ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ----------------
PHẠM THỊ HƯƠNG
VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
HÀ NỘI – 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ----------------
PHẠM THỊ HƯƠNG
VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM VĂN DŨNG
HÀ NỘI – 2012
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH
NGHIỆM QUỐC TẾ ............................................................................................................... 9
1.1.
PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG KHOA HỌC- CÔNG NGHỆ ................. 9
1.1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN .................................................................... 9
1.1.2. NỘI DUNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG KHOA HỌC-CÔNG NGHỆ .. 21
1.1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ ..................................................... 28
1.2.
VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ ....................................................................... 33
1.2.1. TÍNH TẤT YẾU CỦA VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ ............................................. 33
1.2.2. CÁC CHỨC NĂNG CHỦ YẾU CỦA NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT
TRIỂN THỊ TRƯỜNG KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ. ................................ 34
1.3. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ NHÀ
NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG KHOA HỌC -
CÔNG NGHỆ .............................................................................................. 39
1.3.1. VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG KHOA
HỌC - CÔNG NGHỆ Ở TRUNG QUỐC ..................................................... 39
1.3.2. KINH NGHIỆM CỦA HÀN QUỐC ............................................................ 44
1.3.3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM ............................................. 47
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............... 52
2.1. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG KHOA
HỌC - CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM ........................................................ 52
2.1.1. CÁC NHÂN TỐ CHỦ YẾU ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ VIỆT NAM ......................... 52
2.1.2. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ VIỆT
NAM .............................................................................................................. 57
2.2.
VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM ................ 64
2.2.1. TẠO LẬP MÔI TRƯỜNG PHÁP LUẬT .................................................... 64
2.2.2. KHẮC PHỤC CÁC KHUYẾT TẬT CỦA THỊ TRƯỜNG ......................... 69
2.2.3. ĐỊNH HƯỚNG, ĐIỀU TIẾT ........................................................................ 76
2.2.4 KIỂM TRA, GIÁM SÁT .............................................................................. 82
2.3.
ĐÁNH GIÁ CHUNG ................................................................................... 86
2.3.1. NHỮNG THÀNH TỰU ................................................................................ 86
2.3.2. NHỮNG HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN ................................................ 90
CHƯƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO VAI
TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ................ 95
3.1.
BỐI CẢNH MỚI TÁC ĐỘNG ĐẾN VAI TRÒ NHÀ NƯỚC
TRONG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG KHOA HỌC - CÔNG
NGHỆ VIỆT NAM ...................................................................................... 95
3.1.1. BỐI CẢNH QUỐC TẾ ................................................................................. 95
3.1.2. BỐI CẢNH TRONG NƯỚC. ..................................................................... 100
3.2. QUAN ĐIỂM VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG KHOA HỌC-CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM TRONG
THỜI GIAN TỚI ....................................................................................... 106
3.2.1. TẠO LẬP CÁC ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG KHOA
HỌC - CÔNG NGHỆ LÀ NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH SỰ PHÁT
TRIỂN LÂU DÀI, BỀN VỮNG CỦA THỊ TRƯỜNG KHOA HỌC -
CÔNG NGHỆ. ............................................................................................ 107
3.2.2. HOẠT ĐỘNG ĐỊNH HƯỚNG, ĐIỀU TIẾT CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI THỊ TRƯỜNG KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ LÀ NHÂN TỐ
ĐẢM BẢO SỰ PHÁT TRIỂN LÀNH MẠNH, NHANH CHÓNG CỦA
THỊ TRƯỜNG KH - CN. ............................................................................ 109
3.2.3. THỰC HIỆN VAI TRÒ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG KH -
CN VỪA PHẢI BẢO VỆ ĐƯỢC LỢI ÍCH CỦA ĐẤT NƯỚC, VỪA
PHẢI TUÂN THỦ CÁC CAM KẾT QUỐC TẾ. ....................................... 110
3.3.
NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ
CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM ......................................... 112
3.3.1. HOÀN THIỆN MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ ..................................................... 112
3.3.2. XÂY DỰNG NGUỒN NHÂN LỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT
TRIỂN CỦA KH - CN, THỊ TRƯỜNG KH - CN. ..................................... 116
3.3.3. NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT
CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG KHOA HỌC - CÔNG
NGHỆ. ......................................................................................................... 121
3.3.4. NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA GIÁM SÁT .......... 122
3.3.5. CUNG CẤP HIỆU QUẢ HÀNG HÓA CÔNG .......................................... 124
3.3.6. NÂNG CAO NHẬN THỨC, ĐỔI MỚI TƯ DUY VỀ SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ. .................... 126
KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 128
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 130
BẢNG QUY ƯỚC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CGCN Chuyển giao công nghệ
HNKTQT Hội nhập kinh tế quốc tế
KH – CN Khoa học và công nghệ
Khoa học tự nhiên KHTN
Khoa học xã hội KHXH
KT – XH Kinh tế - xã hội
KTTT Kinh tế thị trường
R&D Nghiên cứu triển khai
SHTT Sở hữu trí tuệ
TCH Toàn cầu hóa
WTO Tổ chức thương mại thế giới
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Từ cuối thập niên 70 của thế kỷ XX, nhân loại đã bước sang kỷ nguyên
mới - kỷ nguyên của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Đến nay,
khoa học và công nghệ đã trở thành động lực phát triển hàng đầu và đóng góp
phần rất lớn vào tăng trưởng kinh tế ở nhiều quốc gia. Khoa học và công nghệ
tác động mạnh mẽ và sâu rộng đến mọi mặt đời sống của con người, sản xuất,
xã hội, chính trị, văn hoá, khả năng an ninh quốc gia và quan hệ quốc tế của
các quốc gia trên thế giới. Nhiều nước coi phát triển khoa học và công nghệ là
"đầu tư cho tương lai". Nhận rõ vai trò to lớn của khoa học và công nghệ,
Đảng và Nhà nước ta đã sớm đưa ra những định hướng và biện pháp nhằm
thúc đẩy phát triển khoa học và công nghệ trong cả nước. Nhờ đó, hoạt động
khoa học và công nghệ trong cả nước có bước chuyển biến đáng kể, trình độ
công nghệ của nền kinh tế được nâng cao.
Tuy vậy, so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện mới
cũng như so với các nước trong khu vực thì trình độ khoa học và công nghệ
của nước ta còn thấp, thị trường khoa học - công nghệ ở nước ta mới hình
thành và phát triển sơ khai. Nước ta hiện nay chưa có thị trường khoa học -
công nghệ theo đúng nghĩa đầy đủ. Nguyên nhân chủ yếu là do vai trò của
Nhà nước đối với thị trường khoa học - công nghệ còn sơ khai và rất mờ
nhạt. Từ nhiều năm qua, triển khai các quan điểm, đường lối, nghị quyết
của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều cơ chế chính sách các văn bản
quy phạm pháp luật tạo môi trường thuận lợi khuyến khích hoạt động khoa
học và công nghệ trực tiếp phục vụ sản xuất kinh doanh. Những điều kiện
cơ bản cần thiết nhất như chủ trương, đường lối và cơ chế chính sách cho
phát triển thị trường khoa học - công nghệ đủ để bắt đầu xúc tiến phát triển
thị trường này. Tuy nhiên, trên thực tế mức độ đi vào cuộc sống của các
chủ trương này còn hạn chế mới dừng lại ở mức nêu ra cái cần và cái phải
làm, chưa có văn bản nêu ra làm gì và làm thế nào để xây dựng và đưa thị
trường khoa học và công nghệ vào hoạt động; Đổi mới cơ chế chính sách
quản lý được triển khai một cách dè dặt, chậm trễ; Thiếu cơ chế cụ thể để
điều phối hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động khoa học và công
nghệ; Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước đối
với thị trường khoa học - công nghệ còn thiếu, chưa cụ thể, thiếu đồng bộ,
lạc hậu so với thực tiễn, nhiều quy định không khả thi; Thiếu phân công,
phân cấp về quyền hạn và trách nhiệm giữa các bộ, ngành, giữa trung ương
và địa phương. Vậy Nhà nước cần làm gì để khắc phục những thiếu sót
trên?
Mặt khác trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo
xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc phát triển kinh tế - xã hội nói
chung và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng đang đặt ra yêu cầu lớn và bức
xúc về việc Nhà nước phải làm gì để tiếp tục đẩy mạnh phát triển thị trường
khoa học - công nghệ.
Đứng trước những vấn đề nêu trên, chúng ta muốn phát triển thị trường
khoa học - công nghệ thì phải tăng cường vai trò của Nhà nước trong thị
trường này. Đó là lý do để vấn đề “Vai trò Nhà nước trong phát triển thị
trường khoa học - công nghệ ở Việt Nam hiện nay” được chọn làm đề tài của
luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Do khoa học và công nghệ có vai trò quan trọng và phát triển rộng khắp
trên thế giới nên việc nghiên cứu nhằm thúc đẩy phát triển lĩnh vực này đã
được chú trọng từ lâu ở nhiều nước.
Trên thế giới, có nhiều công trình nghiên cứu về thị trường khoa học -
công nghệ và phát triển thị trường khoa học - công nghệ của các nhà khoa
học, các tổ chức. Chẳng hạn, công trình "Nguyên lý phát triển dựa trên công
nghệ" của Trung tâm Chuyển giao công nghệ Châu Á - Thái Bình Dương
(APCTT) với 6 cuốn sách, trong đó làm rõ những vấn đề chung về công nghệ
và đánh giá công anghệ. Một số tác giả khác đi sâu vào hoạt động nghiên cứu
khoa học và chuyển giao công nghệ như Morries Low (2000), B. Bowonder
(1989), Ramanathan (1990), hoặc nghiên cứu một số kinh nghiệm về ứng dụng
công nghệ ở một số nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc... Điều đáng
chú ý là phần lớn các công trình này chỉ tập trung nghiên cứu thị trường khoa
học - công nghệ và các biện pháp phát triển thị trường khoa học - công nghệ.
Còn quản lý Nhà nước về thị trường khoa học - công nghệ chỉ được xem xét
dưới từng khái cạnh, từng vấn đề như chiến lược, chính sách mà chưa được
nghiên cứu dưới giác độ tổng thể, toàn diện.
Ở Việt Nam, quản lý nhà nước về thị trường khoa học - công nghệ đã
được nghiên cứu nhiều ở dạng phương pháp luận chung nhất để dạy ở các
trường đại học, các học viện hoặc được nghiên cứu ở tầm quốc gia do Bộ Khoa
học và Công nghệ, ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội
thực hiện dưới dạng đề tài cấp Nhà nước, đề tài cấp bộ.
Một số công trình đã công bố chỉ tập trung vào nghiên cứu thị trường
khoa học - công nghệ nói chung chứ chưa đi sâu nghiên cứu cụ thể vai trò của
Nhà nước đối với thị trường này. Các công trình đó nghiên cứu theo hướng:
Một là, lý giải về sự tồn tại của thị trường khoa học công nghệ hay thị
trường công nghệ. Đồng thời gắn với những quan niệm của mình, các nhà
khoa học đã phân tích các bộ phận cấu thành, thực trạng của các thị trường
này ở Việt Nam. Đại diện cho hướng nghiên cứu trên gồm có: Viện Nghiên
cứu chiến lược và chính sách khoa học công nghệ với cuốn sách “Công nghệ
và phát triển thị trường - công nghệ ở Việt Nam”, Nxb Khoa học và kỹ
thuật,H., 2003; Viện Nghiên cứu quản lý Trung ương với sách tham khảo “
Thị trường công nghệ Việt Nam”, Nxb Khoa học kỹ thuật, H.,2004; GS.TS.
Vũ Đình Cự “ Thị trường khoa học” đăng trên tạp chí hoạt động khoa học
tháng 10 năm 2004; TS. Hoàng Xuân Long “Lại bàn về thị trường khoa học -
công nghệ” đăng trên tạp chí lý luận số 1 - 2006.
Hai là, hướng nghiên cứu về kinh nghiệm phát triển thị trường khoa học
- công nghệ của một số nước và rút ra bài học cho Việt Nam. Tiêu biểu có các
công trình của Nguyễn Nghĩa, Phạm Hồng Trường “Kinh nghiệm xây dựng
thị trường công nghệ của Trung Quốc” đăng trên tạp chí hoạt động khoa học
số 11/2002; Hoàng Xuân Long “ Kinh nghiệm của Trung Quốc về vấn đề
thương mại hóa hoạt động khoa học công nghệ” đăng trên tạp chí Thông tin
khoa học xã hội số 12 - 2000; GS. Jon Sigurdon “Kinh nghiệm các nước Châu
Âu về phát triển thị trường khoa học - công nghệ” trong sách tham khảo
“Phát triển thị trường khoa học - công nghệ Việt Nam”, Nxb Khoa học và Kỹ
Thuật,H.,2004.
Ba là, hướng nghiên cứu tập trung vào một vấn đề cụ thể về cung cầu,
các giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường khoa học - công
nghệ như bài viết của tác giả Trần Việt Lâm “Phát triển thị trường khoa học -
công nghệ: Những vấn đề từ phía doanh nghiệp” đăng trên tạp chí kinh tế và
phát triển số 12/2005; Danh Sơn “Tăng cường năng lực nội sinh về khoa học
công nghệ trong hội nhập kinh tế quốc tế” trên tạp chí Hoạt động khoa học số
1/2004; Lê Uy linh “Phát triển thị trường khoa học công nghệ - Khổ vì thiếu
luật” trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn ngày 2/12/2004; Nguyễn Văn Tri “Môi
trường pháp lý cho việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ” trên
tạp chí Hoạt động khoa học số 4/2005
Như vậy, đến nay các công trình đã công bố chưa có công trình nào xem
xét phân tích một cách đầy đủ có hệ thống về lý luận và thực tiễn tác động của
Nhà nước đến sự phát triển thị trường khoa học - công nghệ ở Việt Nam theo nội
dung và tiêu chí đánh giá thống nhất và phù hợp với điều kiện thị trường này.
Do đó, việc nghiên cứu “Vai trò Nhà nước trong phát triển thị trường
khoa học - công nghệ ở Việt Nam hiện nay” sẽ kế thừa những kết quả đạt
được, đồng thời bổ sung những nội dung mới nhằm hệ thống hóa các vấn đề
nêu trên để nâng cao nhận thức và kiến nghị những giải pháp thúc đẩy vai
trò của Nhà nước trong việc phát triển thị trường khoa học - công nghệ ở
Việt Nam.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Từ việc làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của Nhà
nước trong việc phát triển thị trường khoa học - công nghệ, phân tích thực
trạng vai trò của Nhà nước trong phát triển thị trường khoa học - công nghệ
Việt Nam Luận văn đề xuất các quan điểm và giải pháp nâng cao vai trò của
Nhà nước trong phát triển thị trường khoa học - công nghệ giai đoạn hiện nay.
- Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm
vụ chủ yếu sau:
* Làm rõ cơ sở lý luận về vai trò Nhà nước trong phát triển thị trường
khoa học - công nghệ và kinh nghiệm phát huy vai trò nhà nước trong phát
triển thị trường khoa học - công nghệ ở một số nước trong khu vực và thế
giới.
* Phân tích, đánh giá vai trò của Nhà nước trong việc phát triển thị
trường khoa học - công nghệ ở Việt Nam.
* Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước
trong việc phát triển thị trường khoa học - công nghệ ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vai trò của Nhà nước với tư cách
là “ bà đỡ” cho sự ra đời của các quan hệ thị trường. Đồng thời Nhà nước còn
có chức năng khắc phục các khuyết tật thị trường, thúc đẩy sự phát triển thị
trường khoa học - công nghệ ở Việt Nam.
* Đề tài tập trung nghiên cứu vai trò của Nhà nước trong việc phát triển
thị trường khoa học - công nghệ chủ yếu từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới
nhưng trọng tâm trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay. Đây là giai đoạn Luật
Khoa học và công nghệ ra đời năm 2000. Giai đoạn này là đủ dài để đưa ra
đánh giá, phân tích về thị trường khoa học - công nghệ ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Việc nghiên cứu luận văn dựa trên phương pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, trên cơ sở quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Ngoài ra, các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp phân
tích, tổng hợp, lịch sử kết hợp với logic, thống kê và phương pháp tiếp cận
hệ thống, dự báo.
- Phương pháp lịch sử kết hợp với logic được sử dụng trong việc phân
tích tổng hợp tác động của Nhà nước đến thị trường khoa học - công nghệ.
- Luận văn tổng hợp và phân tích các lý luận cơ bản về vai trò của
Nhà nước đến phát triển thị trường khoa học - công nghệ. Luận văn phân
tích tổng hợp kinh nghiệm của một số nước trong việc phát huy vai trò của
Nhà nước trong phát triển thị trường khoa học - công nghệ và có sự đối
chiếu, so sánh với Việt Nam để rút ra những bài học kinh nghiệm.
- Phương pháp phân tích định tính, định lượng và thống kê được sử
dụng trong luận án để đánh giá vai trò của Nhà nước trong phát triển thị
trường khoa học - công nghệ ở Việt Nam.Phân tích định tính để đưa ra
nhận xét, đánh giá, làm rõ tác động của Nhà nước trong phát triển thị
trường khoa học - công nghệ. Các số liệu của phương pháp thống kê và
phân tích định lượng để kiểm chứng, chứng minh các nhận xét, đánh giá
được đưa ra.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống để xem xét thị trường khoa học -
công nghệ như một hệ thống chỉnh thể bao gồm nhiều chủ thể nhân tố gắn
kết hữu cơ với nhau như hàng hóa, cung, cầu, thể chế.
- Luận văn sử dụng phương pháp dự báo để dự báo bối cảnh quốc tế,
bối cảnh trong nước và các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường khoa học -
công nghệ trong thời gian tới.
6. Những đóng góp mới của luận văn.
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về vai trò Nhà nước trong phát triển
thị trường khoa học - công nghệ.
- Phân tích làm rõ vai trò Nhà nước trong phát triển thị trường khoa học -
công nghệ ở Việt Nam, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất được các giải pháp nhằm nâng cao vai trò Nhà nước trong phát
triển thị trường khoa học - công nghệ Việt Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu của Luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được cấu thành 3 chương:
Chương 1: Vai trò Nhà nước trong việc phát triển thị trường khoa học -
công nghệ: cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế
Chương 2: Thực trạng vai trò của Nhà nước trong phát triển thị trường
khoa học - công nghệ ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của Nhà
nước trong việc phát triển thị trường khoa học - công nghệ trong thời gian tới
Chương 1 VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
1.1. Phát triển thị trường khoa học- công nghệ
1.1.1. Những khái niệm cơ bản
Thứ nhất, khái niệm về khoa học và công nghệ
* Khoa học:
Thế giới vật chất và tinh thần bao gồm các hiện tượng và quá trình hết
sức phong phú, đa dạng và phức tạp. Từ khi xuất hiện, loài người ra sức tìm
hiểu, khám phá ra bản chất bên trong, các quy luật chi phối sự vận động, phát
triển của các sự vật, hiện tượng, các quá trình của thế giới hiện thực và của
bản thân con người. Chính quá trình tìm tòi, khám phá đó làm cho khoa học
ra đời và không ngừng phát triển.
Khoa học theo nghĩa rộng bao gồm những đặc trưng:
- Khoa học là một lĩnh vực hoạt động của con người. Để tồn tại và phát
triển, con người phải tiến hành nhiều hoạt động khác nhau: Kinh tế, chính trị,
tôn giáo, văn hoá, giáo dục, thể dục thể thao, quốc phòng-an ninh trong đó có
hoạt động khoa học.
- Đối tượng nghiên cứu của khoa học là các sự vật, hiện tượng và quá
trình của tự nhiên, xã hội và tất cả những gì thuộc về con người. Sở dĩ đối
tượng nghiên cứu của khoa học rộng lớn như vậy vì để tồn tại và phát triển,
con người phải quan tâm đến chính bản thân mình và tất cả những gì ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc sống của mình.
- Mục đích của hoạt động nghiên cứu khoa học là tìm ra các thuộc tính,
tính chất, kết cấu bên trong của mỗi sự vật và mối liên hệ giữa các sự vật,
hiện tượng. Những kết quả của hoạt động khoa học là làm tăng hiểu biết của
con người về thế giới hiện thực. Những kết quả đó được gọi là tri thức khoa
học. Tri thức khoa học là những hiểu biết về tự nhiên, xã hội và về con người;
được thể hiện bằng các phát minh dưới dạng lý thuyết, định lý, định luật,
công thức, nguyên tắc.
Theo nghĩa hẹp, khoa học là hệ thống tri thức về các sự vật, hiện tượng
và quá trình của tự nhiên, xã hội và con người.
Để khám phá ra bản chất, quy luật vận động của sự vật hiện tượng, khoa
học sử dụng nhiều phương pháp khác nhau: thống kê, thực nghiệm, phân tích,
tổng hợp. . . .
Sự phát triển của khoa học dẫn đến sự hình thành các ngành, chuyên
ngành khoa học ngày càng sâu. Sự phát triển của khoa học làm cho con người
tích luỹ được các tri thức khoa học ngày càng lớn.
Khoa học được phân chia thành KHTN và KHXH. KHTN bao gồm các
ngành khoa học nghiên cứu các hiện tượng và quá trình tự nhiên. Đó là các
ngành khoa học như: toán học, lý học, hoá học, sinh học... KHXH bao gồm
các ngành khoa học nghiên cứu các hiện tượng và quá trình xã hội. Đó là các
ngành như: kinh tế học, tâm lý học, xã hội học, luật học... Ngày nay, người ta
còn tách một số ngành trong khoa học xã hội và gọi là khoa học nhân văn nh-
ư: văn học, sử học... Vì đối tượng nghiên cứu của các ngành là các hiện tượng
và quá trình xã hội nên các ngành khoa học nhân văn không thể nằm ngoài
khoa học xã hội.
Gianh giới giữa KHTN và KHXH chỉ là tương đối và chúng bổ sung, hỗ
trợ cho nhau. Chẳng hạn trong kinh tế học, xã hội học người ta sử dụng rất
nhiều các công thức, định lý toán học. Ngay trong sử học người ta cũng phải
sử dụng các phương pháp lý học, hoá học... để xác định chính xác niên đại
của các cổ vật, thậm chí của cả một nền văn minh.
* Công nghệ:
Hiện nay trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về công nghệ. Cuối
thập niên tám mươi của thế kỷ XX, ở nước ta có một cuộc tranh luận về khái
niệm khoa học kỹ thuật hay khoa học - kỹ thuật - công nghệ. Khi đó, khái
niệm công nghệ được đồng nhất với khái niệm kỹ thuật. Khái niệm kỹ thuật
được định nghĩa là: “việc sử dụng tổng hợp các công cụ lao động, các nguyên
liệu sản xuất, các phương pháp do con người sáng tạo ra, đưa vào quá trình
lao động để tạo ra của cải vật chất cho xã hội”. Cùng với sự phát triển của nền
sản xuất, hàng loạt khái niệm mới xuất hiện, trong đó có khái niệm công nghệ.
Tác giả F. R. Root cho rằng: “công nghệ là dạng kiến thức có thể áp
dụng được vào việc sản xuất ra các sản phẩm và sáng tạo ra các sản phẩm
mới”. Theo quan niệm này, công nghệ chính là sự vận dụng những thành tựu
khoa học vào sản xuất. Đây là ưu điểm nổi bật của khái niệm này: nó làm rõ
được quan hệ giữa khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, quan niệm về công
nghệ như vậy còn đơn giản.
Cùng quan niệm này là Tác giả P. Strunk. Ông cho rằng: “công nghệ là
sự áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử dụng những nghiên cứu
và cách xử lý một cách có hệ thống và có phương pháp”. Sự khác nhau giữa
Ông và tác giả trên ở chỗ là Ông đã cảm nhận được tính phức tạp của công
nghệ. Nhiều nhà nghiên cứu khác cũng đã đưa ra những quan niệm tương tự.
Các nhà nghiên cứu khác tiến xa hơn trong quan niệm về công nghệ khi
đặt nó trong quan hệ với thị trường. R. Jones cho rằng: Công nghệ là cách
thức mà qua đó các nguồn lực được chuyển thành hàng hoá”. Theo quan
niệm này, công nghệ được gắn với nền kinh tế hàng hoá hay kinh tế thị
trường. Tuy nhiên, khái niệm này lại có nhược điểm là khá đơn giản, chưa đề
cập đến quan hệ giữa khoa học và công nghệ.
Theo Uỷ ban kinh tế xã hội Châu á - Thái Bình Dương “Công nghệ là hệ
thống tri thức về quy trình kỹ thuật chế biến vật liệu và thông tin. Nó bao gồm
tất cả kỹ năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong sản xuất, chế
tạo dịch vụ công nghiệp, dịch vụ quản lý”. Khái niệm này sâu rộng hơn những
khái niệm trên nhưng chủ yếu mới đề cập đến mặt kỹ thuật. UNCTAD đưa ra
định nghĩa về công nghệ đầy đủ hơn. “Công nghệ là một đầu vào cần thiết
cho sản xuất và như vậy, nó được mua bán trên thị trường như một hàng hoá
được thể hiện ở một trong những dạng sau:
- Tư liệu sản xuất và đôi khi là các sản phẩm trung gian, được
mua và bán trên thị trường, đặc biệt là gắn với các quyết định đầu tư.
- Nhân lực, thông thường là nhân lực có trình độ và đôi khi là
nhân lực có trình độ cao và chuyên sâu, với khả năng sử dụng đúng các thiết
bị và kỹ thuật và làm chủ được bộ máy giải quyết vấn đề và sản xuất thông
tin.
- Thông tin, dù đó là thông tin kỹ thuật hay thông tin thương mại,
được đưa ra trên thị trường hay được giữ bí mật như một phần của hoạt động
độc quyền”.
Đây là định nghĩa khá đầy đủ, chỉ ra được cấu trúc của công nghệ và đặc
biệt đã gắn công nghệ với cơ chế thị trường.
Theo Luật khoa học - công nghệ năm 2000 thì công nghệ “là tập hợp các
phương pháp các quy trình, kỹ năng bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để
biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm” [50]. Theo PGS. TS. Vũ Anh Tuấn,
công nghệ được hiểu theo nghĩa là “tập hợp các công cụ, phương tiện để biến
đổi các nguồn lực tự nhiên, nguồn lực sản xuất trung gian thành hàng hoá
tiêu dùng hoặc nguồn lực sản xuất trung gian” [66]. Công nghệ bao gồm
phần cứng, hữu hình và phần mềm, vô hình. Phát triển công nghệ gồm cả
phần cứng (máy móc, thiết bị...), phần mềm (phát minh, sáng chế, giải pháp
hữu ích...).
Như vậy, khái niệm công nghệ được hiểu đầy đủ là : Công nghệ là tập hợp
những giải pháp kỹ thuật để chế tạo ra hàng hoá và dịch vụ; là toàn bộ quá trình
biến các nguồn lực thành sản phẩm hàng hoá theo yêu cầu của thị trường.
Theo khái niệm trên, bản chất của công nghệ là kỹ thuật (Công nghệ là
tập hợp những giải pháp kỹ thuật để chế tạo ra hàng hoá và dịch vụ). Như
vậy, giữa khái niệm công nghệ và khái niệm kỹ thuật không có sự khác biệt
về bản chất. Tuy nhiên, sự khác biệt quan trọng giữa 2 khái niệm này là ở chỗ,
công nghệ thể hiện mục đích của các hoạt động kỹ thuật trong cơ chế thị
trường (là toàn bộ quá trình biến các nguồn lực thành sản phẩm hàng hoá
theo yêu cầu của thị trường). Hiện nay, cơ chế kinh tế thế giới sử dụng là cơ
chế thị trường. Do đó, việc sử dụng khái niệm công nghệ phổ biến hơn khái
niệm kỹ thuật là điều dễ hiểu.
Theo quan niệm phổ biến hiện nay, công nghệ gồm bốn thành phần:
- Thành phần kỹ thuật (technoware) bao gồm các thiết bị, máy móc kỹ
thuật, nhà xưởng... mang hình thái vật thể “hữu hình”.
- Là thành phần thông tin phi vật thể “vô hình” (inforeware) gồm các bí
quyết, phát minh, sáng chế, quy trình công nghệ, phương pháp công nghệ,
cách thức xử lý giải pháp công nghệ...
- Thành phần nhân lực (humanware) gồm kiến thức, kỹ năng, trình độ
tay nghề, kinh nghiệm, về các lĩnh vực của người lao động, khả năng thích
ứng với các điều kiện sản xuất của người lao động...
- Thành phần tổ chức (orgaware) gồm việc tổ chức, quản lý, điều hành,
kiểm tra, điều phối bố trí các nguồn lực...
Từ khái niệm khoa học và khái niệm công nghệ được đề cập ở trên, có
thể thấy rằng, khoa học và công nghệ là hai khái niệm khác nhau. Khoa học
phải tìm tòi, phát minh ra tri thức mới; công nghệ là việc ứng dụng tri thức đó
vào thực tiễn cuộc sống, là việc ứng dụng những phát minh khoa học vào việc
sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ. Tuy nhiên, hai khái niệm đó có quan hệ chặt
chẽ với nhau. Những thành tựu về khoa học là cơ sở, tiền đề cho sự phát triển
công nghệ. Sự phát triển công nghệ, một mặt, làm cho các thành tựu khoa học
được ứng dụng trong thực tiễn, làm cho hoạt động khoa học mang tính thực
tiễn, phục vụ thực tiễn. Mặt khác, sự phát triển của công nghệ làm cho hoạt
động thực tiễn của con người có hiệu quả cao hơn nên có điều kiện đầu tư
nhiều hơn cho khoa học; thực tiễn đặt ra cho khoa học những đòi hỏi mới cao
hơn. Từ đó, thúc đẩy khoa học tiếp tục phát triển. ăng ghen đã có nhận xét rất
sâu sắc về quan hệ này:" Nếu kỹ thuật phụ thuộc một phần lớn vào tình trạng
của khoa học thì khoa học lại còn phụ thuộc nhiều hơn nữa vào tình trạng và
những đòi hỏi của kỹ thuật. Khi xã hội có nhu cầu về kỹ thuật thì nhu cầu này
thúc đẩy khoa học tiến lên hơn mười trường đại học." [17, tr. 788]
Do quan hệ chặt chẽ đó, chúng ta nên thay thuật ngữ khoa học - công
nghệ cho thuật ngữ khoa học và công nghệ.
Hơn thế nữa, trong thời đại KH - CN phát triển như vũ bão, việc phân
chia đâu là thành tựu khoa học, đâu là phát minh công nghệ không phải lúc
nào cũng thực hiện được. Chẳng hạn, việc phát minh ra một nguồn năng
lượng mới; một hệ điều hành máy tính mới, sinh sản vô tính... Hơn nữa, ngay
cả những thành tựu khoa học cơ bản (việc phát hiện ra bản đồ gien của con
người) cũng không dễ gì xin được, mà phải mua. Do vậy, phải sử dụng thuật
ngữ “hàng hoá khoa học - công nghệ” thay cho thuật ngữ hàng hoá công
nghệ.
Thứ hai, khái niệm về hàng hóa khoa học - công nghệ
Hàng hoá khoa học - công nghệ chính là một phần hoặc toàn bộ công
nghệ hoàn chỉnh, những kết qủa nghiên cứu phát triển R&D, các dịch vụ KH -
CN có giá trị thương mại....[28, tr. 8-12]. Hàng hoá khoa học - công nghệ
được phân loại thành các loại cơ bản sau đây:
1- Li-xăng/Pa-tăng sáng chế giải pháp hữu ích. Trong đó, Li-xăng là
văn bằng sử dụng cho mục đích thương mại, các phương pháp, mô hình,
phần mềm về công nghệ, thiết kế. Pa-tăng là văn bằng bảo hộ sở hữu trí tuệ
đối với phát minh, sáng chế. Các hợp đồng Li-xăng về sáng chế, giải pháp
hữu ích, nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, các thực thể được
quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ khác.
2- Kết quả nghiên cứu phát triển (R&D) của các cơ quan, tổ chức
khoa học-công nghệ dưới dạng chưa hoàn chỉnh cả về kỹ thuật cũng như
thương mại, có khả năng đăng ký Pa-tăng và nó chỉ có giá trị thương mại
ở dạng tiềm năng.
3- Bí mật công nghệ: các quy trình công nghệ, các phần mềm điều khiển,
ứng dụng, các công thức, bản vẽ thiết kế, mô tả… Đây là những thứ có giá trị
thương mại trên thị trường nhưng không đuợc công bố, hoặc được công bố
nhưng chỉ một phần không đầy đủ.
4- Dịch vụ kỹ thuật: Các dịch vụ tư vấn, thiết kế kỹ thuật, dịch vụ tư vấn
lựa chọn thiết bị, công nghệ, dịch vụ đo lường kiểm định, dịch vụ lắp đặt vận
hành, dịch vụ đào tạo kỹ năng sử dụng công nghệ, dịch vụ bảo trì, bảo dưỡng…
5- Dịch vụ R&D theo đơn đặt hàng của các tổ chức, các công ty… Đây
là một loại chi phí mà tất cả các công ty đều phải dành để phát triển hoàn
thiện các sản phẩm, hoặc tung ra các sản phẩm mới để tạo lợi thế cạnh tranh
với các đối thủ. Tuy nhiên, trên thực tế chỉ có những công ty, tổ chức có quy
mô lớn mới có thể tự thực hiện được tất cả các công đoạn của hoạt động
R&D. Bên cạnh đó có rất nhiều công ty vừa và nhỏ, chính phủ và cả chính
những công ty lớn cũng vẫn sử dụng việc đặt hàng R&D tổng thể hay từng
phần đối với các tổ chức chuyên nghiên cứu, như các viện nghiên cứu, trường
đại học... đối với việc phát triển của mình.
6- Thiết bị chứa đựng công nghệ, gồm toàn bộ hệ thống thiết bị hoặc một
phần để chế tạo ra một loại, hoặc nhiều sản phẩm có những đặc điểm chung
giống nhau, hoặc thực hiện một vài công việc nào đó trong toàn bộ một chu
trình sản xuất.
7- Toàn bộ hoặc từng phần một doanh nghiệp bao gồm cả công nghệ
quản lý, những phương thức điều hành quản lý trong nội bộ doanh nghiệp
hoặc trong từng bộ phận doanh nghiệp.
Hàng hóa KH - CN có những đặc điểm sau:
Một là, hàng hóa KH - CN có thể là hữu hình hoặc vô hình. Hàng hóa
KH - CN có thể tồn tại dưới dạng tri thức thuần túy hoặc tồn tại dưới dạng tri
thức được “vật hóa” với các dạng cụ thể như công thức, bản vẽ, quy trình
công nghệ, máy móc, thiết bị công nghệ.
Là một hệ thống tri thức tích luỹ trong quá trình lịch sử và đã được thực
tiễn kiểm nghiệm, khoa học phản ánh những quy luật khách quan của thế giới
hiện thực, cũng như của hoạt động tinh thần của con người, giúp con người có
khả năng cải tạo thế giới hiện thực. Với tư cách là “hệ thống tri thức về các
hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên xã hội, tư duy” thì tri thức khoa học
thuộc về xã hội.
Sản phẩm KH - CN cũng như bất kỳ loại sản phẩm nào khác phải tồn tại
dưới những hình thức cụ thể nhất định (định luật, định lý, quy trình công
nghệ, những công trình nghiên cứu khoa học, những bài giảng của các giảng
viên, những cuốn sách...).
Lao động tạo ra sản phẩm KH - CN là lao động đặc biệt và sản phẩm KH
- CN là kết qủa của lao động bậc cao. Người lao động tạo ra sản phẩm KH -
CN thường là những nhà khoa học, các nhà thực nghiệm và các nhà hoạt động
thực tiễn.
Như vậy, hàng hoá KH - CN có nguồn gốc duy nhất là lao động sáng
tạo của con người.
Hai là, cơ chế định giá hàng hóa KH - CN có đặc thù khác rất xa so với
hàng hóa thông thường. Như đã trình bày, hàng hoá KH - CN không chỉ biểu
hiện ở dạng hữu hình như một dây chuyền máy móc thiết bị công nghệ, mà
còn được thể hiện ở rất nhiều các trạng thái vô hình khác như bí quyết, công
thức, phần mềm... Do vậy, việc xác lập hoặc tính toán giá trị của loại hàng
hóa này hết sức phức tạp, rất khó đo lường được mức độ chi phí một cách trực
tiếp, cụ thể để có thể làm căn cứ cho việc xác định giá thành sản phẩm. Hàng
hoá KH - CN mang tính đơn chiếc nên thị trường không có khả năng xác định
chính xác giá trị của chúng. Trong không ít trường hợp, giá trị hàng hoá KH –
CN được xác định trong quá trình sử dụng.
Giá trị sử dụng của sản phẩm KH - CN chính là tính ứng dụng của nó
trong thực tiễn và giá trị sử dụng này luôn được thực hiện trong quá trình con
người tiêu dùng nó. Giá trị sử dụng của sản phẩm KH - CN mang lại cho con
người khả năng nâng cao trình độ hiểu biết và nhận thức được các quy luật
khách quan, từ đó dự đoán được xu hướng vận động của các lĩnh vực tự nhiên
và xã hội; giúp con người đạt được hiệu quả cao trong mọi hoạt động khác
nhau của đời sống xã hội. Những phương pháp, bí quyết hay những công cụ,
phương tiện... chính là sản phẩm công nghệ mà nhờ nó con người có thể biến
các nguồn lực trở thành hàng hoá. Việc áp dụng những tiến bộ công nghệ vào
sản xuất sẽ giúp khai thác hiệu quả các nguồn lực trong sản xuất, từ đó nâng
cao năng lực cạnh tranh cho mỗi ngành, mỗi lĩnh vực và cho nền kinh tế nói
chung. Trong quá trình chinh phục thế giới tự nhiên, cũng như quản lý xã hội,
con người từng bước khám phá, rút ra những quy luật, nguyên lý vận động và
phát triển của sự vật hiện tượng. Trên cơ sở nhận thức về sự vật, hiện tượng,
con người lại tiếp tục tác động đến thế giớí tự nhiên và xã hội. Nhu cầu hiểu
biết và lĩnh hội tri thức khoa học của con người là không có giới hạn vì bản
thân tri thức khoa học là vô tận. Chính vì vậy giá trị sử dụng của sản phẩm
KH - CN luôn cần thiết cho sự phát triển của xã hội. Như vậy, giá trị sử dụng
hàng hoá KH - CN bền vững với thời gian, được kế thừa và phát triển.
