - công

nghệ chưa đáp ứng yêu cầu của đổi mới, năng lực và hiệu quả chưa đảm bảo

mức tăng trưởng. Trình độ khoa học - công nghệ nước ta so với thế giới được

xếp vào diện trung bình yếu. Kết quả điều tra của Diễn đàn kinh tế thế giới

(WEF) cho biết chỉ số công nghệ năm 2000 của Việt Nam là 0,51, trong khi đó

chỉ số công nghệ của Trung Quốc là 0,85, Thái Lan là 0,67, Indonesia là 0,66,

Philippines là 0,54 Malaysia là 1,08, Sigapore là 1,95. Và theo UNDP và Viện

quản lý kinh tế TW khảo sát, đa số sử dụng công nghệ của những năm 80 thế kỷ

trước. Báo cáo thường niên diễn đàn kinh tế thế giới năm 2002, trong 80 quốc

gia xếp hạng, Việt Nam về công nghệ đứng thứ 68, chỉ xếp trên Lào, Campuchia

và Myanmar trong khu vực.

Cho đến nay mặc dù chưa có một đánh giá toàn diện về khoa học - công

nghệ nước ta, nhưng theo tài liệu “Vấn đề tạo nguồn lực tiến hành CNH, HĐH”

53

và nhiều tài liệu khác đánh giá trình độ và năng lực công nghệ trong nước còn ở

mức thấp xa so với nhiều nước.Tất cả những hạn chế trên có nhiều nguyên nhân,

trong đó có nguyên nhân chủ yếu là chậm hình thành và phát triển TTCN.

2.1.2. Thực trạng thị trường công nghệ

Thị trường công nghệ là một bộ phận của nền kinh tế có vai trò to lớn

trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Thị trường công nghệ ở nước ta dù đã có

nhưng chỉ tự phát nên còn rất mới mẻ với cả bên cung và bên cầu công nghệ.

Bên cung là những tổ chức nghiên cứu khoa học-công nghệ, chưa có thói quen

tiếp thị, trau chuốt hàng hóa chất xám của mình. Bên cầu rất lúng túng trong việc

lựa chọn công nghệ thích hợp cho mình vì không có thói quen tìm kiếm thông tin

trước khi qyết định, không biết cách định giá, đánh giá công nghệ cần mua.

Hầu hết công nghệ, thiết bị sử dụng trong các ngành ở Việt Nam có xuất

xứ nhập khẩu từ nước ngoài, Tri thức công nghệ được chuyển giao thông qua

kênh này thường chỉ là các kỹ năng vận hành hệ thống sản xuất để sản xuất ra

những sản phẩm đạt năng suất, chất lượng, chi phí ở mức độ hợp lý.

Trong thời gian qua Việt Nam đã nhập khẩu một số lượng lớn công nghệ

mới từ nước ngoài. Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, các công nghệ tiên tiến

được đưa vào còn chưa nhiều. Một nghiên cứu mới đây về chất lượng công nghệ

chuyển giao vào Việt Nam cho thấy, trên 727 thiết bị và 3 dây truyền sản xuất

nhập khẩu trong 42 xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì có 76% thiết bị được

sản xuất từ những năm 1950 - 1960, 50 % là các máy móc đã quá hạn sử dụng.

Điển hình về công nghệ lạc hậu không thích hợp như công nghệ chế biến đường,

công nghệ sản xuất xi măng lò đứng 8 vạn tấn/1 năm của Trung Quốc. Theo

JETRO Nhật Bản trong nhiều ngành Việt Nam còn nhập thiết bị lạc hậu, chẳng

hạn nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam nhập công nghệ thiết bị đã gần 10

54

tuổi thuộc dạng phế thải của Hàn Quốc.Các doanh nghiệp nhập khẩu chủ yếu

thiết bị máy móc, tỉ trọng giá trị phần mềm chiếm khoảng 17% tổng giá trị nhập

khẩu.

Thiết bị công nghệ nội sinh thường ở quy mô nhỏ, hầu hết từ các kết quả

của các đề tài nghiên cứu. Việc mua bán, dịch vụ kỹ thuật cũng mới chỉ xuất

hiện trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng. Dịch vụ kỹ thuật trong các lĩnh vực

khác, đặc biệt khu vực kinh doanh nhỏ và vừa, khu vực nông nghiệp-nông thôn

hầu như chưa phát triển. Dịch vụ nghiên cứu và triển khai (R&D) theo đặt hàng

của doanh nghiệp, của khu vực nhà nước trong mấy năm gần đây tuy đã xuất

hiện, nhưng còn rất hạn chế. Hoạt động tư vấn, dịch vụ giám định, đánh giá công

nghệ chưa phát triển. Chưa có tổ chức nào được công nhận rộng rãi,có uy tín.

Dịch vụ của nước ngoài đòi hỏi chi phí cao, không phù hợp với các doanh

nghiệp vừ và nhỏ (chiếm 96% trong tổng số doanh nghiệp trong cả nước), Việc

chuyển giao công nghệ đặc biệt chuyển giao công nghệ gắn với sáng chế, giải

pháp hữu ích còn ít. Nội dung chủ yếu thường là truyền đạt kỹ năng vận hành hệ

thống sản xuất, kỹ năng giám định chất lượng...

Để nâng cao năng lực cạnh tranh và chuẩn bị các điều kiện cho HNKTQT,

nhất là Việt Nam trước thềm gia nhập WTO, mấy năm gần đây nhiều hoạt động

xúc tiến phát triển TTCN đã được triển khai . Đáng chú ý là sự xuất hiện một số

Chợ công nghệ và thiết bị (gọi tắt là Techmart). Chợ công nghệ và thiết bị được

tổ chức trên cơ sở xác lập thông tin về về cung và cầu công nghệ của các tổ chức,

cá nhân tham gia giao dịch mua bán công nghệ. Đây được xem là một trong

những giải pháp cần thiết để tạo môi trường gắn kết nhà khoa học, nhà quản lý

với nhà kinh doanh, sản xuất, trong đó cơ qiuan quản lý nhà nước giũ vai trò hỗ

trợ tạo lập và thúc đẩy phát triển TTCN. Do tác dụng của nó đối với thực tiễn,

nên Techmart được phát triển nhiều về tổ chức, quy mô và phạm vi hoạt động .

55

Theo số liệu thống kê từ năm 1999 đến nay, đã có gần 30 Techmart được tổ chứ

thu hút sự tham dự của hàng nghìn công nghệ thiết bị, giải pháp phần mềm, dịch

vụ công nghệ và tổng giá trị đã ký kết mua bán lên tới hàng nghìn tỷ đồng.

Cùng với chợ công nghệ và thiết bị, trên mạng (Techmart ảo) đã xuất hiện.

Chợ hoạt động dựa trên sự hỗ trợ của các phương tiện công nghệ thông tin và

truyền thông hiện đại. Công cụ này cho phép mở rộng giới hạn về không gian và

thời gian giao dịchc. Có thể nói đây là một công cụ hữu hiệu nhằm xúc tiến

chuyển giao công nghệ, các kết quả nghiên cứu khoa học cho doanh nghiệp và

quảng bá, tuyên truyền các thành quả khoa học - công nghệ. Việc sử dụng

Techmart ảo trợ giúp đáng kể chi phí quảng cáo, tiếp thị và giao dịch công nghệ.

Các tổ chức, cá nhân có thể nắm bắt kịp thời những thông tịn mới nhất, tìm đối

tác và bạn hàng một cách nhanh chóng, tăng cường khả năng lực chọn công nghệ

thích hợp để đổi mới công nghệ và hoàn thiện các kết quả nghiên cứu khoa học

và công nghệ. Chỉ tính riêng năm 2005, Techmart ảo đã có hơn 1,8 triệu lượt

người truy cập trên mạng, trong đó có 2.500 nhu cầu tìm mua và đã kết nối hơn

1.5500 cung và cầu.

Tuy nhiên, cả Chợ công nghệ và kỹ thuật thật (Techmart thật) và Chợ

công nghệ và kỹ thuật ảo (Techmart ảo), mỗi công cụ không phải hoàn toàn chỉ

có ưu điểm mà không có mặt hạn chế. Techmart thật thường chỉ có thể diễn ra và

kéo dài trong 3- 4 ngày, không thể tổ chức thường xuyên và khắp mọi nơi được.

Còn Techmart ảo thì không phải ai cũng có điều kiện lên mạng.

Để khắc phục, gần đây đã xuất hiện một hìn h tức tổ chức mới đó là Trung

tâm giao dịch công nghệ. Sự ra đời của công cụ này nhằm hình thành một nơi

giao dịch công nghệ cố định, thường xuyên mà vẫn hội tụ được tất cả các công

việc cần phải chuẩn bị cho Techmart mà không bị hạn chế về không gian và thời

56

gian. Có thể nói Trung tâm giao dịch công nghệ có khả năng lồng ghép cả 3

chức năng: nơi trưng bày giới thiệu sản phẩm công nghệ, thiết bị; nơi truy cập

vào Techmart ảo; nơi tư vấn, hỗ trợ các doanh nghiệp giao dịch đàm phán, ký kết

hợp đồng công nghệ. Trung tâm mặc dù mới ra đời và đưa vào hoạt động, nhưng

chỉ trong tháng 7, tại đây đã có hơn 50 lượt kết nối cung l và cầu trực tiếp và hơn

100 lượt được kết nối cung và cầu qua mạng Techmart ảo.

Tóm lại, TTCN nước ta còn rất mới, đang trong quá trình hình thành và

còn ở mức độ sơ khai. Lượng giao dịch chủ yếu giữa các đối tác trong nước và

nước ngoài trên thị trường công nghệ còn rất ít, đơn điệu và còn mang tính tự

phát. Nói một cách khác, nước ta hầu như chưa có TTCN theo đúng nghĩa hay

đang trong quả trình hình thành. Môi trường pháp lý cho hoạt động của thị

trường công nghệ còn rất sơ khai, hiệu lực của pháp luật còn bị coi nhẹ. Cơ chế,

chính sách thúc đẩy cung và cầu hàng hoá công nghệ nhận thức chưa rõ, nên

chưa thực sự khuyến khích tạo ra nhiều hàng hóa công nghệ và hình thành

TTCN. Nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm đến đổi mới công nghệ và chưa coi

đó là yếu tố quyết định trong phát triển doanh nghiệp và nâng năng lực cạnh

tranh. Chi tiêu của khu vực doanh nghiệp cho nghiên cứu triển khai rất ít. Những

chính sách ưu đãi khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng khoa học công nghệ quá

phức tạp rườm rà. Nói cách khác, cầu về hàng hóa công nghệ trong mối quan hệ

cung cầu hâng hóa công nghệ còn thấp, cản trở sự hình thành và phát triển

TTCN. Việc thành lập các bộ phận nghiên cứu triển khai tại Việt Nam đối với

các công ty nước ngoài hầu như không có. Các tập đoàn kinh tế đa quốc gia và

xuyên quốc gia chưa xuất hiện nhiều ở Việt Nam, trong số hơn 5000 công ty

xuyên quốc gia hàng đầu thế giới, hiện chỉ có khoảng 80 công ty ở Việt Nam.

Hầu như rất ít tổ chức nghiên cứu triển khai hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp.

Các kết quả nghiên cứu chỉ dừng lại ở qui mô thử nghiệm, không được sản xuất

57

ở qui mô công nghiệp do thiếu sự liên kết giữa các tổ chức nghiên cứu và doanh

nghiệp.

Sự chậm trễ trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn hình thành và phát triển

TTCN vừa qua là nguyên nhân cản trở việc khai thác và phát huy tiềm lực khoa

học - công nghệ, cản trở việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và

chậm thu hẹp khoảng cách tụt hậu xa về kinh tế, kỹ thuật và công nghệ của nước

ta so với các nước trong khu vực và thế giới.

2.2. Thực trạng vai trò nhà nƣớc trong việc hình thành và phát triển

thị trƣờng công nghệ

Như đã trình bày ở tiết (2.1), Việt Nam chưa có TTCN theo đúng nghĩa

đầy đủ. Nhận xét này được hiểu là một TTCN hoạt động trên cơ sở pháp lý và

được quản lý bằng pháp luật. Có điều lệ quản lý TTCN và hệ thống pháp quy

kèm theo nó. Có hệ thống tổ chức quản lý. Tổ chức quản lý và triển khai các hoạt

động nghiệp vụ, có hệ thống cơ quan trung gian môi giới dịch vụ được ra đời và

hoạt động theo pháp quy thống nhất. Tuy có tồn tại quan hệ mua - bán (chuyển

giao) công nghệ giữa cá nhân với tổ chức nghiên cứu, sản xuất, giữa tổ chức

(viện, trường) với doanh nghiệp. Quan hệ này bước đầu hình thành, nhưng còn

mang tính cục bộ, phạm vi hẹp, tự phát, chưa hoạt động trên cơ sở luật pháp

công khai, minh bạch, chưa có cơ quan quản lý thống nhất, chưa có đơn vị trung

gian dịch vụ, môi giới liên kết giữa người mua và người bán.

Vì vậy, dưới góc độ vai trò của Nhà nước đối với việc hình thành và phát

triển TTCN, việc khảo sát thực trạng TTCN ở nước ta phải xuất phát từ ba vấn

đề chủ yếu như: Môi trường pháp lý; Hệ thống tổ chức, xúc tiến TTCN và quản

lý vĩ mô của Nhà nước đối với khoa học - công nghệ với tính cách tăng cung cho

TTCN.

58

2.2.1. Vai trò nhà nước trong việc tạo môi trường về luật pháp cho việc

hình thành và phát triển thị trường công nghệ - Thực trạng

Từ nền kinh tế chỉ huy tập trung quan liêu bao cấp thông qua đổi mới để

chuyển sang mô hình kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế

thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước, phát triển theo định hướng XHCN

(nay là KTTT định hướng XHCN), trong thời qua, nhà nước ta đã có các văn bản

chính sách, luật pháp có liên quan đến TTCN lần lượt được ban hành sau đây:

- Nghị định 35/HĐBT về công tác quản lý KHCN, của Hội đồng Bộ

trưởng ban hành 28/01/1992 ghi nhận quyền của các tổ chức KHCN, tập thể

khoa học, các nhà khoa học, cơ sở nghiên cứu, đào tạo, sản xuất, lực lượng vũ

trang được bình đẳng hoạt động KHCN, thành lập các tổ chức KHCN.

- Quyết định 419/TTG ngày 21/7/1995 của Thủ tướng Chính phủ về cơ

chế quản lý các hoạt động KHCN và phát triển công nghệ. Quy định nghiên cứu

và ứng dụng các thành tựu KHCN là nhiệm vụ của các cơ quan khoa học và công

nghệ, của các cấp, các ngành ở Trung ương và địa phương, của các doanh

nghiệp, các tổ chức xã hội và tư nhân.

- Quyết định số 134/HĐBT ngày 31/8/1987 của Chính phủ về một số biện

pháp khuyến khích hoạt động khoa học và kỹ thuật xác định quyền tiến hành liên

doanh, liên kết giữa cơ quan nghiên cứu, triển khai với cơ sở sản xuất kinh

doanh; cho phép ký hợp đồng khoa học và công nghệ, phân chia lợi nhuận.

- Quy định tạm thời của Uỷ ban Kế hoạch nhà nước số 647/KHKT ngày

27/5/1989 về ký kết hợp đồng KHKT.

- Nghị định 12/CP ban hành ngày 18/2/1997 của Chính phủ quy định về

việc chuyển giao công nghệ, bảo vệ môi trường, bảo vệ quyền và lợi ích của bên

chuyển giao công nghệ.

59

- Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 12/11/1996 có quy định bảo hộ

quyền sở hữu trí tuệ, bảo đảm lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài hoạt

động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam.

- Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) ngày 20/5/1998 có quy

định Nhà nước lập quỹ hỗ trợ phát triển khoa học và công nghệ, có hỗ trợ cho áp

dụng KTTB, công nghệ, chuyển giao công nghệ, đổi mới công nghệ.

- Bộ luật Dân sự ban hành ngày 01/7/1996, Chương VII có quy định về sở

hữu công nghệ, Chương III quy định về chuyển giao công nghệ.

