LUẬN VĂN:
Vấn đề sự sống dưới ánh sáng của
khoa học hiện đi
Mở đầu
Theo sự phát triển của lịch sử khoa học, các vấn đề mà khoa học nghiên cứu
ngày càng được kết luận nhiều lên và được sự nhất trí của hầu hết giới khoa học
liên quan. Tuy vậy, trước mặt khoa học luôn luôn có vấn đề mới được đặt ra, đang ch
câu trả lời.
Cũng như các bộ môn khoa học khác, trong vòng 30-40 m nay sinh học phát
triển với một nhịp điệu nhanh chưa từng thấy. Slượng c chuyên ngành sinh vật
mới ra đời, cũng như thành tựu chúng đạt được thể xếp vào loại nhiều nhất.
Những thành tựu ấy đã mang lại cho chúng ta nhiều hiểu biết mới về sự hình thành
phát triển của thế giới sống, góp phần m sáng tỏ nhiều vấn đề mới cách đây nửa
thế kỷ đang là những giả thuyết.
Sinh học ngày càng vai trò to lớn trong việc giải quyết những vấn đề toàn
cầu của thời đại, trong việc nghiên cứu con người thúc đẩy tính tích cực của con
người. Những biến đổi vchất trong tất cả các lĩnh vực sinh học, sự ra đời của các bộ
môn mới, sự thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với khoa học tự nhiên khoa học hội
làm cho sinh học giữ vị trí then chốt để giải quyết một số vấn đề cấp bách nhất của
thời đại, làm cho vai trò xã hội của sinh học ngày càng nổi bật hơn.
Các câu hỏi vnguồn gốc của sự sống, sự tiến hoá của sự sống nói chung về
nguồn gốc sự tiến hoá của loài người nói riêng đã được khoa học thế kỷ XIX giải đáp
khá bản. Khoa học thế kỷ XX đã đi sâu để làm sáng tỏ thêm, bổ sung phát triển
câu trả lời đó.
Ngày nay, không thể một quan niệm đúng đắn, sâu sắc thực skhoa học
về thế giới vật chất sống, nếu như không nhận thức được nguồn gốc của sự sống
nếu như không coi một hiện tượng tự nhiên, hiện tượng trụ tính quy luật.
vậy, nghiên cứu " vấn đề sự sống dưới ánh sáng của khoa học hiện đại " ý
nghĩa quan trọng.
Nội dung
I. Sự sống là gì
Trả lời cho câu hỏi này đã nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập
nhau.
Nếu như các nhà triết học duy m cho ý thức cái trước vật chất cái có
sau, từ đó mới sự sống, thì ngược lại các nhà duy vật lại cho rằng vật chất trước
sự sống tđó mới ý thức. Thời kỳ cổ đại Hy Lạp tiêu biểunhà triết học duy m
Platôn (427-347 TrCN), ông đã đặt sthần học cho quan điểm về sự sống. Theo
Platôn vũ trụ có hai thế giới: Một là thế giới ý niệm. Hai là thế giới các sự vật cảm tính
(sông, núi, cây, cỏ...). Thế giới ý niệm thế giới tinh thần, hoàn hảo, đúng đắn,
chân thực vĩnh viễn không đổi. sở của thế giới các sự vật cảm tính. Thế giới
các sự vật cảm tính không chân thật, không hoàn hảo, không đúng đắn mọi cái
trong luôn biến đổi có sinh và có mất đi. Ông cho rằng con người bao gồm thể xác
linh hồn thể xác thể mất đi vì nó được cấu tạo từ đất, nước, lửa, không khí, còn
linh hồn là bất tử. Vì nó được cấu tạo từ linh hồn vũ trụ có nguồn gốc từ thượng đế.
Các nhà triết học duy vật tiêu biểu Hêraclít Đêmôcrít. Các ông cho rằng
mọi sự vật hiện tượng, ssống đều bắt nguồn từ một yếu tố vật chất nào đó. Hêraclít
cho đó lửa, với ông mọi vật đều trao đổi với lửa lửa trao đổi với mọi sự vật. Lửa
theo ông vĩnh cửu tính chất thần thánh. Cả trụ như ngọn lửa vĩnh viễn
cháy. Đối với Hêraclít "Thế giới, một chỉnh thể gồm mọi vật, không phải do bất cứ
một thần thánh hoặc bất cứ người nào sáng tạo ra, đã, đang sẽ còn một
ngọn lửa vĩnh viễn sống, bùng cháy tắt đi theo những quy luật..."(1). Lửa không chỉ
là khởi nguyên của vũ trụ mà còn là cơ sở của linh hồn con người.
Đêmôcrít cho nguyên tử (tồn tại) và khoảng không trống rỗng (không tồn tại)
nguồn gốc của thế giới. Các nguyên tử liên kết với nhau tạo nên các sự vật, các nguyên
tử tách rời khỏi nhau thì sự vật mất đi. Các nguyên tử luôn luôn vận động trong
khoảng không trống rỗng, và sự vận động của nguyên tử là cơ sở để hình thành nên
trụ của chúng ta. Đêmôcrít còn cho rằng con người thể xác linh hồn. Cả thể xác
(1) V.I.Lênin, Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.371.
linh hồn của con người đều không bất tử. Linh hồn của con nời do những
nguyên tử hình cầu rất nhỏ vận động với tốc độ lớn cấu tạo nên.
thể nói quan niệm của các nhà duy vật mới chỉ những quan sát bước đầu
về thế giới, tuy các quan niệm này còn thô sơ, mộc mạc, song nó chứa đựng những yếu
tố có giá trị, là cơ sở cho các nhà khoa học nghiên cứu về sự sống sau này.