Trong quá trình sử dụng, tính hữu ích của hàng hoá KH -CN càng cao,
lợi ích người sử dụng càng lớn, giá cả của hàng hoá càng lớn. Do đó, giá cả
hàng hoá KH - CN phụ thuộc vào tính hữu ích (giá trị sử dụng) của nó.
Ba là, hàng hóa KH - CN có tính chất hàng hóa công cộng, tức là nó có
tính không thể cạnh tranh trong tiêu dùng, tính không thể ngăn cản. Tính
không thể cạnh tranh trong tiêu dùng tức là hàng hóa có thể cung ứng cho
người này thì cũng có thể cung ứng cho người khác mà không phải chi phí
thêm. Ví dụ: công nghệ làm nhà khung bê tông, công nghệ làm cầu bê tông
đúc hẫng... Các doanh nghiệp xây dựng sử dụng những công nghệ này tăng
lên không làm tăng chi phí xã hội. Tính không thể ngăn cản là không thể ngăn
cản một người sử dụng hàng hóa dù cho người đó không trả tiền. Chẳng hạn,
không thể ngăn cản các doanh nghiệp xây dựng sử dụng những công nghệ
làm nhà, làm cầu nên trên...
Tuy nhiên, nếu các hàng hóa này được cung cấp như các hàng hóa công
cộng sẽ không khuyến khích được các hoạt động nghiên cứu ứng dụng, cũng
như các hoạt động sáng tạo ra các hàng hóa công nghệ mới của các tổ chức,
cá nhân trong xã hội.
KH - CN là sản phẩm chứa đựng hàm lượng chất xám cao và được sản
xuất bởi những lao động phức tạp. Trong xã hội lại tồn tại những lao động với
mức độ khác nhau làm cho sản phẩm của nó gồm nhiều loại khác nhau. Chính
điều này đã làm phân hoá những người sản xuất trong mọi ngành kinh tế nói
chung, cũng như trong nội bộ lĩnh vực KH - CN nói riêng. Ngay trong lĩnh
vực khoa học cũng được phân chia thành KHTN và KHXH với những phạm
trù và quy luật mang tính đặc thù riêng. Lĩnh vực công nghệ cũng được phân
chia thành nhiều chuyên ngành khác nhau: công nghệ sinh học, công nghệ
thông tin, công nghệ hạt nhân... Đây là những chuyên ngành đòi hỏi kiến thức
chuyên sâu và nhà sản xuất phải được đào tạo cơ bản theo chuyên ngành.
Chính vì lẽ đó, sự phân công lao động giữa các nhà sản xuất trong lĩnh vực
KH - CN mang tính tất yếu. Trong khi đó, cùng với sự phát triển của nền kinh
tế, nhu cầu sử dụng các sản phẩm KH - CN ngày càng tăng và đa dạng đối với
mọi ngành, mọi lĩnh vực sản xuất. Vì vậy, xuất hiện nhu cầu trao đổi sản
phẩm KH - CN để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội cũng là một tất yếu.
Để quá trình trao đổi sản phẩm KH - CN được thực hiện, người bán phải
là và chứng minh được là người sở hữu sản phẩm. Điều đó có nghĩa là quyền
SHTT đối với sản phẩm KH - CN phải được xác lập. SHTT có thể được định
nghĩa như các sáng tạo của trí tuệ mà đối với chúng, nhà nước dành cho các
cá nhân quyền kiểm soát độc quyền trong một thời hạn nhất định nhằm ngăn
ngừa sự khai thác đối tượng một cách bất hợp pháp. Quyền SHTT thường
được hiểu gồm hai phần: “Quyền sở hữu công nghiệp”, “Quyền tác giả và các
quyền kề cận”. Luật pháp Việt Nam cũng như của các nước trên thế giới đã
chỉ rõ chỉ có các đối tượng là giải pháp kĩ thuật liên quan đến máy móc thiết
bị, dụng cụ linh kiện, vật dụng, (gọi chung là cơ cấu); vật liệu, chất liệu, sản
phẩm hoá học, dược phẩm, (gọi chung là chất) và quy trình công nghệ,
phương pháp xử lý, phương pháp đo, phương pháp dự báo (gọi chung là quy
trình) mới thuộc đối tượng bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu ích. Như vậy, các
đối tượng có thể được bảo hộ theo pháp luật sở hữu công nghiệp chính là các
sản phẩm công nghệ. Quyền tác giả là quyền sở hữu và quyền sử dụng (khai
thác) của người phát minh ra các ý tưởng, tác phẩm. Tác phẩm được hiểu ở
đây là các tác phẩm văn học nghệ thuật, khoa học bao gồm: tác phẩm viết, các
bài giảng, bài phát biểu, công trình khoa học, sách giáo khoa, giáo trình...
Như vậy, sản phẩm khoa học cũng nằm trong đối tượng bảo hộ của quyền tác
giả. Điều này dẫn đến một tất yếu là sự ra đời của hệ thống luật bảo hộ quyền
SHTT ở tất cả các nước, cũng như những “luật chơi” chung cho các quốc gia
khi tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực cũng như toàn cầu.
Có thể khẳng định việc thực hiện quyền SHTT chính là cơ sở để xác lập
quyền sở hữu đối với các sản phẩm KH - CN. Để đảm bảo quyền sở hữu đối
với các sản phẩm KH - CN, cần phải thiết lập một hệ thống các văn bản pháp
luật về SHTT, đảm bảo việc thực thi quyền một cách nhanh chóng và có hiệu
quả. Đồng thời, sớm thiết lập và đẩy mạnh các hoạt động bổ trợ, trong đó có
hệ thống thông tin SHTT và hệ thống dịch vụ SHTT.
Như vậy, thiết lập và đảm bảo thực thi quyền SHTT đối với các sản
phẩm KH - CN là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu để hình
thành hàng hoá KH - CN, phát triển thị trường KH - CN.
Bốn là, hàng hoá KH - CN có tác động lan tỏa rất lớn đối với mọi lĩnh
vực sản xuất, tiêu dùng, cũng như cho toàn xã hội. Hàng hóa KH - CN được
sử dụng sẽ đem lại ngoại ứng tích cực cho nền kinh tế. Chi phí nghiên cứu để
phát minh ra sản phẩm KH - CN là xác định. Do đó, phạm vi ứng dụng những
thành tựu đó càng lớn, chi phí của việc ứng dụng trên một đơn vị sản phẩm
càng thấp.
Lợi ích của cá nhân, doanh nghiệp sở hữu hàng hoá KH - CN đòi hỏi
phải giữ bí mật KH - CN nhưng lợi ích xã hội lại đòi hỏi phải mở rộng việc
ứng dụng đó. Giải quyết mâu thuẫn này là nhiệm vụ của nhà nước. Điều đó có
nghĩa là, nhà nước cũng chỉ nên bảo hộ quyền sở hữu loại hàng hoá này với
thời hạn hợp lý.
Thứ ba, khái niệm thị trường khoa học - công nghệ
Đến nay, khái niệm thị trường KH - CN vẫn còn có những ý kiến khác
nhau. Trước đây, Trung Quốc sử dụng khái niệm thị trường khoa học kỹ
thuật, còn bây giờ là thị trường công nghệ. ở Mỹ, khái niệm “thị trường cho
công nghệ” (market for technology) được sử dụng phổ biến. Bộ Tư pháp Mỹ
cũng định nghĩa: “Thị trường cho công nghệ là thị trường dành cho những sở
hữu trí tuệ được cấp li-xăng hoặc dành cho những loại hình thay thế trực tiếp
nghĩa là những công nghệ hoặc những hàng hoá có đủ năng lực thay thế một
cách rõ rệt những sở hữu trí tuệ được cấp li-xăng nhằm thể hiện sức mạnh
của thị trường”. Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu khác thì: “Thị
trường khoa học-công nghệ là một phương thức tương tác hiệu quả giữa các
nhà khoa học và các nhà các nhà doanh nghiệp dưới sự quản lý của nhà
nước, trong đó sản phẩm hàng hoá khoa học- công nghệ là đối tượng giao
dịch trực tiếp”. Cũng có nhà nghiên cứu lại cho rằng “thị trường khoa học-
công nghệ là một thuật ngữ chung để chỉ một bộ phận của thị trường liên
quan đến hoạt động mua bán trao đổi một loại hàng hoá đặc biệt là sản phẩm
của hoạt động khoa học-công nghệ và các thể chế đảm bảo cho nó”.
Với sự phát triển vượt bậc của khoa học, công nghệ như hiện nay, trong
không ít trường hợp, khó có thể phân biệt rạch ròi giữa phát minh khoa học và
phát minh công nghệ (Chẳng hạn, việc phát minh ra một nguồn năng lượng
mới). Do vậy, sử dụng thuật ngữ “thị trường khoa học và công nghệ” hoặc
“thị trường khoa học - công nghệ” là chấp nhận được.
Từ những phân tích trên, có thể đi tới khái niệm thị trường khoa học -
công nghệ: Thị trường khoa học-công nghệ là thị trường mà ở đó hàng hoá
là các phát minh khoa học, công nghệ; các dịch vụ khoa học-công nghệ
gồm cả hữu hình và vô hình, vật chất và phi vật chất trong một môi trường
thể chế xác định.[28, tr. 13]
1.1.2. Nội dung phát triển thị trường khoa học-công nghệ
Phát triển thị trường khoa học - công nghệ là các hoạt động của các chủ
thể trên thị trường (đặc biệt là nhà nước) nhằm mở rộng và nâng cao chất
lượng hàng hoá và dịch vụ khoa học-công nghệ; làm cho các hoạt động trên
thị trường tuân thủ ngày càng đầy đủ hơn yêu cầu của các quy luật thị
trường.[28, tr. 33-34]
Trên thị trường KH - CN có các chủ thể chính tham gia là người cung,
người cầu sản phẩm khoa học, dịch vụ KH - CN. Người cung sản phẩm KH -
CN là các tổ chức cá nhân, các nhà sáng chế độc lập hoạt động trong lĩnh vực
KH - CN. Nguồn cầu về các sản phẩm KH - CN trên thị trường KH - CN là
doanh nghiệp, nhà nước, các tổ chức xã hội và các nhân khác. Các chủ thể
trên thị trường KH - CN không ngừng giao dịch mua bán hàng hóa dịch vụ
KH - CN làm cho số lượng giá trị hàng hóa được giao dịch tăng lên, số lượng
các chủ thể tham gia trị trường ngày càng nhiều làm cho quy mô thị trường
KH - CN tăng trưởng nhanh chóng. Sự gia tăng về số lượng, giá trị sản phẩm
KH - CN và các loại giao dịch trên thị trường thể hiện ở sự tăng trưởng có tốc
độ và biên độ đều, liên tục, ổn định hàng năm các loại hình sản phẩm KH -
CN như đối tượng sở hữu công nghiệp, máy móc, thiết bị, công nghệ thuần
túy...Chính hoạt động của các chủ thể trên thị trường đã mở rộng hàng hóa và
dịch vụ KH - CN. Nhu cầu các sản phẩm KH - CN ngày càng nhiều do đó
nguồn cung hàng hóa dịch vụ KH - CN cũng phong phú. Các doanh nghiệp tổ
chức cá nhân KH - CN cạnh tranh nhau để cung cấp các sản phẩm mới tiên
tiến hiện đại làm cho chất lượng hàng hóa dịch vụ KH -CN ngày được nâng
cao. Việc gia tăng nhanh chóng nhu cầu về sản phẩm KH - CN đặc biệt là nhu
cầu đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp cũng làm gia tăng quy mô của
thị trường KH - CN. Như vậy, hoạt động của các chủ thể trên thị trường KH -
CN làm cho hàng hóa, dịch vụ KH - CN mở rộng về số lượng và nâng cao về
chất lượng do đó làm gia tăng quy mô và tốc độ tăng trưởng thị trường KH -
CN làm cho thị trường KH - CN không ngừng phát triển. Hoạt động của các
chủ thể trên thị trường làm cho các hoạt động trên thị trường tuân thủ ngày
càng đầy đủ hơn yêu cầu của các quy luật thị trường như quy luật cung cầu,
quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị...Các chủ thể trên thị trường KH - CN đặc
biệt là Nhà nước đã xây dựng hệ thống văn bản pháp luật đầy đủ cho phát
triển thị trường KH - CN trên các lĩnh vực về SHTT, CGCN, và cạnh tranh.
Nhiều văn bản dưới dạng các luật, nghị định, thông tư...được ban hành như
luật KH - CN năm 2000, Luật SHTT năm 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2009),
Luật CGCN năm 2006; Luật tiêu chuẩn và các quy chuẩn kỹ thuật năm 2006;
Luật chất lượng sản phẩm hàng hóa năm 2007; Luật công nghệ cao năm
2008;...và các văn bản dưới luật để quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện
các luật nói trên như các nghị định thông tư. Nhà nước cũng điều tiết cung
cầu hàng hóa KH - CN, thực hiện các chính sách hỗ trợ thị trường và làm cầu
nối găn kết các chủ thể trên thị trường KH - CN. Nhờ có Nhà nước và các chủ
thể trên thị trường KH - CN mà hoạt động trên thị trường KH - CN ngày càng
sôi động, hiệu quả và tuân thủ đúng các văn bản pháp luật đã ban hành, tuân
thủ đúng các quy luật của thị trường. Nhờ đó thị trường KH - CN ngày càng
phát triển.
Như vậy, phát triển thị trường KH - CN tức là phát triển những yếu
tố và thể chế cần thiết, thúc đẩy tăng số lượng, chất lượng sự đa dạng của
các hàng hóa và giao dịch hoạt động mua bán công nghệ và các yếu tố
liên quan nhằm đáp ứng nhu cầu và khả năng của các bên tham gia cũng
như yêu cầu phát triển KT - XH chung của đất nước và địa phương phù
hợp với cơ chế thị trường.
Những nội dung chủ yếu của phát triển thị trường khoa học-công nghệ
là:
Thứ nhất, xây dựng khuôn khổ pháp lý cho thị trường khoa học-công nghệ.
Cụ thể là xây dựng hệ thống luật pháp về SHTT, luật pháp về CGCN, và
luật pháp về cạnh tranh. Luật pháp về SHTT của mỗi một quốc gia là khác
nhau nhưng nhìn chung đều thống nhất với những nguyên tắc chung của tổ
chức SHTT thế giới và các quy định trong hiệp định thương mại liên quan đến
SHTT của WTO. Nếu sản phẩm KH - CN được bảo hộ quyền SHTT thì sẽ có
khả năng kích thích mạnh mẽ hoạt động mua bán chuyển giao các sản phẩm
KH - CN. Việc xác lập quyền SHTT đồng thời cũng tạo ra địa vị độc quyền
của chủ sở hữu sản phẩm KH - CN trên thị trường. Vì vậy trong rất nhiều
trường hợp đã xẩy ra hành vi lạm dụng quyền SHTT để chống cạnh tranh. Vì
vậy song song với thiết lập luật pháp về SHTT các nước đồng thời phải xây
dựng luật pháp về cạnh tranh. ở nhiều nước công nghiệp quyền SHTT tuân
thủ luật canh tranh chung kể cả các điều khoản luật định, cũng như các hướng
dẫn khác. Các quyền SHTT và hiệu lực thi hành chung trở thành vấn đề trung
tâm trong luật cạnh tranh. ở các nước đang phát triển, luật pháp và chính sách
cạnh tranh thường không đầy đủ và thiếu các thể chế để giải quyết vấn đề lạm
dụng độc quyền đối với quyền SHTT nên đã gây ra tổn thất phúc lợi xã hội do
hành vi độc quyền gây nên. Luật pháp về CGCN bao gồm các dạng hợp đồng
KH - CN. Theo luật pháp Việt Nam hợp đồng KH - CN bao gồm : hợp đồng
nghiên cứu và phát triển công nghệ, hợp đồng CGCN và hợp đồng dịch vụ
KH - CN. Để thị trường KH - CN vận hành và phát triển cần thực thi nghiêm
túc hệ thống luật pháp hỗ trợ thị trường KH - CN.
Thứ hai, tăng cung về hàng hoá khoa học - công nghệ.
Hàng hóa KH - CN bao gồm sản phẩm KH - CN và dịch vụ KH - CN.
Sản phẩm KH - CN là kết quả hoạt động của bộ óc con người thu được qua
quá trình nghiên cứu sáng KH - CN và có một giá trị sử dụng nhất định. Dịch
vụ KH - CN là hoạt động liên quan đến quá trình tạo ra và lưu thông sản
phẩm của KH - CN trên thị trường. Hàng hóa KH - CN là một loại hàng hóa
đặc biệt khác với nhiều loại hàng hóa thông thường khác bởi hàng hóa KH -
CN là những sản phẩm vô hình chúng chỉ được vật chất hóa khi con người sử
dụng, nhiều hàng hóa KH -CN mang tính chất của hàng hóa công cộng. Để
phát triển thị trường KH - CN cần phải tăng cường các hoạt động mua bán
hàng hóa KH - CN, đặc biệt sản xuất nhiều hàng hóa KH - CN mới và tiên
tiến. Cung hàng hóa KH - CN sẽ tăng lên khi các sản phẩm KH - CN được
bảo hộ bằng quyền SHTT. Bởi vì khi người chủ sở hữu không sợ bị ăn cắp
khi nó được sử dụng rộng rãi. Đồng thời Nhà nước phải có nhiều chính sách
nguồn cung sản phẩm KH - CN ngày càng nhiều trên thị trường. Chủ thể cung
sản phẩm KH - CN trước hết là các tổ chức cá nhân hoạt động trong lĩnh vực
KH - CN, người cung sản phẩm KH - CN không bó hẹp trong khuôn khổ các
tổ chức nghiên cứu khoa học của Nhà nước như trước đây mà vai trò của các
tổ chức tư nhân đặc biệt các doanh nghiệp ngày càng trở nên quan trọng. Điều
đó đã được chứng minh qua thực tế ở nhiều nước trên thế giới. Trên thị
trường KH - CN các nhà sáng chế độc lập cũng là những người cung sản
phẩm KH - CN. Ngày nay trong điều kiện toàn cầu hóa và HNKTQT nguồn
cung các sản phẩm KH - CN không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia mà
còn hết sức dồi dào và đa dạng có nguồn xuất xứ rất đa dạng và phong phú từ
các nhà cung cấp nước ngoài. Như vậy nguồn cung về hàng hóa KH - CN rất
đa dạng phong phú vì vậy chỉ cần có chính sách thích hợp nhất định sẽ tăng
được nguồn cung về KH - CN.
Thứ ba, tăng cầu về hàng hoá khoa học-công nghệ.
Để thị trường KH - CN phát triển chúng ta cần phải tăng cầu về hàng hóa
KH - CN. Nhu cầu càng nhiều thì cung càng nhiều và ngược lại. Cầu về sản
phẩm KH - CN càng cao thì giá hàng hóa ngày càng thấp. Cầu về hàng hóa
KH - CN phụ thuộc vào năng lực khai thác của người mua và chính yếu tố đó
quyết định phương thức thanh toán và phương pháp tính giá trong hợp đồng
mua bán hàng hóa KH – CN. Về cơ bản có hai phương pháp tính giá là trọn
gói và từng phần. Phương pháp trọn gói là tính một lần do bên mua chịu trách
nhiệm về những rủi ro và giá tương đối thấp. Phương thức tính giá từng khâu
thì những rủi ro do cả hai bên chuyển giao và bên nhận chuyển giao cùng chịu
nên giá cả có thể cao hơn. Người có nhu cầu về sản phẩm KH - CN gồm:
doanh nghiệp, chính phủ, hộ nông dân, nông trại, và các tổ chức xã hội cá
nhân. Để tăng cầu về hàng hóa KH - CN kích thích nhu cầu đổi mới hoạt
động KH - CN của các doanh nghiệp. Hoạt động đổi mới là hoạt động thực
tiễn liên ngành, đa ngành xuất phát từ động cơ lợi nhuận giá trị gia tăng về
kinh tế và thường do các doanh nghiệp tiến hành. Do đó cầu về sản phẩm KH
- CN trước là của các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh. Cầu về sản phẩm
KH - CN là cầu dẫn xuất của cầu hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng. Khi xã hội
nền kinh tế cần có những sản phẩm mới dịch vụ mới thì doanh nghiệp sẽ tiến
hành đổi mới công nghệ sản xuất và sẽ xuất hiện cầu về sản phẩm KH - CN.
Chính phủ cũng có nhu cầu cao về sản phẩm KH -CN để xây dựng cơ sở hạ
tầng kỹ thuật mang tính chất hàng hóa công cộng trang bị cơ sở vật chất cho
các tổ chức kinh tế xã hội. Ngoài ra để đổi mới hoạt động của bộ máy công
quyền phục vụ cho xã hội Chính phủ cũng rất cần đến các sản phẩm công
nghệ mới. Vì vậy, tăng chi của chính phủ cho các sản phẩm KH - CN cũng là
việc kích cầu hàng hóa KH - CN. Trong lĩnh vực nông nghiệp cũng cần đến
các sản phẩm và dịch vụ KH - CN để duy trì đẩy mạnh sản xuất. Đặc biệt
ngày nay trong điều kiện quỹ đất đai ngày càng thu hẹp, trong khi dân số và
thu nhập ngày càng tăng lên, nên nhu cầu về số lượng và chất lượng của các
sản phẩm nông nghiệp đã tăng lên đáng kể, đòi hỏi người nông dân phải
không ngừng ứng dụng các tiến bộ KH - CN vào sản xuất. Vì vậy Nhà nước
cần có chính sách khuyến khích người dân áp dụng công nghệ vào sản xuất.
Đây cũng là biện pháp tăng cầu về hàng hóa KH - CN mà Nhà nước cần làm.
Như vậy, Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc tăng cầu về hàng hóa KH
- CN.
Thứ tư, xây dựng các tổ chức môi giới trên thị trường.
Các tổ chức trung gian ,môi giới trên thị trường bao gồm người cung cấp
các dịch vụ và người môi giới trên thị trường KH - CN. Các dịch vụ trên thị
trường KH - CN bao gồm các dịch vụ về hỗ trợ kỹ thuật, dịch vụ về thông tin,
dịch vụ tài chính , dịch vụ về pháp lý, dịch vụ giám định công nghệ và nhiều
loại dịch vụ khác nhằm xúc tiến thúc đẩy các giao dịch trên thị trường KH -
CN ...Do hàng hóa KH - CN có nhiều đặc điểm gây nhiều cản trở các giao
dịch mua bán, do đó để loại bỏ những cản trở này trên thị trường cần có các tổ
chức trung gian cung cấp dịch vụ và môi giới. Vai trò của các tổ chức trung
gian môi giới thể hiện ở việc điều tiết quan hệ cung cầu, lan truyền, phổ biến
công nghệ, cụ thể: Tập hợp các dạng hàng hóa KH - CN phân tán bởi các nhà
sản xuất khác nhau để có thể cung cấp cho các chủ thể có nhu cầu; Làm cầu nối
giữa cung và cầu hàng hóa KH - CN như cung cấp thông cần thiết, môi giới
trong đàm phán ký kết hợp đồngmua - bán công nghệ...; Điều hòa về mặt số
lượng, chất lượng, thời gian, không gian của hàng hóa KH - CN đã được tập hợp
để đi đến cân bằng cung cầu; Phân phối, mở rộng hàng hóa công nghệ một cách
đúng lúc đúng nhu cầu của người mua. Như vậy, các tổ chức trung gian, môi
giới làm giảm chi phí giao dịch và nâng cao hiệu suất trên thị trường nên để thị
trường KH - CN phát triển cần xây dựng các tổ chức môi giới trên thị trường.
Thứ năm, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
SHTT là công cụ thúc đẩy phát triển của thị trường KH - CN. Bất kỳ một
thị trường KH - CN nào mà không có hệ thống SHTT sẽ rơi vào tình trạng
không có giao dịch trên thị trường và cạnh tranh sẽ không lành mạnh. Bảo hộ
SHTT là việc luật pháp bảo đảm các điều kiện để chủ SHTT có thể thực thi
các quyền của mình, đồng thời ngăn chặn, xử lý mọi hành vi vi phạm các
quyền nói trên nếu không được phép của chủ sở hữu. Các chính sách bảo hộ
quyền SHTTkhông tĩnh mà luôn được sửa đổi, bổ sung phù hợp với sự phát
triển của thị trường KH - CN. Nếu sản phẩm KH - CN được bảo hộ quyền
SHTT thì sẽ có khả năng kích thích mạnh mẽ hoạt động mua bán chuyển giao
các sản phẩm KH - CN.
Thứ sáu, điều tiết, hỗ trợ thị trường.
Thị trường KH - CN cũng giống như thị trường khác, cung ở nơi này
nhiều nhưng cầu lại ít và ngược lại, các chủ thể trên thị trường không gắn kết
được với nhau.... Vì vậy Nhà nước điều tiết cung cầu và gắn kết các chủ thể trên
thị trường KH - CN thông qua những công cụ và chính sách điều tiết của mình.
Thông qua chính sách hỗ trợ như chính sách thuế, tín dụng và chính sách ưu đãi,
đầu tư đối với các hoạt động KH - CN, Nhà nước có thể thúc đẩy cung, cầu về
hàng hóa KH - CN trên thị trường hoặc làm cầu nối trung gian giữa các viện
nghiên cứu, trường đại học với doanh nghiệp. Đặc biệt Nhà nước thông qua các
chính sách điều tiết, hỗ trợ để khắc phục các khuyết tật của thị trường. Do đó
phải thực thi các chính sách điều tiết hỗ trợ thị trường mới phát triển.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển thị trường khoa học -
công nghệ
Phát triển KH - XH là sự tăng lên về số lượng, chất lượng, tốc độ và
Thứ nhất, trình độ phát triển kinh tế - xã hội
quy mô sản lượng của nền kinh tế gắn với sự hoàn thiện cơ cấu thể chế
kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội. Sự phát triển của nền kinh tế một mặt
tạo ra những điều kiện vật chất để đầu tư cho KH - CN, làm tăng cung về
KH - CN. Mặt khác, phát triển kinh tế còn làm tăng cầu về KH - CN do
nhu cầu của doanh nghiệp trong việc đổi mới công nghệ tăng lên. Tăng
trưởng kinh tế ở mỗi quốc gia có tác động rất lớn đến sự phát triển thị
trường KH - CN. Mức tăng trưởng cao, ổn định sẽ tác động tích cực đến sự
phát triển thị trường KH - CN vì nó tác độngtrực tiếp đến khả năng mua
hàng hóa KH - CN của tất cả các chủ thể tham gia thị trường. Những
nghiên cứu trên thế giới đã khẳng định gắn với mỗi mức tăng trưởng kinh
tế trong từng thời kỳ ở mỗi quốc gia thì tiềm lực KH - CN cũng như sự
phát triển của thị trường KH - CN cũng có mức tăng trưởng tương ứng.
Trình độ phát triển của nền kinh tế thị trường trực tiếp quyết định sự phát
triển của thị trường KH - CN. Nguyên nhân là, thị trường KH - CN là bộ
phận của nền kinh tế thị trường, có quan hệ chặt chẽ với các thị trường bộ
phận khác: thị trường tài chính, thị trường lao động, thị trường sản phẩm...
Bên cạnh tác động của sự phát triển kinh tế, sự phát triển xã hội tác động
trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực KH - CN. Từ đó, tác
động tích cực đến khả năng sáng tạo trong hoạt động KH - CN và ứng dụng
tiến bộ KH - CN. Văn hóa xã hội luôn là nền tảng, là điểm tựa cho mọi quá
trình kinh tế. Các nguồn lực kinh tế phát huy được hay không phụ thuộc rất
nhiều vào yếu tố này. Lịch sử của sự phát triển thần kỳ Nhật Bản, của các con
rồng Châu Á, của Trung Quốc... đã khẳng định yếu tố văn hóa - xã hội là một
trong những nguồn lực quyết định sự phát triển của cả nền kinh tế, trong đó
có KH - CN. Yếu tố văn hóa - xã hội phản ánh đặc điểm và chất lượng nguồn
lực con người. Trong nền kinh tế thị trường và trong quá trình TCH, cạnh
tranh khốc liệt hiện nay, nguồn nhân lực KH - CN đang trở thành mấu chốt
quan trọng nhất cho sự phát triển thị trường KH - CN. Nhà nước có vai trò
quan trọng trong phát triển KT - XH của một đất nước vì vậy để phát triển thị
trường KH - CN, Nhà nước ta phải không ngừng phát triển KH - XH.
Thứ hai, sự phát triển của các thể thế kinh tế
Thể chế cho việc phát triển thị trường là tập hợp các quy tắc, các cơ chế
thi hành và các tổ chức giao dịch thị trường [55,tr4]. Thể thế hỗ trợ thị trường
KH - CN tạo điều kiện cho người mua và người bán có thể gặp nhau và thoả
thuận được với nhau. Các thể chế này còn giúp cho các hoạt động giao dịch
được thực hiện theo các nguyên tắc thị trường. Thể chế cho việc phát triển thị
trường KH - CN gồm có: Tập hợp các quy tắc hỗ trợ thị trường KH - CN như
luật pháp về SHTT, luật pháp về CGCN và luật pháp về cạnh tranh; Các cơ
chế thi hành trên thị trường KH - CN; Các tổ chức giao dịch thị trường. Vai
trò của các thể chế thị trường đối với sự hình thành, phát triển thị trường KH -
CN rất quan trọng. Vai trò quan trọng của thể chế được quy định bởi hàng hóa
được trao đổi trên thị trường KH - CN có đặc tính của hàng hóa công cộng,
đồng thời việc nghiên cứu phát triển thị trường KH - CN yêu cầu một sự đầu
tư lớn và mang tính mạo hiểm, rủi ro cao nên để phát triển thị trường KH -
CN đòi hỏi một thể chế đầy đủ, một khuôn khổ pháp lý chặt chẽ để khắc phục
thất bại thị trường. Trong thể chế cho việc phát triển thị trường KH - CN thì
hệ thống chính sách là nội dung quan trọng nhất. Hệ thống chính sách là tổng
hợp các nguyên tắc và quy tắc do Nhà nước đặt ra hoặc chấp nhận để điều
chỉnh các mối quan hệ, các giao dịch giữa các chủ thể của thị trường KH - CN
dưới dạng các bộ luật hay những văn bản dưới luật mang tính pháp quy khác.
Nội dung các chính sách phát triển thị trường KH - CN bao gồm nhiều nội
dung khác nhau trong đó chủ yếu là chính sách về SHTT, chính sách về
CGCN, chính sách về canh tranh. Thể chế cho việc phát triển thị trường có
vai trò quan trọng vì vậy, Nhà nước cần phải tạo lập và thực thi đầy đủ các thể
chế đó để thị trường KH - CN phát triển được.
HNKTQT là sự gắn kết nền kinh tế của một nước vào các tổ chức kinh
Thứ ba, mức độ hội nhập kinh tế quốc tế [41]
tế khu vực và toàn cầu trong đó mối quan hệ giữa các nước thành viên có sự
ràng buộc theo những quy định chung. Việc phát triển thị trường KH - CN bị
tác động bởi những xu hướng của tiến trình HNKTQT như: Xu hướng bảo hộ
quyền SHTT trong hội nhập kinh tế quốc tế, xu hướng tự do hóa các hoạt
động đầu tư, thương mại, dịch vụ, di chuyển nhân lực quốc tế và các hoạt
động kinh tế khác; Xu hướng phân công lao động quốc tế trong việc thực hiện
các hoạt động KH - CN; Xu hướng tăng cường vai trò của các công ty xuyên
quốc gia trong việc di chuyển các nguồn lực trên thị trường KH - CN quốc tế
thông qua các hoạt động đầu tư, CGCN và tài trợ cho các tổ chức KH - CN;
Xu hướng thống nhất theo các quy định tiêu chuẩn quốc tế trong các hoạt
động giao dịch trên thị trường KH - CN. HNKTQT tạo ra nhiều cơ hội cho sự
phát triển của thị trường KH - CN như tạo điều kiện gia tăng số lượng và giá
trị hàng hóa trên thị trường tạo điều kiện cho hàng hóa đa dạng hơn, chất
lượng hơn; tạo điều kiện tăng nguồn cung trong nước về hàng hóa KH - CN;
thúc đẩy cầu hàng hóa KH - CN; Phát triển hệ thống tổ chức trung gian môi
giới trên thị trường KH - CN; HNKTQT góp phần nâng cao năng lực trình độ
của các chủ thể tham gia thị trường KH - CN tạo cơ hội cho các chủ thể tham
gia thị trường KH - CN phát huy được năng lực cạnh tranh, góp phần hoàn
thiện thể chế phát triển thị trường KH - CN... HNKTQT không chỉ mang lại
nhiều cơ hội mà còn tạo ra nhiều thách thức đối với sự phát triển của thị
trường KH - CN như : Tạo sức ép cạnh tranh đối với các chủ thể có năng lức
cạnh tranh yếu; gây nguy cơ biến thị trường KH - CN trở thành thị trường tiêu
thụ các sản phẩm KH - CN lạc hậu của thế giới; Hội nhập kinh tế quốc tế tạo
ra thách thức làm giảm năng lực của các chủ thể tham gia thị trường KH - CN
do tình trạng chảy máu chất xám và di chuyển nguồn lực tài chính; Làm tăng
chi phí tiếp cận thương mại các công nghệ tri thức bên ngoài do phải trả tiền
chủ sở hữu tài sản trí tuệ; HNKTQT còn đặt ra những thách thức đối với Nhà
nước trong việc quản lý điều tiết thị trường KH - CN. HNKTQT làm cho thị
trường KH - CN được mở rộng khoảng cách về không gian, thời gian giữa các
quốc gia trở nên mờ nhạt, các luồng hàng hóa dịch vụ, thông tin KH - CN
được luân chuyển với số lượng lớn, tốc độ nhanh. Vì vậy HNKTQT đặt ra
những vấn đề phức tạp đối với nhà nước ta trong việc quản lý kiểm soát can
thiệp và diều tiết thị trường KH - CN ở tầm vĩ mô. Nước ta muốn hội nhập
đầy đủ vào thị trường KH - CN thế giới trước hết phải tiến hành điều chỉnh hệ
thống pháp luật trong nước phù hợp với luật quốc tế và những quy định,
nguyên tắc của thể chế mà mình tham gia hội nhập. Đây là một thách thức lớn
bởi vì tập quán và thực tiễn hoạt động kinh doanh trong nước cũng phải thay
đổi cho phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế. Quá trình điều chỉnh này
rất phức tạp, khó khăn và cần nhiều thời gian. HNKTQT đòi hỏi những chi
phí đáng kể từ nguồn ngân sách nhà nước. Về ngắn hạn, chi phí này bao gồm
chi phí cho việc xây dựng, điều chỉnh hệ thống pháp luật, về dài hạn, là những
chi phí thường xuyên cho việc đảm bảo tuân thủ hệ thống pháp luật và chi phí
tham gia vào các tổ chức, thể chế quốc tế. Những chi phí này la một gánh
nặng tài chính đối với các quốc gia, đặc biệt những nước đang phát triển có
ngân sách eo hẹp. HNKTQT mang lại những thách thức đối với việc giám sát
thị trường của Nhà nước ta do có sự tham gia của thành viên mới, công cụ
kinh doanh mới kỹ thuật mới, công cụ kinh doanh mới, kỹ năng kinh doanh
mới mà yêu cầu hệ thống giám sát thị trường KH - CN phải được củng cố để
xử lý các tình hướng xảy ra. Sự tham gia của các chủ thể nước ngoài đem đến
mối đe dọa về việc thao túng và lạm dụng thị trường KH - CN. Nắm được
những cơ hội và thách thức của HNKTQT nước ta cần tranh thủ những cơ hội
và vượt qua những thách thức để phát triển thị trường KH - CN nước ta.
Thứ tư, chính sách điều tiết, hỗ trợ của Nhà nước
Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc tạo lập những điều kiện cho
sự hình thành, phát triển của thị trường KH - CN. Sự can thiệp của nhà nước
vào thị trường này cho phép phát huy nhưng ưu việt, khắc phục các khuyết tật
của thị trường.
Với tư cách là chủ thể quan trọng bậc nhất tham gia thị trường, Nhà
nước với những chính sách điều tiết vĩ mô của mình có tác động rất lớn đến
thị trường KH - CN.
Một là, tạo lập môi trường pháp lý cho sự hình thành, phát triển của thị
trường KH - CN.
Hai là, với các công cụ vĩ mô về tài chính, tín dụng, Nhà nước tác động
tích cực đến việc phát triển KH - CN, cũng như việc tạo ra các sản phẩm KH -
CN.
Ba là, duy trì một hệ thống các cơ sở nghiên cứu, hệ thống giáo dục, đào
tạo; duy trì bộ máy quan lý từ trung ương đến địa phương hỗ trợ tích cực cho
sự vận hành, phát triển, khắc phục các khuyết tật của thị trường KH - CN.
1.2. Vai trò của nhà nước trong phát triển thị trường khoa học - công nghệ
1.2.1. Tính tất yếu của vai trò Nhà nước trong phát triển thị trường
khoa học - công nghệ
Lý thuyết và thực tế về vai trò của Nhà nước trong quản lý phát triển các
quốc gia trên thế giới trong lịch sử đã trải qua nhiều thay đổi. Điều này có thể
thấy thông qua những học thuyết kinh tế nổi tiếng như: Học thuyết “bàn tay
vô hình” của A. Smith; học thuyết “điều chỉnh kinh tế vĩ mô” của Keynes; học
thuyết “kinh tế hỗn hợp” của P. Samuelson...Ngày nay xu hướng chung trên
thế giới ngày càng coi trọng sự quản lý của Nhà nước vào nền kinh tế nói
chung và thị trường KH - CN nói riêng.
Thị trường KH - CN cũng như các thị trường khác chứa đựng nhiều mâu
thuẫn và chỉ có Nhà nước mới có đủ thẩm quyền và khả năng để xử lý một
cách tối ưu. Các mâu thuẫn thường xuyên xảy ra và chỉ có Nhà nước mới có
thể giải quyết được các mâu thuẫn đó, điều hòa lợi ích giữa các bên.
Thị trường KH - CN tồn tại nhiều khó khăn phức tạp. Để thực hiện bất
kỳ một hoạt động nào cũng phải giải đáp ba câu hỏi: Có muốn làm không? Có
biết . làm không? Có phương tiện để thực hiện không? Có hoàn cảnh để làm
không? Nghĩa là, cần có những điều kiện chủ quan và khách quan tương ứng.