- Nghị định 45/1998/ NĐ của Chính phủ do Bộ Khoa học - Công nghệ và

Môi trường nghiên cứu trình Chính phủ có quy định chi tiết về chuyển giao công

nghệ.

- Luật Khoa học và công nghệ được Quốc hội thông qua 6/2000, Điều 23

có quy định về hợp đồng KHCN bao gồm hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát

triển công nghệ, hợp đồng chuyển giao công nghệ, hợp đồng dịch vụ khoa học

và công nghệ. Điều 26 quy định về quyền sở hữu, quyền tác giả đối với kết quả

nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Điều 33 xây dựng và phát triển thị

trường khoa học - công nghệ quy định các chính sách, biện pháp xây dựng và

phát triển thị trường khoa học - công nghệ .

Từ tổng quan các văn bản nói trên cho thấy:

+ Trước năm 2000, hầu hết các văn bản được ban hành thường tập trung

vào việc tạo môi trường pháp lý cho việc nghiên cứu và ứng dụng những thành

tựu khoa học và công nghệ. Hơn nữa các văn bản này lại mang nặng tính bao cấp

chưa thật sự chuyển hẵn sang môi trường mới - môi trường kinh tế thị trường.

+ Mãi đến năm 2000, trong Luật khoa học-công nghệ, Điều 33 mới đề cập

đến việc xây dựng và phát triển thị trường khoa học-công nghệ, nhưng việc cụ

60

thể hóa điều 33 của Luật này thành các chính sách và các quy định cụ thể diễn ra

rất chậm, dẫn đến hệ quả làm cho TTCN nước ta chậm xuất hiện và phát triển

chưa tương xứng với nhu cầu của CNH - HĐH gắn với kinh tế tri thức, chưa

tương xứng với yêu cầu phát triển nhanh kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế

quốc tế, chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của nước ta.

61

2.2.2. Vai trò nhà nước trong việc hình thành và phát triển hệ thống tổ

chức cần thiết cho thị trường công nghệ - Thực trạng

Ở Việt Nam việc hình thành hệ thống tổ chức TTCN hoạt động theo đúng

nghĩa của nó là TTCN có quản lý, có trật tự dựa trên cơ sở luật pháp mới bước

đầu hình thành.

Thực tế những năm qua cho thấy nhà nước chỉ mới hình thành một số tổ

chức hoạt động liên quan đến môi giới, chuyển giao công nghệ đó là các thị

trường chuyển giao công nghệ; liên hiệp khoa học - sản xuất, thị trường nghiên

cứu và chuyển giao công nghệ ở các thành phố lớn và một số địa phương.

Ví dụ: Ở thành phố Hồ Chí Minh sau khi có NĐ/35CP đã ra đời một số

Trung tâm chuyển giao công nghệ chiếm 50% số trung tâm cả nước. Tại Đại học

Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh có 9 Trung tâm nghiên cứu khoa học và

chuyển giao công nghệ; 3 Trung tâm đào tạo. Các Trung tâm này hướng vào

chuyển giao công nghệ phục vụ sản xuất của địa phương, doanh nghiệp, trường

học.

+ Chưa hình thành hệ thống cơ quan chỉ đạo, quản lý nghiệp vụ, tổ chức

trung gian hoạt động ra đời và theo pháp quy từ Trung ương đến ngành và các

địa phương.

+ Ở Việt Nam, gần đây mới có tổ chức các Hội chợ triển lãm sản phẩm

sản xuất trong nước có mặt các sản phẩm mới, công nghệ mới. Một số Hội chợ

thương mại quốc tế Expro tại Việt Nam, hoặc Việt Nam tham gia Hội chợ

KHCN quốc tế ở Thái Lan, Trung Quốc. Có hội thảo KHCN trong các Hội chợ.

Tuy nhiên các hội chợ này chưa phải là Hội chợ giao dịch mua bán công

nghệ mới giữa bên bán và bên mua. Chưa có sự tham gia của các viện nghiên

cứu và các trường đại học. Các hội chợ mang nặng tính trưng bày kết quả hoạt

62

động KHCN để động viên, khen thưởng chứ chưa phải nhằm mục tiêu chuẩn hoá

thành sản phẩm hàng hoá có thể giao dịch,trao đổi và mua - bán.

2.2.3. Vai trò quản lý Nhà nước về khoa học và công nghệ và thị trường

công nghệ - Thực trạng

- Trong thời gian qua, nhất là từ năm 2000 lại đây, Nhà nước ta đã bước

đầu xây dựng và chỉ đạo thực hiện các văn bản, quy phạm, pháp luật về khoa học

và công nghệ; ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản trong thực tiễn; tổ chức

bộ máy quản lý khoa học - công nghệ từ trung ương đến địa phương; tổ chức

hướng dẫn đăng ký hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ; bước đầu

thực hiện việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; quy định việc đánh giá nghiệm thu,

ứng dụng, thẩm định và công bố kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ; tổ

chức thông tin khoa học; tổ chức, quản lý hợp tác quốc tế về khoa học và công

nghệ; thanh kiểm tra việc chấp hành pháp luật vê khoa học và công nghệ...

- Tuy nhiên, các văn bản được ban hành liên quan đến môi trương tổ hức

vẫn chưa đồng bộ; thiếu sự quản lý thống nhất của nhà nước về việc thực hiện

chủ trương đổi mới công nghệ; thiếu các văn bản hướng dẫn lộ trình công nghệ

chung và sự vận dụng trong từng ngành; chưa nêu rõ cách xử lý đối với tình

trạng hỗn độn chủng loại và thế hệ kỹ thuật và công nghệ, nhất là đối với việc

quản lý thị trường công nghệ.

2.3. Đánh giá chung và những vấn đề đặt ra

2.3.1. Đánh giá chung

* Những thành tựu:

Thứ nhất: Tiềm lực khoa học công nghệ bước dầu được tăng cường và

phát triển - nhìn từ vai trò tác động của nhà nước tạo khả năng cung ứng hàng

hóa công nghệ cho TTCN.

63

- Nhờ có sự quan tâm đầu tư của Nhà nước trong nhiều thập kỷ qua số

người đang làm việc trực tiếp trong lĩnh vực KH&CN thuộc khu vực nhà nước

tăng lên. Theo số liệu của Bộ Khoa học và Công nghệ, trong vòng 5 năm trở lại

đây, đội ngũ cán bộ KH&CN không ngừng được trẻ hóa và được nâng cao năng

lực. Trong các năm 2000 - 2004 hàng năm trong cả nước có khoảng 200.000

người tốt nghiệp sau đại học, đại học và cao đẳng. Tính đến cuối 2003 cả nước

có khoảng 2 triệu cán bộ có trình độ đại học và cao đẳng trở lên (trong đó có trên

14 nghìn tiến sĩ và 20 nghìn thạc sĩ) và khoảng hơn hai triệu công nhân kỹ

thuật...

- Về cơ cấu trình độ chuyên môn cao đẳng và đại học chiếm 98,33%, thạc

sĩ 0,89%, tiến sĩ 0,78%. Hàng năm có khoảng 500 - 600 người được gữi đi đào

tạo sau đại học ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước và các nguồn học bổng

khác do các chính phủ và tổ chức nước ngoài tài trợ. Riêng đề án “Đào tạo cán

bộ khoa học kỹ thuật tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước” từ năm

2000 đến 2004 đã đào tạo được 2.119 người, trong đó có 886 tiến sĩ, 715 thạc sĩ,

263 thực tập sinh, 255 cử nhân. Tỷ lệ ngành nghề đào tạo sau đại học được phân

bổ theo lĩnh vực khoa học tự nhiên 13,5%, khoa học kỹ thuật 34,41%, nông lâm

thủy sản 12,34%, y dược 7,13%, kinh tế quản lý 15,93%, nghệ thuật 1,68%... [5].

Đây là nguồn nhân lực quan trọng cho hoạt động KH& CN tạo khả năng cung

ứng hàng hóa công nghệ cho TTCN của đất nước

Thời gian gần đây đã xây dựng được một mạng lưới các tổ chức KH &

CN với trên 1.100 tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc mọi thành phần kinh

tế, trong đó có gần 500 tổ chức ngoài nhà nước, 197 trường đại học và cao đẳng,

trong đó có 30 trường ngoài công lập .Bảng số liệu sau đây sẽ minh họa điều đó:

64

Bảng 2.5: Tình hình giáo dục đại học và cao đẳng

2000 2001 2002 2003 2004 2005

- Công lập

148

168

179

187

201

220

- Ngoài công lập

30

23

23

27

29

35

1. Số trường học (trường) 178 191 202 214 230 255

- Công lập

27,9

31,4

33,4

34,9

40,0

42,0

- Ngoài công lập

4,5

4,5

5,3

5,1

7,6

6,6

2. Số giáo viên (nghìn người) 32,5 35,9 38,7 40,0 47,6 48,6

889,5

974,1

1.020

1,131

1.319

1.404

- Công lập

795,6

873

908

993

1.182

1.243

3. Số sinh viên (nghìn người)

103,9

101,1

111,9

137,1

137,8

161,2

- Ngoài công lập

162,7

168,9

166,8

165,7

195,6

197,2

4. Số sinh viên tốt nghiệp (nghìn

157,5

- Công lập

149,9

152,6

152,6

180,8

181,1

11,4

người)

12,6

14,2

13,1

14,8

16,1

- Ngoài công lập

Nguån: Tæng côc Thèng kª (2006), Niªn gi¸m thèng kª 2005, NXB Thèng

kª, Hµ Néi [52].

C¬ së vËt chÊt - kü thuËt cña c¸c viÖn trung t©m nghiªn cøu, c¸c phßng thÝ

nghiÖm, c¸c trung t©m th«ng tin KH&CN, th viÖn, còng ® îc t¨ng c êng vµ

n©ng cÊp. §· xuÊt hiÖn mét sè lo¹i h×nh g¾n kÕt tèt gi÷a nghiªn cøu khoa häc,

ph¸t triÓn c«ng nghÖ víi s¶n xuÊt - kinh doanh.

MÆc dï ng©n s¸ch nhµ n íc cßn h¹n hÑp, nh ng víi sù nç lùc rÊt lín cña

nhµ n íc, tõ n¨m 2000 tû lÖ chi ng©n s¸ch nhµ n íc cho KH&CN ®· ®¹t 2%

trong GDP, ®¸nh dÊu mét mèc quan träng trong qu¸ tr×nh thùc hiÖn chÝnh s¸ch

®Çu t ph¸t triÓn KH&CN cña nhµ n íc gãp phÇn t¨ng cung hµng hãa c«ng nghÖ

cho sù h×nh thµnh vµ ph¸t triÓn TTCN thêi gian qua ë n íc ta.

65

Thø hai: Sù t¸c ®éng cña nhµ n íc ®· lµm cho KH&CN ®ãng gãp tÝch cùc

trong qu¸ tr×nh t¨ng tr ëng vµ ph¸t triÓn kinh tÕ - x· héi.

Khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n ®· gãp phÇn quan träng lý gi¶i vµ kh¼ng ®Þnh

gi¸ trÞ khoa häc vµ thùc tiÔn cña chñ nghÜa M¸c - Lªnin vµ t t ëng Hå ChÝ

Minh, con ® êng ®i lªn CNXH ë ViÖt Nam; cung cÊp luËn cø khoa häc phôc vô

ho¹ch ®Þnh ® êng lèi, chñ tr ¬ng, chÝnh s¸ch cña §¶ng vµ nhµ n íc; gãp phÇn

vµo thµnh c«ng cña c«ng cuéc ®æi míi nãi chung vµ vµo qu¸ tr×nh ®æi míi t duy

kinh tÕ nãi riªng. C¸c kÕt qu¶ ®iÒu tra c¬ b¶n vµ nghiªn cøu vÒ ®iÒu kiÖn tùu

nhiªn, tµi nguyªn thiªn nhiªn ®· phôc vô x©y d ng luËn cø khoa häc cho c¸c

ph ¬ng ¸n ph¸t triÓn kinh tÕ-x· héi cña ®Êt n íc. Nhê ®ã ®· gãp phÇn thóc ®Èy

t¨ng GDP vµ tèc ®é t¨ng tr ëng kinh tÕ ViÖt Nam qua c¸c n¨m tõ 2000 - 2005

(xem b¶ng 2.6).

B¶ng 2.6: GDP vµ tèc ®é t¨ng tr ëng kinh tÕ 2000-2005 (Theo gi¸ so s¸nh

n¨m 1994)

2000

2002

2003

2004

2005

- Tổng sản phẩn trong 273.666 313.247 336.242 362.435 392.989

nước (Tỷ đồng)

- Tốc độ tăng GDP 6,79 7,08 7,34 7,79 8,43

(Năm trước = 100) – (%)

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2006), Niên giám thống kê 2005, NXB Thống

kê, Hà Nội [52].

Khoa học và Công nghệ đã góp phần quan trọng trong việc tiếp thu, làm

chủ, thích nghi và khai thác có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài. Nhờ

đó, trình độ công nghệ trong một số nghành sản xuất, dịch vụ đã được nâng lên

đáng kể, nhiều sản phẩm hàng hoá có sức cạnh tranh cao hơn. Đặc biệt, trong

lĩnh vực nông nghiệp KH& CN đã tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi có chất

66

lượng và năng suất cao góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, đưa nước

ta từ chỗ là nước nhập khẩu lương thực trở thành một trong những nước xuất

khẩu gạo, cà phê, v.v. hàng đầu trên thế giới. Các chương trình nghiên cứu trọng

điểm về công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, tự động

hoá, công nghệ cơ khí -chế tạo máy, đã góp phần nâng cao năng lực nội sinh

trong một số lĩnh vực công nghệ tiên tiến, nâng cao năng xuất, thúc đẩy cơ cấu

ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng ngày một tiến bộ: tỷ trọng nông nghiệp

trong GDP giảm dần, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng lên. Đồ thị cơ cấu

ngành kinh tế năm 2005 phản ảnh rõ điều đó, sau đây là bảng chất lượng và hiệu

quả của nhiều ngành kinh tế

Đồ thị 2.1: Cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam năm 2005 [52]

20,89 38,07

41,04

Thứ ba: Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ từng bước được đổi mới.

Hệ thống quản lý nhà nước về KH&CN được tổ chức từ trung ương đến

địa phương đã đẩy mạnh phát triển KH&CN, góp phần thực hiện các mục tiêu

phát triển kinh tế - xã hội của nghành và địa phương. Thực hiện luật KH&CN,

67

các chương trình, đề tài, dự án KH&CN đã bám sát hơn nhiệm vụ phát triển kinh

tế – xã hội. Cơ chế tuyển chọn tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ KH&CN đã

bước đầu được thực hiện theo nguyên tắc dân chủ và công khai. Hoạt động của

các tổ chức KH&CN đã mở rộng từ nghiên cứu - phát triển đến sản xuất và dịch

vụ KH&CN. Quyền tự chủ của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động KH&CN

bước đầu được tăng cường. Quyền tự chủ về hợp tác quốc tế của tổ chức, cá

nhân hoạt động KH&CN được mở rộng.

Vốn huy động cho KH&CN từ các nguồn hợp đồng với khu vực sản xuất -

kinh doanh, tín dụng ngân hàng, tài trợ quốc tế và các nguồn khác, tăng đáng kể

nhờ chính sách đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư cho KH&CN. Đã cải tiến một

bước việc cấp phát kinh phí đến nhà khoa học theo hướng giảm bớt các khâu

trung gian. Việc phân công, phân cấp trong quản lý nhà nước về KH&CN từng

bước được hoàn thiện thông qua các qui định về chức năng, nhiệm vụ và trách

nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương.

Thứ tư: Dưới sự tác động của nhà nước, trình độ nhận thức và ứng dụng

KH&CN của các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp và nhân dân ngày

càng được nâng cao.

Sự quan tâm của tổ chức Đảng, chính quyền các cấp, hoạt động tích cực

của các tổ chức KH&CN, các tổ chức khuyến nông, lâm, ngư và công tác phổ

biến tuyên truyền rộng rãi về tác động của KH&CN đến sản xuất và đời sống,

nhận thức và khả năng tiếp thu, ứng dụng tri thức KH&CN của người dân trong

thời gian qua đã tăng lên rõ rệt. Hoạt động KH&CN bước đầu được xã hội hoá

trên phạm vi cả nước.