Đến thời trung cổ vấn đề ssống vẫn được đặt ra, nhưng khuynh hướng duy
tâm nổi trội hơn. hội trung cổ Tây Âu lúc này giáo hội kitô giáo tổ chức n
giáo tập quyền hùng mạnh, chi phối toàn bộ đời sống tinh thần của hội. Mọi quan
điểm đều nhằm phục vụ thần học, nhà thờ. Triết học duy vật khoa học tự nhiên bị
đẩy lùi về phía sau, chính vậy các quan điểm về sự sống không điều kiện phát
triển. Tiêu biểu Ôguýtxtanh mát Đacanh. Trong triết học của Ôguýtxtanh thì
thượng đế vấn đề bản trung tâm nhất. Nhưng thượng đế theo ông là một thực thể
tinh thần độc lập đối lập với tự nhiên, đối lập với con người. Giới tự nhiên con
người hoàn toàn phụ thuộc vào thượng đế. Thượng đế không chỉ sáng tạo ra con người
còn sáng tạo ra mọi svật, hiện tượng khác cả thời gian. Con người theo ông,
gồm thể xác linh hồn, linh hồn của con người nguồn gốc từ thượng đế cho n
trí tubất tử. Thể xác thể mất đi, nhưng linh hồn vĩnh viễn, linh hồn
khả năng tư duy, có ý chí, trí nhớ.
Với mát Đacanh thì thượng đế cũng scho mọi tồn tại, mọi sự vật vận
động được là do cái hích của thượng đế.
Như vậy quan niệm của triết học Tây Âu thời trung cổ đã cho rằng giới tự nhiên
con người hoàn toàn phụ thuộc vào thượng đế, thượng đế không những sáng tạo ra
con người, mà còn sáng tạo ra mọi vật trên thế giới.
Thời kcận đại tiêu biểu cho khuynh hướng triết học duy tâm Béccơli
Hium.
Béccơli tuyên bố cảm giác nguồn gốc của sự vật. Mọi vật chỉ tổ hợp cảm
giác của con người. Mọi vật đối với ông chỉ tồn tại trong chừng mực được con người
cảm giác. Con người theo ông có thể xác và linh hồn, nhưng thể xác của con người tồn
tại được là cũng nhờ cảm giác.
Đavít Hium ph nhận thực thể vật chất, ông khẳng định: "không thể chứng
minh được sự tồn tại cũng như không tồn tại của vật chất".
Hêghen (triết học cổ điển Đức) cho rằng mọi sự vật hiện tượng trong thế giới
đều sự "tồn tại khác", sự "tha hoá" của tinh thần thế giới. Sự sống sự tồn tại khác
của ý niệm tuyệt đối.
Như vậy, ông đã tước mất sở thực sự của sự sống, các hiện tượng trao đổi
chất sự thống trị của tinh thần. Ông cũng đã phủ nhận sự tiến hoá hữu cơ trong thời
gian.
thể nói, hầu như các nhà triết học duy tâm đã phủ nhận nguồn gốc tnhiên
của sự sống, phủ nhận tính vật chất của các hiện tượng sống. Điều quyết định các hiện
tượng sống không phải các yếu tvật chất, nằm ngoài khả năng nhận thức của con
người, không thể có sự sống nếu như không có sự tham gia của lý tính trừu tượng.
Cũng thời kỳ này, đối lập với các nhà triết học duy m, các nhà triết học duy
vật thì lại khẳng định ssống một phần của thế giới tự nhiên, không phải do thần
thánh sáng tạo ra. Một số nhà triết học bước đầu đã giải thích hoạt động sống, nhưng do
ảnh hưởng của quan điểm máy móc, các nhà triết học thời kỳ này mới chỉ thấy được chức
ng hoạt đng ơng tự của sự sống và máy c ca thấy được chất lượng của sự sống
và không sống.
Hốp cái nhìn hoàn toàn học máy móc về con người. Chẳng hạn ông
cho tim động chính; các khớp xương như những bánh xe truyền lực. Ông đã thấy
khía cạnh sinh học của con người, bản chất của con người theo ông là tổng các nhu cầu
ham muốn khả năng và sức mạnh.
Với Đêcáctơ thì giới tự nhiên chỉ một thực thể vật chất duy nhất hoạt động
cả trên trời và dưới đất. Giới tự nhiên ngày càng phát triển phức tạp hoàn thiện
hơn. Giới sinh vật động vật kết quả của sự vận động của tnhiên. thể sống
theo ông chỉ một cỗ máy phức tạp, sự sống không cần một quy luật đặc biệt nào, sự
sống là một bộ máy đặc biệt vậy sự vận động của nó do sự va chạm của các bộ phận
máy móc.
Đến Phơbách (triết học cổ điển Đức) thì vấn đề con người trung m trong
triết học của ông, ông đã đứng trên lập trường duy vật để giải quyết vấn đề này. Con
người trong triết học của Phơbách một phần của giới tự nhiên, một sinh vật
hình thể vật chất trong không gian thời gian, vì vậy con người khả năng quan
sát, suy nghĩ.