Không phải các tổ chức cá nhân nào cũng có đủ các điều kiện để tiến hành
các hoạt động trên thị trường KH - CN. Sự can thiệp của Nhà nước rất cần
thiết trong việc hỗ trợ các tổ chức cá nhân có những điều kiện cần thiết để có
thể tiến hành hoạt động KH - CN trên thị trường KH - CN.
Trong thị trường KH - CN Nhà nước đã lập ra một hệ thống các doanh
nghiệp KH - CN để kinh doanh những ngành những việc mà khu vực tư
không làm được, không muốn làm, khiến cho nhu cầu của xã hội không được
đáp ứng. Kinh tế nhà nước là phương tiện về tài chính làm cho Nhà nước có
sức mạnh để điều chỉnh các quan hệ trong thị trường KH - CN, vì vậy Nhà
nước đương nhiên phải thực hiện quản lý phần kinh tế nhà nước trong lĩnh
vực KH - CN, đương nhiên phải quản lý thị trường KH - CN.
Mặt khác, Thị trường KH - CN là thị trường đặc biệt khác với thị trường
hàng hóa tiêu dùng hay thị trường một số yếu tố sản xuất khác, thị trường KH
- CN không hoàn hảo về bản chất do đó Nhà nước tất yếu phải can thiệp vào
để thị trường này có thể phát triển được. Trên thị trường này luôn có sự bất
cân xứng về thông tin giữa người mua và người bán, chi phí giao dịch cao,
tính rủi ro cao, cơ chế hình thành giá đặc biệt, khó tổ chức chợ cố định theo
kiểu truyền thống và đặc biệt hiện tượng độc quyền luôn luôn tồn tại. Do đó
nếu không có sự quản lý của Nhà nước đối với thị trường KH - CN thì thị
trường này khó có thể phát triển được.
Như vậy, thị trường KH - CN là một thị trường đang trong quá trình phát
triển và là một thị trường đặc biệt khác với các thị trường khác do đó Nhà
nước tác động vào thị trường này là một đòi hỏi khách quan.
1.2.2. Các chức năng chủ yếu của Nhà nước trong phát triển thị
trường khoa học - công nghệ.
Thị trường KH - CN có tầm quan trọng đặc biệt đối với phát triển khoa
học-công nghệ. Bởi vậy, đây là lĩnh vực giành được sự quan tâm của nhiều
quốc gia. Để phát triển thị trường KH - CN, vai trò của nhà nước rất quan
trọng tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau đây.
Thứ nhất, tạo lập môi trường pháp luật
Để quản lý thị trường KH - CN, Nhà nước phải xây dựng, hoàn thiện và
thực hiện một hệ thống pháp luật về KH - CN nói chung và thị trường KH -
CN nói riêng. Xác định khuôn khổ đúng đắn cho các hoạt động KH - CN
trong nền kinh tế thị trường được xem như điều kiện tiên quyết hơn, đảm bảo
thị trường KH - CN hoạt động có hiệu quả. Môi trường pháp lý ảnh hưởng
trực tiếp đến quyết định của các chủ thể trên thị trường KH - CN. Vai trò của
pháp luật kinh tế nói chung và pháp luật về thị trường KH - CN nói riêng rất
quan trọng. Nhờ có hệ thống pháp luật mà xác định vị trí pháp lý cho các tổ
chức KH - CN. Bằng hệ thống pháp luật Nhà nước điều chỉnh hành vi kinh tế
trên thị trường xác định hành vi nào là hành vi hợp pháp, hành vi nào là hành
vi phi pháp. Luật pháp về KH - CN tạo ra luật chơi cho các chủ thể trên thị
trường. Thông qua pháp luật về KH - CN Nhà nước khẳng định chức năng
của mình đối với thị trường KH - CN phát huy tính tích cực và hạn chế những
tiêu cực của thị trường KH - CN. Nhà nước là người chủ yếu xây dựng nên
các yếu tố thể chế hỗ trợ cho thị trường KH - CN. Tại nhiều quốc gia tồn tại
cả thể chế chính thức và các thể chế không chính thức. Thể chế chính thức
bao gồm các quy tắc được Nhà nước luật hóa bằng các văn bản pháp luật và
các thể chế không chính thức thường vận hành bên ngoài hệ thống pháp luật.
Đối với các nước đang phát triển, song song với xây dựng hệ thống pháp luật,
Nhà nước đồng thời là nười tổ chức việc thực thi luật pháp trên thị trường KH
- CN. Yêu cầu này đặt ra thách thức lớn, vừa thể hiện vai trò hết sức quan
trọng của Nhà nước đối với thị trường KH - CN. Bởi vì khi đó Nhà nước phải
có đủ năng lực để vừa thiết lập hệ thống quy phạm pháp luật đầy đủ, vừa bảo
đảm thực thi chúng một cách có hiệu quả để đạt được các mục tiêu xác định.
Cùng với vai trò là người thiết lập các quy tắc thị trường và thực thi các quy
tắc đó trên thực tế thì ở các nước đang phát triển, Nhà nước cũng là người
khai sinh ra các tổ chức giao dịch thị trường.
Như vậy, hệ thống pháp luật về KH - CN có vai trò cần thiết để đảm bảo
cho thị trường này vận hành và phát triển, do đó Nhà nước cần tạo lập môi
trường pháp luật lành mạnh, hiệu quả, công bằng.
Thứ hai, khắc phục các khuyết tật thị trường
Cũng giống như các thị trường khác, thị trường KH - CN có nhiều ưu
điểm song cũng có nhiều nhược điểm. Thị trường KH - CN còn tồn tại hiện
tượng cạnh tranh không hoàn hảo như xuất hiện độc quyền nên không có sức
ép đổi mới kỹ thuật. Các doanh nghiệp hoạt động KH - CN hoạt động với
mục đích lợi nhuận tối đa vì vậy mà hiệu quả kinh tế không đảm bảo. Ngoài
ra trong thị trường này hiện tượng thông tin bất cân xứng tồn tại phổ biến,
việc định giá hàng hóa rất khó khăn ...Do một loạt các khuyết tật trên sự can
thiệp của Nhà nước để sửa chữa những khuyết tật là rất cần thiết. Hầu hết nền
kinh tế thị trường ở tất cả các nước đều có sự điều tiết của nhà nước đặc biệt
trong lĩnh vực KH - CN. Nhà nước quyết định chiến lược phát triển KH - CN
nói chung và thị trường KH - CN nói riêng qua từng giai đoạn, Nhà nước còn
đưa ra các kế hoạch cụ thể và tổ chức thực hiện kế hoach qua từng giai đoạn
cụ thể. Nhà nước điều tiết sự phát triển của thị trường KH - CN bằng các công
cụ vĩ mô như hệ thống pháp luật, chính sách về KH - CN và thị trường KH -
CN. Thông qua hệ thống chính sách vi mô, vĩ mô Nhà nước có thể tạo cung,
tạo cầu và thúc đẩy cung cầu dối với sản phẩm KH - CN. Bằng các chính sách
giảm thuế, ưu đãi đầu tư đối với các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng công
nghệ Nhà nước gián tiếp thúc đẩy cung, cầu về loại hàng hóa đó trên thị
trường. Ở các nước đang phát triển Nhà nước còn là người tạo lập nên sự
đồng bộ của các thị trường yếu tố sản xuất và là nhân tố gắn kết giữa nghiên
cứu với sản xuất...Như vậy thông qua các công cụ điều tiết mà Nhà nước đã
khắc phục sửa chữa được những thất bại trên thị trường KH - CN để thị
trường này ngày càng phát triển.
Thứ ba, định hướng, điều tiết
KH - CN là lĩnh vực rất rộng lớn, có nghĩa là KH - CN có thể phát triển
theo những phương hướng rất khác nhau. Nếu để phát triển tự phát, KH - CN
có thể phát triển theo những phương hướng không mong muốn hoặc không
phải là tốt nhất với nhà nước. Vì vậy Nhà nước phải định hướng cho sự phát
triển của thị trường KH - CN. Trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật
khách quan, căn cứ vào các mục tiêu phát triển KH - XH mà Đảng đã đề ra,
Nhà nước định hướng phát triển kinh tế nói chung và lĩnh vực KH - CN nói
riêng. Thực hiện chức năng định hướng của Nhà nước là: Xác định có căn
cứ khoa học những mục tiêu xây dựng chiến lược phát triển KH - CN trong
đó bao hàm cả thị trường KH - CN. Lập các quy hoạch, kế hoạch đồng thời
lựa chọn các biện pháp chủ yếu để đạt được các mục tiêu đó trong thời gian
nhất định.
Trong nền KTTT, đặc biệt trong thời kỳ mới chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch tập trung sang KTTT, hướng dẫn phát triển kinh tế, vì sự vận hành của
nền kinh tế thị trường mang tính tự phát và tính không xác định rất lớn. Do đó
Nhà nước phải thực hiện chức năng định hướng phát triển nền kinh tế nói
chung và thị trường KH - CN nói riêng. Điều này không chỉ cần thiết đối với
phát triển thị trường KH - CN mà còn cần thiết cho việc sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp. Điều này sẽ tạo cho các cơ sở sản xuất kinh doanh dự
đoán được sự biến đổi của thị trường, từ đó nắm lấy cơ hội trong sản xuất
kinh doanh cũng như lường trước những bất lợi có thể xảy ra, hạn chế những
bất lợi có thể xảy ra trong cơ chế thị trường.
Để thực hiện chức năng định hướng phát triển thị trường KH - CN, Nhà
nước phải tiến hành các công việc sau: Phân tích, đánh giá thực trạng của thị
trường KH - CN hiện nay, những nhân tố trong nước và quốc tế có ảnh hưởng
đến sự phát triển thị trường này; Dự báo phát triển thị trường KH - CN;
Hoạch định hướng phát triển thị trường KH - CN, bao gồm: Xây dựng đường
lối; Hoạch định chiến lược; Hoạch định chính sách phát triển KT - XH; Lập
chương trình mục tiêu và dự án để phát triển.
Thêm nữa Nhà nước còn điều tiết quan hệ thị trường KH - CN. Trong
khi quản lý thị trường KH - CN , Nhà nước phải vận dụng các quy luật khách
quan của kinh tế thị trường nhằm điều chỉnh, điều tiết, chi phối thị trường KH
- CN theo định hướng của Nhà nước, đảm bảo cho thị trường KH - CN phát
triển công bằng, ổn định và có hiệu quả. Đảm bảo mọi hoạt động trong thị
trường KH - CN phải đạt được hiệu quả cao nhất, mọi nguồn lực phải được sử
dụng tiết kiệm nhất nhưng cung cấp cho xã hội các hàng hóa và dịch vụ tốt
nhất. Để điều chỉnh, điều tiết thị trường KH - CN , Nhà nước sử dụng hàng
loạt biện pháp để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Như vậy, để thị trường KH - CN phát triển đúng hướng thì không thể
thiếu vai trò định hướng, điều tiết của Nhà nước.
Thứ tư, kiểm tra giám sát
Nhà nước không chỉ tạo lập hệ thống pháp luật và đưa ra nhiều chính
sách, chiến lược định hướng cho thị trường KH - CN hình thành và phát triển
mà Nhà nước còn thường xuyên kiểm tra, giám sát các hoạt động trên thị
trường KH - CN, đánh giá kiểm định các thành quả KH - CN. Công tác thanh
tra KH - CN được diễn ra thường xuyên nhằm xem xét đánh giá các hoạt
động của các cơ quan, đơn vị, cá nhân có liên quan có thực hiện đúng các quy
định hay không. Việc kiểm tra, giám sát được thực hiện bởi thanh tra KH -
CN. Thanh tra KH - CN có nhiệm vụ thanh tra việc thực hiện chính sách pháp
luật về KH - CN, xác minh kết luận kiến nghị việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực KH - CN. Thanh tra KH – CN có quyền
yêu cầu các đương sự , các bên có liên quan cung cấp chứng cứ và trả lời
những vấn đề cần thiết có liên quan; Trưng cầu giám định trong trường hợp
cần thiết; áp dụng các biện pháp ngăn chặn và xử lý vi phạm theo quy định
của pháp luật; Đoàn thanh tra và thanh tra viên phải chịu trách nhiệm về các
kết luận, quyết định và biện pháp xử lý của mình trong quyền thanh tra theo
quy định của pháp luật. Nhà nước thường xuyên đánh giá, kiểm định thành
quả KH - CN. Khâu này đòi hỏi phải có quy định cụ thể trong đó cần làm rõ :
cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức kiểm định; những sản phẩm không cần kiểm
định, các kỹ thuật được sử dụng để kiểm định; tiêu chuẩn của các chuyên gia
và nội dung kiểm định. Để các thị trường KH -CN ngày càng phát triển thì
việc kiểm tra, giám sát của Nhà nước đóng vai trò quan trọng không chỉ đối
với các nước mà còn đặc biệt quan trọng với nước ta.
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về phát huy vai trò nhà nước trong phát
triển thị trường khoa học - công nghệ
Mặc dù có những điểm khác biệt trong các mô hình kinh tế giữa các
nước, song có thể nói, hầu hết các nền kinh tế hiện nay đều được xây dựng
trên nền tảng của thể chế KTTT. Trong số đó, nhiều nước có nền KTTT phát
triển với một nền KH - CN hiện đại như Mỹ, Nhật, Anh, Đức, Pháp. Có
những nước mới nổi, nhưng trình độ phát triển kinh tế nói chung và KH - CN
nói riêng cũng đã đạt được nhiều thành tựu như Hàn Quốc. Có những nước
nổi lên trong quá trình chuyển đổi sang nền KTTT như Trung Quốc, nhưng đã
đạt được những thành tựu kinh tế, KH – CN đáng khâm phục. Vì vậy, nghiên
cứu kinh nghiệm của những nước đi trước để rút ra bài học trong việc nâng
cao vai trò của Nhà nước trong việc phát triển thị trường KH - CN nước ta là
điều rất bổ ích nhất là khi chúng ta đang trong quá trình thúc đẩy phát triển
nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và HNKTQT ngày càng
sâu rộng hơn. Sau đây là kinh nghiệm của một số nước.
1.3.1. Vai trò Nhà nước trong phát triển thị trường khoa học - công
nghệ ở Trung Quốc.
Nhà nước Trung Quốc đã tiến hành cải cách kinh tế và ban hành quyết
định cải cách hệ thống KH - CN để mở đường cho thị trường KH - CN ra đời.
Công cuộc cải cách kinh tế được tiến hành từ năm 1978 đã có tác động lớn
đến hệ thống KH - CN và cải cách hệ thống này đã trở thành một bộ phận cấu
thành quan trọng trong quá trình cải cách kinh tế của Trung Quốc. Đến năm
1985 cơ sở pháp lý đầu tiên cho sự ra đời của thị trường công nghệ Trung
Quốc đánh dấu bởi “ Quyết định về cải cách hệ thống khoa học - công nghệ” ,
trong đó quy định thực hiện cơ chế thị trường trong vận hành hệ thống R&D.
Mục đích hình thành thị trường công nghệ là “nơi” trung gian diễn ra các giao
dịch giữa bên cung ( tổ chức R&D) và bên cầu KH - CN (người sử dụng các
sản phẩm của tổ chức R&D). Nhà nước Trung Quốc ban hành luật để thị
trường KH - CN vận hành. Để thị trường này có thể vận hành một loạt quy
định đã được ban hành như Luật về hợp đồng công nghệ năm 1987. Các giao
dịch liên quan đến công nghệ cũng được qui định cụ thể tại luật này như hợp
đồng phát triển công nghệ, CGCN, hợp đồng tư vấn công nghệ, hợp đồng
dịch vụ công nghệ. Quyết định năm 1985 cũng qui định việc giảm trợ cấp của
Nhà nước đối với các tổ chức R&D nhằm gây áp lực và buộc các tổ chức này
phải chuyển hướng hoạt động theo nhu cầu thực tế về KH - CN.
Mặc dù vậy đến cuối những năm 1980, một thị trường công nghệ đầy đủ
vẫn chưa được hình thành ở Trung Quốc. Hệ thống KH - CN vẫn hoạt động
như các đơn vị hành chính và mối quan hệ giữa KH - CN với doanh nghiệp
chưa được cải thiện. Phân bổ nhân sự chưa hợp lý và tính linh hoạt trong di
chuyển nhân sự rất hạn chế. Các tổ chức R&D đã được trao quyền tự chủ
nhiều hơn, nhưng các tổ chức này rất khó khăn để tồn tại trên thị trường.
Vì vậy, Nhà nước Trung Quốc đề ra các biện pháp tiếp theo nhằm tăng
tính hiệu quả của thị trường công nghệ bao gồm : Sáp nhập các tổ chức R&D
vào các doanh nghiệp; Chuyển đổi các tổ chức công nghệ ngành đặc biệt là
chương trình hỗ trợ thành lập các doanh nghiệp công nghệ mới (NTEs) và
phát triển mạnh mẽ hơn các thể chế hỗ trợ thị trường.
Có thể nói, cải cách của Trung Quốc trong lĩnh vực này bắt nguồn từ
những thay đổi về tư duy về vai trò và phương thức can thiệp của Nhà nước
vào hoạt động KH - CN. Nhà nước chuyển từ vai trò là người chỉ huy và tham
gia trực tiếp sang là người tạo môi trường thuận lợi và khuyến khích các hoạt
động KH - CN; tạo điều kiện gắn kết hoạt động KH - CN với phát triển kinh
tế thông qua thương mại hóa kết quả nghiên cứu KH - CN và tạo môi trường
kinh doanh cạnh tranh thúc đẩy các doanh nghiệp hướng tới đổi mới công
nghệ, từ đó tăng cầu về hàng hóa KH - CN. Nghiên cứu kinh nghiệm của
Trung Quốc trong lĩnh vực này có thể rút ra một số kinh nghiệm về vai trò
của Nhà nước trong việc phát triển thị trường KH - CN như sau:
Một là, Nhà nước phải ban hành hệ thống văn bản pháp luật cho phát
triển thị trường KH - CN.
Để đảm bảo cho thị trường KH - CN hoạt động trong môi trường
pháp lý thuận lợi, Nhà nước Trung Quốc đã ban hành nhiều văn bản qui phạm
pháp luật liên quan như:
+ Luật SHTT
+ Luật hợp đồng công nghệ, đăng ký công nhận hợp đồng công nghệ,
các biện pháp ưu đãi
+ Luật thúc đẩy chuyển hóa thành quả KH - CN
+ Qui định về hệ thống dịch vụ giao dịch công nghệ
+ Qui định về cấp chứng chỉ hành nghề môi giới công nghệ
+ Qui định về đánh giá tài sản công nghệ
+ Qui định về quản lý thị trường thông tin
Khi thiết kế các điều luật trên, Trung Quốc rất chú ý đến khả năng
thực thi các điều luật đó trên thực tế. Đồng thời đặc biệt quan tâm đến việc
nâng cao hiệu lực của các văn bản pháp luật bằng cách:
+ Ban hành các chế tài đủ mạnh để trừng phạt những hành vi trái
pháp luật và đảm bảo thực thi các chế tài đó
+ Nâng cao năng lực của hệ thống các cơ quan thực thi pháp luật
nhằm cải thiện tốt hơn và thuận lợi hơn cho các đối tượng tham gia
+ Các dịch vụ hỗ trợ việc thực thi văn bản pháp luật phải được mở
rộng theo hướng thuận lợi và hõ trợ những đối tượng tham gia như thủ tục
hành chính đăng ký hợp đồng công nghệ, các dịch vụ đăng ký bảo hộ quyền
SHTT, hệ thống thông tin liên quan đến các văn bản pháp luật ban hành
Hai là, Nhà nước Trung Quốc tiến hành cải cách các tổ chức R&D để
thương mại hóa các hoạt động và sản phẩm KH - CN.
Thời kỳ đầu của cải cách theo hướng này Nhà nước đã thực hiện:
+ Giảm trợ cấp đối với các tổ chức R&D nhằm gây áp lực và buộc các tổ
chức này phải chuyển hướng hoạt động theo nhu cầu thực tế về KH - CN.
Đồng thời, Nhà nước cũng cho phép tất cả các tổ chức R&D và các cá nhân
được phép giữ lại một phần thu nhập từ thị trường của mình nhằm kích thích
hoạt động R&D.
+ Nâng cao quyền tự chủ của các tổ chức nghiên cứu và phát triển R&D.
Các giám đốc tổ chức R&D được trao quyền tự chủ hơn trong việc quyết định
về một dịch vụ R&D trong hợp đồng với khách hàng của họ; thành lập liên
doanh với các doanh nghiệp, bộ phận thiết kế mẫu mã và các viện của các
trường đại học; bộ máy tổ chức và nhân sự của cơ quan; thu nhập của họ từ
hợp đồng và tham gia hoạt động hợp tác quốc tế được giữ lại ngoại tệ thu
được theo quy định của Nhà nước.
- Với các biện pháp trên nhiều tổ chức R&D vẫn không đứng vững
trên thị trường. Trước thực trạng trên, Nhà nước Trung Quốc đã thực hiện sáp
nhập các tổ chức R&D vào các doanh nghiệp nhằm kết nối R&D với trình
chuyển sang cơ chế thị trường không đủ năng lực tài chính khi sáp nhập.
Trong khi đó các tổ chức R&D không chỉ thiếu trang thiết bị mà còn thiếu
kinh nghiệm trong phối hợp nghiên cứu với sản xuất và khó thích nghi với
những thay đổi nhanh về cơ chế hoạt động và tổ chức của một doanh nghiệp
kinh doanh. Bên cạnh đó là nhận thức và nỗ lực của các bộ chủ quản. Kết quả
là chỉ có vài trong số vài nghìn tổ chức R&D tiến hành sáp nhập. Chính vì
vậy, thành lập các doanh nghiệp công nghệ mới và chuyển đổi hoàn toàn
nhằm cơ cấu lại các tổ chức R&D công nghệ ngành đang tồn tại là một bước
cải cách tiếp theo được thực hiện. Việc cơ cấu lại các tổ chức R&D theo năm
hình thức: Hợp nhất vào các doanh nghiệp đang tồn tại; tiếp tục thành lập các
tổ chức công nghệ mới và mở rộng các khu phát triển công nghệ; chuyển đổi
hoàn toàn sang loại hình doanh nghiệp công nghiệp mới và công nghệ cao;
chuyển đổi thành các Trung tâm nằng suất cung cấp dịch vụ công nghệ cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ và thành lập trung tâm tư vấn, cuối cùng là giữ
lại một số ít các viện của Nhà nước để cung cấp hạ tầng công nghệ cho nền
kinh tế.
Ba là, Nhà nước Trung Quốc chú ý xây dựng thể chế hỗ trợ thị trường:
* Hỗ trợ thị trường thông qua các chính sách tài chính, tín dụng:
- Thực hiện cơ chế cạnh tranh trong cấp vốn từ ngân sách và các nguồn
khác cho KH - CN. “Quĩ khoa học tự nhiên quốc gia” được thành lập (1986)
để phân phối vốn của chính phủ Trung ương cho nghiên cứu cơ bản và nghiên
cứu ứng dụng thông qua xét duyệt dựa trên nguyên tắc năng lực của bên đề
xuất dự án. Đồng thời áp dụng thủ tục đấu thầu cạnh tranh đầu tư của chính
phủ vào các dự án KH - CN đã được đưa vào kế hoạch 5 năm.
- Thực hiện các chính sách thuế, tín dụng ưu đãi và các chương
trình cho vay đặc biệt trong việc phát triển các sản phẩm mới quan trọng hoặc
đối với các doanh nghiệp công nghệ cao trong khu công nghệ cao.
* Chính sách nhằm nâng cao tính linh hoạt của nhân sự KH - CN bằng
cách thay thế chế độ biên chế suốt đời bằng tuyển dụng theo hợp đồng và cho
phép nhân sự KH - CN hành nghề thứ hai chừng nào họ hoàn thành tốt nhiệm
vụ chính được giao.
* Hình thành các tổ chức trung gian trên thị trường KH - CN:
- Thành lập Khu phát triển công nghệ mới. Các khu này giúp các
tổ chức công nghệ mới về các vấn đề cấp phép, đánh thuế, giao dịch quốc tế,
tuyển dụng lao động, SHTT...Một số khu còn đầu tư cơ sở hạ tầng vật chất
nhằm thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước, giống như các công viên
công nghệ, vườn ươm công nghệ...
- Thành lập các trung tâm dịch vụ cho các doanh nghiệp KH -
CN; trung tâm cung cấp dịch vụ KH - CN cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, trung tâm tư vấn…
- Tổ chức những hình thức chợ giao dịch công nghệ. Chợ công
nghệ là các hoạt động giao dịch công nghệ được tiến hành tại một điểm nhất
định trong một thời gian nhất định, tập trung triển lãm các thành quả công
nghệ, tổ chức các bên thương thảo với nhau và ký kết các hợp đồng chuyển
giao.
- Hình thành các thể chế tài chính như: Quĩ cho vay, Quĩ đầu tư
mạo hiểm, Sở giao dịch chứng khoán công nghệ đảm bảo cấp vốn cho các
hoạt động KH - CN.
Những cải cách trên đây của Nhà nước Trung Quốc để phát triển thị
trường KH - CN không phải là các biện pháp biệt lập mà gắn với toàn bộ quá
trình chuyển sang cơ chế thị trường, cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước,
tạo ra thị trường cạnh tranh khiến các doanh nghiệp phải tăng cầu đối với các
sản phẩm KH - CN. Vai trò của chính quyền địa phương trong phát triển thị
trường KH -CN và việc phân cấp trao thêm quyền cho các địa phương cũng
làm tăng hiệu quả vận hành của thị trường KH - CN.
1.3.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Hàn Quốc là một nước có nền kinh tế thị trường và cũng rất quan tâm đến
phát triển thị trường KH - CN. Thị trường KH - CN của Hàn Quốc khá phát
triển. Sau đây là một số kinh nghiệm đặc biệt phát triển cung và liên kết cung
cầu của Nhà nước Hàn Quốc trong phát triển thị trường KH – CN bao gồm:
Một là, Nhà nước tổ chức các chợ công nghệ để tạo môi trường thuận
lợi cho bên cung, bên cầu và các nhà đầu tư gặp gỡ.
Từ những năm 1990, Nhà nước Hàn Quốc đã tổ chức nhiều hội chợ
công nghệ tạo môi trường thuận lợi giúp cho người bán và người mua công
nghệ và các nhà đầu tư gặp gỡ nhau. Hội chợ chỉ tổ chức với số lần hạn chế
trong năm. Để khắc phục nhược điểm này, Hàn Quốc đã hình thành “chợ
thương mại hóa công nghệ” của Trung tâm chuyển giao công nghệ Hàn Quốc.
Chợ thương mại hóa công nghệ khép kín giữa các khâu cung cấp công nghệ
kiểm tra công nghệ và đầu tư công nghệ. Bắt đầu từ tháng 8 năm 2001 chợ
công nghệ được tổ chức thường xuyên, phạm vi công nghệ trình diễn được
mở rộng gồm công nghệ của các viện, trường, doanh nghiệp, tổ chức cá nhân
cũng như công nghệ nước ngoài. Việc cung cấp thường xuyên cho thị trường
sẽ giảm thời gian và những chi phí không cần thiết trong việc tìm kiếm đối tác
và công nghệ tiềm năng cũng như tiến tới xây dựng hệ thống CGCN với chi
phí hiệu quả.
Hai là, Nhà nước Hàn Quốc còn thành lập các tổ chức trung gian hỗ trợ
CGCN để tăng cường thông tin về cung của hàng hóa KH - CN.
- Các tổ chức CGCN ở Hàn Quốc bao gồm các tổ chức CGCN khu vực
công, tư và các bộ phận làm chức năng CGCN thuộc các trường đại học và
các viện nghiên cứu nhà nước. Bất kỳ tổ chức nào có đủ tiêu chuẩn và có khả
năng thực hiện đều được đăng ký làm cơ quan CGCN. Do vậy, ngoài 16 tổ
chức của Nhà nước và các bộ phận làm chức năng CGCN thuộc các trường
đại học và các viện nghiên cứu nhà nước, đến tháng 1 năm 2004 đã có 173 tổ
chức chuyển giao công nghệ khu vực tư được đăng ký.
- Nhà nước Hàn Quốc đã xây dựng nhiều công viên công nghệ ở nhiều
điểm khác nhau trong nước hoạt động như Trung tâm chuyển giao công nghệ
vùng với mạng lưới CGCN thuộc các viện nghiên cứu và các trường đại học.
Chức năng của các Trung tâm chuyển giao công nghệ sẽ như là trung tâm của
vùng. Bốn công viên công nghệ đầu tiên được thành lập năm 2003. Năm 2004
có thêm từ 3 đến 4 Trung tâm CGCN ở các vùng của Hàn Quốc. Thực trạng
quy mô R&D của các thành phố tương ứng cũng như số lượng các công ty
sản xuất trong vùng sẽ được xem xét, lựa chọn, phát triển Trung tâm chuyển
giao công nghệ vùng. Trung tâm chuyển giao công nghệ vùng đóng vai trò
chính là trung tâm điều hành và kết nối của các trung tâm vùng và chịu trách
nhiệm về thủ tục để lựa chọn Trung tâm chuyển giao công nghệ vùng.
Ba là, Nhà nước cũng xây dựng hệ thống công tác thông tin về công
nghệ để cung cấp thông tin về nguồn cung của thị trường KH - CN.
Từ năm 2000 Hàn Quốc đã xây dựng cơ sở dữ liệu công nghệ từ các
trường đại học, các viện nghiên cứu và các công ty. Đến tháng 12 năm 2003
có khoảng 13.000 người đăng ký truy cập vào 900 trang thông tin có nội dung
chuyên sâu về phân tích thị trường; Về xu hướng thị trường, 230 lĩnh vực
công nghệ và 5.000 số liệu liên quan có thể được cung cấp.
Bốn là, Nhà nước Hàn Quốc chú trọng đẩy mạnh sự hợp tác nghiên cứu
giữa các viện R&D, trường đại học với các đối tác thương mại để tăng cường
nhân rộng các kết quả KH - CN.
Hầu hết các công nghệ, đặc biệt là công nghệ được nghiên cứu từ các
trường đại học và các viện nghiên cứu rất cần phát triển, nhân rộng hoặc bảo
vệ độc quyền sáng chế để áp dụng trong các ngành công nghiệp. Tuy nhiên
trong các trường đại học và các viện nghiên cứu của Hàn Quốc, nhận thức về
việc đầu tư kinh doanh công nghệ không được hiểu biết rộng rãi. Gần đây
nhiều nhà phát minh công nghệ đã bắt đầu nhận ra rằng sự hợp tác trực tiếp
giữa các nhà phát minh với các đối tác thương mại sẽ tăng cơ hội thương mại
hóa công nghệ lên mức cao nhất. Do đó, đã hình thành liên doanh giữa các
viện nghiên cứu với các công ty kinh doanh, trong đó viện nghiên cứu sẽ
nghiên cứu công nghệ còn doanh nghiệp sẽ đầu tư vốn.
1.3.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Nhận thức được thị trường KH - CN là một thị trường đặc biệt, nếu
không có sự can thiệp của Nhà nước thì thị trường này rất khó phát triển nên
các quốc gia đều có sự can thiệp vào việc xây dựng các điều kiện cần thiết
cho sự hình thành và phát triển thị trường này nhằm tạo môi trường thuận lợi
thúc đẩy các hoạt động, giao dịch trên thị trường KH - CN.
Từ kinh nghiệm của các nước đi trước về phát triển thị trường KH - CN
chúng ta đã rút được nhiều bài học cho phát triển thị trường KH - CN ở nước ta:
Thứ nhất, Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp
luật làm nền tảng cho thị trường KH - CN. Một tấm gương điển hình là Trung
Quốc, Trung Quốc nhận thấy rằng cơ sở đầu tiên để cho thị trường KH - CN
phát triển là phải có một hệ thống văn bản pháp luật cho thị trường này. Trung
Quốc đã ban hành nhiều văn bản pháp luật và từng bước hoàn thiện chúng
nhằm phát triển thị trường KH - CN. Bên cạnh đó Nhà nước ta cần linh hoạt
trong việc quản lý thị trường KH - CN khi thị trường này còn ở trạng thái sơ
khai, chưa phát triển. Mỗi một quốc gia khác nhau sẽ có một mô hình và cách
quản lý thị trường KH - CN khác nhau căn cứ vào bối cảnh và điều kiện cụ
thể của từng nước. Có những quốc gia Nhà nước phải can thiệp trực tiếp, có
những quốc gia Nhà nước chỉ đóng vai trò tạo môi trường thuận lợi và khuyến
khích các hoạt động KH -CN thông qua công cụ quản lý của Nhà nước. Việt
Nam cũng như Trung Quốc đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, các yếu
tố cơ bản của thị trường KH - CN chưa phát triển đầy đủ, các quan hệ thị trường
chưa được hình thành. Do đó nước ta học tập kinh nghiệm Trung Quốc trong
giai đoạn đầu của sự phát triển thị trường KH - CN cần phảiđược quản lý có hệ
thống và thống nhất. Nhà nước sẽ can thiệp trực tiếp vào một số nhân tố cơ bản
của thị trường KH - CN. Sau một thời gian cần thiết, Nhà nước chuyển sang vai
trò là người tạo môi trường thuận lợi và khuyến khích các hoạt động KH - CN.
Thứ hai, chính sách đầu tư có tác động trực tiếp tới sự hình thành và
phát triển thị trường KH - CN, đặc biệt là đầu tư của ngân sách Nhà nước.
Lượng vốn đầu tư vào thị trường KH - CN sẽ quyết định quy mô, trình độ
phát triển của thị trường. Vì vậy để phát triển thị trường KH - CN phải có
chính sách đầu tư thích hợp vào thị trường KH - CN. Nhận thức được vai trò
của việc đầu tư Nhà nước đối với phát triển thị trường KH - CN nước ta cần
gia tăng và chú trọng lượng đầu tư tuyệt đối cho phát triển thị trường này. Đặc
biệt nguồn đầu tư của Nhà nước tập chung cho giai đoạn đầu. Đầu tư của Nhà
nước phải hướng tới mục tiêu thúc đẩy sự phát triển các yếu tố cơ bản của thị
trường KH - CN, xây dựng cơ sở hạ tầng, hoàn thiện môi trường và tài trợ cho
những hoạt động mà khu vực tư nhân không muốn làm. Nhà nước ta cũng nên
chú trọng nâng cao hiệu quả đầu tư từ ngân sách nhà nước cho phát triển thị
trường KH - CN. Bên cạnh nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, Nhà
nước phải chú trọng việc đa dạng hóa thu hút vốn đầu tư từ xã hội cho phát
triển thị trường KH - CN. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi
cho đầu tư của tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân vào phát triển thị trường KH -
CN.
Nước ta cần chú trọng chính sách thuế, tín dụng ưu đãi để khuyến khích
các tổ chức KH - CN , các doanh nghiệp thực hiện các hoạt động đầu tư vào
nghiên cứu, phát triển, thử nghiệm các sản phẩm công nghệ mới. Nhà nước
miễn giảm thuế và hỗ trợ về tín dụng cho các chủ thể tham gia thị trường KH
- CN. Nước ta cần đưa ra nhiều hình thức miễn giảm thuế và hỗ trợ tín dụng
khác nhau trong đó tập trung vào chính sách miễn giảm thuế đối hoạt động
đầu tư đổi mới công nghệ của doanh nghiệp và chính sách hỗ trợ ưu đãi về
thuế đối với các tổ chức KH - CN. Nhà nước cũng phải khấu trừ các khoản
chi phí liên quan đến nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ vào thu nhập
chịu thuế, Cho vay với lãi suất thấp và thực hiện các ưu đãi về tín dụng để
thúc đẩy các chủ thể tham gia thị trường KH - CN phát triển, miễn giảm thuế
nhập khẩu các phát minh, sáng chế và sản phẩm KH - CN cao tiên tiến.
Thứ ba, Nhà nước ta cần xây dựng chính sách phát triển hệ thống các tổ
chức trung gian, môi giới và hoàn thiện các tổ chức trung gian, môi giới
nhằm gắn kết các chủ thể tham gia thị trường KH - CN. Để đáp ứng yêu cầu
phát triển các tổ chức trung gian môi giới trên thị trường KH - CN nước ta có
chính sách hỗ trợ và tạo điều kiện cho hệ thống các tổ chức này phát triển.
Hàn Quốc, Trung Quốc là những tiêu biểu cho việc xây dựng một thể chế cho
hệ thống các tổ chức trung gian, môi giới trên thị trường KH - CN phát triển.
Để hoàn thiện và phát triển các tổ chức trung gian môi giới các nước xác định
các mô hình tổ chức khác nhau, căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng nước
như Hàn Quốc xây dựng Trung tâm CGCN với nhiệm vụ là đầu mối kết nối
thông tin giữa các văn phòng CGCN với trung tâm mua sắm công nghệ và các
ngân hàng công nghệ quốc gia. Trung Quốc lại rất thành công trong việc xây
dựng mô hình sàn giao dịch Thượng Hải. Đây là đơn vị công ích, phi lợi
nhuận của Nhà nước với chức năng cung cấp thông tin về công nghệ. Tùy vào
điều kiện cụ thể mà nước ta cần xác định mô hình cho phù hợp.
Các quốc gia đều có chính sách tạo ra sự liên kết giữa các tổ chức KH -
CN, các trường đại học, viện nghiên cứu với các công ty các cơ sở sản xuất
kinh doanh. Các công ty đặt hàng với các tổ chức KH - CN để giải quyết
những vấn đề đặt ra trong thực tiễn sản xuất kinh doanh, các sản phẩm của
các tổ chức KH - CN đều hướng tới việc đổi mới công nghệ của các doang
nghiệp. Nhận thức được mối liên kết này, Nhà nước ta cần có chính sách
khuyến khích gắn kết giữa hoạt động nghiên cứu KH - CN với thực tiễn sản
xuất kinh doanh.
Tóm lại, để góp phần thúc đẩy phát triển thị trường KH - CN, các quốc
gia đã thực hiện nhiều biện pháp khác nhau một cách linh hoạt, đa dạng căn
cứ vào điều kiện, hoàn cảnh, và trình độ phát triển về kinh tế, KH - CN của
từng nước. Là một nước phát triển sau, Việt Nam cần học tập, vận dụng một
cách sáng tạo những kinh nghiệm của các nước đi trước để tìm ra phương
hướng và giải pháp xây dựng phát triển thị trường KH - CN.