* Những yếu kém và nguyên nhân chủ yếu.

- Những yếu kém:

68

Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng nhìn chung vai trò

của Nhà nước đối với KH&CN tạo khả năng cung cho TTCN nước ta còn nhiều

mặt yếu kém, còn có khoảng cách khá xa so với trình độ thế giới và khu vực,

chưa đáp ứng được yêu cầu là nền tảng và động lực cho sự phát triển kinh tế - xã

hội và thúc đẩy TTCN phát triển.

Một là, năng lực KH&CN còn nhiều yếu kém.

Đội ngũ cán bộ KH&CN còn thiếu cán bộ đầu đàn giỏi, các (tổng công

trình sư), đặc biệt là thiếu cán bộ khoa học - công nghệ trẻ kế cận có trình độ

cao. Cơ cấu nhân lực KH&CN theo ngành nghề và lãnh thổ còn nhiều bất hợp lý.

Đầu tư của xã hội cho KH&CN còn rất thấp, đặc biệt là đầu tư từ khu vực doanh

nghiệp. Trang thiết bị của các viện nghiên cứu, trường đại học nhìn chung còn

rất thiếu, không đồng bộ, lạc hậu so với những cơ sở sản xuất tiên tiến cùng

ngành. Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân

lực KH&CN chất lượng cao, đặc biệt đối với những lĩnh vực KH&CN tiên tiến;

Chưa đáp úng yêu cầu phát triển KH&CN cũng như sự nghiệp CNH - HĐH đất

nước. So với các nước trong khu vực và trên thế giới, nước ta còn có khoảng

cách rất lớn về tiềm lực và kết quả hoạt động KH&CN; Tỷ lệ cán bộ nghiên cứu

KH&CN trong dân số và mức đầu tư cho nghiên cứu KH theo đầu người thấp;

Các kết quả nghiên cứu - phát triển theo chuẩn mực quốc tế còn rất ít, khả năng

cung sản phẩm công nghệ nội sinh cho TTCN còn rất hạn chế; Trình độ công

nghệ của nhiều nghành sản xuất còn rất thấp và lạc hậu. Ngoài những công nghệ

tiên tiến được đầu tư mới trong một số nghành, lĩnh vực như bưu chính viễn

thông, dầu khí, hàng điện tử tiêu dùng, sản xuất điện, xi măng...

Nhìn chung trình độ công nghệ của các nghành sản xuất nước ta hiện nay

lạc hậu khoảng 2 -3 thế hệ công nghệ so với các nước trong khu vực, chưa giải

69

đáp được kịp thời nhiều vấn đề của thực tiễn đổi mới, chưa gắn kết chặt chẽ và

đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội. Tình trạng này hạn chế

năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập

kinh tế quốc tế và khu vực.

Hai là, thị trường công nghệ chậm phát triển.

Hoạt động mua, bán công nghệ và lưu thông kết quả nghiên cứu KH&CN

còn bị hạn chế do thiếu các tổ chức trung gian, môi giới, các qui định pháp lý cần

thiết, đặc biệt là hệ thống bảo hộ hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ. Điều đó thể hiện:

Hệ thống dịch vụ KH&CN, bao gồm thông tin KH&CN, tư vấn chuyển

giao công nghệ, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn - đo lường - chất lượng còn yếu kém

cả về cơ sở vật chất và năng lực cung cấp dịch vụ đáp ứng các yêu cầu của hội

nhập khu vực và quốc tế; thiếu sự liên kết hữu cơ giữa nghiên cứu KH&CN, giáo

dục - đào tạo và sản xuất - kinh doanh;

Thiếu sự hợp tác chặt chẽ giữa các tổ chức nghiên cứu - phát triển, các

trường đại học và doanh nghiệp.

Ba là, cơ chế quản lý KH&CN chậm được đổi mới, còn mang nặng tính

hành chính, chưa đồng bộ. Biểu hiện:

Quản lý hoạt động KH&CN còn tập trung chủ yếu vào các yếu tố đầu vào,

chưa chú trọng đúng mức đến quản lý chất lượng sản phẩm đầu ra và ứng dụng

kết quả nghiên cứu vào thực tiễn.

Các nhiệm vụ KH& CN chưa thực sự gắn kết chặt chẽ với nhu cầu phát

triển kinh tế - xã hội.

Công tác đánh giá nghiệm thu kết quả nghiên cứu chưa tương hợp với

chuẩn mực quốc tế.

70

Cơ chế quản lý các tổ chức KH&CN không phù hợp với đặc thù của lao

động sáng tạo và thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Các tổ chức KH& CN chưa có được đầy đủ quyền tự chủ về kế hoạch, tài

chính, nhân lực và hợp tác quốc tế để phát huy tính năng động, sáng tạo. Việc

quản lý cán bộ KH&CN theo chế độ công chức không phù hợp với hoạt động

KH&CN, làm hạn chế khả năng lưu chuyển và đổi mới cán bộ. Thiếu cơ chế

đảm bảo để cán bộ KH&CN được tự do chính kiến phát huy khả năng sáng tạo,

tự chịu trách nhiệm trong khuôn khổ pháp luật. Chưa có những chính sách hữu

hiệu tạo động lực đối với cán bộ KH&CN và chính sách thu hút, trọng dụng

nhân tài, chế độ tiền lương còn nhiều bất hợp lý, không khuyến khích cán bộ

KH&CN toàn tâm với sự nghiệp KH&CN. Cơ chế quản lý tài chính trong hoạt

động KH&CN chưa tạo thuận lợi cho nhà khoa học, chưa huy động được nhiều

nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; Cơ chế tự chủ về tài chính của các tổ chức

KH&CN chưa đi liền với tự chủ về quản lý nhân lực nên hiệu quả còn hạn chế.

Những nguyên nhân chủ yếu

Thứ nhất: Đường lối chính sách phát triển KH&CN và TTCN của Đảng và

nhà nước chưa được quán triệt đầy đủ và chậm đựợc triển khai trong thực tiễn.

Các quan điểm KH&CN là nền tảng và động lực phát triển đất nước đã được

khẳng định trong các Nghị quyết của Đảng nhưng trên thực tế chưa được các

cấp, các ngành, các địa phương quán triệt đầy đủ và triển khai trong thực tiễn

phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước

về phát triển KH&CN chậm được thể chế hoá bằng các văn bản quy phạm, pháp

luật.

71

Thứ hai: Việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện chính sách thiếu kiên quyết nên

kết quả còn hạn chế. Năng lực của các cơ quan tham mưu, quản lý KH&CN các

cấp còn yếu kém.

Thứ ba: Chậm đổi mới tư duy, cơ chế và phương pháp quản lý KH&CN

trong điều kiện chuyển sang KTTT định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc

tế. Thực tế cho thấy cơ chế kế hoạch hoá, tập trung quan liêu, bao cấp đang còn

ăn sâu trong tiềm thức và thói quen của không ít cán bộ KH&CN và quản lý

KH&CN đã tạo ra sức ỳ không dễ khắc phục khi thực thi cơ chế mới, chưa đáp

ứng được yêu cầu về đổi mới quản lý KH&CN phù hợp với nền kinh tế thị

trường định hướng XHCN, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ tư: Chưa làm rõ trách nhiệm của nhà nước đối với những hoạt động

KH& CN mà nhà nước cần đầu tư phát triển. Điều đó biểu hiện:

Chậm làm rõ các lĩnh vực KH&CN trọng điểm, ưu tiên, nghiên cứu chiến

lược, chính sách phát triển; nghiên cứu cơ bản; nghiên cứu mang tính công

ích.v.v… Cũng chưa có cơ chế, chính sách phù hợp đối với các hoạt động

KH&CN chưa có thể vận dụng cơ chế thị trường và những hoạt động KH&CN

nhất thiết phải thông qua cơ chế thị trường.

Quản lý nhà nước đối với khu vực hành chính và khu vực sự nghiệp trong

hệ thống KH&CN chưa được tách biệt rõ ràng, làm cho công tác quản lý các tổ

chức KH&CN còn mang nặng tính hành chính.

Thứ năm: Chậm tổng kết thực tiễn để nhân rộng các điển hình tiên tiến

trong việc gắn kết giữa nghiên cứu KH&CN với giáo dục - đào tạo và sản xuất -

kinh doanh.

2.3.2. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết trong thời gian tới

Trước hết: Về luật pháp

72

Từ những nội dung của các văn bản nói trên, nhất là Luật khoa học và

công nghệ, có thể thấy:

- Mặt bằng hệ thống luật pháp liên quan đến sự hình thành và phát triển

TTCN đã có nhưng dừng lại ở mức nêu ra cái cần và cái phải làm, chưa có văn

bản cụ thể với nội dung phải trả lời là làm cái gì và làm thế nào ở rất nhiều hoạt

động KH&CN, trong đó có việc xây dựng và hoạt động TTCN Việt Nam.

- Ý tưởng xây dựng TTCN được nêu ra trong các văn bản còn ở dạng

chung nhất, chưa hình dung được cái cần của khung pháp luật đảm bảo cho

TTCN hình thành là gì - trước hết ở các văn bản cơ bản, chủ chốt, để TTCN có

thể hoạt động có quản lý, có trật tự, sống động và hiệu quả. Luật sở hữu trí tuệ

chậm cụ thể hoá, Luật chuyển giao công nghệ chưa được ban hành.

- Việc thực thi pháp luật chưa nghiêm, hiệu lực pháp luật còn nhiều việc

phải làm, một số doanh nghiệp nhập thiết bị công nghệ quá cũ lạc hậu, một số

doanh nghiệp yêu cầu tái xuất, song sau một thời gian lại thấy sử dụng trong

nước.

Thứ hai: Về chính sách khoa học - công nghệ

Những thành tựu và tồn tại của phát triển khoa học công nghệ, hình thành

và phát triển TTCN ở nước ta trong thời gian qua chủ yếu phụ thuộc vào vai trò

quản lý nhà nước, thể hiện bằng những chính sách của nhà nước. Môi trường

khoa học công nghệ thuận lợi hay khó khăn phụ thuộc với mức độ lớn vào chính

sách khoa học và công nghệ của nhà nước.

Cho đến nay, mặc dù nước ta đã có khoảng 4.500 qui định riêng biệt có

liên quan đến việc đầu tư, tiếp nhận chuyển giao và áp dụng công nghệ. Trong

đó đáng chú ý là các văn bản sau:

73

- Quyết định 1762/QĐ - PTCN ngày 17-10-1995, Quyết định 2183/QĐ-

PTCN ngày 16-12-1995 của Bộ khoa học - Công nghệ và Môi trường qui định

các yêu cầu chung với việc nhập khẩu các thiết bị chung đã qua sử dụng. Cụ thể

như có chất lượng còn lại lớn hơn hoặc bằng 80% so với nguyên thuỷ, mức tiêu

hao nguyên liệu, năng lượng không vượt quá 10% so với nguyên thuỷ, phải đảm

bao an toàn lao động và không gây ô nhiễm môi trường.

- Ngày 29-4-1998 Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường đã ký Quyết

định 491/1998/QĐ/PKHCNMT để sửa đổi một số điều của quyết định 2019 cho

phù hợp thực tế. Cụ thể qui định về đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh, trách

nhiệm về hiệu quả kinh tế - kỹ thuật của việc nhập thiết bị đã qua sử dụng, bảo

đảm chất lượng còn lại của thiết bị lớn hơn 80% và bảo đảm các chỉ tiêu về an

toàn lao động bảo vệ môi trường tổ chức giám định chất lượng.

- Nghị định 119/1999/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày

18- 9-1999 về chính sách và cơ chế hành chính khuyến khích các doanh nghiệp

đầu tư vào hoạt động khoa học - công nghệ.

- Các Quyết định 2019 và Quyết định 491 và Nghị định 119 đã có tác

động nhất định trong việc thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ.

- Thông tư 1940/TT-KH-CN & TM năm 1997 của Bộ Khoa học Công

nghệ và Môi trường hướng dẫn thẩm định công nghệ và các dự án đầu tư, Nghị

định 1998/NĐ - CP của Chính phủ ban hành ngày 02-7-1998 qui định chi tiết về

việc chuyển giao công nghệ.

- Những năm gần đây nhà nước ban hành nhiều văn bản như: Nghị quyết

của Chính phủ về phát triển công nghệ thông tin, phát triển công nghệ sinh học,

phát triển khoa học công nghệ và vật liệu, ứng dụng và phát triển công nghệ tự

động hoá phục vụ CNH, HĐH, qui chế KCN, KCX, khu công nghệ cao.

74

- Nghị định 59 của Chính phủ cho phép DNNN được sử dụng quĩ đầu tư

phát triển để chi cho các hoạt động khoa học - công nghệ phục vụ mục đích sản

xuất kinh doanh. Các chi phí nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ được

tính vào chi phí giảm giá thành sản phẩm.

- Quyết định số 270/QĐ - NH của Ngân hàng nhà nước về ban hành thể lệ

cho vay vốn để ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất.

Mặc dù có các văn bản nói trên, nhưng việc triển khai thực hiện các văn

bản này nói chung cũng còn nhiều điều bất cập. Môi trường thể chế chưa tạo

thuận lợi cho mua bán chuyển giao công nghệ; thiếu vốn, chế độ thuế không

thích hợp, thông tin công nghệ bất cập, nhân lực khoa học và công nghệ yếu

kém. Các chính sách ưu đãi về thuế cho các đơn vị hoạt động khoa học- công

nghệ theo Nghị định 35/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 28-01-1992 chưa

thực sự trở thành đòn bẩy kích thích. Thuế suất nhập khẩu thiết bị đang là một

trở ngại cho hình thành và phát triển thị trường khoa học công nghệ. Theo Viện

nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, các doanh nghiệp được khảo sát cho

rằng nhà nước chưa có chính sách thuế phù hợp với công nghệ cao, sản phẩm

công nghiệp có hàm lượng khoa học cao phục vụ cho nhu cầu phát triển đất

nước. Các đơn vị thực hiện và bán kết quả nghiên cứu về công nghệ cũng chưa

được ưu đãi thu nhập. Vấn đề vay tín dụng cho các dự án đầu tư đổi mới công

nghệ, nghiên cứu khoa học thủ tục có nhiều khó khăn. Cơ chế chính sách còn cản

trở chưa thúc đẩy việc mua bán chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp và

cơ sở chế tạo trong nước. Việc thanh toán quyết toán các hợp đồng còn rườm rà,

phân chia lợi ích trong quá trình chuyển giao công nghệ còn phức tạp. Nhà nước

chưa có chính sách khuyến khích hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm để giúp doanh

nghiệp yên tâm đầu tư công nghệ mới, phòng khi mua phải công nghệ dởm, công

năng không phù hợp với thực tế sản xuất. Chính sách chuyển giao công nghệ

75

mới chỉ tạo điều kiện cho nhập khẩu công nghệ (phần cứng), chưa đòi hỏi các

nhà cung cấp nước ngoài phải chuyền giao toàn bộ kỹ năng thực hành (phần

mềm) công nghệ. Nhiều quy định của chính sách và cơ chế quản lý hiện hành

không tạo ra thuận lợi cho nghiên cứu sáng tạo. Nhiều chính sách đưa ra không

đồng bộ hoặc cơ chế điều hành chưa có đã tác động không thuận lợi đến phát

triển thị trường khoa học - công nghệ. Các chủ trương về phát triển khoa học

công nghệ đưa ra thì nhiều nhưng thực tế cách làm, cơ chế chính sách lại không

phù hợp, nhiều khi còn hạn chế. Có thể nhận định các chính sách khuyến khích

phát triển khoa học công nghệ chưa được quan tâm thích đáng.

76

Thứ ba: Tăng cương vai trò quản lý các cấp đối với TTCN.

Cần tiếp tục đổi mới cơ chế ,chính sách, trong đó cần tăng cường vai trò

các ngành, các cấp quản lý tỉnh (thành phố) trong việc hình thành và phát triển

TTCN của các địa phương trong thời gian tới. Cơ chế chính sách phải làm sao

khơi dậy tiềm năng của các ngành, các địa phương, phát huy nội lực bản thân kết

hợp với khai thác ngoại lực trong lĩnh vực ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ

vào sản xuất và mở rộng TTCN.

Thứ tư: Để đẩy nhanh việc hình thành và phát trển TTCN cần hoàn thiện

những chính sách sau:

- Chính sách phát triển và nâng cao năng lực công nghệ nội sinh, chính

sách phát triển và nâng cao năng lực cung cấp các dịch vụ hỗ trợ và chính sách

thúc đẩy cung, kích cầu khoa học công nghệ.

- Chính sách thúc đẩy cung, kích cầu khoa học công nghệ nhằm tạo lập

một môi trường khoa học công nghệ sinh động, trong đó khuyến khích đổi mới

công nghệ, các sản phẩm từ nghiên cứu phát triển được nhanh chóng thương mại

hoá để tham gia vào quá trình sản xuất nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường và

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

- Chính sách phát triển và nâng cao năng lực công nghệ nội sinh nhằm

nâng cao khả năng nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản

xuất và nâng cao khả năng tiếp nhận, sử dụng, phát triển có hiệu quả công nghệ

được chuyển giao từ nước ngoài.

- Chính sách phát triển và nâng cao năng lực cung ứng các dịch vụ hỗ trợ

nhằm tạo môi trường bên ngoài thuận lợi để thúc đẩy thị trường công nghệ nhằm

phát triển một cách sinh động.

77

- Chính sách chuyển giao công nghệ của Việt Nam không chỉ tạo điều kiện

cho nhập khẩu công nghệ mà còn đòi hỏi các nhà cung cấp nước ngoài phải

chuyển giao toàn bộ kỹ năng thực hành công nghệ. Tuy nhiên vấn đề sở hữu trí

tuệ phải được đảm bảo nhằm khuyến khích đầu tư nước ngoài tham gia tích cực

hơn vào quá trình chuyển giao công nghệ.

- Chính sách công nghệ của Việt Nam phải nhằm củng cố các năng lực sẵn

có trong nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp thu, điều chỉnh cho phù

hợp và nâng cấp những công nghệ nhập khẩu và phát triển công nghệ trong nước

thích hợp.

Thứ năm: Tăng cường đầu tư vốn ngân sách, vốn tín dụng và quỹ phát

triển sản xuất của các doanh nghiêp để tăng cung kích cầu cho TTCN.

- Đầu tư xây dựng tiềm lực KH&CN chú trọng đúng mức vào lĩnh vực

trọng điểm, ưu tiên, cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nghiên cứu KH&CN; cho đào

tạo đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ cao ở các lĩnh vực KH&CN ưu tiên, đặc

biệt là cán bộ KH&CN đầu nghành, các “tổng công trình sư”.

- Cơ chế quản lý kinh tế hiện nay còn duy trì bao cấp gián tiếp của nhà

nước, độc quyền của doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh,

làm cho các doanh nghiệp nhà nước có tư tưởng ỷ lại, chưa quan tâm đến ứng

dụng các kết quả nghiên cứu KH&CN và đổi mới công nghệ. Thiếu cơ chế,

chính sách hữu hiệu để gắn kết giữu KH&CN với sản xuất - kinh doanh và

khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng kết quả nghiên cứu KH&CN.

- Hệ thống tiền tệ kém phát triển cũng không tạo điều kiện cho doanh

nghiệp tự huy động được nguồn vốn để đầu tư cho KH&CN.

Có thể nói Việt Nam chưa tạo lập được môi trường thuận lợi cho sự phát

triển khoa học công nghệ và thị trường công nghệ, nhất là cơ chế quản lý hiện

78

nay nói chung chưa tạo ra được động lực thực sự cho sự phát triển. Do vậy,

muốn phát triển thì phải đầu tư đúng mức cho khoa học công nghệ, với hiện

trạng cơ chế quản lý khoa học công nghệ như hiện nay đầu tư khó đem lại hiệu

quả cao.

Thứ sáu: Triển khai ứng dụng và mở rộng các hình thức dịch vụ.

Chợ công nghệ và thiết bi “thật” và “ảo”; sáng tạo thêm và triển khai

nhanh chóng các hình thức mới thúc đẩy TTCN phát triển như các Trung tâm

giao dịch công nghệ..., Hội chợ công nghệ nội địa và Hội chợ công nghệ khu vực

và quốc tế tại Việt Nam v.v…

79

Chƣơng 3

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN TĂNG CƢỜNG VAI TRÒ

CỦA NHÀ NƢỚC TRONG VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

THỊ TRƢỜNG CÔNG NGHỆ NƢỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1. Phƣơng hƣớng cơ bản tăng cƣờng vai trò nhà nƣớc trong việc

hình thành và phát triển thị trƣờng công nghệ ở nƣớc ta

3.1.1. Dự báo bối cảnh thế giới và trong nước, cơ hội và thách thức đối

với sự phát triển khoa học & công nghệ và thị trường công nghệ Việt Nam

* Bối cảnh quốc tế

Thứ nhất: Xu hướng phát triển khoa học và công nghệ hiện đại.

Cuộc cách mạng KH&CN trên thế giới tiếp tục phát triển với nhịp độ ngày

càng nhanh, có khả năng tạo ra những thành tựu mang tính đột phá, khó dự báo

trước và có ảnh hưởng to lớn tới mọi mặt của đời sống xã hội loài người. Nhờ

những thành tựu to lớn của KH&CN, đặc biệt là công nghệ thông tin - truyền

thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, v.v..., xã hội loài người đang

trong quá trình chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang thời đại thông tin, từ

nền kinh tế dựa vào các nguồn lực tự nhiên sang nền kinh tế dựa vào tri thức, mở

ra cơ hội mới cho các nước đang phát triển có thể rút ngắn quá trình công nghiệp

hoá, hiện đại hoá .

Khoa học và công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, hàng

đầu, năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia tuỳ thuộc phần lớn vào năng lực

KH&CN. Lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, giá lao động rẻ ngày càng trở

nên ít quan trọng hơn. Vai trò của nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, có

80

năng lực sáng tạo - lao động trí tuệ ngày càng có ý nghĩa quyết định trong bối

cảnh toàn cầu hoá kinh tế. Thời gian đưa kết quả nghiên cứu vào áp dụng và

vòng đời công nghệ ngày càng rút ngắn. Lợi thế cạnh tranh đang thuộc về các

doanh nghiệp biết lợi dụng các công nghệ mới để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ

mới, đáp ứng nhu cầu đa dạng và luôn thay đổi của khách hàng. Với tiềm lực

hùng mạnh về tài chính và KH&CN, các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia

đang nắm giữ và chi phối TTCN gắn với các công nghệ tiên tiến.

Để thích ứng với bối cảnh trên, các nước phát triển đang điều chỉnh cơ cấu

kinh tế theo hướng tăng nhanh các nghành công nghiệp và dịch vụ có hàm lượng

công nghệ cao, công nghệ thân môi trường; đẩy mạnh chuyển giao những công

nghệ tiêu tốn nhiều nguyên liệu, năng lượng, gây ô nhiễm cho các nước đang

phát triển. Nhiều nước đang phát triển đang tăng mức đầu tư cho nghiên cứu và

đổi mới công nghệ tiêu tốn nhiều nguyên liệu, năng lượng, gây ô nhiễm cho các

nước đang phát triển; Đang dành ưu tiên đào tạo nguồn nhấn lực KH&CN trình

độ cao, tăng mức đầu tư cho nghiên cứu và đổi mới công nghệ, nhất là một số

hướng công nghệ cao chọn lọc; Tăng cường cơ sở hạ tầng thông tin - truyền

thông; Tạo lợi thế cạnh tranh để thu hẹp khoảng cách tụt hậu trong phát triển.

Thứ hai: Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.

Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng gia tăng. Đây

vừa là quá trình hợp tác để phát triển vừa là quá trình đấu tranh giữa các nước để

bảo vệ lợi ích quốc gia. Để tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày

càng quyết liệt, những yêu cầu về tăng năng suất lao động, thường xuyên đổi

mới và nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức

tổ chức quản lý, đang đặt ra ngày càng gay gắt hơn. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn

cầu hoá kinh tế, các thành tựu to lớn của công nghệ thông tin - truyền thông, xu

81

hướng phổ cập internet, phát triển thương mại điện tử, kinh doanh điện tử, ngân

hàng điện tử, chính phủ điện tử, v.v…, đang tạo ra các lợi thế cạnh tranh mới của

các quốc gia và các doanh nghiệp.

Đối với các nước đang phát triển nếu không chủ động về nguồn nhân lực,

tăng cường cơ sở hạ tầng thông tin-truyền thông, điều chỉnh về các quy định về

pháp lý, v.v… thì nguy cơ tụt hậu khoảng cách ngày càng dãn ra và thua thiệt

trong quan hệ trao đổi quốc tế là điều khó tránh khỏi.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khi phân tích bối cảnh thế giới đã nhận

định: “Trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo; toàn

cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang được đẩy mạnh; đầu tư, lưu chuyển

hàng hóa, dịch vụ, lao động và vốn ngày một mở rộng. Cuộc cách mạng khoa

học và, nhất là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học tiếp tục phát triển

mạnh theo chiều sâu, tác động lớn đến cơ cấu và sự phát triển của nền kinh tế thế

giới, mở ra triển vọng mới cho mỗi nền kinh tế tham gia phân công lao động

toàn cầu. Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động, hợp

tác khu vực ngày càng mở rộng tạo thêm điều kiện thuận lợi cho sự phát triển

của mỗi quốc gia” [20].

Tuy nhiên, tình hình thế giới và khu vực “vẫn chứa đựng nhiều yếu tố

phức tạp, khó lường, các tranh chấp, xung đột cục bộ cùng các hoạt động khủng

bố quốc tế có thể gây mất ổn định ở nhiều khu vực và nhiều nơi trên thế giới.

Các nước lớn cạnh tranh quyết liệt vì lợi ích kinh tế và tìm cách áp đặt các rào

cản trong thương mại với các nước nghèo và đang phát triển. Thị trường tài

chính, tiền tệ và giá cả thế giới còn diễn ra phức tạp. Các vấn đề mang tính toàn

cầu như dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, khan hiếm các nguồn năng lượng và

nguyên vật liệu, khoảng cách giàu nghèo sẽ trở nên gay gắt hơn” [20].

82

83

* Bối cảnh trong nước

Sau 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu qua trọng, làm

nền tảng cho giai đoạn phát triển mới: nền kinh tế có mức tăng trưởng cao, liên

tục; tình hình chính trị, xã hội ổn định; xu thế dân chủ hoá, xã hội hoá ngày càng

mở rộng; đời sống nhân dân được nâng cao rõ rệt; quan hệ hợp tác quốc tế được

cải thiện. Tuy nhiên, Đảng ta vẫn nhận định rằng: Mặc dù “có được thuận lợi rất

cơ bản là những thành tựu to lớn và những bài học kinh nghiệm quan trọng sau

20 năm đổi mới, nhưng còn nhiều yếu kém, đặc biệt là nền kinh tế đang ở trình

độ phát triển thấp, quy mô nhỏ, sức cạnh tranh yếu, còn tụt hậu khá xa so với

nhiều nước trong khu vực, chưa vượt ra khỏi nhóm các nước đang phát triển có

thu nhập thấp, trong khi yêu cầu của đất nước, nhân dân về phát triển nhanh, bền

vững rất cao và yêu cầu về hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới ngày

càng khẩn trương, sâu rộng hơn”.

Những dự báo đặc điểm nói trên in dấu đậm nét đến việc xác định mục

tiêu tổng quát giai doạn 2006 - 2010 có tính đến tầm nhìn năm 2020 là:

“Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống

vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản

trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nguồn lực con người, năng

lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an

ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng

cao” [20].

Nhiệm vụ đăt ra trong thời gian tới là: Tiếp tục con đường đổi mới theo

hướng đẩy mạnh CNH - HĐH để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công

nghiệp vào năm 2020; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, cam kết thực hiện các

84

thoả thuận trong khuôn khổ AFTA, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ,

tích cực chuẩn bị tham gia WTO; tăng cường đổi mới khu vực kinh tế nhà nước,

phát triển kinh tế tập thể, khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân, hỗ trợ có điều

kiện trong thời kỳ đầu các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đẩy mạnh cải cách hành

chính, v.v…

Trong bối cảnh đó KH&CN có nhiệm vụ cung cấp kịp thời luận cứ khoa

học cho các quyết sách quan trọng của Đảng và nhà nước, hình thành và phát

triển TTCN đóng góp thiết thực vào việc nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh

tranh của nền kinh tế, đáp ứng các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

nước ta đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.

* Cơ hội và thách thức:

- Cơ hội

Đảng và Nhà nước luôn coi trọng sự nghiệp phát triển KH&CN, Đại hội

IX trước đây và Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định phát triển KH&CN,

cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và

động lực cho CNH - HĐH đất nước. Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, với

đường lối đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, nước ta có cơ hội thuận

lợi để tiếp thu tri thức khoa học và công nghệ, các nguồn lực và kinh nghiệm tổ

chức quản lý tiên tiến của nước ngoài để nhanh chóng tăng cường năng lực

KH&CN quốc gia, nhanh chóng hình thành và phát triển TTCN nhằm đáp ứng

tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.

Tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại, nước

ta có thể đi thẳng vào những công nghệ hiện đại để rút ngắn quá trình CNH -

HĐH và khoảng cách phát triển kinh tế so với các nước đi trước. Với tiềm năng

85

trí tuệ dồi dào, nếu có một chiến lược phát triển nguồn nhân lực đúng đắn, nhất

là lực lượng lao động trí tuệ, nước ta có thể sớm đi vào một số lĩnh vực của kinh

tế tri thức.

Quá trình đổi mới đất nước đã tạo ra tiền đề mới cho sự phát triển

KH&CN và TTCN nước ta trong thời gian tới. Nền kinh tế nước ta có tốc độ

tăng trưởng cao, liên tục trong thời gian qua là điều kiện thuận lợi để tăng đầu tư

cho phát triển KH&CN, đồng thời thúc đẩy đổi mới công nghệ và ứng dụng

thành tựu KH&CN trong nền kinh tế, nhất là trước sức ép về cạnh tranh trong

điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế khi nước ta trước thềm gia nhập WTO và

những năm đầu sau khi gia nhập WTO.

- Thách thức

Trong bối cảnh nền kinh tế của thế giới phát triển năng động, nên khó dự

báo chính xác về sự phát triển KH&CN và TTCN. Khả năng nắm bắt thời cơ và

tranh thủ các nguồn lực bên ngoài tuỳ thuộc nhiều vào trình độ và năng lực KH&

CN của quốc gia.

- Thách thức lớn nhất đối với sự phát triển KH& CN và TTCN nước ta

hiện nay là phải nâng cao nhanh chóng năng lực KH& CN, tạo ra nhiều hàng hóa

công nghệ cho sự phát triển TTCN, để thực hiện con đường CNH - HĐH phát

triển rút ngắn, trong điều kiện nước ta còn nghèo, vốn đầu tư còn hạn hẹp, trình

độ phát triển kinh tế và KH&CN còn có khoảng cách khá xa so với nhiều nước

trên thế giới và trong khu vực.

- Trong xu thế phát triển của kinh tế tri thức, lợi thế về nguồn tài nguyên

thiên nhiên, giá lao động rẻ dần nhường chỗ cho lợi thế về nguồn nhân lực có

trình độ chuyên môn giỏi, có năng lực sáng tạo - nguồn lực lấy lao động trí tuệ

86

làm đặc trưng. Nước ta nếu không sớm chuyển đổi cơ cấu nghành nghề, nâng

cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của lực lượng lao động thì sẽ không có khả

năng cạnh tranh với các nước trong khu vực về thu hút vốn đầu tư và các công

nghệ tiên tiến từ bên ngoài.

- Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khoa học - công nghệ, nước

ta đang đứng trước những khó khăn về chuyển đổi và xây dựng những thể chế

mới về kinh tế, thương mại, tài chính, ngân hàng, sở hữu trí tuệ v.v... Phù hợp

với thông lệ quốc tế. Tình trạng này nếu không sớm vượt qua sẽ cản trở sự thành

công của quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.