*
* *
Phát triển thị trường KH - CN là một nội dung quan trọng để phát triển
tiềm lực KH - CN quốc gia, gắn kết nghiên cứu khoa học với thực tiễn sản
xuất kinh doanh tạo động lực cho nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và bền
vững. Phát triển thị trường KH - CN có nội dung chủ yếu là tăng cung về
hàng hóa KH - CN, tăng cầu về hàng hóa KH - CN, xây dựng khuôn khổ pháp
lý cho thị trường KH - CN, xây dựng các tổ chức môi giới trên thị trường,
thực hiện bảo hộ quyền SHTT, thực thi các chính sách điều tiết hỗ trợ thị
trường. Do thị trường KH - CN là thị trường đặc biệt có nhiều yếu tố đặc thù
nên cần được sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước. Vai trò của Nhà nước đối
với thị trường này rất quan trọng. Nhà nước không chỉ tạo lập môi trường
pháp luật mà còn khắc phục khuyết tật thị trường KH - CN như hiện tượng
cạnh tranh không hoàn hảo, thông tin bất cân xứng… Bên cạnh đó Nhà nước
còn định hướng và điều tiết sự phát triển của thị trường KH - CN để thị
trường KH - CN phát triển đúng định hướng. Nhà nước còn không ngừng
kiểm tra giám sát các hoạt động trên thị trường này. Vai trò của Nhà nước
trong thị trường KH - CN quan trọng nên việc học hỏi kinh nghiệm quốc tế để
phát huy vai trò của Nhà nước trong thị trường này là rất cần thiết. Nước ta
không ngừng học hỏi kinh nghiệm của các nước Châu Âu, Châu Á về phát
huy vai trò của Nhà nước trong thị trường KH - CN. Đặc biệt là các nước gần
gũi với chúng ta như Trung Quốc, Hàn Quốc. Qua đó, chúng ta đã học hỏi
được nhiều kinh nghiệm trong việc ban hành hệ thống văn bản pháp luật và
tăng cường hiệu lực thực thi các văn bản pháp luật cho phát triển thị trường
KH - CN; Kinh nghiệm về xây dựng thể chế hỗ trợ thị trường KH - CN như
các tổ chức trung gian, môi giới gồm chợ công nghệ, trung tâm dịch vụ công
nghệ khắp cả nước, các công viên công nghệ... Việt Nam cần rút ra những bài
học kinh nghiệm từ các quốc gia đi trước để xây dựng và phát triển thị trường
KH - CN thành công.
Chương 2 THỰC TRẠNG VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Khái quát quá trình phát triển thị trường khoa học - công nghệ
ở Việt Nam
2.1.1. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự phát triển thị trường
khoa học - công nghệ Việt Nam
Phát triển thị trường KH - CN chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác
nhau như đổi mới kinh tế, HNKTQT, năng lực KH - CN quốc gia, trình độ
phát triển của nền kinh tế thị trường, trình độ phát triển KT - XH, kết cấu hạ
tầng cho việc phát triển thị trường KH - CN...Tuy nhiên để tập trung phân tích
vai trò của Nhà nước trong phát triển thị trường KH - CN, Luận văn tách phần
tác động của Nhà nước đối với sự phát triển thị trường KH - CN để phân tích
riêng trong phần sau. Dưới đây là một số nhân tố khác.
Thứ nhất, năng lực KH - CN quốc gia
Năng lực KH - CN của một quốc gia là khả năng làm chủ về KH - CN
của quốc gia đó. Đó là năng lực sáng tạo thích nghi và sửa đổi công nghệ của
một quốc gia đó. Năng lực KH - CN quốc gia bao gồm các nội dung chủ yếu
sau: Khả năng tự mình nghiên cứu hoạch định chiến lược, chính sách phát
triển KH - CN quốc gia; Năng lực nhận dạng nhu cầu ưu tiên trong các hoạt
động KH - CN; Năng lực thẩm định và đánh giá KH - CN; Năng lực xây dựng
và phát triển các ngành công nghệ cao; Khả năng nghiên cứu cơ bản...
Năng lực KH - CN quốc gia là sự kế thừa các thành quả, năng lực nghiên
cứu đã tích lũy từ trước của một quốc gia. Nó quyết định đến khả năng sản
sinh và sáng tạo ra các công nghệ của quốc gia đó.
Năng lực KH - CN phải lớn mạnh đến mức độ nhất định mới có thể tạo
điều kiện để phát triển thị trường KH - CN. Năng lực KH - CN quốc gia là
nhân tố quyết định tới nguồn cung công nghệ nội sinh, cơ cấu hàng hóa KH -
CN và là tiền đề để thực hiện mở cửa, hội nhập vào thị trường KH - CN quốc tế.
Các công nghệ tiên tiến, công nghệ cao thường xuất phát từ những
nước có năng lực KH - CN mạnh bởi vì chỉ có những nước này mới đáp
ứng đầy đủ điều kiện về nhân lực, cơ sở hạ tầng, vốn, thông tin...để nghiên
cứu khoa học và phát triển công nghệ mới. Đối với những nước có năng
lực KH - CN thấp sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc triển khai các hoạt
động nghiên cứu phát triển công nghệ.
Năng lực KH - CN còn ảnh hưởng đến việc tiếp thu công nghệ bên
ngoài. Thông thường một quốc gia muốn tiếp thu được các công nghệ bên
ngoài thì bản thân quốc gia đó cũng phải đạt đến một mức năng lực KH - CN
nhất định. Ngoài ra, năng lực KH - CN còn ảnh hưởng đến tính chủ động của
các quốc gia khi tham gia vào quá trình hội nhập. Vì vậy để phát triển thị
trường KH - CN Nhà nước ta cần chú ý phát triển năng lực KH - CN của quốc
gia.
Thứ hai, nguồn nhân lực KH - CN ở Việt Nam
Nhân tố con người giữ vai trò quyết định đối với mọi hoạt động. Do đó,
sự phát triển KH - CN và thị trường KH - CN phải dựa vào trình độ phát triển
của nguồn lực con người trong lĩnh vực này. Trong mấy chục năm vừa qua,
Việt Nam đã đào tạo được đội ngũ cán bộ KH - CN có quy mô đáng kể. Tính
đến năm 2010, Việt Nam có trên 2,4 triệu người có trình độ đại học và cao
đẳng, trên 14.000 tiến sỹ. Hiện nay, hàng năm nước ta có khoảng trên dưới
300.000 sinh viên tốt nghiệp đại học và cao đẳng, cả công lập và ngoài công
lập. Năm 2005 là 210,9, 2008 là 222,7, 2009 là 246,6, 2010 là 318,3 nghìn
người. Số sinh viên tốt nghiệp ra trường ngày càng tăng cho thấy nguồn nhân
lực KH - CN ngày càng dồi dào. Số trường đại học và số lượng giáo viên của
những bậc đào tạo này hàng năm cũng tăng lên. Nếu như năm 2005 số
trường đại học cao đẳng là 277 thì đến năm 2010 là 414 trường. Chỉ tính
riêng trong các trường đại học cao đẳng, số giáo viên có trình độ trên đại học
năm 2003 là 17.628 người và hàng năm đội ngũ này tăng lên khoảng 2000
đến 3.000 người mỗi năm, năm 2005 đã là 23.861 người, năm 2010 là
38.298 người. Về cơ cấu độ tuổi, trong những năm gần đây, số lượng giáo
viên có trình độ trên đại học có tuổi đời trong khoảng 30 đến 50 tăng cao.
Điều này có nghĩa là đội ngũ giáo viên đang được trẻ hoá.
Tuy nhiên, điểm yếu của nguồn nhân lực KH - CN của Việt Nam là thiếu
các chuyên gia đầu ngành có tầm cỡ khu vực, quốc tế. Nguồn nhân lực KH -
CN được phân bổ rất không đồng đều, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn.
Năm 2010 Hà Nội có 19.928 giáo viên đại học, cao đẳng, Thành phố Hồ Chí
Minh 16.547 giáo viên đại học, cao đẳng. Trong khi đó cả nước có 74.573
giáo viên. Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 35,5% tổng số giáo viên
cả nước. Tính riêng đồng bằng sông Hồng, Hà Nội chiếm tới 68% lượng giáo
viên cao đẳng đại học toàn vùng; Thành phố Hồ Chí Minh năm 2010 -
86,9%.
Bảng 2.1: Giáo dục đại học và cao đẳng
Sốtrường học Công lập Ngoài công lập Số giáo viên Phân theo loại hình Công lập Ngoài công lập Phân theo giới tính Nam Nữ Số sinh viên Phân theo loại hình Công lập Ngoài công lập Phân theo giới tính Nam 2005 277 243 34 48,6 42,0 6,6 28,1 20,5 1387,1 1226,1 160,4 714,5 2008 393 322 71 60,7 54,8 5,9 32,4 28,3 1719,5 1501,3 218,2 872,6 2009 403 326 77 69,6 60,3 9,3 36,8 32,8 1956,2 1656,4 299,8 990,5 2010 414 334 80 74,6 63,3 11,3 39,3 35,3 2162,1 1828,2 333,9 1082,7 2011 419 337 82 84,2 70,3 13,9 43,1 41,1 2208,1 1873,1 335,0 1105,6
Nữ Số sinh viên tốt nghiệp Phân theo loại hình Công lập Ngoài công lập 672,6 210,9 195,0 15,9 846,9 222,7 208,7 14,0 965,7 246,6 223,9 22,7
1102,5 1079,4 398,2 318,4 334,5 278,3 63,7 40,0 Nguồn [65, tr. 616]
Bảng 2.2: Số giáo viên các trường đại học cao đẳng phân theo
trình độ chuyên môn
2005 2007 2008 2009 2010 2011
Tổng số 48541 56120 60651 69581 74573 84181
Trên đại học 23861 26586 30283 33901 38298 45521
đại học, cao đẳng 24169 29011 29757 34795 34776 37749
Trình độ khác 511 523 611 885 1499 911
Công lập 41976 51287 54751 60316 63329 70260
Trên đại học 19958 24105 27333 29987 32956 38697
26669 26866 29633 29089 30702 đại học , cao đẳng 21529
Trình độ khác 489 513 552 696 1284 861
Ngoài công lập 6565 4833 5900 9265 11244 13921
Trên đại học 3903 2481 2950 3914 5342 6824
đại học cao đẳng 2640 2342 2891 5162 5687 7047
Trình độ khác 22 10 59 189 215 50
Nguồn [65, Tr. 619]
Trong khi đó có những tỉnh như Hà Nam chỉ có 333 giáo viên đại học,
cao đẳng chiếm 0,01% trong toàn bộ vùng, cá biệt có Lai Châu chỉ có 36
người chiếm 0,0053%, Bắc Kạn 37 người chiếm 0,0054%...trong vùng
Trung du và miền núi phía bắc. Hơn thế nữa, nguồn nhân lực KH – CN ở
các tỉnh này lại có xu hướng giảm. Đây là một thực trạng rất đáng lo ngại chỉ
cho chúng ta thấy một số tỉnh đang có xu hướng đi xuống về nguồn lực cán
bộ trong các tổ chức khoa học. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến các chiến
lược phát triển KH - CN cũng như thị trường KH - CN, đặc biệt là các
chương trình phát triển KH - CN phục vụ sản xuất và phát triển kinh tế ở địa
phương.
Cùng với phát triển của nền kinh tế, số lượng cán bộ trong các cơ quan
nghiên cứu khoa học của nhà nước đang có xu hướng giảm dần: Năm 1985 cả
nước có trên 64.000 cán bộ; năm 1996 chỉ còn trên 39.200 cán bộ; năm 1997
là khoảng 40.000 cán bộ. Hiện nay, số lượng cán bộ trong các cơ quan khoa
học tăng dần song vẫn chưa bằng năm 1985. Đội ngũ cán bộ khoa học có sự
thay đổi và phân hoá. Một bộ phận không nhỏ cán bộ trong các cơ quan
nghiên cứu đã trở thành những doanh nhân, những cán bộ kỹ thuật trong các
doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước các cấp. Hiện nay, mặc dù nhà
nước đã có những thay đổi về đãi ngộ vật chất đối với đội ngũ cán bộ KH -
CN ở các trường đại học cao đẳng, các viện nghiên cứu nhưng xu hướng trên
vẫn tồn tại. Nếu xu hướng này gia tăng mạnh cũng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
nguồn nhân lực KH - CN trong các tổ chức này.
Hơn bao giờ hết, xây dựng đội ngũ cán bộ KH - CN không chỉ có ý
nghĩa quan trọng đối với phát triển thị trường KH - CN, mà đối với sự phát
triển KT - XH nói chung. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển nguồn nhân
lực KH - CN để đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nền KT - XH vẫn còn rất
nhiều tồn tại. Số lượng các trường đào tạo nghề tuy phát triển mạnh nhưng
quy mô vẫn nhỏ, hiệu quả chưa cao. Học sinh ra trường còn thiếu những kỹ
năng thực hành công việc, trình độ ngoại ngữ kém. Một số ngành nghề như cơ
khí chế tạo, khai thác mỏ, công nghệ thông tin.. vẫn thiếu lao động có trình độ
cao. Vì vậy Nhà nước cần chú trọng đến số lượng và chất lượng nguồn nhân
lực KH - CN để phát triển thị trường KH - CN.
Thứ ba, sự phát triển của kinh tế thị trường
Sự phát triển của KTTT thể hiện ở môi trường kinh doanh. Môi
trường kinh doanh càng minh bạch, rõ ràng, bình đẳng sẽ tạo ra sự cạnh tranh
lành mạnh, buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải nâng cao
năng lực cạnh tranh, cải tiến sản phẩm và đổi mới công nghệ, từ đó làm tăng
nhu cầu về sản phẩm KH - CN trên thị trường KH - CN, đặc biệt là những
nhu cầu công nghệ cao, công nghệ hiện đại. Môi trường kinh doanh của nền
kinh tế gồm nhiều nội dụng khác nhau như hệ thống thể chế, hành lang pháp
lý của nền kinh tế, hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan đến
phát triển thị trường KH - CN.
Môi trường kinh doanh lành mạnh cũng sẽ đảm bảo điều kiện tham gia,
rút lui khỏi thị trường của các chủ thể, các doanh nghiệp được dễ dàng. Điều
này là cần thiết để phát triển thị trường KH - CN, bởi vì nếu một chủ thể hoạt
động không hiệu quả, không phá sản được thì chủ thể đó sẽ làm tiêu tốn
nguồn lực, gây lãng phí và cản trở sự vận hành của thị trường KH - CN. Môi
trường kinh doanh của nền kinh tế phụ thuộc vào trình độ phát triển của nền
kinh tế. Nền kinh tế thị trường càng phát triển thì môi trường kinh doanh càng
lành mạnh, đầy đủ, rõ ràng. Vì vậy, Nhà nước cần tạo điều kiện để tạo một
môi trường kinh doanh minh bạch, rõ ràng, lành mạnh để tạo điều kiện cho thị
trường KH - CN phát triển.
2.1.2. Thực trạng thị trường khoa học - công nghệ Việt Nam
* Các giai đoạn phát triển
Thị trường KH – CN phát triển qua hai giai đoạn:
- Giai đoạn trước 2000: Giai đoạn hình thành thị trường KH - CN.
Trước khi có đường lối đổi mới 1986 nền kinh tế nước ta là nễn kinh tế
kế hoạch hóa tập trung bao cấp, thực hiện đồng loạt việc hành chính hóa, Nhà
nước hóa các hoạt động KT - XH trong các lĩnh vực bao gồm cả KH - CN.
Việc quản lý Nhà nước đối với hoạt động KH - CN theo kiểu mệnh lệnh hành
chính hoàn toàn phù hợp với yêu cầu tổ chức và quản lý trong thời kỳ này.
Trong thời kỳ này có một văn bản quy phạm pháp luật về KH - CN mang tính
đổi mới là quyết định 175/cp ngày 29/5/1981 của Hội Đồng Bộ Trưởng về
việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế trong nghiên cứu khoa học và kỹ
thuật. Đây là mầm mống cho sự phát triển của KH - CN.
Sau đổi mới đến năm 2000, đổi mới các cơ chế chính sách KT – XH nói
chung và cơ chế chính sách KH - CN nói riêng không ngừng được sửa đổi bổ
sung và hoàn thiện theo hướng phát triển nền kinh tế thị trường và HNKTQT.
Có một số văn bản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển KH -
CN, đổi mới cơ chế quản lý hoạt động KH - CN như quyết định số
134/HĐBT ngày 31/8/1987 của Hội Đồng Bộ Trưởng về biện pháp khuyến
khích hoạt động KH -CN, Pháp lệnh CGCN nước ngoài vào Việt Nam năm
1988, pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1989, Hiến pháp 1992
quy định KH – CN giữ vai trò then chốt trong sự phát triển KT - XH. Bộ luật
dân sự năm 1995 quy định khá chi tiết về bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu
công nghiệp và CGCN.
Như vậy, giai đoạn này đã có đầy đủ các yếu tố để thị trường KH - CN
hình thành.Quan niệm cũ trước đây coi đầu tư cho KH - CN , phát triển KH -
CN, tổ chức triển khai nghiên cứu ứng dụng kết quả KH - CN chỉ là việc của
Nhà nước, từng bước xây dựng và hoàn thiện các cơ chế, chính sách, và biện
pháp thúc đẩy ứng dụng, phát triển KH - CN theo yêu cầu phát triển nền
KTTT và HNKTQT.
- Giai đoạn 2000 đến nay: Giai đoạn phát triển thị trường KH - CN.
Trong giai đoạn này Nhà nước đã ban hành nhiều quy định về KH - CN
như : Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung, luật KH - CN 2000, luật sở hữu trí tuệ
2005 sửa đổi bổ sung 2009, luật chuyển giao công nghệ 2006, luật chất lượng
sản phẩm hàng hóa 2007, luật công nghệ cao 2008...và hàng loạt các văn bản
về KH - CN khác. Công tác tổ chức, quản lý KH - CN đã có nhiều chuyển
biến tích cực. Việc xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ KH - CN được
đổi mới theo hướng có trọng tâm trọng điểm, bám sát hơn các nhiệm vụ phát
triển KT - XH. Cơ chế quản lý các hoạt động KH - CN đã từng bước được đổi
mới theo hướng xã hội hóa và gắn kết giữa sản xuất với kinh doanh. Cơ chế
chính sách cho KH - CN cũng được đổi mới theo hướng tăng dần tỷ lệ chi cho
KH - CN trong tổng ngân sách nhà nước. Các thể chế hỗ trợ cho phát triển thị
trường công nghệ đã bước đầu được hình thành. Các quy định pháp lý về hợp
đồng KH - CN, hoạt động CGCN, SHTT đã được ban hành tạo điều kiện cho
việc thương mại hóa các thành quả KH - CN. Chợ công nghệ thiết bị đã được
tổ chức ở nhiều địa phương và phạm vi quốc gia hình thành kênh giao dịch thị
trường thúc đẩy hoạt đông mua bán thiết bị và các sản phẩm KH - CN. Trong
giai đoạn này nước ta đã tích cực thực hiện các cam kết đã ký kết ở giai đoạn
trước, gia nhập nhiều công ước, hiệp định mới như tham gia hiệp định về
những khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu tài sản trí tuệ
của WTO tháng 1 năm 2007, công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học
nghệ thuật và khoa học...Như vậy cùng với sự ra đời của luật KH - CN 2000
và một số văn bản pháp luật khác, đã tạo ra đầy đủ các yếu tố cho thị trường
KH - CN phát triển.
* Nhận xét về thị trường khoa học - công nghệ Việt Nam
Thị trường KH - CN là một bộ phận của nền kinh tế có vai trò to lớn
trong việc phát triển KT - XH. Thị trường KH - CN ở nước ta dù đã có nhưng
chỉ tự phát nên còn rất mới mẻ với cả bên cung và bên cầu công nghệ. Bên
cung là những tổ chức nghiên cứu KH - CN chưa có thói quen tiếp thị trau
chuốt hàng hóa chất xám của mình. Bên cầu rất lúng túng trong việc lựa chọn
công nghệ thích hợp cho mình vì không có thói quen tìm kiếm thông tin trước
khi quyết định, không biết cách định giá, đánh giá công nghệ cần mua.
Hầu hết công nghệ, thiết bị sử dụng trong các ngành ở Việt Nam có xuất
xứ nhập khẩu từ nước ngoài. Tri thức công nghệ được chuyển giao thông qua
kênh này thường là các kỹ năng vận hành hệ thống sản xuất để sản xuất ra
những sản phẩm đạt năng suất, chất lượng, chi phí ở mức độ hợp lý.
Trong thời gian qua Việt Nam đã nhập khẩu một số lượng lớn công nghệ
mới từ nước ngoài. Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, các công nghệ tiên
tiến được đưa vào còn chưa nhiều. Một nghiên cứu mới đây về chất lượng
công nghệ chuyển giao vào Việt Nam cho thấy, trên 727 thiết bị và 3 dây
chuyền sản xuất nhập khẩu trong 42 xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì
có 76 % thiết bị được sản xuất từ những năm 1950 - 1960, 50% là các máy
móc đã quá hạn sử dụng. Điển hình về công nghệ lạc hậu không thích hợp
như công nghệ chế biến đường, công nghệ sản xuất xi măng lò đứng 8 vạn
tấn/ 1 năm của Trung Quốc. Theo JETRO Nhật Bản, trong nhiều ngành
của Việt Nam còn nhập thiết bị lạc hậu, chảng hạn nhiều doanh nghiệp dệt
may Việt Nam nhập công nghệ thiết bị đã gần 10 tuổi thuộc dạng phế thải
của Hàn Quốc. Các doanh nghiệp nhập khẩu chủ yếu thiết bị máy móc, tỉ
trọng giá trị phần mềm chiếm khoảng 17% tổng giá trị nhập khẩu.
Thiết bị công nghệ nội sinh thường ở quy mô nhỏ, hầu hết từ các kết quả
của các đề tài nghiên cứu. Việc mua bán, dịch vụ kỹ thuật cũng mới chỉ xuất
hiện trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng. Dịch vụ kỹ thuật trong các lĩnh
vực khác, đặc biệt khu vực kinh doanh nhỏ và vừa, khu vực nông nghiệp nông
thôn hầu như chưa phát triển. Dịch vụ nghiên cứu và triển khai (R&D) theo
đặt hàng của doanh nghiệp, của khu vực nhà nước trong mấy năm gần đây tuy
đã xuất hiện nhưng còn rất hạn chế. Hoạt động tư vấn, dịch vụ giám định,
đánh giá công nghệ chưa phát triển. Chưa có tổ chức nào được công nhận
rộng rãi, có uy tín. Dịch vụ của nước ngoài đòi hỏi chi phí cao, không phù
hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, việc CGCN đặc biệt CGCN gắn với
sáng chế, giải pháp hữu ích còn ít. Nội dung chủ yếu thường là truyền đạt kỹ
năng vận hành hệ thống sản xuất, kỹ năng giám định chất lượng...
Để nâng cao năng lực cạnh tranh và chuẩn bị các điều kiện cho
HNKTQT mấy năm gần đây nhiều hoạt động xúc tiến phát triển thị trường
KH - CN được triển khai. Đáng chú ý là sự xuất hiện một số chợ công nghệ
và thiết bị (techmart). Chợ công nghệ và thiết bị được tổ chức trên cơ sở xác
lập thông tin về cung và cầu công nghệ của các tổ chức cá nhân tham gia giao
dịch mua bán công nghệ. Đây được xem là một trong những giải pháp cần
thiết để tạo môi trường gắn kết nhà khoa học, nhà quản lý, với nhà kinh
doanh, sản xuất, trong đó cơ quan quản lý nhà nước giữ vai trò hỗ trợ tạo lập
và thúc đẩy phát triển thị trường KH - CN. Do tác dụng của nó đối với thực
tiễn nên Techmart được phát triển nhiều về tổ chức, quy mô, và phạm vi hoạt
động. Theo số liệu thống kê từ năm 1999 đến nay đã có trên 30 Techmart
được tổ chức thu hút sự tham dự của hàng nghìn công nghệ thiết bị , giải pháp
phần mềm, dịch vụ công nghệ và tổng giá trị đã kí kết mua bán lên tới hàng
nghìn tỷ đồng.
Cùng với chợ công nghệ và thiết bị, trên mạng ( Techmart ảo) đã xuất
hiện. Chợ hoạt động dựa trên sự hỗ trợ của các phương tiện công nghệ thông
tin và truyền thông hiện đại. Công cụ này cho phép mở rộng giới hạn về
không gian và thời gian giao dịch. Có thể nói đây là một công cụ hữu hiệu
nhằm xúc tiến chuyển giao công nghệ, các kết quả nghiên cứu khoa học cho
doanh nghiệp và quảng bá tuyên truyền các thành quả KH - CN. Việc sử dụng
techmart ảo trợ giúp đáng kể chi phí quảng cáo, tiếp thị, giao dịch công nghệ.
Các tổ chức cá nhân có thể nắm bắt kịp thời những thông tin mới nhất, tìm đối
tác và bán hàng một cách nhanh chóng, tăng cường khả năng lựa chọn công
nghệ thích hợp để đổi mới công nghệ và hoàn thiện các kết quả nghiên cứu
KH - CN.
Tuy nhiên cả chợ công nghệ và kỹ thuật thật và chợ công nghệ và kỹ
thuật ảo không phải hoàn toàn có ưu điểm mà không có mặt hạn chế.
Techmart thật thường chỉ có thể diễn ra và kéo dài trong 3-4 ngày, không thể
tổ chức thường xuyên và khắp mọi nơi được. Còn techmart ảo thì không phải
ai cũng có điều kiện lên mạng.
Để khắc phục hạn chế này, gần đây đã xuất hiện một hình thức tổ chức
mới là Trung tâm giao dịch công nghệ. Sự ra đời của công cụ này nhằm hình
thành một nơi giao dịch công nghệ cố định, thường xuyên mà vẫn hội tụ tất cả
các công việc cần phải chuẩn bị cho Techmart mà không bị hạn chế về không
gian và thời gian. Có thể nói Trung tâm giao dịch công nghệ có khả năng lồng
ghép cả ba chức năng: Nơi trưng bày giới thiệu sản phẩm công nghệ, thiết bị;
nơi truy cập vào Techmart ảo; nơi tư vấn, hỗ trợ các doanh nghiệp giao dịch
đàm phán, ký kết hợp đồng công nghệ. Trung tâm mặc dù mới ra đời và đưa
vào hoạt động nhung đã mang lại nhiều kết quả đáng khích lệ.
Tóm lại, thị trường KH - CN nước ta còn rất mới, đang trong quá trình
hình thành và còn ở mức độ sơ khai. Lượng giao dich chủ yếu giữa các đối tác
trong nước và nước ngoài trên thị trường công nghệ còn rất ít, đơn điệu và
còn mang tính tự phát. Nói một cách khác, nước ta hầu như chưa có thị trường
KH - CN theo đúng nghĩa hay đang trong quá trình hình thành. Môi trường
pháp lý cho hoạt động của thị trường công nghệ còn rất sơ khai, hiệu lực của
pháp luật còn bị coi nhẹ. Cơ chế, chính sách thúc đẩy cung cầu hàng hóa công
nghệ nhận thức chưa rõ, nên chưa thực sự khuyến khích tạo ra nhiều hàng hóa
công nghệ và hình thành thị trường KH - CN. Nhiều doanh nghiệp chưa quan
tâm đến đổi mới công nghệ và chưa coi đó là yếu tố quyết định trong phát
triển doanh nghiệp và nâng cao năng lực cạnh tranh. Chi tiêu của khu vực
doanh nghiệp cho nghiên cứu triển khai rất ít. Những chính sách ưu đãi
khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng KH - CN quá phức tạp rườm rà. Nói
cách khác, cầu về hàng hóa công nghệ trong mối quan hệ cung cầu hàng
hóa công nghệ còn thấp, cản trở sự hình thành và phát triển thị trường KH -
CN. Việc hình thành các bộ phận nghiên cứu triển khai tại Việt Nam đối
với các công ty nước ngoài hầu như không có. Các tập đoàn kinh tế đa
quốc gia và xuyên quốc gia chưa xuất hiện nhiều ở Việt Nam, trong số hơn
5000 công ty xuyên quốc gia hàng đầu thế giới, hiện chỉ có khoảng 80 công
ty ở Việt Nam. Hầu như rất ít tổ chức nghiên cứu triển khai hoạt động theo
cơ chế doanh nghiệp. Các kết quả nghiên cứu chỉ dừng lại ở quy mô thử
nghiệm, không được sản xuất ở quy mô công nghiệp do thiếu sự liên kết
giữa các tổ chức nghiên cứu và doanh nghiệp.
Sự chậm trễ trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn hình thành và phát triển
thị trường KH - CN vừa qua là nguyên nhân cản trở việc khai thác và phát
huy tiềm lực KH - CN, cản trở việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế và chậm thu hẹp khoảng cách tụt hậu xa về kinh tế, kỹ thuật và công
Như vậy, thị trường KH - CN đã đạt được nhiều kết quả như : Các sản
nghệ của nước ta so với các nước trong khu vực và thế giới.
phẩm và dịch vụ KH - CN trên thị trường ngày càng nhiều; Chủ thể tham gia
thị trường KH - CN ngày càng tăng; các yếu tố thể chế hỗ trợ thị trường KH -
CN ngày càng hoàn thiện hơn tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động mua bán
CGCN. Tuy nhiên, thị trường KH - CN cũng còn nhiều hạn chế là sản phẩm
dịch vụ là hàng hóa KH - CN còn quá nghèo nàn, ít về số lượng và thiếu đa
dạng về chủng loại, năng lực của các chủ thể tham gia vào thị trường KH -
CN còn hạn chế; các yếu tố về thể chế hỗ trợ trị trường tuy đã được hình
thành và ngày càng hoàn thiện nhưng hiệu quả thực thi còn thấp. Những hạn
chế này chủ yếu là do vai trò của Nhà nước đối vời thị trường này còn rất mờ
nhạt vì vậy cần tăng cường vai trò của Nhà nước đối với thị trường này.
2.2. Vai trò của Nhà nước trong quá trình phát triển thị trường khoa
học -công nghệ ở Việt Nam
2.2.1. Tạo lập môi trường pháp luật
Từ nền kinh tế chỉ huy tập trung quan liêu bao cấp thông qua đổi mới để
chuyển sang mô hình kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước, phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa nay là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong
thời gian qua, Nhà nước ta đã có nhiều văn bản chính sách, luật pháp về
SHTT, CGCN và phát triển thị trường KH- CN. Từ khi có Nghị quyết số
37/NQ/BCT năm 1981 đến nay, Quốc hội, Chính phủ Việt Nam đã có hàng
trăm văn bản luật, dưới luật để cụ thể đường lối, chủ trương của Đảng về phát
triển KH - CN và thị trường KH - CN. Trước khi có Pháp lệnh bảo hộ quyền
sở hữu công nghiệp 1989, nước ta đã có hàng loạt Nghị định và Điều lệ về
nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, giải pháp hữu ích về mua bán li-
xăng. Sau đó, các Nghị định đó từng bước được hoàn thiện. Nghị định số
84/HĐBT (20/3/1990) “Về việc sửa đổi bổ sung Điều lệ về sáng kiến cải tiến
kỹ thuật - hợp lý hoá sản xuất và sáng chế, Điều lệ về nhãn hiệu hàng hoá,
Điều lệ về giải pháp hữu ích, Điều lệ về kiểu dáng công nghiệp, Điều lệ về
mua bán li-xăng” [39] được ban hành theo hướng đó. Với Nghị định này,
Việt Nam đã cụ thể hơn việc công nhận quyền sở hữu công nghiệp và coi các
hàng hoá thuộc đối tượng sở hữu công nghiệp như một loại hàng hoá đặc biệt
và có quyền trao đổi theo những quy tắc nhất định mà Điều lệ đặt ra. Đây
cũng là những nguyên tắc đầu tiên cho việc hình thành thị trường KH - CN
Việt Nam.
Nghị quyết 26 NQ/ TW ngày 30/3/1991 của Bộ Chính trị về “Khoa
học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới” [7] chỉ rõ vai trò của KH - CN
trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, phải xây
dựng tiềm lực KH - CN, xây dựng cơ chế quản lý KH - CN phù hợp với cơ
chế kinh tế này. Nghị quyết còn đề cập đến việc mở rộng quyền tự chủ của
các cơ sở nghiên cứu triển khai, quan tâm đúng đắn đến đội ngũ cán bộ khoa
học kỹ thuật, thành lập Hội đồng chính sách khoa học quốc gia, tăng cường
đầu tư ngân sách cho hoạt động KH - CN. Trước đó, ngày 20/1/1981, Bộ
Chính trị đã ra Nghị quyết về chính sách khoa học kỹ thuật, coi khoa học vừa
là công cụ vừa là căn cứ để thực hiện thắng lợi các kế hoạch KT - XH.
Tiếp đó Nghị định 35/ HĐBT về công tác quản lý KH- CN của Hội đồng
Bộ trưởng ban hành 28/01/1992 ghi nhận quyền của các tổ chức KH - CN, tập
thể khoa học, các nhà khoa học, cơ sở nghiên cứu, đào tạo, sản xuất, lực lượng
vũ trang được bình đẳng hoạt động KH - CN, thành lập các tổ chức KH - CN.
Ngày 30/7/1994, Ban chấp hành Trung ương khoá VII đã họp và ra
Nghị quyết 07 NQ/HNTW về “Phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm
2000... xây dựng giai cấp công nhân trong thời đại mới”. Nghị quyết đã chỉ rõ
phải gắn KH - CN với sản xuất, dịch vụ; gắn các chương trình phát triển KH -
CN với các chương trình phát triển KT - XH. Mở rộng phương thức ký kết
hợp đồng nghiên cứu. Khuyến khích sự sáng tạo của các nhà khoa học, đồng
thời coi trọng phát huy sáng kiến của mọi người lao động, từ đó đầu tư có
chiều sâu cho việc phát triển công nghệ phục vụ cho hoạt động sản xuất, tiêu
dùng. Lần đầu tiên Ban chấp hành Trung ương Đảng đề cập thị trường KH -
CN: “Tạo lập thị trường để sản phẩm của hoạt động khoa học công nghệ
được trả giá đúng mức và lưu thông như một dạng hàng hoá đặc biệt”. Cùng
với thay đổi về tư duy, Nghị quyết cũng khẳng định phải thực hiện tốt Pháp
lệnh về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và Pháp lệnh CGCN đồng thời
khẳng định phải sớm ban hành Luật KH - CN.
Quyết định 419/ TTG ngày 21/7/1995 của Thủ tướng Chính phủ về cơ
chế quản lý các hoạt động KH - CN [61]. Quy định nghiên cứu và ứng dụng
các thành tựu KH - CN là nhiệm vụ của các cơ quan KH - CN, của các cấp,
các ngành ở Trung ương và địa phương, của các doanh nghiệp các tổ chức xã
hội và tư nhân.
Ngày 24/10/1996 Nghị định số 63/CP quy định chi tiết về sở hữu công
nghiệp [18]. Nghị định này được xây dựng và bổ sung trên cơ sở Bộ luật dân
sự năm 1995; các đối tượng sở hữu công nghiệp được chỉ rõ trong các điều 4,
điều 5, điều 6, điều 7. Nghị định cũng chỉ rõ căn cứ pháp lý phát sinh quyền
sở hữu công nghiệp theo điều 780, điều 800 Bộ luật dân sự năm 1995, thời
hạn bảo hộ, các thủ tục xác lập quyền bảo hộ... Đồng thời, Nghị định cũng
quy định rõ về quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu các đối tượng sở hữu công
nghiệp, trong đó có quyền chuyển giao, quyền sử dụng, quyền sở hữu, thừa
kế... Hợp đồng li-xăng chỉ có giá trị pháp lý khi đã được đăng ký tại Cục sở
hữu công nghiệp. Mọi hình thức chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp phải
được thể hiện bằng văn bản dưới hình thức hợp đồng.
Bộ luật dân sự ban hành ngày 01/07/1996 chương VII có quy định về sở
hữu công nghệ, chương III quy định về CGCN.[15]
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 12/11/1996 có quy định bảo hộ
quyền SHTT, bảo đảm lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài hoạt động
CGCN ở Việt Nam.[49]
Nghị định 12/CP ban hành ngày 18/2/1997 của Chính phủ quy định về
việc CGCN, bảo vệ môi trường, bảo vệ quyền và lợi ích của bên CGCN.[19]
Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) ngày 20/5/1998 có quy
định Nhà nước lập quỹ hỗ trợ phát triển KH - CN, có hỗ trợ cho áp dụng KH -
CN, CGCN, đổi mới công nghệ.[51]
Nghị định 45/1998/ NĐ của chính phủ do Bộ Khoa học - Công nghệ
và Môi trường nghiên cứu trình Chính phủ có quy định chi tiết về
CGCN.[20]
Luật Khoa học và công nghệ được Quốc hội thông qua 6/2000, điều 23
có quy định về hợp đồng KH - CN bao gồm hợp đồng nghiên cứu khoa học
và phát triển công nghệ, hợp đồng CGCN, hợp đồng dịch vụ KH - CN. Điều
26 quy định về quyền sở hữu, quyền tác giả đối với kết quả nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ. Điều 33 xây dựng và phát triển thị trường KH -
CN quy định các chính sách, biện pháp xây dựng và phát triển thị trường KH-
CN.[50]
Cùng với sự phát triển của đất nước và yêu cầu của qua trình hội nhập,
Bộ luật dân sự 14/6/2005 đã ra đời, trong đó tại phần VI chương XXXIV,
XXXV, XXVI quy định về quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và đối
với giống cây trồng, quyền CGCN được quy định từ điều 736 đến điều 756.
[16]
Bộ luật dân sự năm 2005 quy định cụ thể những đối tượng được và
không được chuyển giao. Đối tượng chuyển giao công nghệ bao gồm bí quyết
kỹ thuật; kiến thức kỹ thuật về công nghệ dưới dạng phương án công nghệ,
các giải pháp kỹ thuật, công thức, thông số kỹ thuật, bản vẽ, sơ đồ kỹ thuật,
chương trình máy tính, thông tin dữ liệu về công nghệ chuyển giao; giải pháp
hợp lý hoá sản xuất, đổi mới công nghệ, cấp phép đặc quyền kinh doanh và
các đối tượng khác do pháp luật về CGCN quy định.
Đối tượng không được chuyển giao bao gồm công nghệ không đáp ứng
các quy định của pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động, bảo đảm
sức khoẻ con người, bảo vệ môi trường.