Trước những cơ hội và thách thức trên đây, nếu không có những quyết

sách mạnh mẽ về đổi mới thể chế kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý KH&CN và

TTCN đúng đắn và theo đó là những giải pháp đột phá nâng cao năng lực

KH&CN và TTCN quốc gia, thì nguy cơ tụt hậu về kinh tế và KH&CN ngày

càng xa và tình trạng lệ thuộc lâu dài vào nguồn công nghệ nhập là khó tránh

khỏi.

3.1.2. Quan điểm và mục tiêu tăng cường vai trò nhà nước trong việc

hình thành và phát triển thị trường công nghệ đến năm 2010 và tầm nhìn

2020

* Quan điểm tăng cường vai trò nhà nước đối với KH&CN và TTCN

Trong thời gian tới, để phát triển KH&CN và TTCN cần quán triệt các

quan điểm chỉ đạo sau đây:

Thứ nhất: Gắn việc tăng cường vai trò nhà nước đối với việc hình thành và

phát triển TTCN với việc phát triển KH&CN và giáo dục đào tạo coi nó là động

lực, nền tảng và quốc sách hàng đầu nhằm đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất

87

nước. Để KH&CN nhanh chóng phát huy được vai trò mà nền tảng và động lực

đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, nhà nước cần có chính sách quan tâm đặc biệt

đến phát triển KH&CN và TTCN: Coi đầu tư cho KH&CN là đầu tư phát triển;

ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực; Tạo

động lực vật chất và tinh thần mạnh mẽ cho cá nhân hoạt động KH&CN, trọng

dụng và tôn vinh nhân tài; bảo đảm gắn kết giữa KH& CN với giáo dục và đào

tạo; giữa KH với CN; giữa KHXH và Nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ

thuật. Sự gắn kết giữa KH&CN với giáo dục - đào tạo trước hết phải được thực

hiện ngay trong các trường đại học, các tổ chức nghiên cứu và phát triển đồng

thời có cơ chế khuyến khích kết hợp với biện pháp hành chính để tạo ra sự hợp

tác, phối hợp giữa các tổ chức này. Sự gắn kết giữa các lĩnh vực KHXH và nhân

văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và giữa khoa học với công nghệ được

thực hiện trên cơ sở những nghiên cứu liên ngành nhằm giải quyết những vấn đề

kinh tế - xã hội tổng hợp và phát triển bền vững đất nước.

Thứ hai: Tăng cường vai trò nhà nước trong việc giải quyết đúng đắn mối

quan hệ biện chứng giữa phát triển TTCN với phát triển KH&CN, HNKQ, tăng

trưởng và phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng và an ninh.

Mối quan hệ này, mỗi yếu tố đều vừa là nguyên nhân vừa là kết quả vận

động và liên tục chuyển hóa lẫn nhau và cùng thúc đẩy nhau phát triển. Trong

thời gian qua, như chương 2 đã phân tích cho thấy vai trò nhà nước trong việc

hình thành và phát triển mối quan hệ này còn nhiều bất cập.

Trong thời gian tới, nhà nước cần giải quyết tốt 3 mối quan hệ sau:

- Mối quan hệ giữa sự hình thành và phát triển TTCN với phát triển

KH&CN. Thực chất mối quan hệ này trong điều kiện KTTT là mối quan hệ cung

cầu giữa ngành nghiên cứu khoa học công nghệ - lực lượng cung ứng hàng hóa

88

công nghệ cho TTCN, và TTCN với tính cách nơi thể hiện nhu cầu của khách

hàng đối với hàng hóa công nghệ mà bên cung đưa ra thị trường.

- Mối quan hệ giữa phát triển KH&CN, sự hình thành và phát triển TTCN

với hội nhập kinh tế quốc tế. Từ mối quan hệ này cho thấy không thể hội nhập

kinh tế quốc tế nếu không nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, muốn

nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, tất yếu phải phát triển KH&CN và

TTCN.

- Mối quan hệ giữa một bên là phát triển KH&CN, sự hình thành và phát

triển TTCN và hội nhập kinh tế quốc tế với bên kia là tăng trưởng và phát triển

kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng và an ninh. Thực chất của mối quan hệ này là

mối quan hệ nhân quả, mối quan hệ giữa một bên là động lực, nền tảng, điều

kiện và bên kia là mục tiêu chiến lược cần đạt được. Do vậy, nhiệm vụ của

KH&CN và TTCN phải hướng vào giải quyết có hiệu quả các mục tiêu kinh tế -

xã hôị. Mọi ngành mọi cấp phải đẩy mạnh việc triển khai nghiên cứu và ứng

dụng rộng rãi thành tựu KH&CN vào hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng, an

ninh, từ việc định hướng chiến lựơc phát triển, hoạch định chính sách, xây dựng

qui hoạch, kế hoạch đến việc tổ chức thực hiện.

Thứ ba: Tăng cường vai trò nhà nước trong việc ban hành chính sách, cơ

chế khuyến khích tiếp thu và ứng dụng thành tựu KH&CN thế giới đồng thời

phát huy năng lực KH&CN nội sinh, thông qua TTCN để nâng cao hiệu quả sử

dụng tiềm lực KH&CN của đất nước.

Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hợp

tác quốc tế KH&CN phải được đẩy mạnh nhằm khai thác những cơ hội mà toàn

cầu hoá có thể mang lại. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, cần lấy nhập

công nghệ từ các nước phát triển là chủ yếu nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu phát

89

triển của các ngành trong nền kinh tế quốc dân đồng thời nâng cao năng lực

KH&CN nội sinh để tiếp thu có hiệu quả thành tựu KH&CN hiện đại của thế

giới. Đổi mới chính sách và cơ chế quản lý nhằm khai thác tối đa năng lực

KH&CN hiện có trong nước, vừa tranh thủ tiếp thu, ứng dụng nhanh chóng có

hiệu quả các thành tựu KH&CN của thế giới thông qua việc hình thành và phát

triển TTCN.

Thứ tư: Tăng cường vai trò nhà nước đối với TTCN theo hướng tập trung

đầu tư của nhà nước vào việc tăng tiềm lực KH&CN ở các lĩnh vực trọng điểm,

ưu tiên đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động KH&CN thông qua các hình

thức và tổ chức dịch vụ hoat động theo cơ chế thị trường trên TTCN.

Nhà nước tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm. Tết hợp đồng bộ giữa

đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị kỹ thuật với đầu tư đào tạo nhân lực

KH&CN, thực hiện dứt điểm các công trình để sớm phát huy hiệu quả đầu tư.

Quan điểm này phải được quán triệt ngay trong quá trình xây dựng kế hoạch

phát triển KH&CN năm năm và hàng năm trên cơ sở định hướng KH&CN trọng

điểm được đề ra trong chiến lược phát triển KH&CN và TTCN. Nhà nước

khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và

nước ngoài tham gia nghiên cứu, ứng dụng và đầu tư phát triển KH&CN để cung

ứng ngày càng nhiều hàng hóa công nghệ, thúc đẩy TTCN phát triển.

* Mục tiêu phát triển KH&CN và TTCN.

Chiến lược phát triển KH&CN và TTCN đến năm 2010 tập trung thực

hiện các nhóm mục tiêu chủ yếu.

Một là, bảo đảm cung cấp luận cứ khoa học về con đường công nghiệp

hoá rút ngắn, phát triển bền vững theo định hướng XHCN, củng cố và tăng

90

cường quốc phòng - an ninh, hội nhập thành công vào nền kinh tế thế giới và khu

vực.

KH&CN, đặc biệt là Khoa học xã hội và nhân văn tập trung nghiên cứu

xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho quá trình công nghiệp hoá rút ngắn và

xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng luận cứ khoa

học cho việc hoạch định đường lối, chính sách, qui hoạch, kế hoạch phát triển

kinh tế - xã hội, củng cố và tăng cường quốc phòng - an ninh; đề xuất các giải

pháp phát triển bền vững và hội nhập thành công vào nền kinh tế khu vực và thế

giới; giải đáp kịp thời những vấn đề lý luận và thực tiễn khác do cuộc sống đặt

ra.

Hai là, KH&CN và TTCN phải góp phần quyết định nâng cao chất lượng

tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta với thế giới và khu

vực.

Hoạt động KH&CN đến 2010, phải góp phần quyết định vào việc tạo ra sự

chuyển biến rõ rệt về năng xuất, chất lượng và hiệu quả ở một số ngành kinh tế

quan trọng:

- Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi kỹ thuật tiến bộ trong

nghành nông - lâm - ngư nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm

nhằm phát huy có hiệu quả nguồn tài nguyên sinh học nhiệt đới, nâng cao giá trị

gia tăng và sức cạnh tranh của nông sản xuất khẩu ngang bằng các nước có nền

nông nghiệp phát triển trong khu vực, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

thôn, tạo thêm nhiều việc làm, cải thiện đáng kể đời sông nhân dân và bộ mặt

nông thôn nước ta vào năm 2010.

91

- Hỗ trợ khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, khu vực tiểu thủ công nghiệp

đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng, sức cạnh tranh của sản

phẩm, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và mở rộng xuất khẩu.

- Nâng cao năng lực tiếp thu, làm chủ, thích nghi và cải tiến các công nghệ

hiện đại nhập từ nước ngoài trong một số lĩnh vực dịch vụ, kết cấu hạ tầng (tài

chính, ngân hàng, bưu chính, viễn thông, giao thông vận tải, hàng không, v.v…)

nhằm đảm bảo sự tương hợp quốc tế, hội nhập thành công vào nền kinh tế khu

vực và thế giới.

- Xây dựng và phát triển có trọng điểm một số ngành công nghiệp công

nghệ cao; Phát triển công nghiệp công nghệ thông tin - truyền thông, công

nghiệp công nghệ sinh học trở thành các ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng

nhanh, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu trong nước, góp phần tăng kim ngạch

xuất khẩu.

Ba là, xây dựng và phát triển năng lực KH&CN đạt trình độ trung bình

tiên tiến trong khu vực.

- Phát triển tiềm lực KH&CN đạt trình độ trung bình tiên tiến trong khu

vực: bảo đảm tốc độ tăng tỷ lệ đầu tư cho KH&CN từ ngân sách nhà nước phải

lớn hơn tốc độ tăng chi ngân sách nhà nước, đồng thời đẩy mạnh đa dạng hoá

các nguồn đầu tư ngoài ngân sách nhà nước cho KH&CN. Phấn đấu đưa tổng

mức đầu tư của toàn xã hội cho KH&CN đạt 1,5% GDP vào năm 2010. Phát

triển nguồn nhân lực KH&CN có chất lượng cao, có cơ cấu trình độ, chuyên

môn phù hợp với các hướng KH&CN ưu tiên, với nhu cầu phát triển kinh tế - xã

hội và được phân bố hợp lý theo vùng lãnh thổ. Phấn đấu đến năm 2010, nâng

cao chất lượng và phát triển đội ngũ cán bộ KH&CN ngang mức trung bình tiên

tiến của các nước trong khu vực. Hình thành một số tổ chức nghiên cứu - phát

92

triển và một số trường đại học đạt trình độ trung bình tiên tiến trong khu vực ở

một số lĩnh vực công nghệ trọng điểm, một số ngành khoa học có thế mạnh ở

Việt Nam.

- Hoàn thành xây dựng giai đoạn I hai khu công nghệ cao tại Hoà Lạc và

Thành phố Hồ Chí Minh; đưa vào sử dụng và khai thác có hiệu quả các phòng

thí nghiệm trọng điiểm quốc gia đã được phê duyệt; nâng cao cơ sở hạ tầng kỹ

thuật một số tổ chức dịch vụ KH&CN quan trọng về thông tin KH&CN, tiêu

chuẩn - đo lường - chất lượng. Hình thành mạng lưới các tổ chức KH&CN đủ

năng lực hội nhập quốc tế, gắn kết chặt chẽ với giáo dục - đào tạo, sản xuất -

kinh doanh.

- Hình thành cơ chế quản lý KH&CN tiến bộ, tương hợp quốc tế:

- Đổi mới căn bản cơ chế quản lý KH&CN theo hướng phù hợp với kinh

tế thị trường, đặc thù của hoạt động KH&CN và hội nhập quốc tế. Tạo động lực

phát huy sáng tạo của đội ngũ cán bộ KH&CN. Nâng cao năng lực và hiệu quả

hoạt động KH&CN để đến năm 2010: KH&CN nước ta đủ năng lực tiếp thu, làm

chủ và sử dụng có hiệu quả công nghệ hiện đại nhập từ nước ngoài; có khả năng

nghiên cứu và ứng dụng một số công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ thông tin,

công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu tiên tiến, công nghệ tự động hoá, cơ -

điện tử; tiếp cận công trình thế giới trong một số lĩnh vực khoa học Việt Nam có

thế mạnh.

Bốn là, trên cơ sở phát triển KH &CN, xây dựng và phát triển TTCN đưa

TTCN nước ta phát triển nhanh về số lượng và chất lượng.

Các mục tiêu phát triển thị trường công nghệ hướng mạnh vào các vấn đề

như: Cải thiện năng lực KH&CN và nâng cao tiềm lực khoa học - công nghệ.

93

Chuyển toàn bộ các cơ sở nghiên cứu khoa học triển khai sang hoạt động theo cơ

chế doanh nghiệp. Sớm hình thành các tổ chức và các hình thức dịch vụ công

nghệ, mua bán và chuyển giao công nghệ. Phát triển rộng rải ở các khu vực và

các địa phương về các mô hình chợ công nghệ và chuyển giao công nghệ “thực”,

chợ công nghệ và chuyển giao công nghệ “ảo”, Trung tâm mua bán và chuyển

giao công nghệ .v.v... Nhanh chóng sản xuất công nghệ trong nước có chất lượng

tương tự, cung cấp trên thị trường. Phấn đấu để có nhiều đề tài nghiên cứu khoa

học theo đơn đặt hàng của các của các ngành, địa phương và doanh nghiệp.

Thông qua mua bán, nhận chuyển giao kỹ thuật công nghệ hiện đại giữa TTCN

nước ta với TTCN các nước rong khu vực và trên thế giới. Phấn đấu đưa mức

tăng trưởng giá trị giao dịch mua bán công nghệ tăng bình quân 10%/năm giai

đoạn 2006 - 2010 [4].

3.2- Các giải pháp cơ bản tăng cƣờng vai trò nhà nƣớc trong việc hình

thành và phát triển thị trƣờng công nghệ trong thời gian tới ở nƣớc ta

Việc tạo lập và phát triển TTCN ở nước ta đòi hỏi cần thoả mãn đồng thời

ba yêu cầu: đáp ứng yêu cầu hội nhập của nên kinh tế, tính đến xu thế phát triển

nhanh chóng của khoa học công nghệ hiện đại trên thế giới và đảm bảo sự phù

hợp với tính chất và trình độ của nền kinh tế nói chung và thực trạng KKH &CN

nói riêng ở nước ta hiện nay.

Có thể tiếp cận các giải pháp cơ bản về tăng cường vai trò nhà nước đối

với sự hình thành và phát triển TTCN thời gian tới qua 3 nhóm giải pháp như:

Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và công nghệ - nội sinh hóa sản phẩm công nghệ

- tăng cung cho TTCN; nhận chuyển giao khoa học-công nghệ hiện đại từ các

nước tiên tiến- ngoại sinh hóa- tăng cung hành hóa công nghệ hiện đại cho

94

TTCN; tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các điều kiện, chính sách và cơ chế quản

lý và phát triển có hiệu quả việc hình thành và phát triển TTCN.

3.3.1. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và công nghệ - nội sinh hóa hàng

hóa công nghệ - nhóm giải pháp tăng cung cho thị trường công nghệ

Trên cơ sở quán triệt mục tiêu và quan điểm chỉ đạo phát triển hoạt động

KH&CN, để tăng cung hàng hóa cho TTCN cần làn tốt các vấn đề sau đây:

Thứ nhất: Lựa chọn được các chủ đề khoa học và công nghệ “đắt giá”,

“tầm cỡ, “độc đáo” của riêng nước mình, tất nhiên trên cơ sở tiếp thu có kế thừa

và sáng tạo.

Đây là điều đầu tiên và cũng là điều khó nhất trong nghiên cứu KH&CN.

Chủ đề khoa học phải xuất phát từ lý luận và kinh nghiệm điều đó là đúng,

nhưng phải xuất phát từ thực tiễn của mỗi nước. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy

không thể đem một chủ đề khoa học của nước này áp dụng hoàn toàn vào một

nước khác và cũng không nên coi việc làm đó là cách làm tốt để phát triển

KH&CN.

- Trong thời gian tới về các chủ đề khoa học kinh tế, chính trị, pháp luật,

văn hoá, xã hội quốc phòng an ninh cần nghiên cứu có thể là:

+ Bản chất nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN),

đổi mới và tạo lập đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt

Nam cung cấp luận cứ khoa học cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả

nước và các ngành, vùng trọng điểm. Đề xuất giải pháp nâng cao năng lực cạnh

tranh của nền kinh tế, năng lực tham gia vào các định chế tài chính - tiền tệ quốc

tế.

+ Nghiên cứu đổi mới hệ thống chính trị, đề xuất giải pháp thực hiện và

phát huy dân chủ, củng cố vai trò của đảng cầm quyền, cải tạo các bộ máy hành

95

chính nhà nước. Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Nghiên cứu quan hệ sở

hữu, đảng viên làm kinh tế tư nhân. Nghiên cứu sự biến đổi của cơ cấu xã hội và

quản lý sự phát triển xã hội ở Việt Nam tong điều kiện nền kinh tế thị trường

định hướng XHCN. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang

pháp lý thuận lợi cho việc tạo lập và phát triển đồng bộ thể chế kinh tế thị trường

định hướng XHCN và hội nhập kinh tế.

+ Nghiên cứu những vấn đề quốc phòng, an ninh của nước ta trong phòng,

an ninh 10 năm tới phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

+ Nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về tiến trình lịch sử và diện mạo

của nền văn hoá Việt Nam, những giá trị văn hoá mới của Việt Nam, xây dựng

nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc b) Nghiên cứu dự báo

các su thế phát triển của thế giới .

+ Nghiên cứu bản chất, đặc điểm, nội dung của cuộc cách mạng KH&CN

hiện đại và sự phát triển của nền kinh tế tri thức trong thế kỷ XXI, trong đó chú

trọng mặt xã hội và sự tác động của cuộc cách mạng này đến tiến trình phát triển

của Việt Nam. Nghiên cứu và dự báo các xu thế phát triển chủ yếu của thế giới

và khu vực những thập niên đầu thế kỷ XXI, những tác động nhiều mặt của quá

trình toàn cầu hoá. Dự báo động thái và su thế phát triển chủ yếu ở khu vực và

trên thế giới, tranh thủ tối đa thời cơ và lợi thế, phòng ngừa và giảm thiểu các bất

lợi, rủi ro, tập trung mọi nguồn lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

+ Tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa tư bản hiện đại trong bối cảnh toàn cầu

hoá, sự tác động về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, quân sự của chủ nghĩa tư

bản hiện đại các chủ thể mới trong quan hệ quốc tế có ảnh hưởng trực tiếp đến

chiến lược phát triển của Việt Nam nhằm định rõ vị thế, vai trò, bước đi, chính

sách hội nhập của Việt Nam vào các thể chế toàn cầu và khu vực.

96

* Ngoài các chủ đề nói trên về công nghệ trọng điểm phục vụ phát triển

kinh tế - xã hội cần tập trung nghiên cứu:

Những công nghệ tiên tiến, có tác động to lớn tới việc hiện đại hoá các

nghành kinh tế - kỹ thuật, đảm bảo quốc phòng, an ninh; tạo điều kiện hình thành

và phát triển một số nghành nghề mới, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế;

những công nghệ, phát huy được lợi thế của nước ta về tài nguyên nông nghiệp

nhiệt đới và lực lưọng lao động dồi dào ở nông thôn, tạo ra sản phẩm xuất khẩu

và việc làm có thu nhập cho các tầng lớp dân cư như:

- Công nghệ thông tin truyền thông, truyền hình, công nghệ phần mềm;

- Công nghệ sinh học.

- Công nghệ vật liệu tiên tiến.

- Công nghệ tự động hoá và cơ điện tử.

Thứ hai: Tăng cường tiềm lực KH&CN tương ứng với mục tiêu và nhiệm

vụ đặt ra đối với KH&CN.

Để có thể cung ứng ngày càng nhiều hàng hóa công nghệ có năng lực cạnh

tranh trong nước, khu vực và quốc tế cho TTCN đất nước phải có tiềm lực

KH&CN.

Như đã phân tích ở chương 1, khái niệm tiềm lực KH&CN được hiểu bao

gồm đội ngũ cán bộ KH&CN, nhất là cán bộ khoa học đầu đàn, các đơn vị ,các

tổ chức nghiên cứu KH&CN, trình độ cơ sở vật chất - kỹ thuật cho việc nghiên

cứu, ngân sách (gồm nhà nước và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh

tế) đầu tư cho KH&CN. Do vậy, tăng cường tiềm lực KH&CN có nghĩa là tăng

cường các yếu tố cấu thành tiềm lực đó. Trong thời gian tới cần:

97

Một là: Xây dựng và phát triển nhanh đội ngũ các nhà KH &CN, nhất là

các nhà khoa học đầu đàn - những công trình sư - cho các ngành kinh tế, xã hội,

kỹ thuật.

Để có các chủ đề “đắt giá”, “tầm cỡ, “độc đáo” của riêng nước mình như

đã nói ở trên, trong đó trước hết phải có các “bộ óc khoa học” suy nghĩ và sáng

tạo ra chúng. Nói cách khác là phải có những công trình sư, những nhà khoa học

đầu ngành.

Muốn vậy, trong thời gian tới nhà nước cần:

- Tạo một môi trường khoa học sao cho dân chủ, lành mạnh, tin cậy và

hợp tác chặt chẽ với nhau. Sớm khắc phục các khuyết tật định kiến, quy kết, đố

kỵ thiếu hợp tác lẫn nhau. Chính nó đã làm vẩn đục môi trường khoa học, kìm

hãm óc sáng tạo từ ý tưởng ban đầu mới sinh sôi nảy nở.

- Đi đôi với việc tạo môi trường cần có chiến lược đào tạo về đạo đức,

truyền thống, lòng tự hào dân tộc cho các thế hệ nhất là thế hệ trẻ để có nhiều

nhà khoa học tương lai và cho các nhà khoa học trẻ hiện tại.

- Có chính sách chiêu hiền đãi sĩ, toàn dụng nhân tài để rút ngắn khoảng

cách tụt hậu so với thế giới và khu vực, nhất là trước và sau khi nước ta gia nhập

WTO. Trong bối cảnh đó, đất nước muốn nhanh chóng hưng thịnh, sánh vai

cùng các nước năm châu, không thể không suy ngẫm một trong những triết lý

phát triển của Lê Quý Đôn “Phi trí bất hưng”, để từ đó tạo ra nhiều hiền tài và

coi trọng hiền tài như “nguyên khí quốc gia”.

Hai là: Thực hiện đa dạng hóa vốn đầu tư cho phát triển KH&CN.

Vốn cho việc nghiên cứu tạo ra hàng hóa công nghệ có nhiều nguồn cần

được huy động. Vốn từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng và vốn của các doanh

nghiệp trong tất cả các thành phần kinh tế.

98

Bằng cách đó, một mặt tăng cường cơ sở vật chất cho các viện nghiên cứu

và các trường đại học theo hướng trước mắt đạt trình độ các nước trong khu vực

và vươn lên trình độ các nước trên thế giới. Mặt khác, thông qua sự kết hợp giữa

viện trường và các doanh nghiệp trong các ngành và các thành phần kinh tế sớm

tạo điều kiện về tài chính và cơ sở thực tế cho việc đào tạo nhân tài có trình độ

sau đại học ở các viện và các trường đại học.

Ba là: Chuyển nhanh các tổ chức nghiên cứu ứng dụng và phát triển công

nghệ sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp.

Để nâng cao chất lượng sản phẩm khoa học - công nghệ và đưa nhanh kết

quả nghiên cứu KH&CN áp dụng vào thực tiễn sản xuất và đời sống, trong điều

kiện KTTT mở cửa và hội nhập tất yếu phải chuyển nhanh các tổ chức nghiên

cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp,

tồn tại và phát triển trong sự gắn bó với cơ chế thị trường.

Các doanh nghiệp KH&CN có thể được tổ chức theo các loại hình công ty

thuộc các thành phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu (nhà nước, tập thể, tư

nhân, cổ phần) hoặc theo mô hình công ty mẹ, công ty con hoạt động theo Luật

Doanh nghiệp thống nhất.

Các doanh nghiệp KH&CN có thể tổ chức dưới các hinh thức doanh

nghiệp KH&CN hoặc hình thức doanh nghiệp tổ chức KH&CN tự trang trải kinh

phí.

Thực hiện cơ chế tự chủ (về hoạt động KH&CN, về tài chính, về quản lý

nhân sự, về quan hệ hợp tác quốc tế), tự chịu trách nhiệm đối với các tổ chức

KH&CN của Nhà nước hoạt động nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược và

chính sách, nghiên cứu các lĩnh vực KH&CN trọng điểm.

99

Bốn là, phát huy chức năng và nâng cao hiệu quả nghiên cứu KH&CN của

các trường đại học. Thực hiện đánh giá định kỳ đối với tổ chức KH&CN sử dụng

kinh phí từ ngân sách nhà nước.

3.2.2. Nhận chuyển giao hàng hóa công nghệ hiện đại từ các nước tiên

tiến - nhóm giải pháp ngoại sinh hóa - để tăng cung cho thị trường công nghệ.

Thứ nhất: Thực hiện ngoại sinh hóa để tăng cung hàng hóa công nghệ là

rất cần thiết đối với TTCN ở một nước đang phát triển thấp như nước ta.

Nội sinh hóa hàng hóa KH&CN cho TTCN như đã phân tích ở nhóm giải

pháp thứ nhất, mặc dù là cơ bản cấp thiết không thể có giải pháp nào thay thế

được nếu nước ta muốn độc lập tự chủ. Tuy nhiên, trong điều kiện cách mạng

KH&CN hiện đại, toàn cầu hóa và HNKTQT mở ra cơ hội cho phép các nước đi

sau có thể rút ngắn khoảng cách tụt hậu bằng giải pháp ngoại sinh hóa KH&CN.

Nhóm giải pháp này bắt nguồn từ những yêu cầu khách quan sau đây: Do sự

nghiệp CNH- HĐH nước ta tiến hành với điểm xuất phát thấp nông nghiệp sản

xuất nhỏ lạc hậu, nên khoảng cách tụt hậu giữa nước ta với các nước quá xa,

muốn rút ngắn khoảng cách, phải tiến hành CNH theo con đường phát triển rút

ngắn. Và theo đó bên cạnh việc thực hiện nội sinh hóa KH&CN, không thể

không thực hiện ngoại sinh hóa KH&CN thông qua nhận chuyển giao hàng hóa

KH&CN hiện đại từ các nước tiên tiến. Hơn nữa, dưới tác động của cuộc cách

mạng KH&CN hiện đại, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra cơ

hội để nước ta thực hiện giải pháp ngoại sinh hóa KH&CN.

Thứ hai: Thực chất và nguồn vốn của việc nhận chuyển giao hàng hóa

KH&CN.

Nhận chuyển giao hàng hóa KH&CN là việc mua bán hay chuyển giao

quyền sở hữu và quyền sử dụng hàng hóa KH&CN giữa nước ta với các nước

100

tiên tiến. Giải pháp chuyển giao hàng hóa KH&CN có thể thực hiện thông qua

tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế hoặc vay vốn tín dụng nước ngoài dùng nó để

nhập khẩu (mua bán) hàng hóa công nghệ. Nó cũng có thể thông qua thu hút

nguồn vốn FDI để nhập khẩu hàng hóa công nghệ.

Kinh nghiệm các nước công nghiệp mới cho thấy để có nhiều hàng hóa

công nghệ lưu thông trên TTCN, thời kỳ đầu của CNH- HĐH, nhà nước các

nước này thường coi trọng việc thực hiện ngoại sinh hóa KH &CN dưới hình

thái hàng hóa. Bằng nhiều loại vốn khác nhau nhà nước tạo điểu kiện cho nhập

khẩu để có nhiều hàng hóa công nghệ, nhất là hàng hóa công nghệ hiện đại mà

nước ta chưa có khả năng nội sinh hóa, coi đó là giải pháp rất quan trọng để

nhanh chóng phát triển TTCN.

Thứ ba: Hướng nhập khẩu hàng hóa công nghệ cho TTCN ở nước ta.

Trong 2 thập niên đầu thế kỷ XXI việc nâng cấp công nghệ cho các ngành

ở nước ta vẫn dựa chủ yếu vào nhập khẩu hàng hóa công nghệ lưu thông trên

TTCN qua nhiều kênh, đặc biệt coi trọng việc chọn các kênh về hàng hóa công

nghệ sản xuất tư liệu sản xuất và 4 công nghệ mũi nhọn, đó là:

- Công nghệ thông tin truyền thông, truyền hình, công nghệ phần mềm: Cơ

sở dữ liệu, công nghệ nội dung, công nghệ đa phương tiện, hệ thống thông tin địa

lý, đồ hoạ, phát triển phần mềm trên môi trường mạng, các giải pháp “quản lý

nguồn nhân lực của các tổ chức”, phần mềm nguồn mở, qui trình sản xuất phần

mềm, qui trình đánh giá, kiểm chứng và nâng cao chất lượng phần mềm, thiết kế,

xây dựng các hệ thống tin học ứng dụng. Trong công tác quản lý nhà nước từ

Trung ương đến địa phương, cần chú trọng xây dựng các hệ thống thông tin và

cơ sở dữ liệu phục vụ hoạt động quản lý nhà nước, xây dựng chính phủ điện tử.

Trong các lĩnh vực kinh tế - kỹ thuật đòi hỏi phải sớm tương hợp với trình độ

101

khu vực và quốc tế như: bưu điện, ngân hàng, tài chính, du lịch, thương mại, đặc

biệt là thương mại điện tử; trong các lĩnh vực năng lượng, giao thông vận tải,

quốc phòng, an ninh, v.v… Thực hiện các dự án tin học hoá và dịch vụ công

nghệ thông tin truyền thông trong các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông

tin truyền thông trong giáo dục - đào tạo từ phổ thông trung học đến đại học; ứng

dụng công nghệ thông tin truyền thông trong nghiên cứu khoa học, trong các

hoạt động điều tra, thăm dò, khảo sát tài nguyên và theo dõi biến động môi

trường, trong các lĩnh vực y tế, văn hoá, du lịch. Đưa công nghiệp công nghệ

thông tin truyền thông trở công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ

vật liệu mới được nhập khẩu đối với một số vật liệu mới, công nghệ tự động hoá

nhập khẩu một số hệ thống điều khiển phức tạp thành một ngành công nghiệp có

tốc độ tăng trưởng nhanh, đạt kim ngạch xuất khẩu cao.

- Công nghệ sinh học

Xây dựng và phát triển các công nghệ nền của công nghệ sinh học đạt

trình độ tiên tiến trong khu vực, gồm: Công nghệ gen, công nghệ vi sinh định

hướng công nghiệp, công nghệ enzyme - protein phục vụ phát triển công nghiệp

thực phẩm, dược phẩm, công nghệ tế bào (thực và động vật) phục vụ chọn, tạo

giống mới trong nông lâm thuỷ sản và phát triển liệu pháp tế bào trong y tế, công

nghiệp sinh học về môi trường, công nghiệp sinh học ứng dụng trong công

nghiệp chế biến sản phẩm từ dầu khí.