Năm 2005 Chính phủ cũng ban hành nhiều Nghị định về KH - CN như:
Nghị định 115/2005/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 5/9/2005 quy định
cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH - CN công lập [23].
Nghị định 80/2007/NĐ - CP chính phủ ban hành 19/05/2007 là nghị định về
doanh nghiệp KH - CN [24]. Ngoài ra còn nhiều nghị định, thông tư liên tich
có liên quan đến nghị định 115/2005/NĐ - CP và Nghị định 80/2007/NĐ -CP.
Luật sở hữu trí tuệ được Quốc hội thông qua 29/11/2005 và có hiệu lực
vào ngày 1/7/2006.[52]
Luật SHTT quy định về quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác
giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và việc bảo hộ
các quyền đó. Luật cũng quy định rõ thủ tục để được đăng ký bảo hộ và quy
định mức xử phạt, các hình thức xử phạt các hành vi xâm phạm SHTT.
Tiếp đó Luật CGCN cũng được ban hành ngày 26/11/2006 đã quy định
về hoạt động CGCN tại Việt Nam, từ Việt Nam ra nước ngoài và từ nước
ngoài vào Việt Nam, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân tham gia
hoạt động CGCN, thẩm quyền của cơ quan quản lý Nhà nước, các biện pháp
khuyến khích thúc đẩy hoạt động CGCN.
Quyết định 592/QĐ -TTg do Thủ tướng ban hành ngày 22/05/2012
quyết định phê duyệt chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH - CN
và tổ chức KH - CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
[62]
Từ tổng quan các văn bản nói trên cho thấy:
Trước năm 2000 hầu hết các văn bản ban hành thường tập trung vào
việc tạo môi trường pháp lý cho việc nghiên cứu và ứng dụng những thành
tựu KH- CN. Hơn nữa các văn bản này lại mang nặng tính bao cấp chưa thật
sự chuyển sang môi trường mới - môi trường kinh tế thị trường.
Mãi đến năm 2000, trong luật KH - CN, điều 33 mới đề cập đến việc
xây dựng và phát triển thị trường KH- CN, nhưng việc cụ thể hóa điều 33 của
Luật này thành các chính sách và các quy định cụ thể diễn ra rất chậm đẫn
đến hệ quả làm cho thị trường KH- CN nước ta chậm xuất hiện và phát triển
chưa tương xứng với nhu cầu của công nghiệp hóa - hiện đại hóa gắn với kinh
tế tri thức chưa tương xứng với yêu cầu phát triển nhanh kinh tế thị trường và
HNKTQT, chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của nước ta.
Từ năm 2000 đến nay, Bộ Luật dân sự 2005, Luật SHTT 2005, Luật
CGCN 2006 đã ra đời. Đây là những văn bản pháp luật quan trọng, là hành lang
pháp lý rất quan trọng cho sự phát triển KH - CN của thị trường KH - CN.
2.2.2. Khắc phục các khuyết tật của thị trường
Hiện nay, Việt Nam đang hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị
trường như: thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường tài chính, thị trường
bất động sản, thị trường sức lao động và đặc biệt là phát triển thị trường KH -
CN. Cũng giống như các thị trường khác, thị trường KH - CN trong quá trình
vận động mặc dù có nhiều ưu điểm nhưng không tránh khỏi khuyết tật vốn có
của nó. Vì thế vai trò của Nhà nước đểkhắc phục các khuyết tật của thị trường
KH -CN là rất cần thiết. Thị trường KH - CN cũng có những khuyết tật chung
như: Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp KH - CN là lợi nhuận tối đa
mặc dù có các chính sách ưu đãi các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ
như chính sách cho phép doanh nghiệp trích 10% lợi nhuận trước thuế để đầu
tư vào hoạt động đổi mới công nghệ, các doanh nghiệp KH - CN cũng được
hưởng mức thuế suất ưu đãi nếu đáp ứng được những tiêu chí về mức doanh
thu và tỷ trọng hàm lượng sản phẩm KH - CN nhưng trên thực tế rất ít doanh
nghiệp thực hiện đầu tư đổi mới công nghệ. Hiện tượng này do nhà đầu tư
thấy dễ dàng kiếm tiền bằng đầu cơ, đánh quả ngắn, trong khi những người
sản xuất ra hàng hóa, sản phẩm thực sự lại chịu nhiều khó khăn - trong đó
không ngoại trừ những khoản lãng phí về thời gian tiền bạc do nạn tiêu cực
tham nhũng. Vì vậy, Nhà nước cần áp dụng khung chính sách đồng bộ, toàn
diện nhằm làm giảm nguồn lợi từ những hoạt động kinh doanh sản xuất mang
tính đầu cơ ngắn hạn.Ví dụ có thể áp dụng chính sách thuế của Mỹ đối với bất
động sản trong đó áp dụng mức thuế rất cao đối với những giao dich mua bán
bất động sản dạng đầu cơ. Về lâu dài, Nhà nước cần tạo một môi trường kinh
doanh lành mạnh cho doanh nghiệp nói chung, thông qua triệt để giải quyết
nạn tham nhũng và tích cực hoàn thiện xây dựng nhà nước pháp quyền. Đối với
những giải pháp trước mắt cần tăng cường bảo vệ SHTT. Nhà nước nên có chính
sách hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện những dự án nghiên cứu có tính khả thi cả về
công nghệ lẫn thương mại dười hình thức co vay từ quỹ đầu tư mạo hiểm.
Thị trường KH - CN còn cạnh tranh không hoàn hảo do xuất hiện độc
quyền của một số sản phẩm KH - CN gây cản trở thương mại và hạn chế cạnh
tranh, nhiều hàng hóa nhập lậu từ nước ngoài về bán với giá rẻ cạnh tranh với
hàng hóa trong nước. Doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ không đủ sức
cạnh tranh vì công nghệ lạc hậu và gặp khó khăn trong việc thu hút đầu tư
mua lại phần vốn của Nhà nước “ trong số trên 300 doanh nghiệp nhà nước
dự kiến thoái vốn năm ngoái chỉ có khoảng 80 doanh nghiệp thoái hóa vốn
thành công. Nhà nước hiện nay còn trên 500 doanh nhiệp đã cổ phần hóa
trong đó có nhiều doanh nghiệp khó thoái hóa vốn vì công nghệ sản xuất lạc
hậu lại không có những lợi thế hấp dẫn khác”[63]. Tình trạng độc quyền sản
phẩm KH - CN là do việc thực hiện SHTT không đầy đủ. Vì vậy Nhà nước đã
ban hành nhiều chính sách nhằm đảm bảo sự cân bằng giữa bảo hộ quyền
SHTT và cạnh tranh lành mạnh trên thị trường KH - CN như nghị định số
54/2000/NĐ - CP ngày 03/10/2000 quy định về bảo hộ quyền chống cạnh
tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp (điều 24, 25);
Luật dân sự năm 2005 quy định quyền của người đã sử dụng trước sáng chế,
giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp và việc sử dụng các đối tượng sở
hữu công nghiệp vào mục dích phi thương mại và một số ngoại lệ khác...Các
văn bản chính sách này đã bước đầu có tác dụng nhất định giảm thiểu những
hoạt động cạnh tranh không lành mạnh, bước đầu đảm bảo sự hài hòa giữa
các loại lợi ích của các chủ thể trên thị trường KH - CN. Các doanh nghiệp
nước ta chưa sẵn sàng và chưa có nhiều động lực đầu tư cho nghiên cứu và
phát triển R&D và đổi mới công nghệ. Đến nay chỉ khoảng 0,1 - 0,3% doanh
thu của các doanh nghiệp được đầu tư cho hoạt động này. Năng lực tiếp thu
và làm chủ đổi mới công nghệ của doanh nghiệp nước ta không cao. Công
nghệ được mua bán chủ yếu trên thị trường là thiết bị máy móc dây chuyền
công nghệ, toàn bộ giao dịch mua bán công nghệ ở dạng tài sản trí tuệ như pa
tăng, li xăng và bí quyết công nghệ còn hạn chế. Vì vậy, Nhà nước buộc các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau cũng hoạt động kinh
doanh bình đẳng cạnh tranh lành mạnh thông qua việc xóa bỏ các bao cấp,
đặc quyền, đặc lợi để cho các doanh nghiệp chỉ có một con đường duy nhất để
phát triển là đổi mới công nghệ nâng cao năng lực canh tranh. Ngoài ra thị
trường KH - CN còn có những khuyết tật riêng như thông tin bất cân xứng
giữa người mua và người bán sản phẩm KH - CN, việc xác định giá cả rất khó
khăn. Vì vậy cần phát triển hệ thống thông tin KH - CN theo hướng hiện đại
và chuyên nghiệp để phục vụ có hiệu quả cho sự phát triển của thị trường KH
- CN. Tổ chức lại hoạt động của các trung tâm thông tin KH - CN thuộc cơ
quan nhà nước theo hướng cân đối giữa các chức năng, đảm bảo thông tin
phục vụ cơ quan quản lý nhà nước, cộng đồng và phục vụ hoạt động kênh
thông tin thương mại KH - CN. Đặc biệt trong bối cảnh HNKTQT, doanh
nghiệp có nhiều cơ hội để lựa chọn công nghệ từ bên ngoài. Do vậy doanh
nghiệp phải thường xuyên nắm bắt thông tin về công nghệ trên thế giới thông
qua sự hỗ trợ của các tổ chức trung gian, môi giới, các trung tâm thông tin
công nghệ, trung tâm xúc tiến thương mại của Nhà nước...
Ngoài những khuyết tật chung thị trường KH - CN còn có những khuyết
tật riêng đòi hỏi Nhà nước phải khắc phục đó là :[28, tr. 27-30]
Thứ nhất, sự không cân xứng về thông tin giữa người mua và người bán.
Thông tin bất cân xứng xuất hiện khi người mua và người bán có các thông
tin khác nhau. Trên thị trường, khi các giao dịch được tiến hành, việc mua bán
công nghệ giữa bên bán và bên mua diễn ra dù dưới góc độ nào thì thông tin
về công nghệ, ưu, nhược và những vấn đề về công nghệ... người bán, đặc biệt
là những người bán trực tiếp làm ra công nghệ luôn biết rõ hơn người mua.
Với đặc thù của các hàng hoá công nghệ như hàng hoá là những kết quả
nghiên cứu, bí mật công nghệ, quy trình, phần mềm điều khiển... đều là những
hàng hoá mà người bán luôn biết rõ đặc tính kỹ thuật và những nhược điểm
của công nghệ, những khả năng xấu có thể xảy ra. Đương nhiên với một thị
trường mà thông tin không được rõ ràng, cơ chế hoạt động không vận hành
tốt, các thể chế hỗ trợ ít hiệu quả thì các nhà cung cấp sẽ luôn là những người
hưởng lợi từ các giao dịch do sự bất đối xứng về thông tin. Ví dụ như thị
trường xe máy cũ, Nhà cung cấp biết đầy đủ về mẫu mã chất lượng tính năng
sản phẩm còn ngươi mua thì thông tin sản phẩm không rõ ràng không biết
chính xác đâu là ưu điểm nhược điểm của các xe máy, không biết giá của các
loại xe vì vậy khi đi mua thường mua phải xe chất lượng thấp giá cao. Hiện
tượng này xảy ra là do tình trạng bất cân xứng về thông tin giữa người mua và
người bán.
Sự không cân xứng về thông tin bị khoét sâu hơn còn do năng lực hạn
chế của người mua. Do hàng hoá KH - CN có đặc thù so với hàng hoá thông
thường nên ở những nước đang phát triển, với khả năng công nghệ còn rất
kém, những hiểu biết về tính năng tác dụng của các công nghệ không cao nên
việc xác định chính xác giá trị của một công nghệ ngay cả khi người cung cấp
đưa đủ thông tin cũng rất khó khăn.
Do đặc thù của hàng hoá KH - CN trong đó các hàng hoá có thể chưa thực sự là một công nghệ hoàn chỉnh, thậm chí là một công nghệ mới hoàn chỉnh đi nữa thì chỉ sau quá trình thử nghiệm và sử dụng công nghệ mới biết đích xác được tính năng thực sự của công nghệ. Đặc tính này trong một số trường hợp khiến cả người bán và người mua công nghệ đều không có được thông tin chính xác về công nghệ, không xác định được giá trị thật của công nghệ nên rất khó tiến hành giao dịch, thậm chí giao dịch có thể bị tê liệt nếu quan điểm của hai bên khác quá xa nhau. Còn trong trường hợp giao dịch vẫn
được tiến hành thì bên mua có thể sẽ phải chấp nhận những rủi ro không thể lường trước (tất nhiên cũng có trường hợp bên mua gặp may thu được những giá trị thương mại lớn hơn dự kiến). Để hiểu rõ tình trạng thông tin bất cân xứng chúng ta xem xét ví dụ “Trò chơi rau sạch” [9, tr. 35]. Bài toán rau sạch có thể được mô phỏng dưới dạng “Trò chơi không thông đồng” giữa người mua và người bán. Thứ được rao bán là rau sạch hoặc rau thường mà người mua không thể biết. Về phần mình người mua có thể trả theo giá của rau thường hoặc rau sạch, tùy theo việc người này có tin lời người bán hay không. Khi ra quyết định mỗi bên không biết chính xác quyết định của bên kia. Do mỗi bên có hai phương án lựa chọn nên trò chơi rau sạch có thể có bốn kết cục được thể hiện trong bảng lợi ích. Số điểm trong mỗi bảng phản ánh lợi ích mà bên đó thu được tương ứng với kết cục xảy ra.
Bảng lợi ích Người mua (M)
Trả theo giá rau thường Trả theo giá rau sạch
Người bán(B) Rau thường I: lợi 5, M lợi 5 II: B lợi 10, M lợi 1
Rau sạch III: B lợi 1, M lợi 10 IV: B lợi 7, M lợi 7
Trong bảng trên, kết cục IV, tương ứng với phương án người bán rau sạch và người mua trả theo giá rau sạch, thị trường rau sạch hoạt động bình thường, là tốt nhất cho cả hai bên, tuy nhiên đây không phải là điểm cân bằng của trò chơi. Ta có thể thấy dễ dàng rằng, bất kể phương án lựa chọn nào của người bán trả theo giá thường là phương án tối ưu cho người mua. Về phía người bán, bất kể phương án lựa chọn nào của người mua, bán theo giá rau sạch là phương án tối ưu cho người bán. Bài toán có nghiệm duy nhất là ô I tại đó cả người mua và người bán không có động cơ thay đổi lựa chọn của mình. Từ ví dụ trên cho thấy, khi không thể phân biệt được chất lượng của sản phẩm thì hàng hóa kém sẽ chiếm lĩnh thị trường và hàng hóa tốt sẽ bị đào thải ra khỏi thị trường. Đối với các sản phẩm KH - CN hoạt động mua bán có thể không xảy ra vì nó không phải là hàng hóa thông thường nên người bán không thể lựa chọn như người mua ở ô số I. Mặt khác trong nhiều trường hợp
sự bất bình đẳng về thông tin là không thể tránh khỏi đối với hàng hóa KH - CN vì nếu nói ra thì bí mật về công nghệ sẽ không còn nữa và khi đó cũng không còn gì để bán.
Đứng trước tình trạng thông tin bất cân xứng về hàng hóa KH - CN
Nhà nước cũng đưa ra nhiều giải pháp về hạn chế tình trạng này đó là:
Nhà nước quy định về cung cấp thông tin đối với hàng hóa KH - CN, các hàng hóa KH - CN khi đưa ra thị trường phải cung cấp đầy đủ thông tin theo quy định của pháp luật. Nhà nước đã ban hành nhiều nghị định thông tư quy định việc cung cấp thông tin như nghị định 43/2011/NĐ - CP quy định việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên cổng thông tin điện tử của các cơ quan nhà nước do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 13/6/2011...
Nhà nước kiểm định và chứng nhận chất lượng hàng hóa KH - CN theo tiêu chuẩn cụ thể. Nhà nước luôn có một độ ngũ thanh tra kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi sản phẩm được bán trên thị trường.
Nhà nước xây dựng hệ thống tổ chức trung gian môi giới để hạn chế tình trạng thông tin bất cân xứng. Nếu có tổ chức thẩm định có uy tín được cả bên mua bên bán tin tưởng, bí mật của các bên được tôn trọng thì có thể giúp khai thông thị trường KH - CN .Khi đó kết cục của thị trường sẽ tương ứng với ô số IV như ví dụ về trò chơi rau sạch ở trên.
Thứ hai, chi phí giao dịch cao. Giá trị hàng hoá KH - CN rất khó xác định chính xác. Nếu các bên mua không phải là những nhà định giá chuyên nghiệp mà chỉ đơn thuần là những người khai thác thuần tuý giá trị thương mại của công nghệ tất yếu sẽ cần đến các nhà môi giới. Với tính phức tạp như kể trên ở nhiều khâu, nhiều công đoạn chắc chắn chi phí giao dịch sẽ trở nên rất lớn thậm chí có thể vượt quá giá trị thương mại của công nghệ. Để giảm bớt chi phí giao dịch, đảm bảo thị trường hoạt động hiệu quả thì Nhà nước phải có biện pháp đảm bảo thể chế hỗ trợ thị trường phải hoạt động tốt. Việc thông tin, thẩm định, đánh giá công nghệ phải được tiến hành một cách chuyên nghiệp, có sự hỗ trợ của Chính phủ. Nhà nước đã ban hành và thực thi có hiệu quả các quy tắc hỗ trợ thị trường KH - CN như luật pháp về SHTT,
luật pháp về CGCN, luật pháp về cạnh tranh để giảm thiểu chi phí giao dịch trên thị trường. Đồng thời Nhà nước cũng xây dựng các tổ chức giao dịch thị trường nối gần giữa người mua và người bán bớt các khâu trung gian vì thế chi phí giao dịch sẽ được hạn chế ở mức thấp nhất.
Thứ ba, tính rủi ro cao. Việc mua bán công nghệ luôn chứa đựng tính rủi ro. Tuy nhiên, mức độ rủi ro ở các hàng hoá công nghệ là rất khác nhau. Một công nghệ hoàn chỉnh đã chứng tỏ được giá trị thương mại khi đưa vào khai thác có độ rủi ro khác với một công nghệ mới, chỉ qua giai đoạn thử nghiệm, càng khác với một kết qủa nghiên cứu R&D ở dạng thử nghiệm, hay một phần của quy trình công nghệ chưa hoàn chỉnh. Những hàng hoá này này độ rủi ro sẽ cao hơn rất nhiều và điều này khiến các nhà đầu tư, các bên mua trên thị thường phải tính toán rất kỹ khi mua công nghệ. Đồng thời, cũng phải chấp nhận một xác xuất rủi ro nhất định khi tiến hành giao dịch. Một yếu tố rủi ro rất lớn nữa đó chính là bị rò rỉ thông tin trong quá trình nghiên cứu phát triển sản phẩm. Các sản phẩm KH - CN là nhân tố quyết định khả năng cạnh tranh nên việc bí mật đến cùng những nghiên cứu, những thành tựu hay những ứng dụng kỹ thuật mới vào sản phẩm... có ý nghĩa sống còn cho thành công của hoạt động kinh doanh. Ngay cả mẫu mã, kiểu dáng công nghiệp... trước khi được đăng ký bảo hộ chính thức cũng phải được giữ bí mật. Nếu những thông tin này bị các đối thủ biết trước sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường cho các bên mua bán công nghệ. Song nếu không chấp nhận đặc điểm này thì thị trường KH - CN sẽ rất khó phát triển, các công nghệ mới khó có thể đưa vào thực tiễn để phát huy hiệu quả. Đây cũng là một minh chứng cho việc đầu tư mạo hiểm như là một đặc điểm không thể thiếu nếu muốn phát triển thị trường KH - CN. Để hạn chế tình trạng rò rỉ thông tin ăn cắp bản quyền, Nhà nước ta cũng đã ban hành pháp luật về SHTT. Việc thực hiện luật SHTT trên thực tế đã mang lại nhiều hiệu quả cho các giao dịch trên thị trường KH - CN.
Thứ tư, tính độc quyền. Khác với hàng hoá thông thường, hàng hoá KH - CN có tính độc quyền rất cao. Những công nghệ có giá trị thương mại lớn luôn do các tập đoàn, các công ty sở hữu và gần như rất khó có thể bắt chước
hoặc tạo ra được các sản phẩm tương đương nếu không vi phạm quyền SHTT, hoặc được sự cho phép của công ty mẹ. Có thể lấy rất nhiều ví dụ về sự độc quyền về hàng hoá KH - CN theo kiểu này như: Quy trình, công nghệ sản xuất thuốc ngăn chặn sự phát triển của vi rút HIV, thuốc tăng cường khả năng sinh lý của đàn ông Viagra, các công nghệ về sản xuất thiết bị vũ khí, quân sự, thiết bị phục vụ cho sản xuất.... Ngày nay, ngay cả những công nghệ để sản xuất ra những hàng hoá thông thường cũng rất khó bắt gặp những sản phẩm giống hệt nhau. Từ một công nghệ gốc, tất cả các hãng sản xuất sẽ phát triển sản phẩm theo hướng công nghệ của riêng mình để tạo ra được ưu thế hoặc ít nhất cũng là sự khác biệt với đối thủ. Đây chính là sự không đồng nhất của hàng hoá KH - CN và đây cũng là yếu tố sống còn của các hãng, các công ty muốn khẳng định thương hiệu của mình trên thương trường nói chung cũng như trong thị trường KH - CN nói riêng. Cùng với các đặc tính trên, cơ chế định giá trên thị trường KH – CN cũng rất đặc biệt, nó không được xác định như những hàng hoá thông thuờng, nó cũng không phụ thuộc nhiều vào chí phí tạo ra công nghệ bởi chi phí này, như trong đặc điểm của hàng hoá công nghệ đã nêu, rất “tương đối” và không thể xác định được theo cách thông thường, mà chủ yếu dựa trên khả năng sinh lợi trực tiếp từ hàng hoá khoa học-công nghệ. Hàng hóa KH - CN là hàng hóa đặc biệt có tính độc quyền cao vì vậy mà xuất hiện nhiều tiêu cực trên thị trường như cạnh tranh không hoàn hảo, sản phẩm độc quyền kiếm được lợi nhuận lớn...Điều này đòi hỏi Nhà nước phải có biện pháp khắc phục hiện tượng độc quyền cao.
Như vậy, thị trường KH - CN có nhiều khuyết tật đòi hỏi cần có sự can thiệp của nhà nước thông qua các thể chế, chính sách để khắc phục và định hướng phát triển.
2.2.3. Định hướng, điều tiết
Nhà nước định hướng phát triển thị trường KH - CN bằng việc xây dựng
các chiến lược, quy họach, kế hoạch phát triển thị trường KH - CN. Để phát
triển KH - CN, Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII (số 02 - NQ/ HNTW ngày 24/12/1996) về định hướng chiến
lược phát triển KH- CN trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm
vụ đến năm 2000 đã xác định nhiều giải pháp trong đó có giải pháp liên quan
đến việc phát triển thị trường KH – CN [30] như: Dùng các công cụ về thuế,
tín dụng để hỗ trợ các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ hiện đại phù hợp với
các hướng ưu tiên của Nhà nước; Nhà nước quy dịnh chế độ thưởng cho tập
thể lao động và các tác giả về sáng chế, phát minh, cải tiến kỹ thuật và ứng
dụng công nghệ mới đối với các doanh nghiệp; Các viện nghiên cứu được
thành lập các cơ sở sản xuất - kinh doanh các trung tâm ứng dụng tư vấn và
CGCN thuộc các lĩnh vực chuyên môn mà viện đảm nhận được phép liên
doanh với nước ngoài theo quy định của Nhà nước ; Thành lập các tổ chức
nghiên cứu - triển khai trong các tổng công ty và doanh nghiệp lớn; Mở rộng
mạng lưới dịch vụ tư vấn KH - CN; Miễn hoặc giảm thuế doanh thu cho các
hoạt động tư vấn KH - CN; Hoàn thiện hệ thống luật pháp về bảo hộ quyền
SHTT và khuyến khích CGCN ...
Đại hội IX (2001) trên cơ sở xác định phát triển KH - CN là quốc sách
hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước đã xác định các nội dung và quan điểm phát triển thị trường KH - CN
như sau:“ Tạo thị trường KH - CN, đổi mới cơ chế tài chính nhằm khuyến
khích sáng tạo và gắn ứng dụng KH - CN với sản xuất kinh doanh, quản lý,
dịch vụ. Có chính sách khuyến khích và buộc các doanh nghiệp đầu tư vào
nghiên cứu đổi mới công nghệ”[31, tr. 113] đồng thời Đại hội cũng xác định
các nội dung để phát triển thị trường KH - CN trong thời gian trước mắt là : “
Tạo môi trường cạnh tranh, bảo hộ SHTT và quyền tác giả. Có cơ chế thúc
đẩy doanh nghiệp tăng đầu tư cho phát triển KH - CN , phát huy sáng kiến,
cải tiến kỹ thuật , hợp lý hóa sản xuất và đặt hàng cho cơ quan nghiên cứu”
[31, tr. 207]. Kết luận số 14-KL/TW, ngày 26 tháng 7 năm 2002 của Hội nghị
lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá IX về tiếp tục thực hiện Nghị
quyết Trung ương 2 khoá VIII, phương hướng phát triển giáo dục - đào tạo,
KH - CN đến năm 2010 đã khẳng định một bước tiến lớn về nhận thức của
trung ương về định hướng phát triển thị trường KH – CN, như định hướng
tách các viện nghiên cứu không phục vụ quản lý nhà nước ra khỏi bộ chủ
quản, tăng cường việc liên kết các giữa các viện nghiên cứu, trường đại học
và doanh nghiệp. Các tổ chức nghiên cứu KH - CN được quyền tự chủ trong
các hoạt động cùng với đó là: Từng bước chuyển các tổ chức KH - CN thực
hiện nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sang cơ chế tự
trang trải kinh phí, được hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp. Tạo điều kiện
để phát triển nhanh doanh nghiệp công nghệ (doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh gắn với hoạt động nghiên cứu công nghệ. Đối với thị trường KH - CN,
Kết luận nhấn mạnh đến việc việc rà soát các cơ chế chính sách để cho doanh
nghiệp có điều kịên thuận lợi trong việc áp dụng công nghệ mới, thúc đẩy các
hoạt động của thị trường KH - CN và tăng cường việc thực thi quyền bảo hộ
SHTT...
Như vậy hội nghị lần thứ hai BCH Trung ương Đảng khóa VIII và Đại
hội IX của Đảng đã xác định phát triển thị trường KH - CN là nhiệm vụ quan
trọng đồng thời cũng xác định thị trường KH - CN ở nước ta vẫn ở tình trạng
sơ khai, do vậy để phát triển thị trường này giai đoạn trước mắt là phải hướng
trọng tâm vào việc đẩy mạnh việc “Tạo thị trường cho các hoạt động KH -
CN” thông qua các giải pháp là: (1) Xây dựng và tạo lập môi trường cạnh
tranh lành mạnh tù đó thúc đẩy các chủ thể trên thị trường KH - CN đầu tư
phát triển KH - CN ; Xây dựng hệ thống thể chế đặc biệt thể chế về SHTT;
(3) Thực hiện các chính sách ưu đãi, khuyến khích ứng dụng chuyển giao các
sản phẩm KH - CN vào sản xuất kinh doanh; (4) Xây dựng cơ chế thúc đẩy
doanh nghiệp tăng đầu tư phát triển KH - CN.
Nhằm triển khai các quan điểm về phát triển thị trường KH - CN của
Đảng, Chính phủ đã phê duyệt Đề án phát triển thị trường KH - CN (ban hành
theo quyết định số 214/2005/QĐ - TTg ngày 30/8/2005 của Thủ tướng Chính
phủ). Trong đề án đã xác định các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cơ bản để
phát triển thị trường KH - CN.
Nhận thức được vai trò ngày càng gia tăng của thị trường KH - CN trong
bối cảnh mới, Đại hội X của Đảng (2006) khẳng định: “Phát triển thị trường
KH - CN trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn sản phẩm KH -
CN (trừ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu phục vụ xây dựng đường lối, chiến
lược, chính sách phát triển) trở thành hàng hóa. Thông tin rộng rãi và tạo
môi trường cạnh tranh để các sản phẩm KH - CN được mua bán thuận lợi
trên thị trường. Chuyển các tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc nhiều loại
hình sở hữu đang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp” [32, tr. 82]
Định hướng này của Đại hội X của Đảng được cụ thể hóa và xác định rõ
hơn trong Hội nghị Trung ương 9 khóa X năm 2009 về một số nhiệm vụ, giải
pháp lớn nhằm tiếp tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ X của
Đảng. Hội nghị xác định: Tiếp tục đổi mới đồng bộ cơ chế quản lý và chính
sách phát triển KH - CN. Nghiên cứu xây dựng, bổ sung, hoàn thiện các chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KH - CN quốc gia và các ngành, các sản
phẩm quan trọng; Phát triển thị trường KH - CN. Nâng cao chất lượng nghiên
cứu khoa học, gắn nghiên cứu khoa học với sản xuất kinh doanh, giáo dục đào
tạo. Có chính sách chế độ đãi ngộ và điều kiện làm việc tốt hơn cho cán bộ
nghiên cứu khoa học, nhất là cán bộ đầu nghành có trình độ cao.
Qua các nội dung và quan điểm phát triển thị trường KH - CN tại đại hội
X và tại Hội nghị Trung ương 9 khóa X có thể thấy Đại hội X của Đảng tiếp
tục khẳng định các nội dung về phát triển thị trường KH - CN tại Đại hội
VIII, Đại hội IX và xác định thị trường KH - CN ở Việt Nam đã được hình
thành nhưng chưa phát triển còn nhiều bất cập, đặc biệt là việc gắn kết giữa
nghiên cứu KH - CN với thực tiễn sản xuất kinh doanh, do vậy trọng tâm
chính trong quan điểm phát triển thị trường KH - CN tại Đại hội X là “thị
trường hóa các hoạt động KH - CN”. Kế thừa các quan điểm tại các kỳ Đại
hội trước đó, Đại hội X bổ sung và phát triển thêm một số nội dung mới là:
Thứ nhất, coi trọng ứng dụng thực tiễn và phục vụ sản xuất kinh doanh
của sản phẩm KH - CN (trừ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu phục vụ xây dựng
đường lối, chiến lược, chính sách phát triển).
Thứ hai, đề cập đến việc phát triển các yếu tố trung gian, môi giới trên
thị trường KH - CN nhằm cung cấp thông tin rộng rãi và tạo điều kiện thuận
lợi để các sản phẩm KH - CN được mua bán trên thị trường.
Thứ ba, nhấn mạnh việc nâng cao năng lực các tổ chức KH - CN trong
đó quan tâm đến chính sách ưu đãi đối với cán bộ nghiên cứu khoa học để
từ đố nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học và chuyển đổi các tổ chức
nghiên cứu và phát triển thuộc nhiều loại hin hf sở hữu sang hoạt động theo
cơ chế doanh nghiệp.
Đến Đại hội XI của Đảng 2011, với chiến lược phát triển nhanh và bền
vững nền kinh tế, Đại hội đã chỉ ra vai trò của KH - CN đối với sự phát triển
này, Đại hội đã xác định KH - CN là: “động lực then chốt của quá trình phát
triển nhanh và bền vững. Các hoạt động KH - CN phải hướng trọng tâm vào
việc phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.[33, tr. 132]
Để thực hiện được vai trò này, một trong các nhiệm vụ cơ bản là: “phát
triển thị trường KH - CN . Đổi mới căn bản cơ chế sử dụng kinh phí nhà nước
và cơ chế xây dựng triển khai các nhiệm vụ KH - CN theo hướng lấy mục tiêu
và hiệu quả ứng dụng là tiêu chuẩn hàng đầu, chuyển các đơn vị sự nghiệp
KH- CN sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Phát triển các doanh
nghiệp KH- CN, các quỹ đổi mới công nghệ và quỹ đầu tư mạo hiểm...có
chính sách khuyến khích doanh nghiệp nhập khẩu công nghệ hiện đại, trước
hết là đối với những ngành, lĩnh vực chủ lực mũi nhọn...có chính sách khuyến
khích hỗ trợ doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đổi mới công nghệ
then chốt, mũi nhọn và đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công
nghệ cao, trong đó ưu tiên các doanh nghiệp nhỏ và vừa”...[33, tr. 133-134]
“...Phát triển thị trường KH - CN gắn với việc bảo hộ quyền SHTT; có
nhiều hình thức thông tin giới thiệu các hoạt động và sản phẩm Kh, CN; hoàn
thiện các định chế về mua bán các sản phẩm KH - CN trên thị trường ...”[33,
tr. 213]
Đại hội XI của Đảng ngoài việc khẳng định các nội dung về phát triển thị
trường KH - CN tại các kỳ đại hội trước đã xác định thị trường KH - CN về
cơ bản đã được hình thành nhưng vẫn ở trình độ thấp, do vậy định hướng phát
triển trước mắt là “phát triển nhanh và mạnh” thị trường KH - CN thông qua
các giải pháp như sau:
Một là, đổi mới cơ chế sử dụng kinh phí Nhà nước và cơ chế xây dựng
triển khai các nhiệm vụ KH - CN theo hướng lấy mục tiêu và hiệu quả ứng
dụng là tiêu chuẩn hàng đầu.
Hai là, hoàn thiện các định chế về mua bán các sản phẩm KH - CN trên
thị trường. Phát triển các quỹ đầu tư phù hợp với thị trường KH - CN như quỹ
đầu tư mạo hiểm, quỹ phát triển KH - CN ...
Ba là, có chính sách tiếp thu khuyến khích chuyển giao các công nghệ
mới hiện đại từ bên ngoài. Có chính sách khuyến khích hỗ trợ doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế đổi mới công nghệ, làm chủ các công nghệ then
chốt, mũi nhọn và đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ
cao trong đó ưu tiên doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Bốn là, phát triển các chủ thể chính trên thị trường KH - CN trong đó
nhấn mạnh đến việc phát triển doanh nghiệp KH - CN và thúc đẩy đầu tư phát
triển KH - CN của doanh nghiệp.
Nhà nước còn điều tiết cung, cầu và gắn kết các chủ thể trên thị trường
KH - CN thông qua những công cụ và chính sách điều tiết của mình. Khi tiến
hành hoàn thiện hệ thống thể chế để hỗ trợ thị trường KH - CN, Nhà nước đã
tác động làm tăng cạnh tranh trên thị trường, thúc ép hoạt động đổi mới và do
đó đã làm tăng cung, cầu về hàng hóa KH - CN. Bên cạnh đó bằng chính sách
giảm thuế, ưu đãi đầu tư đối với các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng công
nghệ Nhà nước đã gián tiếp thúc đẩy cung, cầu về loại hàng hóa đó trên thị
trường. Mặt khác, Nhà nước vừa là người cung vừa là người cầu rất lớn về
hàng hóa KH - CN. Thông qua chi tiêu của Chính phủ đối với hàng hóa công
cộng và hàng hóa cá nhân cần được cung cấp công cộng, Nhà nước đã trực
tiếp tạo cầu đối với thị trường KH - CN. Các khoản chi tiêu và đầu tư của
chính phủ thường tập trung vào những lĩnh vực mà tư nhân không mong
muốn tham gia như lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, lĩnh vực nghiên cứu phục vụ
cho nhu cầu phát triển KT - XH hoặc những lĩnh vực công nghệ chứa đựng
nhiều rủi ro, khi đó Nhà nước là người tiên phong thử nghiệm công nghệ
trước khi đưa nó ra thị trường hoặc Nhà nước gánh chịu rủi ra thay cho doanh
nghiệp khi họ tiên phong sử dụng những công nghệ mới.
2.2.4 Kiểm tra, giám sát
Trong thời gian qua Nhà nước ta đã bước đầu xây dựng và chỉ đạo thực
hiện các văn bản quy phạm pháp luật về KH - CN, ban hành và tổ chức thực
hiện các văn bản trong thực tiễn, bước đầu thực hiện bảo hộ quyền SHTT;
quy định việc đánh giá nghiệm thu, ứng dụng thẩm định và công bố kết quả
nghiên cứu KH - CN... Nhà nước cũng không ngừng kiểm tra giám sát việc
chấp hành pháp luật về KH - CN, việc thực hiện các nghị định và chiến lược
KH - CN trong thực tế. Cụ thể như Nghị định 115 /2005, NĐ - CP hướng tới
giao quyền tự chủ cao nhất và triệt để cho các tổ chức cho các tổ chức nghiên
cứu KH - CN công lập [23]. Hiện nay về cơ bản các cơ sỏ nghiên cứu khoa
học đã được tự chủ nhưng quyền tự chủ quan trọng nhất họ lại chưa thực sự
có là tự chủ về tài chính. Vốn quan trọng nhất của các nhà khoa học Việt Nam
là chất xám. Họ cần được hỗ trợ nguồn lực tài chính hoặc các cơ chế cần thiết
để chuyển đổi chất xám thành nguồn lực tài chính. Hiện nay các tổ chức KH -
CN chưa được trao quyền tự chủ đối với tài sản vì vậy không thể cho thuê
chuyển nhượng góp vốn hoặc đem trực tiếp sản xuất kinh doanh. Một bất cập
khác là chưa có cơ chế giao quyền sở hữu và sử dụng đối với tài sản trí tuệ có
nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước cho tổ chức KH - CN hoặc cá nhân nhà
khoa học là tác giả của kết quả nghiên cứu. Việc kiểm tra giám sát việc thực
hiện nghị định này đã góp phần khắc phục được những bất cập trên. Hơn nữa
qua việc kiểm tra ta thấy thống kê KH - CN nước ta hiện nay rất yếu ảnh
hưởng không nhỏ đến việc thực hiện chiến lược KH - CN. Hiện nay không ai
có thể nói một cách chính xác chúng ta đang có bao nhiêu người trình độ tiến
sỹ, thạc sỹ làm việc trong hệ thống KH- CN, bao nhiêu công trình được công
bố trong nước và quốc tế hàng năm... vì thế không ít chương trình kế hoạch đề
án được xây dựng chủ yếu theo kinh nghiệm và định tính. Cũng nhờ hoạt
động kiểm tra giám sát mà chúng ta biết được việc tự chủ về tài chính của các
Viện còn nhiều khó khăn. Các cơ quan nghiên cứu vẫn rất rụt rè trong việc
đăng ký thành lập các tổ chức doanh nghiệp hoạt động tự chủ. Nguyên nhân
là do vướng mắc về xác định quyền SHTT đối với những kết quả nghiên cứu
được Nhà nước cấp kinh phí; Các viện nghiên cứu vẫn còn tâm lý lo ngại sau
khi thành lập ra các doanh nghiệp tự chủ nếu sau này doanh nghiệp thành
công sẽ mang theo các tài sản trí tuệ tách ra khỏi Viện... Nhà nước không chỉ
kiểm tra giám sát việc thực hiện các nghị định, nghị quyết, chiến lược về KH -
CN mà còn thường xuyên tổ chức hội nghị đánh giá kết quả hoạt động KH -
CN qua các giai đoạn tiêu biểu như hội nghị đánh giá kết quả hoạt động KH -
CN 2000 - 2010 và định hướng nhiệm vụ 2011 - 2015 đã đánh giá hoạt
động KH - CN của Việt Nam đứng trước nhiều bất cập. Mặc dù đã đạt
được nhiều mục tiêu nhưng hoạt động KH - CN giai đoạn này vẫn còn
nhiều tồn tại như các hoạt động KH - CN chậm và khó đi vào cuộc sống,
nhiều nội dung giải pháp chậm triển khai, nhiều yếu kém chưa có cách giải
quyết. Tồn tại chủ yếu là chính sách trọng dụng cán bộ KH - CN, việc gắn
kết khoa học và đào tạo, giữa nghiên cứu với sản xuất kinh doanh...Từ các
yếu kếm và tồn tại trên Nhà nước đã tìm các giải pháp để khắc phục để thị
trường KH - CN ngày càng phát triển.