102

- Công nghệ vật liệu tiên tiến

Trong thời gian tới, tập trung nghiên cứu, phát triển và ứng dụng có hiệu

quả các hướng công nghệ sau: Công nghệ vật liệu kim loại, công nghệ sản xuất

các compozit nền kim loại sử dụng trong kỹ thuật điện, điện tử và y - sinh, công

nghệ vật liệu polime và com pozit, công nghệ vật liệu điện tử và quang tử tử

phục vụ cho lĩnh vực viễn thông tự động hoá, sản xuất vật liệu từ tính cao cấp

dạng khối, màng vô định hình và nano ứng dụng trong công nghiệp khai thác,

công nghiệp điện, điện tử và tự động hoá, sản xuất vật liệu và linh kiện cảm biến

ứng dụng trong đo lường và tự động hoá, công nghệ vật liệu y - sinh, công nghệ

vật liệu nano.

- Công nghệ tự động hoá và cơ điện tử

Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tự động hoá, cơ điện tử nhằm nâng

cao chất lượng, hiệu quả sản xuất, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của

các doanh nghiệp và nền kinh tế về ứng dụng công nghệ tự động hoá tích hợp

toàn diện nhằm nâng cao hiệu quả cho toàn bộ quá trình sản xuất của doanh

nghiệp, ứng dụng rộng rãi công nghệ tự động hoá đo lường và xử lý thông tin

phục vụ các ngành sản xuất, dự báo thời tiết và thiên tai, bảo vệ môi trường,

nghiên cứu ứng dụng và phát triển kỹ thuật rô bốt (đặc biệt là rô bốt thông minh

và rô bốt song song), ưu tiên áp dụng trong những công đoạn sản xuất không an

toàn cho con người, trong môi trường độc hại, trong một số dây truyền công

nghiệp công nghệ cao và phục vụ quốc phòng, an ninh, nghiên cứu, chế tạo một

số sản phẩm cơ điện tử, đặc biệt trong một số lĩnh vực cơ khí trọng điểm (máy

công cụ, máy động lực, thiết bị điện - điện tử, cơ khí ô tô và các thiết bị đo lường

điều khiển); ứng dụng và phát triển công nghệ thiết kế, chế tạo các hệ điều khiển

cơ điện tử (bao gồm cả phần cứng và phần mềm), đặc biệt các hệ điều khiển

103

nhúng, ưu tiên phát triển các phần mềm ứng dụng và các giải pháp thiết kế, phát

triển kỹ thuật mô phỏng, đặc biệt là công nghệ tạo mẫu ảo, nhằm tối ưu hoá các

sản phẩm công nghệ cao ứng dụng trong các lĩnh vực: Rô bốt, đóng tàu, ô tô,

máy chính xác, thiết bị cho năng lượng gió v.v…

Khi thực hiện giải pháp này cần lưu ý rằng ở nước ta việc chuyển giao

công nghệ thường thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài là chủ yếu. Nhờ đó tạo

ra nhiều sản phẩm kỹ thuật cao đã được sản xuất và xuất khẩu. Tuy nhiên, trong

quá trình tiếp thu khoa học công nghệ từ các nước tiên tiến Việt Nam cũng như

nhiều nước đang phát triển đang lo ngại bị biến thành bãi thải công nghệ cho các

nước phát triển, đặc biệt là những thiết bị đã qua sử dụng. Một nghiên cứu mới

đây về chất lượng công nghệ chuyển giao vào Việt Nam cho thấy, trên 727 thiết

bị và 3 dây chuyền sản xuất nhập khẩu trong 42 xí nghiệp có FDI thì có 76%

thiết bị được sản xuất từ những năm 1950 - 1960, 50% là các máy móc đã qua sử

dụng. Những con số đó cho thấy chất lượng thấp của công nghệ nhập khẩu. Có

nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu là thời gian qua Việt Nam chưa

thu hút được nhiều các tập đoàn xuyên quốc gia có trình độ kỹ thuật và công

nghệ cao.

Thứ tư: Coi trọng việc thu hút chuyên gia nước ngoài phục vụ việc ứng

dụng và phát triển KH&CN.

Đi đôi với việc nhập khẩu hàng hóa công nghệ hiện đại, cần thu hút

chuyên gia nước ngoài để nghiên cứu và triển khai, đào tạo và hướng dẫn ứng

dụng những thành quả KH&CN hiện đại nhanh chóng vào sản xuất kinh doanh.

Muốn vậy Nhà nước cần:

- Ban hành chính sách thu hút chuyên gia giỏi (bao gồm người Việt Nam ở

nước ngoài và người nước ngoài) tới Việt Nam.

104

- Xác định rõ chức năng mà họ sẽ tham gia như: đào tạo cán bộ nghiên

cứu, giảng dạy, tư vấn, giữ những chức vụ quản lý việc nghiên cứu KH&CN.

- Có thái độ tôn trọng và chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với các chuyên gia.

Những tư tưởng của VI. Lênin trong tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của

Chính quyên Xô Viết” khi đề cập đến vai trò của chuyên gia sẽ giúp ta hiểu sâu

hơn vấn đề này. V.I.Lêin kêu gọi “phải học tập chuyên gia”, “phải trả cho

chuyên gia một cống vật rất hậu”, vì theo Người là để “đổi đốt nát lấy văn

minh”.v.v… [35].

3.2.3. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các điều kiện, chính sách và cơ chế

thúc đẩy việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ

Thị trường công nghệ là một bộ phận không thể thiếu được của nền kinh

tế, có vai trò to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển TTCN là một

trong những trọng tâm của chiến lược phát triển KH&CN và đảm bảo tính đồng

bộ giữa các loại thị trương trng nền KTTT định hương XHCN ở nước ta. Nó đòi

hỏi, cần được nhà nước tăng cường vai trò “bà đỡ” của mình trong thời gian tới:

Thứ nhất: Nhà nước sớm tạo các điều kiện cần thiết cho sự hình thành và

phát triển TTCN.

Để TTCN hình thành và phát triển, lý luận và thực tiễn kinh nghiệm nước

ngoài và trong nước cho thấy cần có các điều kiện sau đây:

- Phải có hệ thống luật pháp, pháp quy tương đối đầy đủ về đăng ký công

nhận thành quả (sản phẩm) KH&CN, về biện pháp thúc đẩy thương mại hóa sản

phẩm KH&CN, các văn bản pháp lý về hợp đồng công nghệ, về sở hữu trí tuệ

.v.v…

105

- Không thể không có các cơ quan quản lý TTCN từ trung ương đến địa

phương, có mạng lưới liên kết giữa các cơ quan quản lý TTCN với các mạng

giao dịch công nghệ, hiệp hội TTCN, tài chính, thuế vụ…

- Nhất thiết phải có các tổ chức và cán bộ nhân viên hoạt động dịch vụ

thông tin hỗ trợ TTCN, dịch vụ trung gian trong đó có môi giới công nghệ, đánh

giá quyền sở hữu hàng hóa công nghệ.

- Cần phải có các hình thức tổ chức và địa điểm chuyển giao công nghệ,

mua bán hàng hóa công nghệ.

Thứ hai: Gắn kết việc đổi mới cơ chế, chính sách kinh tế, xã hội với thúc

đẩy tiến bộ KH&CN và ứng dụng thành tựu KH&CN vào sản xuất và đời sống.

- Trên cơ sở những Luật pháp đã có như Luật KH&CN, Luật Sở hữu trí

tuệ, Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, Luật Giáo dục…, cần xây dựng

chương trình liên kết giữa KH&CN với đào tạo và sản xuất kinh doanh để hỗ trợ

doanh nghiệp nâng cao năng lực quản lý, hiện đại hóa, đổi mới công nghệ, nâng

cao năng lực cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế từ đó tăng cầu về hàng hóa

công nghệ trên TTCN.

- Thực hiện lấy ý kiến phản biện của các nhà khoa học đối với chủ trương,

chính sách, các dự án đầu tư, chương trình phát triển kinh tế xã hội. Xây dựng cơ

chế lồng ghép các nhiệm vụ KH&CN với các dự án đầu tư, với chương trình

phát triển kinh tế - xã hội.

- Cải cách mạnh mẽ doanh nghiệp nhà nước theo hướng đẩy mạnh cổ phần

hóa, không áp dụng biện pháp khoanh nợ, dãn nợ đối với doanh nghiệp. Tạo môi

trường cạnh tranh bình đẳng nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm thực sự

đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và xem xét khi lựa chọn công nghệ ứng dụng.

106

Thứ ba: Nâng cao chất lượng và khả năng thương mại hóa các sản phẩm

KH&CN.

- Nhà nước sớm ban hành Luật chuyển giao công nghệ làm cơ sở pháp lý

cho việc thực hiện thương mại hóa sản phẩm công nghệ.

-Cần dành một tỷ lệ thích đáng kinh phí từ ngân sách nhà nước cho việc

hoàn thiện sản phẩm nghiên cứu có khả năng thương mại hóa cung ứng cho

TTCN.

- Đổi mới cơ chế tài chính đối với phát triển KH&CN nói chung và đối với

TTCN nói riêng theo hướng chuyển các tổ chức nghiên cứu KH&CN thành

ngành công nghiệp mà sản phẩm của nó là hàng hóa vận động theo cơ chế thị

trường (trừ khoa học cơ bản, khoa học gắn với đường lối, chính sách, quốc

phòng an ninh áp dụng theo cơ chế), xác định đúng đắn cơ cấu sử dụng quỹ tích

lũy phát triển sản xuất của các doanh nghiệp theo hướng ưu tiên ứng dụng và đổi

mới công nghệ và đào tạo đội ngũ sử dụng công nghệ mới được ứng dụng, nhà

nước tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tham gia TTCN tiếp cận được các nguồn

vốn tín dụng trong nước và nước ngoại đầu tư cho phát triển TTCN trong thới

gian tới ở nước ta.

- Ban hành các chính sách về kiểm soát độc quyền, giải thể, phá sản doanh

nghiệp đồng thời đẩy nhanh quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế tạo sức

ép thúc đẩy các doanh nghiệp ứng dụng các thành tựu KH&CN, đổi mới mặt

hàng và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa trong các doanh nghiệp

thuộc các thành phần kinh tế.

Thứ tư: Nhà nước sớm hình thành các tố chức và các hình thức hoạt động

dịch vụ trung gian mối giới mua bán, chuyển giao công nghệ cho TTCN.

107

Trong thời gian tới, trên cơ sở vận dụng các luật pháp đã có, cần nhanh

chóng hình thành các tổ chức và theo đó là đội ngũ cán bộ của các tổ chức như:

Một là, hình thành một mạng lưới tổ chức quản lý TTCN từ Trung ương

đến địa phương.

Tổ chức quản lý TTCN là đơn vị sự nghiệp đặt tại Bộ KH&CN (cấp Trung

ương) và các Sở KH&CN địa phương (cấp địa phương), không hình thành tổ

chức quản lý TTCN ở các bộ, ngành. Trên cơ sở tổng kết thí điểm tổ chức quản

lý TTCN ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh rút kinh nghiệm để nhân rộng ở

những tỉnh, thành phố khác trong cả nước thời gian tới.

Hai là, hình thành các tổ chức trung gian mối giới như:

+ Tổ chức tư vấn giám định về chất lượng và giá cả của hàng hóa công

nghệ trước khi chuyển giao hoặc bán cho người sản xuất.

+ Hình thành các tổ chức môi giới công nghệ, tư vấn chuyển giao công

nghệ, các tổ chức cung cấp thông tin TTCN.

+ Hình thành các tổ chức xúc tiến TTCN. Để hỗ trợ việc quản lý, xúc tiến,

giới thiệu thành quả KH&CN trong nước, khu vực và thế giới, cần xây dựng

trang Web riêng cho TTCN và áp dụng công nghệ, tăng cường công tác thông tin

về TTCN.

Ba là, tạo ra nhiều hình thức hoạt động chuyển giao, mua bán hàng hóa

công nghệ.

- Nhà nước sớm tổng kết các hình thức đã có rút kinh nghiệm để nhân

rộng trên phạm vi cả nước. Đó là những hình thức như: Chợ công nghệ và thiết

bị “thực”, chợ công nghệ và thiết bị “ảo”, hội chợ triển lãm thành quả KH&CN

định kỳ…

108

- Đồng thời sáng tạo những hình thức mới có hiệu quả hơn để áp dụng

rộng rãi trong thời gian tới ở các khu vực, các tỉnh, thành phố lớn (Hà Nội, thành

phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng...) hình thức tổ chức Trung tâm giao

dịch công nghệ quốc gia.

Tại Trung tâm giao dịch công nghệ quốc gia này sẽ lần lượt giới thiệu

định kỳ các công nghệ và thiết bị có tính chất tiêu biểu, mang tính lan tỏa. Tùy

theo nhu cầu, Trung tâm có thể tổ chức các hội nghị tư vấn cho doanh nghiệp,

chẳng hạn về lựa chọn công nghệ thích hợp, vấn đề vượt qua rào cản kỹ thuật

trong thương mại, vấn đề sở hữu trị tuệ, xây dựng và phát triển thương hiệu.

- Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, ngoài các hình

thức chợ công nghệ - thiết bị, Trung tâm giao dịch công nghệ và hội chợ triển

lãm KH&CN nội địa, cần tổ chức các hình thức Hội chợ triển lãm KH&CN nước

ngoài tại Việt Nam.

Kinh nghiệm của các nước, nhất là Trung Quốc và Hàn Quốc, tùy theo

từng thời kỳ mà Nhà nước có thể khuyến khích cung hay cầu. Ở Hàn Quốc, để

khuyến khích cầu, người mua công nghệ nội sinh được nhà nước hỗ trợ không

quá 30% tổng giá trị hợp đồng. Bằng chính sách này họ đã hỗ trợ cho cả 2 bên

cung và cầu.

Thông qua các hình thức phong phú và đa dạng nói trên Việt Nam có thể

khuyến khích cầu, có cầu lập tức có cung đáp ứng và buộc cung phải đổi mới

phát triển và hoàn thiện để đáp ứng cầu ngày một tốt hơn [15]. Bằng cách đó góp

phần tăng tiềm lực KH&CN đất nước, rút ngắn khoảng cách tụt hậu, nâng cao

năng lực cạnh tranh hàng hóa, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền

kinh tế so với khu vực và thế giới, góp phần thúc đẩy CNH, HĐH, tăng trưởng

và phát triển kinh tế bền vững trong thời gian tới ở nước ta.

109

Thứ năm: Hoàn thiện và nâng cao hiệu lực của pháp luật về sở hữu trí tuệ

và chuyển giao công nghệ:

- Hoàn thiện hệ thống pháp luật cho thị trường công nghệ. Rà soát, bổ

sung, sửa đổi và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành liên quan

đến sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ. Triển khai và tổ chức thực hiện

trong thực tế Luật KH&CN và Luật sở hữu trí tuệ đã có trong mối quan hệ với

các luật khác có liên quan.

- Sớm ban hành Luật về chuyển giao công nghệ. Trong đó quy định rõ cơ

chế khuyến khích chuyển giao kết quả nghiên cứu có sử dụng kinh phí từ ngân

sách nhà nước theo hướng giao quyền sử dụng cho tổ chức thực hiện nghiên cứu

trong một thời gian hợp lý để khai thác, thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Quy

định rõ về thời hạn sử dụng, nghĩa vụ và lợi ích của tổ chức, cá nhân được trao

quyền sử dụng, đặc biệt khi kết quả nghiên cứu có giá trị kinh tế xã hội lớn. Sau

thời hạn quy định, nếu kết quả nghiên cứu không được áp dụng vào thực tiễn

hoặc thương mại hóa, cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ có

thẩm quyền sử dụng dưới dạng hàng hóa, dịch vụ công, thể chế hóa việc các tổ

chức và cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ góp vốn cho doanh nghiệp

bằng bản quyền đối với kết quả nghiên cứu hoặc các hình thức sở hữu trí tuệ

khác.

- Các cơ quan quản lý khoa học và công nghệ hỗ trợ các tổ chức, cá nhân

người Việt Nam về thủ tục, lệ phí đăng ký bằng phát minh sáng chế, giải pháp

hữu ích đối với các kết quả nghiên cứu KH&CN ở trong nước và bảo hộ ở nước

ngoài, thành lập các văn phòng tư vấn hỗ trợ về đăng ký và thực thi quyền sở

hữu trí tuệ tại các tổ chức khoa học và công nghệ có năng lực về nghiên cứu

khoa học và phát triển công nghệ.