Ngoài ra, Nhà nước cũng kiểm tra giám sát hoạt động của các lĩnh vực
KH - CN cụ thể như KH - CN Nano phát triển thiếu định hướng [56]. Khoa
học Nano là khoa học liên ngành rất khó tách riêng. Hiện nay các đề tài
nghiên cứu về Nano vẫn nằm trong các chương trình chuyên ngành về vật lý,
hóa học,khoa học sự sống...Việc không có một chương trình riêng cũng có
mặt hạn chế không đưa ra được định hướng chung, đâu là những lĩnh vực Việt
Nam nên tập trung nghiên cứu. Vì vậy Nhà nước cần có chương trình định
hướng quốc gia thì sẽ giúp phân bố được các nhóm nghiên cứu, tránh trùng
lặp và đầu tư có hiệu quả hơn.
Nhà nước ta còn không ngừng tổng kết lại các kết quả kiểm tra giám sát
đã làm được và đưa ra những báo cáo cụ thể trong các kỳ Đại hội để rút kinh
nghiệm và có biện pháp khắc phục những thiếu sót trong công tác kiểm tra
đánh giá như: Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
của Đảng đã khẳng định “Đẩy mạnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, đảm
bảo cạnh tranh lành mạnh trong cơ chế thị trường khuyến khích sáng tạo của
các nhà khoa học và người lao động”. Báo cáo chính trị tại Đại hội lần này
cũng chỉ ra yêu cầu “Tạo lập thị trường cho hoạt động khoa học và công
nghệ. Kiểm soát các công nghệ nhập. Thúc đẩy các doanh nghiệp, nhất là các
doanh nghiệp lớn của nhà nước đổi mới công nghệ...”[34, tr. 106] Đồng thời,
Báo cáo cũng chỉ ra một số giải pháp tăng cường phát triển KH - CN như
khuyến khích mọi thành phần kinh tế áp dụng các tiến bộ KH - CN thông qua
các biện pháp hỗ trợ: Ưu đãi thuế, tín dụng, xuất khẩu... Cùng với các biện
pháp trên, Báo cáo cũng khẳng định việc tiếp tục sắp xếp lại các cơ sở nghiên
cứu KH - CN theo hướng tập trung hơn, áp dụng KH - CN để khai thác sử
dụng có hiệu qủa các nguồn tài nguyên. Báo cáo còn định hướng gắn kết giữa
nghiên cứu với sản xuất, có thể đưa một số viện nghiên cứu về trực thuộc trực
tiếp các tổng công ty của Nhà nước. Nhà nước cũng ban hành nhiều Nghị
định, Nghị quyết để xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm Pháp luật
CGCN, SHTT...như: Để xử lý các vi phạm trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp
nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, ngày 06/3/1999 Chính
phủ đã ra Nghị định số 12/1999/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực sở hữu công nghiệp [21]. Nghị định 12/1999/NĐ-CP quy định cụ thể
các hành vi vi phạm, mức, thủ tục và thẩm quyền xử phạt. Hình thức phạt là
cảnh cáo, hoặc phạt tiền với mức phạt thấp nhất là 200.000 và cao nhất là
100.000.000. Ngoài các biện pháp cảnh cáo hoặc phạt tiền còn áp dụng các
hình phạt bổ sung như tịch thu tang vật, bồi thường thiệt hại, tước giấy phép
kinh doanh... Tiếp theo, Nghị định 12/1999/NĐ-CP ngày 03/10/2000, Chính
phủ đã ban hành Nghị định 54/2000/NĐ - CP về bảo hộ sở hữu công nghiệp
đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, quyền chống cạnh
tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp. Bộ luật hình sự
được Quốc hội thông 21/12/1999 có hiệu lực 1/7/2000 đã có những quy định
xử lý hình sự đối với một số hành vi vi phạm quyền sở hữu công nghiêp cụ
thể trong các điều 156, 157, 158, 170. Đó là các tội sản xuất buôn bán hàng
giả, tội vi phạm cấp văn bằng, tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
Trong năm 2000, Quốc hội khoá X thông qua Luật KH -CN [50]
Luật này đã đưa ra một tập hợp khái niệm: Khhọc, công nghệ, hoạt động
KH - CN, triển khai thực nghiệm, dịch vụ KH - CN... Đồng thời, Luật cũng
quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước, cá nhân, tổ chức đối với hoạt động
KH - CN; coi trường đại học, học viện, trường cao đẳng cũng là tổ chức KH -
CN. Tổ chức dịch vụ KH - CN có nhiệm vụ “tiến hành các hoạt động phục vụ
việc nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; các hoạt động liên quan
đến sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ; các dịch vụ về thông tin, tư vấn,
đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến và ứng dụng tri thức khoa học và công nghệ và
kinh nghiệm thực tiễn.” Luật đảm bảo quyền SHTT cho các các nhân, tổ chức
đồng thời có chính sách, biện pháp cụ thể để đảm bảo cho việc phát triển KH
- CN.
Thông qua quá trình kiểm tra giám sát, Nhà nước đã phát hiện ra những
điều thiếu sót trong các bộ luật vì vậy các nghị định đước ban hành để bổ
sung những điều còn thiếu và chưa cụ thể như: Nghị định 06/2001/NĐ-CP
làm rõ thêm về các quy định về chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp. Đồng
thời cũng đưa ra thêm một số đối tượng thuộc lớp bảo hộ SHTT (ví dụ: khái
niệm “Nhãn hiệu liên kết”, “nhãn hiệu nổi tiếng”...). Nghị định cũng bổ sung,
làm rõ hơn các quyền của chủ sở hữu công nghiệp, các quyền về đại diện chủ
sở hữu, các quyền khiếu nại tố cáo của chủ sở hữu... Nghị định đặc biệt nhấn
mạnh và làm rõ các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
Như vậy, nhờ có hoạt động kiểm tra giám sát mà Nhà nước biết đươc
những bất cập còn tồn tại và đưa ra những sưa đổi bổ sung cho các nghị định,
nghị quyết, và có những quyết định đúng đắn cho bước phát triển tiếp theo.
2.3. Đánh giá chung
2.3.1. Những thành tựu
Thứ nhất, Nhà nước đã thiết lập được hành lang pháp lý cho sự vận
hành của thị trường khoa học-công nghệ.
Nhận thức về thị trường KH - CN và sự cần thiết phải phát triển thị trường
này đã có những thay đổi quan trọng. Điều đó được thể hiện qua các kỳ Đại hội
Đảng Cộng sản Việt Nam và được cụ thể hoá bằng việc Nhà nước đã xây dựng
được một khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh, bao gồm một hệ thống các văn
bản pháp lý tương đối đồng bộ cho việc phát triển KH - CN và thị trường KH -
CN. Đó là Luật khoa học-công nghệ, Luật sở hữu trí tuệ. Các bộ luật đã được
sửa đổi, bổ sung như Bộ Luật dân sự, Bộ Luật hình sự... trong đó các phần liên
quan đến việc thực hiện quyền SHTT, cũng như quy định về xử lý các hành vi vi
phạm quyền SHTT... đã được đưa vào. Đồng thời, các nghị định, thông tư hướng
dẫn việc thực hiện các luật này, các văn bản luật liên quan khác như Luật chuyển
giao công nghệ, Luật chất lượng hàng hoá... đã được soạn thảo.
Thứ hai, tiềm lực KH - CN bước đầu được tăng cường và phát triển nhìn
từ vai trò tác động của Nhà nước tạo khả năng cung ứng hàng hóa KH - CN
cho thị trường KH - CN.
Nhờ có sự quan tâm đầu tư của Nhà nước trong nhiều thập kỷ qua số
người đang làm việc trực tiếp trong lĩnh vực KH - CN thuộc khu vực Nhà
nước tăng lên. Theo số liệu của Bộ Khoa học - Công nghệ , trong vòng 5 năm
trở lại đây, đội ngũ cán bộ KH - CN không ngừng được trẻ hóa và được nâng
cao năng lực. Cơ cấu trình độ chuyên môn cao đẳng và đại học chiếm
98,33%, thạc sĩ 0,89%, tiến sĩ 0,78%. Hàng năm có khoảng 500 - 600 người
được gửi đi đào tạo sau đại học ở nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước và
các nguồn học bổng khác do các Chính phủ và tổ chức nước ngoài tài trợ. Đây
là nguồn nhân lực quan trọng cho hoạt động KH - CN tạo khả năng cung ứng
hàng hóa KH - CN cho thị trường KH - CN của đất nước. Thời gian gần đây
Nhà nước đã xây dựng được một mạng lưới các tổ chức KH - CN với nhiều
các tổ chức nghiên cứu phát triển thuộc mọi thành phần kinh tế, 444 trường
đại học cao đẳng trong đó có 80 trường ngoài công lập. Cơ sở vật chất kỹ
thuật của các viện trung tâm nghiên cứu các phòng thí nghiệm các trung tâm
thông tin KH - CN, thư viện cũng được tăng cường và nâng cấp. Mặc dù ngân
sách còn hạn hẹp nhưng với sự nỗ lực rất lớn của Nhà nước, từ năm 2000 tỷ lệ
chi ngân sách Nhà nước cho KH - CN đã đạt 2% trong GDP đánh dấu một
mốc quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách đầu tư phát triển KH -
CN của Nhà nước góp phần tăng cung hàng hóa KH - CN cho sự hình thành
và phát triển thị trường KH - CN trong thời gian qua ở nước ta.
Thứ ba, nhờ sự định hướng chiến lược của Nhà nước các kênh thực
hiện CGCN và mua bán hàng hoá đã hình thành tạo cho thị trường KH - CN
ngày càng phát triển hơn.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là kênh CGCN quan trọng. Hoạt động
CGCN được thực hiện thông qua hình thức: Bán đứt toàn bộ công nghệ cho
công ty con, đóng góp máy móc thiết bị trong các liên doanh, sản xuất hàng
hoá theo li-xăng...
Hoạt động CGCN đã làm xuất hiện nhu cầu về hàng hoá KH - CN thuộc
loại “Dịch vụ kỹ thuật” bao gồm các dịch vụ đo lường, thẩm định, tư vấn, bảo
trì, bảo dưỡng...
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã thu hút được những công ty
công nghệ viễn thông đứng đầu thế giới như Intel, IBM... Điều này cũng cho
thấy nguồn nhân lực KH - CN Việt Nam có khả năng đáp ứng được yêu cầu
của những doanh nghiệp hàng đầu này.
Bên cạnh xu hướng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng lên nhanh
chóng thì các công ty Việt Nam có hàm lượng KH - CN cao như dầu khí, viễn
thông, các công ty sản xuất phần mềm... cũng bắt đầu đầu tư ra nước ngoài.
Tuy các dự án đầu tư chưa thật lớn, song cũng đánh dấu một bước trưởng
thành về tiềm lực tài chính cũng như tiềm lực KH - CN của những công ty
này. Dự án BOT xây dựng nhà máy điện cho nước bạn Lào trị giá gần 200
triệu USD là một minh chứng.
Thứ tư, dưới sự điều tiết, hỗ trợ của Nhà nước các tổ chức hỗ trợ thị
trường đã hình thành và từng bước hoàn thiện.
Một hệ thống Trung tâm ứng dụng KH - CN đã được hình thàng ở 61
tỉnh thành trong cả nước. Việt Nam đã tạo lập được các tổ chức hỗ trợ thị
trường như: Các tổ chức tư vấn, giám định, hỗ trợ về mặt pháp lý trong việc
CGCN... Các cơ quan chức năng của nhà nước về KH - CN bước đầu thực
hiện được các chức năng của mình. Cục Sở hữu trí tuệ đã đóng một vai trò
quan trọng và làm tốt việc giám định đăng ký các pa-tăng về sáng chế, đăng
ký giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp... cũng như việc cấp các li-xăng
trong việc chuyển giao các hàng hoá KH - CN. Cùng với các cơ quan chuyên
môn khác như Cục đăng kiểm và đo lường chất lượng, các trung tâm đo lường
chất lượng, trung tâm tư vấn, CGCN... của các sở đã đóng được vai trò hỗ trợ
cho việc CGCN cho các doanh nghiệp địa phương, trong đó đã làm tốt việc tổ
chức các hội chợ KH - CN để tư vấn, giới thiệu các sản phẩm KH - CN và tạo
điều kiện cho các bên mua, bán gặp nhau thực hiện các giao dịch.
Các cơ quan hành chính từ Bộ đến các sở cũng đã thực hiện được chức
năng quản lý Nhà nước về KH - CN; giúp cho Chính phủ đưa ra các chương
trình và giải pháp cụ thể cho việc phát triển KH - CN và thị trường KH - CN;
cung cấp tín dụng và tạo lập được quỹ hỗ trợ, quỹ đầu tư mạo hiểm cho việc
phát triển KH - CN.
Thứ năm, Nhà nước đã khắc phục các khuyết tật và tạo môi trường cạnh
tranh lành mạnh nên các doanh nghiệp KH - CN đã xuất hiện và thể hiện
được vai trò của mình.
Các tổ chức KH - CN đã thu được những thành tựu hết sức quan trọng
trong việc nghiên cứu cơ bản và triển khai. Những hoạt động tư vấn, chuyển
giao, hợp tác nghiên cứu của các tổ chức KH - CN đã thu được những hiệu quả
kinh tế nhất định; bước đầu đã gắn kết được việc nghiên cứu với thực tiễn sản
xuất.
Với hình thức doanh nghiệp, các cơ quan nghiên cứu và triển khai KH - CN
trở nên năng động hơn, quan tâm hơn đến nhu cầu đổi mới KH - CN của doanh
nghiệp, sử dụng các nguồn lực có hiệu quả hơn. Đây chính là nguồn cung nội
sinh quan trọng các hàng hoá KH - CN cho các ngành kinh tế của đất nước.
Thứ sáu, nhờ có chính sách của Nhà nước nguồn nhân lực KH - CN đã
có những bước phát triển đáng kể làm nguồn cung hàng hóa KH - CN ngày
càng phong phú.
Số lượng giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ, thạc sĩ tiếp tục gia tăng. Ngoài
đào tạo trong nước, bằng các kênh khác nhau, Việt Nam đã gửi hàng nghìn
người đi đào tạo bậc đại học, sau đại học ở các nước có nền giáo dục phát
triển. Việc hợp tác đào tạo trong nước cũng có những bước phát triển nhất
định. Việc hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài để đào tạo, đào tạo lại đội
ngũ kỹ sư, công nhân lành nghề tại chỗ để đáp ứng được yêu công việc
trong các liên doanh đang có chiều hướng phát triển tốt. Việc kết hợp giữa
các trường đại học, cao đẳng... và các doanh nghiệp trong việc đào tạo sinh
viên góp phần quan trọng nâng cao chất lượng đào tạo; gắn lý luận với thực
tiễn; tạo việc làm cho sinh viên sau khi ra trường...
Do đòi hỏi của thị trường, bản thân các nhà khoa học cũng phải không ngừng
nâng cao trình độ của mình. Đồng thời, nhờ có thị trường KH - CN, lao động của
các nhà khoa học được trả công xứng đáng hơn. Điều đó lại tạo ra động lực để họ
tích cực nghiên cứu phát minh, sáng chế và tự hoàn thiện bản thân mình.
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù đạt được những thành tựu nhất định nhưng nhìn chung vai trò của
Nhà nước đối với KH - CN tạo khả năng cung cho thị trường KH - CN nước ta
còn nhiều mặt yếu kém còn có khoảng cách khá xa so với trình độ thế giới và
khu vực, chưa đáp ứng được yêu cầu là nền tảng động lực cho phát triển KT -
XH và thúc đẩy thị trường KH - CN phát triển. Quản lý thị trường KH - CN ở
nước ta còn nhiều bất cập làm cho thị trường KH - CN nước ta chậm phát triển.
Thứ nhất, công tác quản lí khoa học công nghệ nói chung và thị trường
KH - CN nói riêng còn nhiều bất cập
Các doanh nghiệp KH - CN còn quá ít, hiệu quả chưa cao. Các tổ chức
KH - CN là kênh chính cung cấp hàng hoá KH - CN ở Việt Nam, tuy đã đạt
được những kết quả quan trọng trong việc nghiên cứu triển khai nhưng việc
chuyển giao các công nghệ, thương mại hoá các công nghệ, cũng như khả
năng ứng dụng các chương trình, đề tài nghiên cứu vào thực tiễn còn thấp.
Tình trạng bao cấp đối với các tổ chức KH - CN còn lớn; việc chuyển đổi một
số tổ chức KH - CN sang hình thức công ty KH - CN còn nhiều bất cập, tốc
độ chuyển đổi còn chậm.
Về trình độ, năng lực nghiên cứu của nguồn nhân lực khoa học-công
nghệ chưa cao. Nguồn nhân lực khoa học-công nghệ Việt Nam ít có khả năng
làm việc tập thể; tính năng động còn thấp. Cơ cấu nguồn nhân lực khoa học-
công nghệ chưa hợp lý: thiếu những chuyên gia đầu ngành, các nhà quản lý
chuyên nghiệp, đội ngũ kỹ sư thực hành, công nhân bậc cao...
Khả năng đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam nhìn
chung còn nhỏ bé. Điều này làm cho các hoạt động giao dịch trên thị trường
KH - CN diễn ra yếu ớt.
Thứ hai, các tổ chức trung gian môi giới ra đời và phát triển nhưng hệ
thống pháp luật chưa đầy đủ, các chính sách không tạo ra đông lực cùng nhiều
thủ tục rắc rối nên các tổ chức trung gian môi giới xuất hiện chưa nhiều, chưa
đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của các hoạt động giao dịch trên thị trường.
Các tổ chức hỗ trợ thị trường còn nhiều hạn chế như: Tính chuyên
nghiệp chưa cao, năng lực các cơ quan tư vấn, người làm tư vấn, giám sát,
kiểm định chưa đạt được trình độ tương đương khu vực và quốc tế, các thể
chế hỗ trợ về tài chính tín dụng chủ yếu mới ở trên giấy tờ.
Việc đảm bảo thực thi quyền SHTT còn yếu, tình trạng vi phạm quyền
SHTT bị xử lý chưa tương xứng với những vi phạm nảy sinh, chưa có chế tài
và các biện pháp đủ mạnh có hiệu quả để giảm bớt tình trạng này tình trạng
đặc biệt nghiêm trọng là lĩnh vực bản quyền phần mềm. Việt Nam là nước
luôn đứng đầu thế giới về tỷ lệ vi phạm.
Thứ ba, Nhà nước đã xây dựng và hoàn thiện các yếu tố về thể chế hỗ
trợ thị trường nhưng hiệu quả thực thi còn thấp chưa thúc đẩy hoạt động của
thị trường KH - CN.
Hệ thống pháp luật về SHTT nằm rải rác, tản mạn trong nhiều văn bản,
các quy định thiếu đồng bộ, chồng chéo, nên hiệu lực điều chỉnh các vi phạm
còn yếu, chưa thực sự tương thích với tập quán quốc tế. Hiện tại nước ta
còn quá nhiều cơ quan có quyền thực thi giải quyết các vụ tranh chấp về vi
phạm quyền SHTT nhưng lại chưa quy định thật rõ ràng về quyền hạn của
từng tổ chức nói trên. Các chế tài xử phạt chưa đủ mạnh nên chưa đủ sức
răn đe, ngăn chặn các hành vi vi phạm quyền SHTT. Ngoài ra đội ngũ cán
bộ có trình độ chuyên môn về SHTT kém, nhận thức của các tổ chức KH -
CN của doanh nghiệp và dân chúng về SHTT còn hạn chế cũng làm cho
hiệu lực thực thi của hệ thống pháp luật trong lĩnh vực này còn rất thấp. Hệ
thống luật pháp về mua bán và CGCN còn nhiều bất hợp lý. Các quy định
về hoạt động CGCN trong nước chưa rõ ràng, cụ thể nên khó thực thi, các
quy định về dịch vụ hỗ trợ mua bán công nghệ còn thiếu...
Vai trò của Nhà nước trong thị trường khoa học - công nghệ còn nhiều
yếu kém là do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, đường lối chính sách phát triển thị trường KH - CN của Đảng
và Nhà nước chưa được quán triệt đầy đủ và chậm được triển khai trong thực
tiễn. Các quan điểm KH - CN là nền tảng và động lực phát triển đất nước đã
được khẳng định trong các nghị quyết của Đảng nhưng trên thực tế chưa được
các cấp, các ngành, các địa phương quán triệt đầy đủ và triển khai trong thực
tiễn phát triển KT - XH. Nhiều chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước
về phát triển thị trường KH - CN chậm được thể chế hóa bằng các văn bản
quy phạm pháp luật.
Thứ hai, việc tổ chức chỉ đạo thực hiện chính sách thiếu kiên quyết nên
kết quả còn hạn chế. Năng lực của các cơ quan tham mưu, quản lý KH - CN
các cấp còn yếu kém.
Thứ ba, chậm đổi mới tư duy, cơ chế và phương pháp quản lý KH - CN
trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và HNKTQT. Thực tế cho thấy cơ chế kế hoạch hóa, tập chung quan liêu, bao
cấp đang còn ăn sâu trong tiềm thức và thói quen của không ít cán bộ KH -
CN và quản lý KH - CN đã tạo ra sức ỳ không dễ khắc phục khi thực thi cơ
chế mới, chưa đáp ứng được yêu cầu về đổi mới quản lý KH - CN phù hợp
với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, TCH và HNKTQT.
Thứ tư, chưa làm rõ trách nhiệm của Nhà nước đối với những hoạt động
KH - CN mà Nhà nước cần đầu tư phát triển. Điều đó biểu hiện: Chậm làm rõ
các lĩnh vực KH - CN trọng điểm, ưu tiên, nghiên cứu chiến lược chính sách
phát triển; nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu mang tính công ích... Cũng chưa có
cơ chế, chính sách phù hợp đối với các hoạt động KH - CN. Quản lý Nhà
nước đối với khu vực hành chính và khu vực sự nghiệp trong hệ thống KH -
CN chưa được tách biệt rõ ràng, làm cho công tác quản lý các tổ chức KH -
CN còn mang nặng tính hành chính.
Thứ năm, Nhà nước ta chậm tổng kết thực tiễn để nhân rộng các điển
hình tiên tiến trong việc gắn kết giữa nghiên cứu KH - CN với giáo dục - đào
tạo và sản xuất - kinh doanh.
*
* *
Trong thời gian vừa qua thị trường KH - CN ở Việt Nam đã có bước
phát triển đáng kể: Cung cầu trên thị trường KH - CN ngày càng tăng, các tổ
chức trung gian môi giới đã hình thành và phát triển khắp cả nước, hệ thống
pháp luật cho thị trường KH - CN ngày càng hoàn thiện...Để có được những
thành tựu này vai trò của Nhà nước trong quá trình phát triển thị trường KH -
CN Việt Nam đã có nhiều đóng góp đáng kể đó là Nhà nước đã có nhiều các
văn bản chính sách pháp luật về thị trường KH - CN và việc thực thi các văn
bản pháp luật đạt hiệu quả cao. Nhà nước còn khắc phục được nhiều khuyết
tật của thị trường KH - CN đặc biệt là hiện tượng thông tin bất cân xứng về
hàng hóa KH - CN làm cho cầu về hàng hóa này tăng lên đáng kể. Nhà nước
cũng có những chiến lược định hướng đúng đắn cho thị trường KH - CN nên
thị trường này phát triển nhanh và đóng góp nhiều sản phẩm KH - CN đáng
kể. Hoạt động kiểm tra giám sát của Nhà nước cũng thu được nhiều thành tựu.
Nhờ hoạt động này mà các chính sách điều tiết, hỗ trợ thị trường được thực
hiện dúng đắn, hệ thống pháp luật được thực thi đặc biệt là bảo hộ được
quyền SHTT. Tuy nhiên vai trò của Nhà nước đối với thị trường KH - CN vẫn
còn nhiều hạn chế như hệ thống pháp luật về thị trường KH - CN vẫn còn
thiếu, thực thi pháp luật chưa nghiêm, vẫn tồn tại một số khuyết tật của thị
trường KH - CN chưa khắc phục được. Nhà nước còn chưa có định hướng rõ
ràng cụ thể cho sự phát triển của thị trường KH - CN; hoạt động kiểm tra
thanh tra thị trường KH - CN chưa sát sao, vẫn còn nhiều hiện tượng đáng cắp
bản quyền SHTT. Những hạn chế đó có nhiều nguyên nhân chủ quan trọng đó
nguyên nhân cơ bản chủ yếu là do những bất cập trong hệ thống pháp luật,
chính sách phát triển thị trường KH - CN của Nhà nước như chính sách thúc
đẩy hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới công nghệ còn nhiều bất hợp lý chưa tạo
ra sự bình đẳng cạnh tranh thực sự giữa các doanh nghiệp; cơ chế quản lý các
tổ chức KH - CN chậm được đổi mới và vẫn bị ảnh hưởng của tư tưởng bao
cấp...Vì vậy Nhà nước cần khắc phục những hạn chế để thị trường KH – CN
ngày càng phát triển.
Chương 3 NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Bối cảnh mới tác động đến vai trò Nhà nước trong phát triển thị
trường khoa học - công nghệ Việt Nam
3.1.1. Bối cảnh quốc tế
* Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ
Thế giới đã trải qua 2 cuộc cách mạng kỹ thuật và ngày nay đang diễn ra
cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ ba (còn gọi là cách mạng công nghệ). Cách
mạng công nghệ (được bắt đầu từ thập kỷ 80 của thế kỷ XX) đã làm cho nền
kinh tế thế giới có những thay đổi hết sức to lớn. Cách mạng KH - CN hiện
đại làm thay đổi lực lượng sản xuất của xã hội hiện đại, thực hiện vai trò dẫn
đường trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc trưng của cách mạng KH -
CN hiện đại là tri thức đóng vai trò trung tâm của sự phát triển, các ngành có
hàm lượng KH - CN cao chiếm vị trí đầu tàu trong nền kinh tế.
Cách mạng KH - CN hiện đại phát triển làm cho mỗi một sản phẩm được
tạo ra trong xã hội có hàm lượng trí tuệ ngày một gia tăng, trở thành yếu tố
quan trọng nhất quyết định giá trị của sản phẩm. Lợi thế cạnh tranh chủ yếu
của mỗi nền kinh tế phụ thuộc vào khả năng vận dụng KH - CN vào các
ngành kinh tế.
Xu thế phát triển của cách mạng KH - CN hiện đại đã khẳng định tài sản
trí tuệ, KH - CN, thị trường KH - CN có vai trò ngày càng quan trọng, đặc
biệt là việc sản xuất ra các sản phẩm KH - CN tiên tiến, hiện đại, có hàm
lượng tri thức cao, mang lại giá trị lớn. Điều này đòi hỏi mỗi quốc gia đặc biệt
là các quốc gia đang phát triển như Việt nam có nhứng định hướng về chính
sách và các ưu tiên chiến lược phát triển kinh tế tri thức để vừa làm tăng cung,
vừa làm tăng cầu hàng hóa KH - CN. Đó là những điều kiện hết sức thuận lợi
cho phát triển thị trường KH - CN trên thế giới.
* Xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá và hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng và có những biểu hiện mới.
Ngày nay TCH đang trở thành xu hướng tất yếu khách quan của sự phát
triển kinh tế thế giới. TCH mở ra thời cơ lớn cho mọi dân tộc phát triển. Nó
cho phép các nước đang phát triển có cơ hội và điều kiện để tiếp nhận các
dòng vốn, công nghệ; Mở rộng thị trường; Tiếp nhận kỹ năng và kinh nghiệm
quản lý từ các nền kinh tế phát triển cao nhất. Các nền kinh tế đang phát triển
và kinh tế chuyển đổi sẽ có cơ hội để thực hiện mô hình phát triển rút ngắn,
nghĩa là thông qua HNKTQT để đi tắt và tiến tới những bước phát triển cao
hơn trên cơ sở hưởng thụ và vận dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài đã
được khai thông và kết nối với các nguồn lực bên trong.
Nhờ TCH, thị trường KH - CN của các quốc gia được kết nối với thị
trường KH - CN thế giới. Nhờ đó, thị trường đó của mỗi quốc gia sẽ phát
triển hết sức nhanh chóng cả về quy mô và trình độ.
TCH và HNKTQT được đẩy mạnh và là xu hướng chủ đạo trong sự vận
động của kinh tế thế giới. TCH thúc đẩy sự phát triển và xã hội hóa lực lượng
sản xuất. TCH làm sâu sắc hơn sự chuyên môn hóa và phân công lao động
quốc tế, kích thích gia tăng sản xuất không chỉ ở cấp quốc gia mà còn trên quy
mô toàn thế giới, làm cho cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt dẫn đến việc
các doanh nghiệp, các chủ thể phải đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao
động.
TCH và HNKTQT làm cho tự do hóa thương mại, đầu tư, tài chính,
CGCN được đẩy mạnh ở cả cấp độ song phương và đa phương, khu vực
và toàn cầu. Các định chế, thể chế kinh tế quốc tế, trong đó có các định
chế liên quan đến thị trường KH - CN ngày càng hoàn thiện, phát triển,
tạo điều kiện cho việc thâm nhập, phụ thuộc lẫn nhau giữa thị trường KH
- CN ở các quốc gia.
Sự hợp tác quốc tế về KH - CN ngày càng phát triển và trở nên cần thiết
đối với các nước. Do hoạt động KH - CN hiện nay đòi hỏi sự đầu tư lớn về
vốn, công nghệ, nhân lực và để phát huy lợi thế so sánh trong nghiên cứu KH
- CN, các quốc gia ngày càng tăng cường hợp tác với nhau trong nghiên cứu
triển khai thị trường KH - CN.
Bên cạnh đó, xu hướng TCH và HNKTQT có biểu hiện mới đặc biệt là
từ sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đó là: Thay
đổi các thể chế, nguyên tắc trong các hiệp định quốc tế cho phù hợp với tình
hình mới; Gia tăng sự liên kết giữa các nước trong việc giải quyết những vấn
đề mang tính toàn cầu; Định vị lại sức mạnh và quyền chi phối kinh tế thế
giới của các trung tâm kinh tế; Tái cấu trúc lại nền kinh tế thế giới và nền kinh
tế mỗi quốc gia.
Như vậy, phần lớn các hoạt động KH - CN ngày nay mang tính quốc tế,
do nhiều nhà khoa học của nhiều quốc gia cùng tham gia. Các nước phát triển,
các công ty xuyên quốc gia đầu tư nhiều cơ sở nghiên cứu ở các nước đang
phát triển nhưng trung tâm nghiên cứu KH - CN chủ yếu vẫn ở các nước phát
triển. Hình thức hợp tác quốc tế trong khoa học ngày càng đa dạng. Các nhà
khoa học ở các nước khác nhau đã cộng tác với nhau và với các nhà doanh
nghiệp để cho ra các công nghệ mới, sản phẩm mới. Như vậy xu hướng TCH,
HNKTQT có vai trò quan trọng để phát triển thị trường KH - CN ở mỗi nước,
do đó Việt Nam cần có chính sách hội nhập thích hợp để tiếp thu tác động tích
cực từ bên ngoài.
* Nền kinh tế thế giới có những biến đổi nhanh chóng
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng KH - CN hiện đại
và xu hướng TCH, HNKTQT, nền KTTT thế giới có bước phát triển và biến
đổi mạnh mẽ.
Trong nền KTTT phát triển, trước áp lực ngày càng lớn của cạnh tranh
các nhà sản xuất, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải không
ngừng gia tăng đầu tư và đổi mới công nghệ trong sản xuất nhằm tăng cường
năng lực cạnh tranh.
Trong môi trường cạnh tranh quyết liệt của nền KTTT toàn cầu hóa, các
doanh nghiệp mới thường ra đời từ một sáng chế, một công nghệ mới. Trong cuộc
cạnh tranh toàn cầu ráo riết hiện nay không còn chỗ đứng cho các doanh nghiệp
làm ăn theo đường mòn không chịu đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm.
Bên cạnh đó nền kinh tế thế giới đang trải qua những bước thăng trầm,
cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã gây ra tổn thất
nặng nề cho nền kinh tế thế giới. Cuộc khủng hoảng kinh tế này diễn ra cùng
với khủng hoảng năng lượng, khủng hoảng khí hậu và môi trường. Do vậy
sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới sẽ có sự tái cấu trúc nền kinh tế và có
sự biến đổi nhanh chóng, kinh tế tri thức được phát triển mạnh mẽ, KH - CN
ngày càng đóng vai trò quan trọng trong phát triển, các nước phát triển sẽ tập
trung phát triển công nghệ cao và đồng thời chuyển dịch công nghệ thấp cho
các nước đang phát triển. Nước ta là nước đang phát triển cần có chính sách
đổi mới công nghệ để tăng cường cạnh tranh với các sản phẩm của nước khác
đồng thời có chính sách tao môi trường thuận lợi để thu hút những công nghệ
hiện đại vào trong nước để phát triển thị trường KH - CN trong nước.
* Xu hướng hoà bình, hợp tác vì sự tiến bộ và phát triển tạo môi trường
thuận lợi cho sự phát triển của thị trường khoa học-công nghệ
Sau khi cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới không còn sự đối đầu
giữa hai thế cực đối lập Mỹ và Liên Xô. Bối cảnh mới của thế giới làm cho
kinh tế trở thành trọng tâm trong chiến lược phát triển của các quốc gia trên
thế giới. Các nước nằm trong quan hệ phụ thuộc lẫn nhau nên sự phát triển
kinh tế của nước này là điều kiện cho sự phát triển kinh tế của nước khác, bất
kể đó là nền kinh tế lớn hay nhỏ. Theo đó, sự bất ổn ở một nước nào đó về
chính trị, kinh tế, an ninh, môi trường... hiển nhiên là ảnh hưởng không tốt
đến các nước khác.
Hoà bình trở thành điều kiện tiên quyết cho hợp tác và phát triển.
Ngay các nước lớn cũng không thể vượt qua xu thế đó và phải điều chỉnh
cách ứng xử trong các quan hệ quốc tế. Đứng trước những mâu thuẫn, tranh
chấp, con đường giải quyết đã thiên về đối thoại thoả hiệp, thương lượng và
tránh xung đột đối đầu. Các nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, tăng cường hiểu
biết đối thoại, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau... trở thành đòi
hỏi của tuyệt đại đa số các quốc gia.
Khi thương mại hàng hoá - dịch vụ toàn cầu đã kết nối thành mạng
thương mại điện tử rộng khắp, khi các dòng vốn quốc tế xoắn bện chặt chẽ
với nhau với một mức lưu chuyển chóng mặt 2000 tỷ USD/ngày... thì sự liên
kết về chính sách phát triển ngày càng chặt chẽ hơn bao giờ hết. Thế giới
đứng trước một rủi ro chung. Sự đổ vỡ của mắt xích nào trong hệ thống này
sẽ ảnh hưởng hoặc dẫn đến sự đổ vỡ của cả hệ thống. Do đó, sự hợp tác và
phát triển trên nhiều góc độ: Vĩ mô và vi mô, quốc gia và tổ chức quốc tế, khu
vực và liên lục địa... tất yếu sẽ là phổ biến. Một thế giới hoà bình, ổn định,
hợp tác và phát triển sẽ là dòng chảy chủ yếu của thế giới trong thiên niên kỷ
thứ 3.
Xu hướng hoà bình, hợp tác vì sự tiến bộ và phát triển góp phần mở rộng
hơn nữa quan hệ hợp tác, trao đổi giữa các quốc gia về KH - CN; khuyến
khích, tạo điều kiện và đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng đầu tư,
đổi mới công nghệ... Đó là môi trường thuận lợi cho sự phát triển của thị
trường KH - CN thế giới và ở mỗi quốc gia. Trước xu thế này, Việt Nam có
chính sách đầu tư mở cửa để hợp tác với các nước khác về KH - CN để phát
triển nhanh thị trường KH - CN trong nước.
Như vậy, bối cảnh quốc tế có những tác động lớn đến vai trò của Nhà
nước trong phát triển thị trường KH - CN trên thế giới.
3.1.2. Bối cảnh trong nước.
* Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta ngày
càng hoàn thiện và phát triển nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn chế.
- Hệ thống các loại thị trường ở nước ta đã được hình thành và phát triển
nhưng vẫn còn nhiều vấn đề bất cập.
Trong thời gian vừa qua hệ thống các loại thị trường ở nước ta như thị
trường hàng hóa dịch vụ, thị trường bất động sản, thị trường vốn, thị trường
lao động...đã được hình thành và phát triển. Việc này đã tạo điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển của thị trường KH - CN, bởi vì các loại thị trường này có
quan hệ tương tác và thúc đẩy thị trường KH - CN phát triển. Tuy nhiên trong
các loại thị trường này chỉ có thị trường hàng hóa dịch vụ phát triển mạnh còn
các thị trường khác vẫn tồn tại nhiều yếu kém. Những bất cập trong việc phát
triển các loại thị trường đã kìm hãm sự phát triển của thị trường KH - CN. Do
vậy Nhà nước cần có chính sách khuyến khích phát triển đồng bộ các loại thị
trường để thúc đẩy sự phát triển của thị trường KH - CN.
- Nền kinh tế nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và
quy mô nền kinh tế tăng lên nhưng chất lượng phát triển chưa bền vững, hiệu
quả, sức cạnh tranh nền kinh tế thấp.
Trong thời gian vừa qua, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển
mạnh, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng
lên. Điều này được thể hiện:
Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây nước ta
tương đối ổn định và đạt ở mức cao. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quan 5
năm 2005 - 2010 đạt 7%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội gấp 2,5 lần so với giai
đoạn 2001 - 2005, đạt 42,9% GDP. Mặc dù khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu nhưng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước
ta đạt cao. Quy mô GDP năm 2010 tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD,
gấp 3,26 lần so với năm 2000; GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD. Hầu
hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao và sự gia tăng của vốn đầu tư nước ngoài có tác động
lớn đến sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam và đẩy mạnh CGCN từ
nước ngoài, từ đó tác động tích cực đến tăng trưởng của cầu hàng hóa KH -
CN trên thị trường KH - CN.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng của nền kinh tế được tăng cường. Điều này giúp
cho việc xây dựng mới và nâng cấp cơ sở hạ tầng cần thiết cho sự phát triển
của thị trường KH - CN.
Thứ ba, Việt Nam đầu tư phát triển mạnh một số ngành công nghiệp
mới, công nghệ cao. Sản phẩm công nghiệp của nền kinh tế phát triển ngày
càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện. Các nội
dung này đã thúc đẩy nhu cầu công nghệ mới, công nghệ cao và tạo ta sự đa
dạng phong phus về loại hình sản phẩm KH - CN trên thị trường.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế nước ta
phát triển chưa bền vững, chất lượng hiệu quả sức cạnh tranh thấp. Những
điều này thể hiện nhu cầu công nghệ thấp trung bình của doanh nghiệp vẫn là
chủ yếu, môi trường đầu tư kinh doanh của thị trường KH - CN còn nhiều bất
cập từ đó gây cản trở rất lớn đến phát triển thị trường KH - CN. Vì vậy, Nhà
nước ta tận dụng những tác động tích cực của sự tăng trưởng chung của nền
kinh tế để phát triển thị trường KH - CN.
- Nguồn nhân lực đã có sự phát triển nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu.
Trong thời gian qua, quy mô nguồn nhân lực ở Việt Nam đã tăng nhanh,
đặc biệt ở cấp đại học, cao đẳng và dạy nghề. Trình độ chuyên môn kỹ thuật
của lực lượng lao động không ngừng được nâng cao. Cơ cấu lao động có sự
chuyển dịch theo hướng tích cực. Lao động trong ngành sử dụng nhiều công
nghệ, lao động đã qua đào tạo tăng về số lượng, điều này đã tạo nhiều điều
kiện thuận lợi cho nhu cầu nhân lực để đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.
Tuy nhiên việc sử dụng và bố trí công việc cho đội ngũ lao động kỹ thuật còn
nhiều bất hợp lý, nhiều lao động phải làm các công việc không phù hợp với
chuyên môn và trình độ đào tạo.
Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam có sự
gia tăng. Cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao có sự chuyển dịch nhanh, tỷ
trọng nhân lực trình độ đại học trong các ngành sử dụng nhiều công nghệ và
tri thức gia tăng. Nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam ngày càng
được nâng cao về trình độ và kỹ năng. Nguồn nhân lực chất lượng cao của
Việt Nam ngày càng được nâng cao về trình độ và kỹ năng. Tuy nhiên nguồn
nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam vẫn còn ít so với yêu cầu phát triển của
nền kinh tế, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ chưa tiếp cận được với trình độ
quốc tế. Điều này có ảnh hưởng tới số lượng và chất lượng đội ngũ nhân lực
KH - CN, tới khả năng nghiên cứu KH - CN ở trình độ quốc tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực cao đối với sự phát
triển của thị trường KH - CN Nhà nước ta đã và đang tao điều kiện để phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao đặc biệt nguồn nhân lực KH - CN nói riêng.
* Tiềm lực khoa học và công nghệ của Việt Nam ngày càng được tăng
cường, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và
thấp so với nhiều nước trong khu vực.
Trong 20 năm đổi mới vừa qua, nhất là trong 10 năm trở lại đây nhận
thức được vai trò của KH - CN đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng đẩy mạnh hoạt động
khoa học và phát triển công nghệ của đất nước, từ đó tiềm lực KH - CN ngày
càng được tăng cường cụ thể:
- Chúng ta đã có đội ngũ đông đảo cán bộ khoa học, trong đó
nhiều cán bộ có trình độ đại học trở lên. Đây là lực lượng tiềm tàng cho phát
triển KH - CN ở nước ta.
- Nguồn kinh phí huy động cho KH - CN đã được đa dạng hóa. Đầu
tư cho KH - CN từ ngân sách nhà nước giai đoạn 2001-2005 đạt trung bình
khoảng 2% tổng chi ngân sách, đây là tỷ lệ cao so với các nước khác. Việc đầu
tư nâng cấp cơ sở vật chất và tăng cường trang thiết bị cho các tổ chức nghiên
cứu phát triển nhất là đầu tư các phòng thí nghiệm trọng điểm đã đáp ứng được
phần nào nhu cầu trước mắt của một số tổ chức nghiên cứu phát triển.
- Hệ thống các tổ chức nghiên cứu phát triển theo hướng tăng
cường liên kết giữa nghiên cứu và sản xuất kinh doanhthoong qua việc định
hướng hoạt động nghiên cứu và ứng dụng kết quả KH - CN theo nhu cầu thực
tế phát triển KT - XH và đơn đặt hàng của doanh nghiệp.
Tuy nhiên nhìn tổng thể tiềm lực KH - CN nước ta chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển KT - XH và thấp so với nhiều nước trong khu vực. Trình
độ KH - CN Việt Nam vẫn còn khoảng cách xa so với các nước phát triển và
ngay cả với nhiều nước trong khu vực chưa tạo ra được năng lực KH - CN
cần thiết để đáp ứng những yêu cầu mới của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
của đất nước. Vì vậy để phát triển thị trường KH - CN, Nhà nước cần có
những chính sách hữu hiệu tạo động lực đối với cán bộ KH - CN; chính sách
thu hút trọng dụng nhân tài, đổi mới cơ chế quản lý tài chính trong hoạt động
KH - CN để tạo thuận lợi cho các nhà khoa học nghiên cứu ứng dụng KH -
CN.
* Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang mở ra những cơ hội to lớn cho
phát triển và cũng đang đặt ra những thách thức không nhỏ đối với sự phát
triển của thị trường KH - CN nước ta.
Trước tiến trình HNKTQT ngày càng sâu rộng Nhà nước ta cần được
nhận thức rõ để đề xuất những giải pháp đúng đắn nhằm tận dụng được những
cơ hội do hội nhập mang lại và giảm thiểu những khó khăn, bất lợi trên con
đường phát triển của mình.
Một là, đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư và công nghệ nước ngoài.
Trong quá trình toàn cầu hoá, các dòng hàng hoá được lưu thông tự do
hơn sẽ kéo theo nó sự vận động của các dòng vốn và công nghệ. Trong cơ chế
thị trường, các nguồn lực vận động theo nguyên tắc là di chuyển từ nơi thừa
đến nơi thiếu, từ chỗ sinh lợi ít đến chỗ sinh lợi nhiều hơn... Do tích luỹ vốn
đến mức cao và không ngừng hiện đại hoá công nghệ, ở các nước phát triển
xuất hiện tình trạng dư thừa vốn; có những công nghệ mới không tìm được
nơi sinh lợi cao, những công nghệ cũ không có chỗ sử dụng đang xuất hiện
ngày càng nhiều. Những nguồn vốn và công nghệ này tất yếu sẽ được chảy
sang các nước đang phát triển. Đây là một thời cơ lớn cho các nước đang phát
triển. Nửa sau những năm 1990, hàng năm đã có hàng trăm tỷ USD đổ vào
các nước đang phát triển. Từ năm 1996 trở lại đây, mỗi năm Trung Quốc đã
thu hút hơn 40 tỷ USD, trở thành nước đứng thứ hai trên thế giới trong việc
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Cùng với việc thu hút đầu tư nước ngoài vào nước ta là công nghệ mới.
Việc tiếp nhận công nghệ mới này góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả sản
xuất và sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Các công nghệ này có thể là
cũ và không có hiệu quả ở các nước phát triển nhưng lại là mới và có hiệu quả
ở Việt nam.
Do khả năng tiếp cận thị trường bên ngoài của Việt Nam còn hạn chế,
việc vay vốn và nhập khẩu công nghệ mới cũng không dễ dàng. Con đường
thích hợp với Việt Nam trong điều kiện hiện nay là hội nhập quốc tế để khai
thông thị trường trong nước với khu vực và thế giới, tạo ra môi trường đầu tư
có hiệu quả và có sức hấp dẫn.
Hai là, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu.
Cùng với quá trình hội nhập quốc tế, hàng rào bảo hộ mậu dịch ngày
càng giảm, quan hệ buôn bán giữa các quốc gia ngày càng được tăng cường,
do vậy mà thị trường thế giới cũng ngày càng được mở rộng. Các hiệp định
thương mại song phương, đa phương sẽ cho phép thị trường của một nước
được khai thông với tất cả các nước đối tác
Khi thị trường bên ngoài của một quốc gia ngày càng rộng mở, sức ép từ
thị trường bên ngoài cũng ngày càng mạnh trên nhiều phương diện. Trước hết
là cạnh tranh toàn cầu sẽ rất gay gắt, buộc tất cả các công ty trong nước phải
phấn đấu dữ dội để tồn tại và phát triển. Đây là một thách thức vì nếu các
quốc gia tham gia hội nhập không có các chính sách đúng, các công ty kinh
doanh không nâng cao được năng lực cạnh tranh thì tình trạng phá sản của
hàng loạt công ty là khó tránh khỏi, dẫn tới thất nghiệp gia tăng, gây bất ổn
định xã hội... Thứ hai, sức ép của thị trường toàn cầu sẽ tác động đến thể chế
kinh tế, xã hội của các quốc gia, buộc các thể chế này phải thay đổi để thích
ứng. Đây là một cơ hội để các quốc gia có thể hoàn thiện thể chế thị trường
của mình. Nhưng đồng thời, đây cũng là một thách thức vì nếu các thể chế
quốc gia không thích ứng với cơ chế thị trường toàn cầu thì môi trường kinh
doanh sẽ bị giảm lợi thế so sánh, kém hiệu quả, gây thua thiệt cho các nhà
kinh doanh.
Tham gia các khu vực mậu dịch tự do và thực hiện tự do hóa thương mại
trong khuôn khổ của WTO là điều kiện cần để các nước tranh thủ những ưu
đãi về thương mại đầu tư và các lĩnh vực khác được áp dụng trong nội bộ mỗi
tổ chức, góp phần mở rộng thị trường và phát triển sản xuất trong nước. Đặc
biệt trong WTO cũng như đại đa số các tổ chức khu vực khác đều có các
chính sách ưu đãi đối với các nước đang phát triển và các nước trong thời kỳ
chuyển đổi, cho phép các nước này được hưởng các miễn trừ, ân hạn trong
việc thực hiện các nghĩa vụ giảm thuế, phi thuế và các nghĩa vụ khác.
HNKTQT, thực hiện tự do hóa thương mại, giảm thuế và mở cửa thị
trường sẽ làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường nội địa, buộc các ngành
sản xuất phải cơ cấu lại theo hướng phù hợp nhất với xu hướng thế giới,
nâng cao hiệu quả kinh doanh và sản xuất những sản phẩm được thị trường
thế giới chấp nhận. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với những nền kinh
tế đang trong quá trình công nghiệp hóa như Việt Nam. Tự do hóa thương
mại cũng tạo điều kiện cho các ngành sản xuất có cơ hội lựa chọn tổ hợp
các yếu tố đầu vào phù hợp. Cuối cùng, người tiêu dùng trong nước cũng
sẽ có lợi hơn do mua được hàng hoá với giá rẻ hơn và có nhiều sự lựa chọn
hơn đối với hàng hóa trên thị trường nội địa.
Do mở rộng xuất khẩu và sức ép cạnh tranh, các doanh nghiệp Việt
Nam buộc phải đổi mới KH - CN. Điều này có nghĩa cầu về KH - CN sẽ
tăng nhanh.
Một trong những ưu điểm của việc tham gia hội nhập vào các tổ chức
khu vực và quốc tế đối với các nước đang phát triển là các tổ chức này thường
có các chương trình hợp tác kinh tế kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực quản lý
và công nghệ cho các nước thành viên. Những chương trình này đã tạo điều
kiện cho các nước tham gia phát triển bồi dưỡng nguồn nhân lực và tiếp cận
với các công nghệ mới trong các lĩnh vực sản xuất, nhằm nâng cao khả năng
cạnh tranh của nền kinh tế.
Việt Nam là một nước đang phát triển, trình độ kinh tế, KH - CN còn
rất thấp so với nhiều nước trên thế giới và khu vực. Đây cũng là cơ hội để
Việt Nam có thể tiếp nhận nhiều loại công nghệ khác nhau của thế giới.
Trên đây chính là những nhân tố mới quan trọng nhất tác động trực tiếp
đến vai trò Nhà nước trong sự phát triển KH - CN và thị trường KH - CN Việt
Nam trong tình hình mới. Nắm bắt được những vận hội, vượt qua thách thức
bằng những định hướng và giải pháp phù hợp, KH - CN và thị trường KH -
CN Việt Nam trong giai đoạn mới sẽ phát triển nhanh hơn bao giờ hết.
3.2. Quan điểm Vai trò Nhà nước trong phát triển thị trường khoa
học-công nghệ ở Việt Nam trong thời gian tới
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội X đã
đặt ra mục tiêu quan trọng trong phát triển KH - CN “Phấn đấu đến 2010
năng lực khoa học - công nghệ của nước ta đạt trình độ của các nước tiên
tiến trong khu vực trên một số lĩnh vực quan trọng”, “Sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng chậm phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt được
những mục tiêu đó, vai trò của Nhà nước trong phát triển thị trường KH - CN
cần phải được thực hiện theo những quan điểm sau:
3.2.1. Tạo lập các điều kiện phát triển thị trường khoa học - công nghệ
là nhân tố quyết định sự phát triển lâu dài, bền vững của thị trường khoa
học - công nghệ.
Như đã tìm hiểu ở chương trước, điều kiện để phát triển thị trường KH -
CN là: Trình độ phát triển KT - XH; Sự phát triển của các thể chế kinh tế;
Mức độ HNKTQT; Chính sách điều tiết, hỗ trợ của Nhà nước. Nhà nước có
vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của thị trường KH - CN đó là
Nhà nước tạo lập các điều kiện thúc đẩy thị trường KH - CN phát triển. Để thị
trường KH - CN phát triển lâu dài, bền vững thì nền KT - XH của đất nước
phải ổn định và ngày càng phát triển. Với mục đích tạo ra những điều kiện vật
chất để đầu tư cho KH - CN, làm tăng cung về KH - CN và làm tăng nhu cầu
đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp để tăng cầu về KH - CN, Nhà nước
ta đã không ngừng định hướng, chiến lược phát triển KT - XH qua từng giai
đoạn. Nguồn nhân lực KH - CN cũng dành được sự quan tâm đặc biệt trong
chiến lược phát triển KT - XH của Nhà nước. Nhà nước đã chú ý đầu tư cho
lĩnh vực giáo dục đào tạo để tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phát triển thị
trường KH - CN trong thời gian tới. Nhà Nước có vai trò to lớn trong việc đào
tạo nguồn nhân lực KH - CN. Để có được nguồn nhân lực KH - CN phục vụ
quá trình phát triển thì các chính sách phát triển giáo dục & đào tạo, chính
sách “trọng dụng nhân tài”, các chính sách sử dụng và đãi ngộ các nhà khoa
học, những chuyên gia đầu ngành... là điều có ý nghĩa quyết định. Nhà nước
phải có được cơ chế chính sách phù hợp để thu hút được những nhà khoa học
giỏi, cả trong và ngoài nước, để họ phát huy được tài năng đồng thời đóng
góp cho sự phát triển KH - CN nước nhà. Nhờ có vai trò của Nhà nước mà
KT - XH ổn định, nguồn nhân lực KH - CN được nâng cao về chất lượng tạo
nền tảng cho sự phát triển lâu dài, bền vững của thị trường KH - CN.
Nhà nước còn xây dựng một hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để
làm hàng lang pháp lý cho thị trường KH - CN phát triển. Vai trò của nhà
nước còn thể hiện ở việc ban hành và thực thi pháp luật, bảo hộ quyền về
SHTT đối với các hoạt động sáng tạo, các công trình khoa học; đảm bảo công
bằng, bình đẳng cho các hoạt động mua bán trên thị trường... Nhờ đó, lợi ích
của các chủ thể tham gia thị trường được đảm bảo; các ưu việt của cơ chế thị
trường được phát huy. Điều này cũng góp phần vào sự phát triển lâu dài, bền
vững của thị trường KH - CN.
Bên cạnh đó Nhà nước ta còn xây dựng thể chế hỗ trợ thị trường qua các
chính sách tài chính, tín dụng hình thành các tổ chức trung gian trên thị
trường KH - CN. Nhận thức được vai trò quan trọng của HNKTQT đến sự
phát triển lâu dài bền vững của thị trường KH - CN, Nhà nước không ngừng
mở cửa HNKTQT để tận dụng những cơ hội do hội nhập mang lại để phát
triển nền kinh tế nói chung và thị trường KH - CN nói riêng.
Để có thể phát triển được thị trường KH - CN, Nhà nước cần đa dạng hoá
các chủ thể và tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia vào các hoạt
động trên thị trường này. Nhờ đó, các thành phần kinh tế sẽ đóng góp vào các
hoạt động nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ KH - CN, hợp tác quốc tế về KH - CN...
Để thực hiện được điều đó, Nhà nước cần phải sử dụng hệ thống các
công cụ: Hệ thống pháp luật, hệ thống hỗ trợ kỹ thuật, tài chính, pháp lý...
Nhờ có sự hỗ trợ của Nhà nước, doanh nghiệp KH - CN dễ dàng ra nhập thị
trường, nâng cao khả năng cung ứng hàng hoá cho thị trường; các doanh
nghiệp phía cầu có thể nâng cao được trình độ KH - CN của mình, từ đó
mới nâng cao được uy tín, thương hiệu cũng như năng lực cạnh tranh của
hàng hoá. Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là những doanh
nghiệp vừa và nhỏ có năng lực tài chính hạn hẹp, trình độ KH - CN, trình
độ đàm phán trong việc mua bán, CGCN... rất thấp. Do đó, sự hỗ trợ của
nhà nước giúp doanh nghiệp trong việc đổi mới công nghệ của mình là rất
cần thiết.
Như vậy, Nhà nước chính là chủ thể tạo lập các điều kiện cho thị trường
KH - CN phát triển lâu dài và bền vững.
3.2.2. Hoạt động định hướng, điều tiết của Nhà nước đối với thị
trường khoa học - công nghệ là nhân tố đảm bảo sự phát triển lành mạnh,
nhanh chóng của thị trường KH - CN.
Tại bất kỳ quốc gia nào có thị trường KH - CN phát triển lành mạnh,
nhanh chóng thì tại đó không thể thiếu bàn tay định hướng, điều tiết của Nhà
nước. Thị trường KH - CN sẽ không phát triển được hoặc phát triển theo các
hướng khác nhau nếu không có định hướng. Nhà nước phải xây dựng các
chiến lược phát triển thị trường KH - CN trong từng giai đoạn cụ thể để vạch
ra đường đi trong từng giai đoạn. Nhờ đó mà thị trường KH - CN phát triển
đúng định hướng phát triển mà Đảng và Nhà nước đã vạch ra. Để thị trường
KH - CN phát triển nhanh chóng, Nhà nước ban hành rất nhiều nghị định,
nghị quyết, báo cáo tại các kỳ đại hội để hương dẫn thị chỉ đạo thực hiện.
Để thị trường KH - CN phát triển lành mạnh, nhanh chóng thì bàn tay
điều tiết của Nhà nước là rất quan trọng. Trong thị trường KH - CN, Nhà
nước quản lý điều tiết thị trường qua các chính sách điều tiết hỗ trợ. Nhà nước
điều tiết thị trường KH - CN thông qua các chính sách vi mô, vĩ mô. Thông
qua các chính sách này Nhà nước có thể tạo cung, tạo cầu và thúc đẩy cung -
cầu đối với sản phẩm KH - CN.
Hiện nay đổi mới quản lý Nhà nước phải chuyển từ quản lý mang tính
chuyên ngành (chỉ thuần túy hoạt động KH - CN) sang quản lý mang tính đa
ngành, liên quan đến cả hoạt động sản xuất. Hay nói theo quan niệm của
nhiều nhà khoa học hiện nay đó là chuyển từ quản lý hoạt động KH - CN sang
quản lý hoạt động đổi mới. Vai trò của Nhà nước đối với hệ thống đổi mới
không phải là chỉ huy cũng không phải đóng vai trò đầu tư chủ yếu cho hoạt
động R&D mà phải tập trung vào hoạt động tạo kênh, khơi dòng các liên kết
giữa các tổ chức trong hoạt động đổi mới. Đối với nước ta hiện nay Nhà nước
vẫn đóng vai trò chủ yếu trong đầu tư cho KH - CN nhưng do ngân sách hạn
hẹp nên quy mô đầu tư quá nhỏ. Do đó để huy động đầu tư của xã hội cho KH
- CN chúng ta cần nghiên cứu để hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động KH -
CN , chuyển dần sang cơ chế quản lý hoạt động đổi mới. Nhà nước ta đã và
đang đổi mới tư duy quản lý đối với hoạt động KH - CN từ vai trò là người
chỉ huy tham gia trực tiếp sang vai trò là người tạo môi trường thuận lợi và
khuyến khích các hoạt động KH - CN. Nhà nước ta cũng kịp thời nhận thức
được vai trò động lực của KH - CN, tầm quan trọng của sự gắn kết mật thiết
giữa KH - CN với phát triển kinh tế từ đó mà có cách quản lý cho phù hợp và
có những định hướng đúng đắn cho sự phát triển của nền KT - XH nói chung
và thị trường KH - CN nói riêng.
Như vậy, để thị trường KH - CN phát triển nhanh chóng, lành mạnh thì
hoạt động định hướng, điều tiết của Nhà nước trong là rất cần thiết.
3.2.3. Thực hiện vai trò Nhà nước đối với thị trường KH - CN vừa
phải bảo vệ được lợi ích của đất nước, vừa phải tuân thủ các cam kết quốc
tế.
Thị trường KH - CN là một bộ phận của nền kinh tế thị trường. Khi lực
lượng sản xuất đã được quốc tế hoá một cách sâu sắc, khi thị trường mang
tính toàn cầu với những nguyên tắc ràng buộc các quốc gia phải tuân thủ thì
việc phát triển thị trường KH - CN phải gắn chặt với quá trình hội nhập quốc
tế càng là một tất yếu. Không những thế, các hàng hoá KH - CN với sức lan
toả, khả năng biến đổi phát triển nhanh chóng... trên phạm vi toàn thế giới thì
phát triển thị trường KH - CN càng không thể bó hẹp trên phạm vi quốc gia.
Ngày nay, HNKTQT là tất yếu khách quan đối với tất cả các nước trên thế
giới. Vì vậy để HNKTQT trong lĩnh vực KH - CN hiệu quả thì Nhà nước phải
bảo vệ lợi ích của đất nước, vừa tuân thủ các cam kết quốc tế.
HKTQT mang lại nhiều cơ hội nhưng không ít thách thức đối với Nhà
nước trong việc quản lý, điều tiết thị trường KH - CN nước mình. Nhà nước phải
bảo vệ lợi ích của đất nước để có thể đứng vững trong môi trường quốc tế,
không lệ thuộc vào nước nào. Chúng ta có thể tiếp nhận đầu tư của nước ngoài,
tiếp thu các công nghệ mới tiên tiến mà vẫn bảo vệ được lợi ích của đất nước.
HNKTQT đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện các cam kết quốc tế, thay đổi
thể chế kinh tế của mình. Điều này có nghĩa là, muốn phát triển thị trường KH
- CN, Việt Nam phải phát triển kinh tế thị trường và HNKTQT. Trình độ phát
triển kinh tế thị trường càng cao, HNKTQT càng sâu rộng thì thị trường KH -
CN càng có cơ hội phát triển.
Gắn thị trường KH - CN với quá trình hội nhập có nghĩa là phải duy trì
được khả năng phát triển của hàng hoá KH - CN trong nước, đồng thời phải
lựa chọn được những hàng hoá KH - CN bên ngoài phù hợp; thích hợp với
điều kiện Việt Nam, thích hợp với năng lực KH - CN hay trình độ, kỹ năng sử
dụng của con người Việt Nam hiện tại mà còn ở khía cạnh khác là công nghệ
nhập còn có thể thẩm thấu và là tiền đề để chúng ta tiếp thu cải tiến và tạo ra
các công nghệ mới. Đồng thời, sự phát triển thị trường KH - CN phải hỗ trợ
được cho quá trình hội nhập của nền kinh tế, của các doanh nghiệp và hàng
hoá Việt Nam.
Cùng với việc gắn phát triển thị trường KH - CN với tiến trình hội nhập
quốc tế là việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Trong nền kinh tế thị trường, các thị trường bộ phận như:
Thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất
động sản... có quan hệ chặt chẽ, tuỳ thuộc vào nhau và tác động lẫn nhau nên
trình độ phát triển của mỗi thị trường bộ phận tuỳ thuộc vào các thị trường bộ
phận khác và nền kinh tế thị trường nói chung. Do đó, mức độ hoàn thiện kinh
tế thị trường là nhân tố quan trọng để phát triển thị trường KH - CN. Để hoàn
thiện nền kinh tế thị trường, Việt Nam cần phải giải quyết hàng loạt vấn đề:
Quan hệ giữa khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân; quan hệ giữa Nhà nước
và thị trường; hoàn thiện các thể chế kinh tế thị trường...
Mặt khác phát triển thị trường KH - CN Việt Nam phải gắn với các
thông lệ quốc tế. Nhà nước ta đã và đang tham gia hội nhập sâu vào nền kinh
tế thế giới thông qua việc tham gia vào nhiều định chế quốc tế nhau WTO,
APEC, AFTA...Thị trường KH - CN Việt Nam đã trở thành một bộ phận và
có sự liên hệ chặt chẽ với thị trường KH - CN quốc tế. Do vậy, khi Nhà nước
xây dựng các chính sách cơ chế phát triển thị trường KH - CN ở Việt nam
chúng ta phải tính đến các cam kết, các quy định, thông lệ mà Việt Nam kí
kết.
Như vậy, thị trường KH - CN Việt Nam muốn phát triển nhanh phải Nhà
nước phải hội nhập về KH - CN. Nhà nước vừa phải bảo vệ lợi ích của đất
nước vừa phải tuân thủ các cam kết quốc tế trong quá trình HNKTQT.
3.3. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước
trong việc phát triển thị trường khoa học - công nghệ ở Việt Nam
3.3.1. Hoàn thiện môi trường vĩ mô
Với thực trạng thị trường KH - CN như hiện nay, để nâng cao vai trò của
Nhà nước trong việc phát triển môi trường này cần hoàn thiện môi trường vĩ
mô trong đó việc hoàn thiện môi trường pháp lý có vai trò quyết định.
* Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý về SHTT ở Việt Nam
Thứ nhất: Triển khai thực hiện Luật SHTT và tiếp tục hoàn thiện bổ
sung những điều khoản chưa hợp lý trong bộ luật này.
Luật SHTT đã được Quốc hội thông qua tháng 11/2005 và có hiệu lực
thi hành từ 1/7/2006 [52]. Với 6 phần, 18 chương, 222 điều, Luật SHTT của
nước ta đã bao hàm tất cả các nội dung cần thiết: Từ những quy định chung
(phần I); Quyền tác giả và quyền liên quan (phần II), Quyền sở hữu công
nghiệp (phần III), Quyền đối với giống cây trồng (phần IV), Bảo vệ quyền
SHTT (phần V) cho đến các điều khoản thi hành (phần VI). Về cơ bản sự ra
đời của Luật SHTT đã khắc phục được tính tản mạn, phân tán của các quy
định pháp luật đã tồn tại trong nhiều văn bản trước đây. Để luật này thực sự đi
vào cuộc sống, cần tiếp tục triển khai những hoạt động sau đây:
Trước hết, cụ thể hóa toàn bộ các quy phạm về các chế tài bảo đảm
thực thi theo hướng lấy trình tự dân sự làm biện pháp chủ yếu trong việc
điều chỉnh quan hệ về SHTT. Cần có những quy định rõ ràng, cụ thể về
điều kiện áp dụng chế tài xử phạt hành chính đối với các trường hợp vi
phạm quyền SHTT để tránh việc lạm dụng hình thức này như thực tế đã
xẩy ra ở nước ta trong những năm qua. Ở điều 211 – mục 1 - chương XVIII
thuộc phần thứ năm của luật SHTT đã đưa ra những quy định các hành vi
xâm phạm quyền SHTT sau đây bị xử phạt hành chính:
a) Thực hiện các hành vi xâm phạm quyền SHTT gây thiệt hại cho người
tiêu dùng hoặc cho xã hội.
b) Mặc dù đã được chủ thể quyền SHTT thông báo bằng văn bản yêu
cầu chấm dứt hành vi xâm phạm quyền SHTT nhưng không chấm dứt việc
xâm phạm đó.
c) Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng giả mạo về SHTT
hoặc chuyển giao cho người khác thực hiện những hành vi này.
d) Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán vật mang nhãn hiệu hoặc
chỉ dẫn địa lý trùng hoặc giao cho người khác thực hiện những hành vi này.
Tuy nhiên những quy định nêu trên vẫn mang tính chung chung, chưa cụ
thể nên khi áp dụng có thể vận dụng một cách tùy tiện và dẫn đến tình trạng
xử phạt bằng hình thức này vẫn có thể tiếp tục gia tăng.
Hơn nữa khi trình độ hiểu biết của người tiêu dùng Việt Nam được tăng
lên họ có thể liên minh để kiện người vi phạm quyền SHTT bồi thường thiệt
hại bằng biện pháp dân sự.
Để tránh lạm dụng hình thức xử phạt hành chính cũng cần tăng mức phạt
bằng hành chính đối với các hành vi vi phạm SHTT. Cụ thể là :
Xác định rõ thẩm quyền vụ việc của Tòa án trong xét xử tranh chấp về
SHTT. Đối Với tranh chấp về quyền tác giả, thẩm quyền vụ việc đã được quy
định rõ trong Thông tư liên tịch số 01/2001/TANDTC - VKSNDTC - BVHTT
ngày 05/12/2001. Trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp cần có một văn bản
tương tự để tạo ra sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước trong việc
thực hiện thẩm quyền của mình nhằm nâng cao hiệu quả thực thi về quyền
SHTT.
Cho phép tòa án được áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
trước khi thụ lý vụ án. Bởi vì theo pháp luật tố tụng dân sự hiện nay, muốn
áp dụng biện pháp này thì trước đó phải chấp nhận đơn kiện. Quy định trên
chưa phù hợp với yêu cầu của luật pháp quốc tế về bảo hộ mà Việt Nam đã
tham gia về lĩnh vực này.
Nâng mức đền bù thỏa đáng cho người có quyền SHTT khi bị xâm
phạm trong chế tài dân sự để đủ sức mạnh răn đe, ngăn chặn các hành vi cố
tình vi phạm.
Mặt khác, cần kịp thời bổ sung những điều khoản còn thiếu, sửa đổi
những nội dung chưa phù hợp trong Luật SHTT. Theo ý kiến của nhiều
chuyên gia vẫn còn nhiều sơ hở bất cập trong bộ luật này. Chẳng hạn các quy
định về quyền tác giả và các quyền có liên quan chưa đáp ứng được yêu cầu
bảo vệ lợi ích quốc gia, chưa đảm bảo được tính thống nhất và tính minh bạch
của hệ thống pháp luật về SHTT. Ví dụ, chưa vạch ra được ranh giới rõ ràng,
chính xác giữa kiểu dáng công nghiệp (thuộc sở hữu công nghiệp) và tác
phẩm mỹ thuật ứng dụng (thuộc quyền tác giả) mà đây là kẽ hở đã bị nhiều
người lợi dụng để tìm đến sự bảo hộ của Nhà nước một cách không minh
bạch gây ra nhiều vụ khiếu kiện, phức tạp kéo dài ở nước ta trong nhiều năm
qua.
Thứ hai, triển khai thực hiện luật CGCN để duy trì trật tự của hoạt động
mua bán công nghệ bảo đảm lợi ích hợp pháp cho các tổ chức cá nhân tham
gia vào thị trường KH - CN .
- Tăng cường năng lực của tổ chức thực thi pháp luật về SHTT và
CGCN.
Trước hết cần khắc phục tình trạng chồng chéo hiện nay giữa các tổ
chức, phân công cụ thể quyền hạn của từng cơ quan thực thi pháp luật về
SHTT. Bố trí một cơ quan làm đầu mối để tiếp nhận các đơn yêu cầu xử lý
hành chính xử lý các đơn trên từng địa bàn và đối với từng lĩnh vực, từ đó đề
xuất các biện pháp xử lý và cơ quan thực hiện biện pháp đó.
Hai là, nâng cao hiệu quả của công tác xét xử tranh chấp về quyền
SHTT.
Đào tạo, bồi dưỡng nhân lực trong lĩnh vực SHTT. Đào tạo cán bộ
chuyên ngành về SHTT cho các cơ quan: Tòa án, quản lý thị trường, cảnh sát
kinh tế, thanh tra khoa học công nghệ và Hải quan.
Xây dựng các chương trình đào tạo và đào tạo lại cho các đối tượng khác
nhau: Những người hành nghề chuyên nghiệp của Tòa án, các cơ quan thực
thi, những người làm dịch vụ SHTT và các cán bộ chuyên trách quản lý
SHTT ở địa phương, doanh nghiệp.
Đầu tư cải cách và hiện đại hóa hệ thống thông tin về SHTT để phục vụ cho
nhu cầu tra cứu, xét đơn để tránh trùng lặp trong việc cấp văn bằng bảo hộ.
Đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế về SHTT nói chung và học hỏi kinh
nghiệm của các nước trong xét xử tranh chấp về SHTT nói riêng.
Ba là, củng cố tổ chức quản lý về CGCN ở các ngành,địa phương.
Hiện nay quản lý nhà nước về CGCN đã có những thay đổi cơ bản, đã
chuyển từ phê duyệt sang xác nhận đăng ký, công tác quản lý chỉ tiến hành ở
một số việc cần thiết để các công nghệ không phương hại đến an ninh quốc
phòng - môi trường và sức khỏe con người. Sự thay đổi trên về cơ bản đã tạo
ra môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động CGCN. Tuy nhiên, không phải
vì thế mà quản lý CGCN không được coi trọng mà ngược lại phải tăng năng
lực cho các tổ quản lý CGCN của các ngành và địa phương. Cần xây dựng cơ
chế phối hợp thống nhất giữa các cơ quan này và đồng thời đào tạo để nâng
cao kiến thức chuyên ngành cho đội ngũ cán bộ quản lý về CGCN.
* Nâng cao nhận thức xã hội về quyền SHTT
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức và pháp luật về
SHTT để mọi công dân, tổ chức có ý thức đầy đủ đối với quyền SHTT. Phải
làm cho mọi người dân nhận thức được rằng, SHTT là một quyền mà họ có
thể khởi kiện, yêu cầu các cơ quan chức năng bảo vệ khi bị xâm phạm hoặc sẽ
bị chịu các hình phạt của pháp luật khi họ có hành vi xâm phạm quyền SHTT
của người khác.
3.3.2. Xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của KH -
CN, thị trường KH - CN.
Chúng ta cần đổi mới cơ chế chính sách sử dụng và quản lý nguồn nhân
lực KH - CN. Sở dĩ trong thời gian qua, giữa nghiên cứu và sản xuất chưa có
sự liên thông đã xảy ra tình trạng “chảy máu chất xám” hoặc thụ động, ỷ lại
trong một bộ phận cán bộ khoa học là vì hệ thống cơ chế chính sách của
chúng ta còn bất hợp lý, chưa thực sự là đòn bẩy tích cực, sáng tạo, khả năng
cống hiến, say sưa nghiên cứu của các nhà khoa học, thực sự mở đường cho
nối kết giữa khoa học và sản xuất, đời sống. Cơ chế, chính sách và môi trường
hoạt động là nhân tố quan trọng, quyết định đến khả năng sáng tạo của mỗi
người, đến chất lượng nguồn nhân lực khoa học và sự hình thành phát triển
thị trường KH - CN.
Để khai thác xây dựng nguồn nhân lực KH - CN đủ mạnh, đáp ứng nhu
cầu của thị trường KH - CN cần tập trụng vào một số vấn đề sau:
Một là, cơ chế, chính sách phải đảm bảo sự công bằng trong phân phối
đối với lao động khoa học. Khắc phục tình trạng bình quân, cào bằng, làm khoa
học kiểu dàn đều. Những công trình có giá trị hiệu ích lớn, xuất sắc phải được
trả công xứng đáng. Đối với các nhà khoa học, sự hài hòa lợi ích vật chất và
tinh thần là rất quan trọng. Nhà nước cần tăng cường, bổ sung chính sách nhằm
tôn vinh những giá trị tinh thần đối với các nhà khoa học lớn, có tên tuổi.
Hai là, Đảng, Nhà nước cần khuyến khích sự tìm kiếm, sáng tạo tư
duy mới. Xây dựng một môi trường thật sự dân chủ trong nghiên cứu khoa
học. Thông qua các sinh hoạt, các hội thảo khoa học, các nhà khoa học
được nói, được viết, được thể nghiệm hết tư tưởng, năng lực sáng tạo của
mình. Có thể xuất bản những bản tập san có tính chất diễn đàn chuyên đề
để tham luận những quan điểm, kết quả nghiên cứu. Lập nhiều phòng thí
nghiệm, các công viên khoa học để các nhà khoa học có điều kiện thể hiện,
tiếp cận thông tin, giao tiếp trao đổi chuyên ngành.