110

- Tuyên truyền phổ biến rộng rãi pháp luật về sở hữu trí tuệ cho các tổ

chức, cá nhân hoạt động KH&CN và trong nhân dân. Quy định khung khen

thưởng và hình phạt có hiệu lực trong thực tế để ngăn chặn và xử lý nghiêm

minh các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong thời gian tới ở nước ta.

111

KẾT LUẬN

1. Trong nền kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập, những sản phẩm do

các tổ chức KH&CN nghiên cứu sản xuất ra vừa có giá trị sử dụng đối với người

sử dụng vừa có sự hao phí lao động của các nhà khoa học kết tinh trong quá trình

sản xuất. Các tổ chức KH&CN này tồn tại với tư cách là một ngành công nghiệp

và sản phẩm của nó một khi mang đầy đủ 2 thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị

thì như C.Mác nói mặc nhiên trở thành hàng hóa nói chung, hàng hóa công nghệ

nói riêng và được lưu thông trên TTCN.

2. TTCN vận động trong sự phát triển đồng bộ với các loại thị trường khác

trong nền KTTT định hướng XHCN, cạnh tranh và hội nhập kinh tế khu vực và

quốc tế là một tất yếu khách quan. TTCN có vai trò rất quan trọng đối với sự

nghiệp CNH - HĐH, tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững hiện nay, nhất là

khi nước ta đang trước thềm gia nhập WTO.

3. Việt Nam là một nước đang phát triển, KTTT còn ở trình độ sơ khai,

các loại thị trường còn thiếu, thấp kém và chưa đồng bộ, năng lực cạnh tranh

thấp xa so với thế giới, trong đó có TTCN. Trong bối cảnh đó vai trò nhà nước

có tầm quan trọng đặc biệt trong việc hình thành và phát triển TTCN cần được

tăng cường ở nước ta hiện nay. Nội dung vai trò của nhà nước trong việc hình

thành và phát triển TTCN có nhiều, nhưng có thể khái quát thành 3 nội dung chủ

yếu như:

- Tạo môi trường pháp lý cho việc hình thành và phát triển TTCN.

- Ban hành khung pháp lý về tổ chức hoạt động trên TTCN.

- Thực hiện quản lý vĩ mô có hiệu quả TTCN.

4. Trung Quốc có nhiều nét tương đồng với nước ta, lại thực hiện cải cách

nền kinh tế sớm có nhiều kinh nghiệm. Do vậy thông qua tổng quan với tinh thần

112

“gạn đục khơi trong”, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm chung, tham khảo

và vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện lịch sử cụ thể nước ta là rất cần

thiết cần được coi trọng.

5. Thông qua khảo sát tình hình và số liệu thực tế về KH&CN và TTCN,

luận văn cho rằng: Về KH&CN qua 20 năm đổi mới (1986 - 2005) đã đạt được

những thành tựu đáng tự hào, nhưng trình độ công nghệ nước ta nói chung chưa

cao, quản lý KH&CN chưa đáp ứng yêu cầu của đổi mới, và so với thế giới ở

diện trung bình yếu, về TTCN nước ta còn rất mới, đang trong quá trình hình

thành, sơ khai. Lượng giao dịch hàng hóa công nghệ chủ yếu giữa các đối tác

trong nước với nước ngoài trên TTCN còn rất ít, đơn điệu và mang tính tự phát.

6. Đề tài tập trung phân tích thực trạng vai trò nhà nước trong việc tạo môi

trường luật pháp, khung tổ chức và môi trường quản lý vĩ mô cho việc hình

thành và phát triển TTCN. Từ đó, đưa ra những đánh giá chung về thành tựu,

yếu kém và nguyên nhân, cùng những vấn đề bức xúc cần đặt ra để giải quyết

trong thời gian tới. Đó là các vấn đề: Luật pháp còn bất cập. Chính sách

KH&CN chưa đồng bộ và cụ thể. Vai trò quản lý vĩ mô đối với TTCN. Vấn đề

đổi mới, bổ sung và hoàn thiện các chính sách vê TTCN. Vấn đề đầu tư vốn và

cơ chế tài chính mới. Vấn đề triển khai ứng dụng và mở rộng các hình thức

chuyển giao công nghệ trên TTCN.

7. Luận văn đã đưa ra những dự báo bối cảnh thế giới và bối cảnh trong

nước liên quan đền sự phát triển KH&CN và TTCN trong giai đoạn 2006 - 2010

và tầm nhìn đến năm 2020. Trên cơ sở đó luận văn đưa ra và phân tích các quan

điểm tăng cương vai trò nhà nước trong việc hình thành và phát triển TTCN là:

Gắn việc tăng cường vai trò Nhà nước đối với việc hình thành và phát triển

TTCN với việc phát triển KH&CN và giáo dục đào tạo coi nó là động lực, nền

113

tảng và quốc sách hàng đầu nhằm đẩy mạnh sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.

Tăng cường vai trò nhà nước trong việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện

chứng giữa phát triển TTCN với phát triển KH&CN, hội nhập kinh tế quốc tế,

tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng và an ninh, tăng

cường vai trò nhà nước trong việc ban hành chính sách, cơ chế khuyến khích tiếp

thu và ứng dụng thành tựu KH&CN thế giới; đồng thời phát huy năng lực

KH&CN nội sinh, thông qua TTCN để nâng cao hiệu quả sử dụng tiềm lực

KH&CN của đất nước, tăng cường vai trò nhà nước đối với TTCN theo hướng

tập trung đầu tư của nhà nước vào việc tăng tiềm lực KH&CN ở các lĩnh vực

trọng điểm, ưu tiên, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động KH&CN thông

qua các hình thức và tổ chức dịch vụ hoạt động theo cơ chế thị trường trên

TTCN.

8. Quán triệt các quan điểm chi đạo nói trên vào việc thực thực hiện 4 mục

tiêu phát triển KH&CN, và TTCN như: Bảo đảm cung cấp luận cứ khoa học về

con đường công nghiệp hoá rút ngắn, phát triển bền vững theo định hướng

XHCN, củng cố và tăng cường quốc phòng - an ninh, hội nhập thành công vào

nền kinh tế thế giới và khu vực; KH&CN và TTCN phải góp phần quyết định

nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta

với thế giới và khu vực, xây dựng và phát triển năng lực KH&CN đạt trình độ

trung bình tiên tiến trong khu vực, xây dựng và phát triển TTCN đưa TTCN

nước ta phát triển nhanh về số lượng và chất lượng.

9. Tăng cường vai trò nhà nước theo quan điểm và mục tiêu được xác

định, luận văn tiếp cận qua 3 nhóm giải pháp cơ bản sau: Đẩy mạnh nghiên cứu

cứu khoa học và công nghệ - nội sinh hóa nguồn cung ứng hàng hóa công nghệ -

nhóm giải pháp tăng cung cho TTCN. Nhận chuyển giao hàng hóa KH&CN hiện

đại từ các nước tiên tiến - giải pháp ngoại sinh hóa- để tăng cung hàng hóa công

114

nghệ cho TTCN. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các điều kiện, chính sách và cơ

chế thúc đẩy việc hình thành và phát triển TTCN.

10. Các nhóm giải pháp trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhâu trong đó,

nhóm giải pháp thứ nhất nhằm tăng cung cho TTCN bằng con đường nội sinh

hóa, nhón giải pháp 2 nhằm tăng cung cho TTCN bằng con đường ngoại sinh

hóa và nhóm giải pháp thư ba gắn với tăng cường vai trò nhà nước về môi

trường vĩ mô - cái đảm bảo mang tính khả thi - cho việc hình thành và phát triển

nhanh với chất lượng cao TTCN nước ta trước thềm WTO và hậu WTO.

115

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo nhân dân điện tử (3/8/2006), “Dự báo kinh tế Việt Nam và thế giới”.

2. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường (2000), Tầm nhìn Việt Nam -

2020, NXB Hà Nội.

3. Bộ Khoa học và Công nghệ và Môi trường (2003), Chiến lược phát triển

KH&CN Việt Nam đến năm 2010, ban hành kèm theo Quyết định số

272/2003/QĐ-TTg.

4. Bộ Khoa học và Công nghệ và Môi trường (2004), Đề án đổi mới cơ chế

quản lý khoa học và công nghệ, ban hành kèm theo Quyết định số

171/2004/QĐ-TTg.

5. Bộ Khoa học và Công nghệ và Môi trường (2006), Một số kết quả hoạt

động KH&CN giai đoạn 2001-2005, Văn phòng Bộ KH&CN.

6. Bộ Khoa học và Công nghệ và Môi trường (18/7/2006), “Đổi mới, phát

triển mạnh mẽ hoat động KH&CN”, Báo Nhân dân điện tử.

7. Bộ Khoa học và Công nghệ và Môi trường (15/8/2006), “Công nghệ

Thông tin Việt Nam 2005-2006: tiếp tục tăng trưởngở mức cao”, Báo Sài

Gòn giải phóng.

8. Nguyễn Thị Cành (2004), Các mô hình tăng trưởng và dự báo kinh tế -

NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

9. Vũ Huy Chương (2002), Vấn đế tạo nguồn lực tiến hành công nghiệp

hoá, hiện đại hoá. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Chương trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước (2005), Báo cáo tổng

hợp xu thế toàn cầu hóa trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, Đề tài KX

08.01 do GS.TS. Lê Hữu Nghĩa làm chủ nhiệm đề tài.

116

11. Phan Xuân Dũng (2004), Chuyển giao công nghệ ở Việt Nam, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Dự án hoàn thiện môi trường kinh doanh VIE/97/016 (2001), Các vấn đề

pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh

doanh, NXB Giao thông vận tải, Hà Nội.

13. Dự án hỗ trợ tổng kết 20 năm đổi mới ở Việt Nam (2006), Tiếp tục điều

chỉnh chức năng quản lý của nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển

kinh tế thị trường định hướng XHCN và tích cực chủ động hội nhập kinh

tế quốc tế của Việt Nam do GS.TS. Nguyễn Văn Thường, Trường Đại

học kinh tế quốc dân làm chủ nhiệm đề tài.

14. Dự án hỗ trợ tổng kết 20 năm đổi mới ở Việt Nam (2005), Cải cách

chính sách công nghiệp của Việt Nam để tăng cường sức cạnh tranh của

nền kinh tế, Viện Nghiên cứu Chiến lược chính sách công nghiệp Hà Nội

chủ trì.

15. Lê Đăng Doanh (2/3/2006), “Đổi mới cơ chế quản lý khoa học, tăng

cung cho thị trường công nghệ”, Báo Nhân dân điện tử.

16. Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện đại hội Đảng lần thứ IX, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết 07 của Bộ chính trị về chủ

động hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận

- thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), NXB Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

19. Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện hội nghị Trung ương 3 và 5

khoá IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

117

20. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội Đảng X, NXB Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

21. Vũ Xuân Đào (9/1996), Các giải pháp kiểm soát độc quyền và chống

cạnh tranh không lành mạnh trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế ở

Việt Nam, Chương trình VNRP, Hà Nội.

22. Lê Huy Đoàn (2001), “Toàn cầu hoá đối với các nước đang phát triển”,

Tạp chí Kinh tế và phát triển, (45), tr.12-13.

23. Đại học Quốc gia Hà Nội (2005), Việt Nam - Những thách thức trong

tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

24. Đại học quốc gia Hà Nội (2004), Đổi mới ở Việt Nam tiến trình thành

tựu và kinh nghiệm, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

25. Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh (2004), Kinh nghiệm hội nhập

kinh tế quốc tế của một số nước trong khu vực và những bài học đối với

Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.

26. Bùi Hà (1993), "Đặc trưng và phương hướng xử lý vấn đề độc quyền ở

Việt Nam", Thông tin và lý luận, (1), tr.37-41.

27. Vũ Văn Hiền (2005), Việt Nam tiến bước cùng thời đại, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

28. Trần Công Hưng (9/8/2006), Thúc đẩy phát triển thị trường công nghệ,

Báo Nhân dân điện tử.

29. Nguyễn Đình Hương (2003), Hoàn thiện mô hình thể chế phát triển đồng

bộ các loại thị trường, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Vũ Minh Khương (1999), "Nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh quốc tế của

nền kinh tế nước ta", Nghiên cứu kinh tế, (254), tr.23-32.

31. Mai hữu Khuê (2003), Lý luận quản lý nhà nước, NXB Hà Nội.

118

32. Phạm Ngọc Kiểm (2002), "Về vai trò của kinh tế tư nhân đối với quá

trình phát triển kinh tế của nước ta", Tạp chí Kinh tế và phát triển,

Trường Đại học Kinh tế quốc dân, (57), tr.3-6.

33. Hồ Ngọc Luật (8/2006), “Hướng phát triển thị trường khoa học và công

nghệ ở nước ta”, Tạp chí Cộng sản, (15).

34. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 1, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.

35. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 36, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.

36. Mác - Ănghen (1994), Toàn tập, tập 23, NXB Sự thật, Hà Nội, tr.61.

37. N.GREGORY MANKIW - GS kinh tế học Trường Đại học tổng hợp HA

RVARD (Sách dịch 2003), Nguyên lý kinh tế học, tập 1, NXB Thống kê

và Khoa Kinh tế học Trường Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội.

38. N.GREGORY MANKIW- GS kinh tế học Trương Đại học tổng hợp HA

RVARD (Sách dịch 2003), Nguyên lý kinh tế học, tập 2, NXB Thống kê

và Khoa Kinh tế học Trường Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội.

39. Nguyễn Thiện Nhân (1998), "Cạnh tranh kinh tế động lực phát triển và

hiệ quả của nó", Tạp chí Kinh tế phát triển.

40. Nguyễn Thiện Nhân (12/2004), “Phát triển và khai thác thị trường khoa

học - công nghệ bước đột phá để phát huy tiềm lực khoa học - công nghệ

thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Phát triển kinh tế.

41. Phan Thanh Phố (1994), Khoa học công nghệ và kinh tế thị trường ở Việt

Nam, NXB Thống kê, Hà Nội.

42. Phan Thanh Phố (2000), Kinh tế và đổi mới kinh tế, NXB Giáo dục, Hà

Nội.

43. Phan Thanh Phố (2005), Việt Nam với tiến trình gia nhập Tổ chức

thương mại thế giới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

119

44. Nguyên Phương (6/2004), “Phương châm phát triển thị trường khoa học

và công nghệ ở Việt Nam”, Thông tin Khoa học Kỹ thuật.

45. Nguyễn Trần Quế (1995), Cạnh tranh kinh tế quốc tế và sự tác động tới

Việt Nam" trong cuốn sách Chiến lược cạnh tranh trên thị trường quốc

tế.

46. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Đầu

tư, tại kỳ họp thứ 10 khóa X.

47. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật doanh

nghiệp, tại kỳ họp thứ 10 khóa X.

48. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000), Luật khoa

học và công nghệ, tại kỳ họp thứ 7 khóa X.

49. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000), Luật Sở hữu

trí tuệ, tại kỳ họp thứ 10 khóa X.

50. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000), Luật Tiêu

chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, tại kỳ họp thứ 10 khóa X.

51. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Kinh

nghiệm quản lý và phát triển TTCN các nước trên thế giới, Kỷ yếu hội

thảo khoa học ngày 31/7/ 2006.

52. Tổng cục Thống kê (2006), Niên giám thống kê 2005, NXB Thống kê,

Hà Nội.

53. Hoàng Công Thi (1993), “Phá sản và xử lý phá sản ở các nước và Việt

Nam", Bộ Tài Chính - Thông tin chuyên đề.

54. Phạm Thị Ngọc Trầm (2003), Khoa học công nghệ với nhận thức biến

đổi thế giới và con người, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

120

55. Phương Ngọc Thạch (10/1991), “Khoa học và công nghệ dưới góc độ

kinh tế thị trường”, Tạp chí Phát triển kinh tế.

56. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2003), Nền kinh tế tri thức

- Kinh nghiệm của các nước phát triển và đang phát triển, NXB Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

57. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương và Chương trình phát triển

Liên Hợp Quốc (2004), Phát triển thị trường khoa học và công nghệ ở

Việt Nam, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.

121