Ba là, có chính sách thu hút mọi hiền tài của đất nước tham gia vào các
hoạt động sáng tạo trong khoa học. Những công trình sáng tạo, phát minh từ
thực tế cuộc sống, mang lại hiệu ích cao cần được đặc biệt nghiên cứu thẩm
định và Nhà nước đầu tư thỏa đáng, kịp thời. Thực tế trong thời gian qua có
nhiều công trình sáng tạo, những ý tưởng mới được nảy sinh từ thực tiễn
nhưng các cơ sở khoa học cơ quan nhà nước chưa thực sự nhạy bén, nắm bắt,
đánh giá, thẩm định mà nó vẫn là ý tưởng hoặc rơi vào thinh không, thiếu sự
quan tâm đúng mức. Có thể coi đó cũng là một hiện tượng lãng phí chất xám
và sự thờ ơ với những sáng tạo. Hiện nay có hàng nghìn nhà khoa học là
người Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài. Nhiều người có những phát
minh tầm cỡ thế giới, có kinh nghiệm hoạt động trong thị trường KH - CN.
Họ có tình cảm và mong muốn đóng góp cho quê hương, đất nước. Đây cũng
là vốn quý, một nguồn nhân lực khoa học quan trọng cần được khai thác cho
quá trình chấn hưng đất nước. Tuy nhiên nhiều người cảm thấy cơ chế, chính
sách của ta chưa thuận lợi, thái độ của chính quyền chưa thật tôn trọng, đánh
giá cao, vì vậy, họ còn e dè hợp tác với ta. Nhà nước cần có cơ chế, chính
sách để thu hút các nhà khoa học có điều kiện cống hiến cho đất nước, giao
lưu truyền thụ kiến thức, kinh nghiệm cho các nhà khoa học, các cơ sở sản
xuất trong nước.
Bốn là, quản lý tốt nguồn nhân lực hiện có để xây dựng và nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực KH - CN và sử dụng một cách có hiệu quả phục vụ cho
sự phát triển đất nước, tránh sự hao phí nguồn nhân lực. Việc quản lý nguồn
nhân lực KH - CN phải kết hợp chặt chẽ cả ba khâu: sản xuất, tiêu dùng và tái
tạo nguồn nhân lực. Ở đây liên quan đến cơ chế chính sách đặc biệt liên quan
đến công tác tổ chức cán bộ. Nhà nước cùng mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi lĩnh
vực phải thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học. Chủ động
tìm kiếm, phát hiện và đào tạo nhân tài để bổ sung cho đội ngũ cán bộ khoa
học. Có quy hoạch tổng thể, cụ thể cho mỗi lĩnh vực, mỗi ngành. Thường
xuyên nắm chắc số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học; quản lý
chặt chẽ các hoạt động chuyên môn, bố trí, sắp xếp phù hợp với chuyên ngành
được đào tạo. Quản lý, theo dõi, và đánh giá kịp thời qúa trình phấn đấu, cống
hiến kịp tời điều chỉnh những tư tưởng quan điểm sai trái “ khoa học phi
chính trị ”tránh để rơi vãi thất thoát cán bộ khoa học.
Để xây dựng nguồn nhân lực cho thị trường KH - CN cần đổi mới toàn
diện lĩnh vực giáo dục đào tạo theo nhu cầu phát triển của thị trường KH - CN.
Chất lượng nguồn nhân lực KH - CN phụ thuộc lớn vào chất lượng giáo dục và
đào tạo, bồi dưỡng. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực KH - CN cần phải:
Một là, tiếp tục đổi mới nội dụng và phương pháp giáo dục, đào tạo. Nội
dung giáo dục, đào tạo phải cập nhật tri thức mới hiện đại gắn với đất nước và
thế giới, khắc phục tình trạng lý thuyết suông, giáo điều, kinh viện. Từ thực
tiễn bức xúc của cuộc sống mà lựa chọn nội dung đào tạo cho phù hợp.
Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng phải kích thích tư duy năng động sáng tạo
độc lập của người học làm cho người học là chủ thể chính để tiếp cận tri thức.
Hai là, cân đối, điều chỉnh lại cơ cấu đào tạo. Khẩn trương xây dựng quy
hoạch chiến lược tổng thể đào tạo cho các ngành, các lĩnh vực, các địa
phương trong vòng mười lăm năm tới. Kiên quyết khắc phục tình trạng chạy
theo số lượng, đào tạo không theo quy hoạch, đào tạo ồ ạt như hiện nay.
Trong điều kiện nước ta đang tiến hành CNH, HĐH nhiệm vụ trọng tâm của
đất nước là xây dựng nền kinh tế thì cần ưu tiên đào tạo cán bộ khoa học bậc
cao, chuyên gia đầu ngành cho lĩnh vực kinh tế, KH - CN và một số ngành
mũi nhọn như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, chế biến nông lâm
thủy sản...Để hình thành thị trường KH - CN cần ưu tiên đào tạo cán bộ khoa
học cho ngành gắn với sản xuất, với các doanh nghiệp, và các lĩnh vực mà
hiện nay nước ta đang thiếu như các chuyên gia giám định, them định và đánh
giá công nghệ.
Ba là, Khâu quan trọng quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực KH -
CN là khâu quản lý giáo dục đào tạo. Tình trạng lỏng lẻo, sơ hở trong quản lý
giáo dục đào tạo không những làm giảm chất lượng nguồn nhân lực mà còn
tạo ra rất nhiều tiêu cực trong xã hội, gây bất bình trong nhân dân. Quản lý
chặt chẽ chất lượng đầu vào quá trình đào tạo đặc biệt khâu đánh giá các sản
phẩm đào tạo, các công trình khoa học. Khắc phục triệt để tình trạng gian lận
trong thi cử đầu vào, hạ thấp đầu vào, đầu ra, và đánh giá chất lượng. Đối với
đào tạo cán bộ khoa học bậc cao thạc sỹ, tiến sỹ cần giảm bớt tốc độ phát triển
như hiện nay, lấy chất lượng làm chính. Đã là thạc sỹ, tiến sỹ phải thật sự là
chuyên gia của một lĩnh vực. Có cơ chế thẩm định kết quả những công trình
xuất sắc trong đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ.
Bốn là, có chiến lược phát triển, thu hút, đào tạo, bồi dưỡng tài năng
trẻ, đào tạo nhân tài. Thế hệ trẻ ngày nay rất thông minh sáng tạo năng động.
Nhiều người thi đạt giải quốc gia, quốc tế. Song, nếu không có cơ chế thích
hợp để thu hút, đào tạo, bồi dưỡng thì tài năng trẻ rất dễ bị mai một. Nhà
nước cần có một kinh phí riêng đầu tư đào tạo cho tài năng trẻ. Có quy trình
đào tạo bài bản, kết hợp nghiên cứu lý thuyết với việc đưa cán bộ khoa học
trẻ vào thể nghiệm trong thực tế. Mạnh dạn giao cho họ những công trình thí
nghiệm, ứng dụng trong thực tiễn để tong bước khẳng định. Đối với số tài
năng trẻ, Nhà nước có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện để họ giao lưu học tập
ở nước ngoài, tạo điều kiện hoạc tập, nơi ở...
Thị trường KH - CN ở nước ta cũng nằm trong quá trình vận động chung
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vì vậy, thị trường KH
- CN cũng phải phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân,
vận động phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà khoa học ở nước
ta đòi hỏi phải có quan điểm rõ ràng, đạo đức trong sáng, luôn luôn hướng tới
phục vụ Tổ quốc và nhân dân vì mục đích dân giàu nước mạnh xã hội công
bằng dân chủ văn minh. Do đó, ngoài việc giáo dục, đào tạo kiến thức chuyên
môn nghiệp vụ cần phải tăng cường đào tạo đạo đức, tu dưỡng tư tưởng cho
cán bộ đặc biệt là cán bộ trẻ.
3.3.3. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả và thực thi pháp luật của Nhà nước
đối với thị trường khoa học - công nghệ.
a, Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về thị trường khoa học - công
nghệ theo hướng tinh gọn chuyên nghiệp.
Trước hết, tiếp tục nâng cao năng lực và hiện đại hóa các hoạt động
nghiệp vụ của cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan thực thi pháp luật ở trung
ương và địa phương có liên quan tới thị trường KH - CN nhằm thực hiện hiệu
quả các mục tiêu, cam kết quốc tế của Việt Nam. Tăng cường năng lực đội
ngũ cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn, cán bộ hoạch định chính sách liên
quan tới thị trường KH - CN thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng. Cần
tránh hiện tượng do năng lực thực thi pháp luật của bộ máy quản lý nhà nước
kém mà chúng ta đưa ra những điều khoản không phù hợp với thực tiễn hoặc
gây khó khăn bất lợi cho các hoạt động giao dịch mua bán hàng hóa KH - CN.
Thứ hai, nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế hoạt động và hệ thống tổ chức
các cơ quan quản lý Nhà nước và cơ quan thực thi pháp luật liên quan tới thị
trường KH - CN. Tiến tới thành lập tòa án chuyên trách về SHTT. Khắc phục
tình trạng chồng chéo hiện nay giữa các tổ chức đơn vị có liên quan thông qua
việc phân công cụ thể quyền hạn cho tổng cơ quan. Củng cố, kiện toàn các tổ
chức quản lý về thị trường KH - CN ở các ngành, địa phương.
Thứ ba, phân cấp mạnh hơn giữa các Bộ, Ngành và địa phương trong
quản lý các hoạt động liên quan tới thị trường KH - CN theo hướng giao thêm
nhiều quyền hơn cho các địa phương trong việc thực hiện các hoạt động quản
lý nhà nước. Chẳng hạn như giao cho các địa phương quyền xác nhận các đối
tượng được hưởng chính sách miễn giảm thuế liên quan đến hoạt động
CGCN.
Thứ tư, thành lập các tổ chức bảo vệ bản quyền, tổ chức bảo vệ quyền
SHTT...Các tổ chức này kết hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc
tuyên truyền, phổ biến và thực thi hệ thống pháp luật, chính sách liên quan tới
thị trường KH - CN.
b, Nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật, chính sách liên quan tới thị
trường KH - CN
Để tăng cường công tác thực thi pháp luật chính sách liên quan tới thị
trường KH - CN cần phải: (1) Có chế tài xử lý nghiêm những hành vi vi phạm
pháp luật về SHTT; (2) Nâng cao hiệu quả công tác xét xử các tranh chấp về
quyền SHTT; (3) Tăng cường công tác thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực
SHTT và lĩnh vực canh tranh; (4) Kết hợp đồng thời các biện pháp hành chính
dân sự và hình sự để đảm bảo thực thi quyền SHTT; (5) Tiếp tục triển khai
các chương trình hành động về phòng chống xâm phạm quyền SHTT và các
chương trình hành động về phòng chống xâm phạm quyền SHTT và các
chương trình chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại.
Tiếp đến, cần phải phát triển các dịch vụ hỗ trợ việc thưc thi các văn bản
pháp luật theo hướng tạo thuận lợi và hỗ trợ những đối tượng tham gia như
thủ tục hành chính đăng ký hợp đồng công nghệ, các dịch vụ đăng ký quyền
SHTT, hệ thống thông tin liên quan đến văn bản pháp luật ...
Ngoài ra, cần phải nâng cao nhận thức của xã hội về pháp luật và chính
sách phát triển thị trường KH - CN thông qua hình thức tuyên truyền, bồi
dưỡng kiến thức về pháp luật, chính sách liên quan tới thị trường KH - CN
cho các đối tượng như đội ngũ luật sư, giám đốc doanh nghiệp...
c, Đẩy mạnh cải cách các thủ tục hành chính.
Thủ tục hành chính phải đơn giản, thuận tiện, được thể chế hóa rõ ràng,
tránh tùy tiện trong thực hiện trước hết tạo điều kiện về thủ tục cho các tổ
chức KH - CN đổi mới theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm; tạo điều kiện
cho doanh nghiệp tiếp cận được với nguồn vốn đổi mới công nghệ. Ngoài ra,
Nhà nước cũng tập trung đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng cho việc
phát triển thị trường KH - CN đồng bộ, hiện đại như hệ thống thông tin liên
lạc, hệ thống văn phòng, trung tâm giao dịch...
3.3.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra giám sát
Như đã phân tích ở trên, chức năng kiểm tra giám sát của Nhà nước đóng
vai trò quan trọng trong thị trường KH - CN. Hoạt động kiểm tra giám sát của
Nhà nước đã bảo đảm sự tuân thủ pháp luật, bảo vệ tài sản công, khắc phục
khuyết tật của thị trường KH - CN và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh
cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên hoạt động kiểm tra, giám
sát cũng tồn tại nhiều hạn chế như việc thực thi pháp luật chưa nghiêm do đó
một số chính sách phát triển thị trường KH - CN đã ban hành chưa phù hợp
với thực tiễn và chưa đồng bộ, vấn đề thực thi hệ thống pháp luật và chính
sách phát triển thị trường KH - CN còn nhiều bất cập như việc thu thập chứng
cứ về vi phạm SHTT cũng rất nhiêu khê, ranh giới vi phạm sở hữu trí tuệ giữa
mức độ dân sự, hình sự, hành chính chưa rõ ràng do đó đa số các vụ vi
phạm SHTT đều dừng lại ở mức độ xử phạt hành chính, tình trạng xâm
phạm quyền SHTT vẫn còn nhiều, nạn sao chép lậu tác phẩm, ghi âm,
ghi hình, làm giả, làm nhái nhãn hiệu hàng hóa vẫn còn phổ biến, chưa
khắc phục được hết khuyết tật của thị trường KH - CN vẫn tồn tại thông
tin bất cân xứng về hành hóa KH - CN...Trước những tồn tại trong hoạt
động kiểm tra giám sát, Nhà nước cần tăng cường kiểm tra giám sát hơn
nữa trong thị trường KH - CN. Cụ thể:
Nhà nước tăng cường chức năng giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân
dân các cấp đối với Chính phủ và ủy ban nhân dân các cấp trong quản lý Nhà
nước về thị trường KH - CN.
Nhà nước cần tăng cường chức năng kiểm tra của các Viện kiểm sát
nhân dân, các cấp thanh tra của Chính phủ và của ủy ban nhân dân các
cấp, cơ quan an ninh kinh tế các cấp đối với các hoạt động kinh tế trong
thị trường KH - CN.
Nâng cao tinh thần trách nhiệm và chịu trách nhiệm của những người
lãnh đạo Nhà nước và Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch ủy ban nhân dân
các cấp, Thủ trưởng các cơ quan trong lĩnh vực KH - CN trong việc kiểm tra,
giám sát sự hoạt động của thị trường KH - CN trong cả nước.
Sử dụng các cơ quan chuyên môn trong nước như kiểm toán nhà
nước, các tổ chức tư vấn kinh tế...và khi cần thiết có thể sử dụng các tổ
chức quốc tế, các chuyên gia nước ngoài vào việc kiểm tra hoạt động của
thị trường KH - CN.
Nâng cao vai trò kiểm tra giám sát của nhân dân, của các tổ chức chính
trị - xã hội, các cơ quan ngôn luận, các cơ quan thông tin đại chúng trong việc
kiểm tra hoạt động của thị trường KH - CN.
Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về kiểm tra giám sát thị
trường KH - CN.
Củng cố, hoàn thiện hệ thống cơ quan kiểm tra, giám sát của Nhà nước
và xây dựng các cơ quan mới cần thiết, thực hiện việc phân công và phân cấp
rõ ràng nâng cao năng lực chuyên môn và đạo đức của công chức trong bộ
máy kiểm tra và giám sát các hoạt động trong thị trường KH - CN.
3.3.5. Cung cấp hiệu quả hàng hóa công
Hàng hóa công trong thị trường KH - CN là hệ thống kết cấu hạ tầng. Hệ
thống kết cấu hạ tầng có ảnh hưởng quan trọng đối với sự phát triển thị trường
KH - CN. Việc tao ra và phổ biến công nghệ có được thực hiện hay không là dựa
trên sự có sẵn của kết cấu hạ tầng. Kết cấu hạ tầng cần thiết cho sự phát triển của
thị trường KH - CN gồm: Hệ thống trang thiết bị, phòng thí nghiệm phục vụ cho
việc tạo ra sản phẩm KH - CN; hệ thống thông tin liên lạc như internet, điện
thoại ...;hệ thống các cơ sở dịch vụ phục vụ giao dịch, Techmart...
Để phát triển thị trường KH - CN, trong thời gian tới Nhà nước cần tạo
điều kiện phát triển chợ công nghệ thiết bị ở quy mô quốc gia và ở các địa
phương trong cả nước. Để thực hiện giải pháp này cần:
Sớm ban hành quy chế tổ chức quản lý chợ công nghệ và thiết bị bao
gồm phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, nguyên tắc tổ chức, hình thức tổ
chức, các hành vi bị cấm, các quy định về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức,
cá nhân tham gia chợ công nghệ và thiết bị, thẩm quyền cấp giấy phép kinh
doanh, hình thức tổ chức chợ, trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước,
cơ chế giải quyết tranh chấp và bồi thường thiệt hại.
Để duy trì hoạt động của Techmart cần phải thành lập và đưa vào hoạt
động hai trung tâm giao dịch công nghệ thường xuyên ở Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh. Hai trung tâm này sẽ trở thành đầu mối giao dịch quan trọng
trong các hoạt động mua bán công nghệ trên cả nước.
Cần phải huy động sự tham gia rộng rãi của mọi thành phần xã hội vào
phát triển chợ công nghệ và thiết bị hay nói cách khác là phát triển Techmart
theo hướng xã hội hóa.
Cần tiến hành tổng kết kết quả ứng dụng các công nghệ đã được mua bán
và tình hình thực hiện các hợp đồng đã ký kết tại các Hội chợ công nghệ và
thiết bị để kịp thời rút kinh nghiệm cho việc tổ chức các lần tiếp theo một
cách bài bản hơn, có hiệu quả hơn.
Ngoài ra, hệ thống thông tin KH - CN có vai trò quan trọng cho sự phát
triển của thị trường KH - CN. Vì vậy, Nhà nước cần phát triển hệ thống thông
tin KH - CN theo hướng hiện đại và chuyên nghiệp để phục vụ có hiệu quả
cho sự phát triển của thị trường KH - CN. Tổ chức lại hoạt động của các trung
tâm thông tin KH - CN thuộc cơ quan nhà nước theo hướng cân đối giữa các
chức năng, đảm bảo thông tin phục vụ cơ quan quản lý Nhà nước, phục vụ
cộng đồng và phục vụ hoạt động kênh thông tin thương mại KH - CN. Nhà
nước cần kiện toàn bộ máy tổ chức hoạt động thông tin KH - CN từ trung
ương đến địa phương; Xây dựng các cơ sở dữ liệu, ngân hàng dữ liệu quốc
gia về KH - CN đồng thời ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại để nối mạng
các nguồn thông tin này. Nhờ đó, các tổ chức cá nhân có thể tham gia vào thị
trường KH - CN khi họ có nhu cầu. Đặc biệt chú trọng công tác xây dựng và
khai thác cơ sở dữ liệu công nghệ phục vụ nông nghiệp và nông thôn, phát
triển mạng lưới cung cấp thông tin điện tử về thị trường KH - CN đến cấp
huyện, xã; Phát huy vai trò của các Hiệp hội ngành nghề, các tổ chức xã hội
đối với hoạt động cung cấp thông tin KH - CN. Phòng thương mại và công
nghệ Việt Nam (VCCI) trong những năm qua đã phát huy vai trò là đầu mối
và là cầu nối của hệ thống doanh nghiệp Việt Nam nhất là đối với doanh
nghiệp ngoài Nhà nước. Thông tin KH - CN qua mối liên kết này cũng đã
bước đầu được thiết lập. Trong những năm tới cần tiếp tục đẩy mạnh vai trò
thông tin không chỉ của VCCI mà còn chú trọng vai trò của cả hệ thống.
Trong đó hiệp hội ngành nghề và hiệp hội khoa học kỹ thuật phải đóng vai trò
chủ chốt.
3.3.6. Nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy về sự phát triển của thị
trường khoa học - công nghệ.
Trong thời gian vừa qua, một trong những nguyên nhân dẫn đến thị
trường KH - CN chưa phát triển là do nhận thức của Nhà nước, các cấp, các
ngành, các doanh nghiệp và nhiều chủ thể trên thị trường KH - CN còn nhiều
điểm chưa hợp lí, chưa phù hợp với quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát
triển thị trường KH - CN. Điều này được thể hiện ở các nội dung chủ yếu
như: Chưa xác định được mô hình, nội dung và cách thức phát triển thị trường
KH -CN, vẫn còn tình trạng bảo hộ các tổ chức KH - CN công lập; chưa có cơ
chế khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ... Do vậy, việc nâng cao
nhận thức, đổi mới tư duy về sự phát triển của thị trường KH - CN thời gian
tới là cần thiết. Để thực hiện giải pháp này cần phải thực hiện toàn diện các
giải pháp cụ thể như sau nhằm tạo nên sự chuyển biến về mặt nhận thức:
Trước hết cần thực hiện tốt việc quán triệt đầy đủ chính xác các chủ
trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về thị trường KH - CN. Đẩy nhanh
tốc độ xây dựng các văn bản luật, dưới luật về thị trường KH - CN trên cơ sở
quan điểm đường lối của Đảng. Tuyên truyền phổ biến các chính sách đường
lối của Đảng Nhà nước về phát triển thị trường KH - CN cho xã hội.
Đổi mới tư duy tạo nhận thức mới về phát triển thị trường KH - CN. Đổi
mới tư duy tạo sự thống nhất trong nhận thức của các cấp các ngành nhất là cấp
hoạch định chính sách về nội dung quan trong hàng đầu trong phát triển thị
trường KH - CN là phải phát triển đồng bộ đầy đủ hài hòa các yếu tố cấu thành
thị trường, phát triển phải đảm bảo cả về số lượng và chất lượng phát triển.
Đẩy mạnh tuyên truyền và nâng cao nhận thức về những tác động của
HNKTQT đối với thị trường KH - CN cho các chủ thể tham gia thị trường
qua các hình thức khác nhau.
Thường xuyên lấy ý kiến đóng góp của các chủ thể tham gia thị trường
KH - CN trong việc xây dựng pháp luật và chính sách của Nhà nước liên quan
đến việc phát triển thị trường KH - CN.
*
* *
Trước bối cảnh mới hiện nay thị trường KH - CN Việt Nam ngày càng
có vai trò quan trọng và có nhiều cơ hội để phát triển. Căn cứ vào điều kiện
của Việt Nam để thị trường KH – CN phát triển, Nhà nước có vai trò hết sức
quan trọng. Vì vậy cần nhận thức đầy đủ về quan điểm phát triển thị trường
KH - CN đó là quan điểm về vai trò của Nhà nước trong tạo lập các điều kiện
phát triển thị trường KH - CN; Quan điểm về vai trò của Nhà nước trong quản
lý, điều tiết thị trường KH - CN; Quan điểm về vai trò của Nhà nước trong hội
nhập và thực hiện các cam kết quốc tế về KH - CN. Trên cơ sở các quan điểm
nêu trên Nhà nước cần thực hiện nhiều giải pháp khác để phát triển thị trường
KH - CN trong thời gian tới đó là: Nâng cao nhận thức đổi mới tư duy về phát
triển thị trường KH - CN; Hoàn thiện môi trường vĩ mô; Xây dựng nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của KH - CN, thị trường KH - CN; Nâng
cao hiệu lực, hiệu quả và thực thi pháp luật của Nhà nước đối với thị trường
KH - CN; Nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm tra giám sát thị trường KH -
CN; Cung cấp hiệu quả hàng hóa công.
KẾT LUẬN
Từ việc thực hiện đề tài nghiên cứu tác giả luận văn đưa ra một số kết luận
sau:
1. Phát triển thị trường KH - CN là một nội dung quan trọng trong việc
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay. Nội dung chủ yếu của phát triển thị trường KH - CN là:
Xây dựng khuôn khổ pháp lý cho thị trường KH - CN; Tăng cung về hàng hóa
KH - CN; Tăng cầu về hàng hóa KH - CN; Xây dựng các tổ chức trung gian,
môi giới trên thị trường KH - CN; Thực hiện bảo hộ quyền SHTT; Điều tiết,
hỗ trợ thị trường KH - CN.
2. Do thị trường KH - CN là thị trường đặc biệt có nhiều yếu tố đặc thù
nên để phát triển thị trường này vai trò của Nhà nước được thể hiện đó là :
Tạo lập môi trường pháp luật; khắc phục khuyết tật thị trường; định hướng
điều tiết thị trường KH - CN; kiểm tra giám sát các hoạt động trên thị trường
KH - CN.
3. Từ việc tìm hiểu kinh nghiệm phát huy vai trò của Nhà nước trong
phát triển thị trường KH - CN trên thế giới cho thấy để phát huy vai trò của
Nhà nước trong thị trường này các quốc gia thực hiện nhiều biện pháp khác
nhau một cách linh hoạt đa dạng căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh và trình độ
phát triển về kinh tế, KH - CN của từng nước. Trong đó các quốc gia đặc biệt
chú ý đến việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và các chính sách
phát triển thị trường KH - CN.
4. Trong thời gian qua thị trường KH - CN ở Việt Nam đã có bước phát
triển đáng kể. Thị trường này đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể do có sự
quan tâm đặc biệt của Nhà nước. Nhà nước đã xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật chính sách phát triển thị trường KH - CN; Nhà nước hạn chế
được hiện tượng thông tin bất cân xứng và định giá hàng hóa KH - CN không
đúng; Nhà nước kiểm tra giám sát hoạt động trên thị trường này, nghiêm khắc
xử phạt những hành vi sai trái pháp luật... Tuy nhiên nhìn tổng thể vai trò của
Nhà nước trong thị trường KH - CN còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân
chủ quan và khách quan. Trong đó nguyên nhân cơ bản là do Nhà nước chưa
xây dựng và thực thi được một hệ thống pháp luật đầy đủ cho sự phát triển thị
trường KH - CN.
5. Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò
của Nhà nước trong phát triển thị trường KH - CN, để phát huy vai trò của
Nhà nước trong thị trường này chúng ta phải có những định hướng và quan
điểm rõ ràng trong đó phải chú trọng và có nhận thức đầy đủ về các quan
điểm sau: tạo lập các điều kiện phát triển thị trường KH - CN là nhân tố quyết
định sự phát triển lâu dài, bền vững của thị trường KH - CN; Hoạt động định
hướng điều tiết của Nhà nước đối với thị trường KH - CN là nhân tố đảm bảo
sự phát triển lành mạnh nhanh chóng của thị trường KH - CN; Thực hiện vai
trò của Nhà nước đối với thị trường KH - CN vừa phải bảo vệ được lợi ích
quốc gia, vừa phải tuân thủ các cam kết quốc tế.
6. Trên cơ sở quan điểm nêu trên cần thực hiện đồng bộ các giải pháp
khác để phát huy vai trò của Nhà nước trong phát triển thị trường KH - CN.
Các giải pháp phát huy vai trò của Nhà nước trong thị trường KH - CN bao
gồm hoàn thiện môi trường vĩ mô; xây dựng nguồn nhân lực KH - CN đáp
ứng yêu cầu phát triển thị trường KH - CN; Nâng cao hiệu lực hiệu quả và
thực thi pháp luật của Nhà nước đối với thị trường KH - CN; Nâng cao hiệu
quả hoạt động kiểm tra giám sát; cung cấp hiệu quả hàng hóa công...trong đó
giải pháp nâng cao hiệu lực hiệu quả và thực thi pháp luật của Nhà nước đối
với thị trường KH - CN có ý nghĩa quyết định đối với việc phát huy vai trò
của Nhà nước trong phát triển thị trường KH - CN trong thời gian tới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Minh An (4/2008), “Xung quanh các vấn đề về nghiên cứu khoa học và
đổi mới công nghệ”, Tạp chí khoa học - công nghệ (số 4), tr. 20-22.
2. Nguyễn Vân Anh (1/2009), “Thực trạng hệ thống pháp luật, cơ chế,
chính sách đối với hoạt động chuyển giao công nghệ”, Tạp chí hoạt
động khoa học (số 1), Địa chỉ truy cập: http://www.tchdkh.org.vn/
3. PGS. TS. Phạm Ngọc Ánh (2007), thúc đẩy các tổ chức khoa học và
công nghệ chuyển sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp, Nxb Lao
động - xã hội, Hà Nội.
4. TS. Đinh Văn Ân - chủ trì (2007), Các chính sách và cơ chế kinh tế hiện
nay liên quan đến sự hình thành và hoạt động của thị trường KH - CN,
Báo cáo chuyên đề nhánh 5 Đề tài độc lập cấp nhà nước ĐTĐL 2003/22
5. TS. Đinh Văn Ân, ThS. Vũ Xuân Nguyệt Hồng (chủ biên) (2004), Phát
triển thị trường khoa học - công nghệ ở Việt Nam, Nxb Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội.
6. Mai Văn Bảo (2008), “Kinh nghiệm quốc tế về thúc đẩy nhân lực khoa
học - công nghệ tham gia đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp”, Tạp
chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế giới (số 5)tr, 51-59.
7. Bộ Chính trị (1991), Nghị quyết 26 NQ/TW về khoa học và công nghệ
trong sự nghiệp đổi mới ngày 30/3/1991
8. Bộ Khoa học và công nghệ (2004), Hội nghị toàn ngành, triển khai chiến
lược phát triển KH - CN đến năm 2010 và chương trình hành động của
Chính phủ thực hiện nghị quyết Hội nghị Trung ương 9, khoa IX, H.
9. Bộ Khoa học và công nghệ - Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách
KH - CN (2003), Công nghệ và phát triển thị trường công nghệ ở Việt
Nam, Nxb Khoa học và kỹ thuật, H.
10. Bộ Khoa học và công nghệ (2003), Khoa học và công nghệ Việt Nam
2002, Hà Nội.
11. Bộ Khoa học và công nghệ (2004), Khoa học và công nghệ Việt Nam
2003, Hà Nội.
12. Bộ Khoa học và công nghệ (2005), Khoa học và công nghệ Việt Nam
2004, Hà Nội.
13. Bộ Khoa học và công nghệ (2006), Khoa học và công nghệ Việt Nam
2001 - 2005, Hà Nội.
14. Bộ Khoa học và công nghệ (2001), Báo cáo tổng kết các chương trình
KH - CN cấp Nhà nước1996 - 2000, Hà Nội.
15. Bộ luật dân sự 1/7/1996.
16. Bộ luật dân sự 14/6/2005.
17. Các Mác và Angghen (1986), tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội. Tr. 788.
18. Chính phủ (1996), Nghị định 63/CP ngày 24/10/1996 quy định chi tiết
về sở hữu công nghiệp
19. Chính phủ (1997), Nghị định 12/CP ngày 18/2/1997 quy định chi tiết về
việc chuyển giao công nghệ, bảo vệ môi trường, bảo vệ quyền và lợi ích
của bên chuyển giao công nghệ
20. Chính phủ (1998), Nghị định 45/1998 quy định chi tiết về chuyển giao
công nghệ
21. Chính phủ (1999), Nghị định 12/1999/NĐ - CP về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp
22. Chính phủ (2000), Nghị định 54/2000/NĐ - CP ngày 3/10/2000 về bảo
hộ sở hữu công nghiệp đối vowid bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên
thương mại, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở
hữu công nghiệp
23. Chính phủ (2005), Nghi định 115/2005/NĐ - CP ban hành ngày 5/9/2005
quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học
công nghệ công lập
24. Chính phủ (2007), Nghị định 80/2007/NĐ - CP ban hành 19/5/2007 về
doanh nghiệp khoa học công nghệ
25. Chính phủ (2010), Nghị định số 88/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật sở hữu trí tuệ và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về quyền đối
với giống cây trồng
26. Chính phủ (2010), Nghị định số 97/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Sở hữu công nghiệp.
27. Vũ Đình Cự (2004), “Thị trường khoa học - công nghệ, đặc trưng của
kinh tế tri thức”, Tạp chí Cộng sản số 20, tr. 22-25
28. PGS. TS Phạm Văn Dũng (2010), Phát triển thị trường khoa học -công
nghệ ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. PGS. TS Phạm Văn Dũng (2008), “Chính sách tạo lập và phát triển thị
trường khoa học - công nghệ ở một số quốc gia”, Tạp chí Nghiên cứu
Đông Bắc Á (số 1), tr 83.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) số 02/NQ/HNTW ngày
24/12/1996 về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Thanh Hà (2004), “Phát triển thị trường KH - CN tại Việt Nam: Nhiều
vướng mắc cần tháo gỡ”, Tạp chí Thông tin khoa học - công nghệ (số 5),
tr.45 - 48.
36. Phạm Văn Hà (2006), Vai trò của Nhà nước trong việc hình thành và
phát triển thị trường công nghệ ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ, Đại học
quốc gia Hà Nội.
37. Bùi Minh Hải - Thứ trưởng Bộ KH - CN (2005), “Khoa học và công
nghệ thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Hoạt động khoa học (số 1), tr. 4-11.
38. GS. TS. Vũ Văn Hiền (2010), “Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế
thị trường nhìn từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu”, Tạp chí Cộng
sản điện tử (số 1), Địa chỉ truy cập:
http://www.tapchicongsan.org.vn/details.asp
39. Hội đồng Bộ trưởng, (1990), Nghị định 84/HĐBT ngày 20/3/1990 về việc
sử đổi bổ sung sáng kiến cải tiến kỹ thuật – hợp lý hóa sản xuất và sáng
chế, Điều lệ về nhãn hiệu hàng hóa, Điều lệ về giải pháp hữu ích, Điều lệ
về kiểu dáng công nghiệp, Điều lệ về mua bán li – xăng”
40. Hội đồng Bộ trưởng (1992), Nghị định 35/HĐBT về công tác quản lý
khoa học – công nghệ ngày 28/1/1992
41. Nguyễn Mạnh Hùng (2012), Thị trường KH - CN ở Việt Nam trong tiến
trình HNKTQT, Luận án Tiến sỹ Kinh tế chính trị, Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
42. TS. Nguyễn Thị Hường (2006), “Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến
sự hình thành và phát triển Thị trường Khoa học và Công nghệ”, Tạp chí
Kinh tế và Dự báo (số 10), Tr. 36-37.
43. Nguyễn Võ Hưng, Nguyễn Lan Anh, Trần Ngọc Ca (2003), Công nghệ
và phát triền thị trường công nghệ ở Việt Nam, Nxb Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội.
44. Trần Việt Lâm (2005), “Phát triển thị trường khoa học và công nghệ:
những vấn đề từ phía doanh nghiệp”, Tạp chí kinh tế và phát triển (số
102), tr. 9-10.
45. Hoàng Xuân Long (2005), “Thị trường KH - CN ở Việt Nam”, Tạp chí
Nghiên cứu kinh tế (số 5), tr. 14 - 25.
46. Hoàng Xuân Long (2007), “Kinh nghiệm của Trung Quốc về quản lý thị
trường công nghệ ở địa phương”, Tạp chí Khoa học - Công nghệ (số 4),
tr.12-13.
47. Luật chuyển giao công nghệ 11/2006.
48. Luật cạnh tranh 2004.
49. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 12/11/1996.
50. Luật khoa học – công nghệ 2000.
51. Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) 20/5/1998.
52. Luật sở hữu trí tuệ 2005.
53. Hồ Ngọc Luật (2006), “Hướng phát triển thị trường khoa học - công
nghệ ở nước ta”, Tạp chí Cộng sản (số 112).
54. GS.TS. Đinh Văn Mậu, GS.TS.Lê Sỹ Thiệp, TS. Nguyễn Trịnh Kiểm
(2010), Tài liệu bồi dưỡng về quản lý hành chính Nhà nước, Nxb Khoa
học và Kỹ thuật, Hà Nội.
55. Ngân hàng thế giới (2002), Báo cáo phát triển thế giới 2002 – Xây dựng
thể chế hỗ trợ thị trường, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. Lê Ngọc (2011), Khoa học và công nghệ Nano phát triển thiếu định
hướng, Tạp chí tia sáng 1/3/2011.
57. Nguyễn Thiện Nhân (2005), “Phát triển và khai thác thị trường khoa học
- công nghệ bước đột phá để phát huy tiềm lực khoa học - công nghệ
thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Phát triển kinh tế tháng 12/2005.
58. Nguyễn Minh Phong - Chủ biên (2005), Phát triển thị trường khoa học -
công nghệ giữa Hà Nội và các tỉnh, thành phố trong cả nước, Nxb Tài
chính, Hà Nội.
59. Nguyên Phương (2004), “Phương châm phát triển thị trường khoa học -
công nghệ ở Việt Nam”, Tạp chí Thông tin Khoa học Kỹ thuật tháng
6/2004.
60. Danh Sơn (2003), “Thị trường khoa học và công nghệ ở Việt Nam”, Tạp
chí nghiên cứu kinh tế (số 305), tr.50-57.
61. Thủ tướng Chính phủ (1995), Quyết định số 419/TTg ngày 30/8/2005
ngày 21/7/1995 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế quản lý hoạt động
khoa học - công nghệ.
62. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 592/TTg ngày 22/5/2012
của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chương trình hỗ trợ phát
triển doanh nghiệp khoa học – công nghệ
63. Lược Thuật (2012), Một giải pháp đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp
Nhà nước, Tạp chí tia sáng 16/4/2012.
64. Tổng cục Thống kê (2011), niên giám thống kê 2010, NxbThống kê, Hà
Nội.
65. Tổng cục Thống kê (2012), niên giám thống kê 2011, NxbThống kê, Hà
Nội.
66. Vũ Anh Tuấn (2006), Phát triển thị trường khoa học - công nghệ ở Tp.
Hồ Chí Minh. NXB Thống kê. Hà Nội.
67. GS.TS. Đỗ Thế Tùng (2/2003), “Quan điểm của C. Mac về sự phát triển
của hệ thống máy móc và ý nghĩa của nó đối với nền kinh tế tri thức”,
Tạp chí Triết học, số 2(141), tr. 13-17.
68. Viện chiến lược và chính sách khoa học công nghệ (2003), Công nghệ và
phát triển thị trường công nghệ ở Việt Nam, Nxb Khoa học và Kỹ thuật,
Hà Nội.
69. TS. Hồ Đức Việt - chủ biên (2010), Xây dựng, phát triển thị trường KH -
CN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính
trị Quốc gia Hà nội, Hà Nội.
70. Võ Hồng Vinh (2007), Phát triển thị trường khoa học và công nghệ ở Việt
Nam, Luận văn thạc sỹ, Khoa kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.