BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN ––––––––––––––––––––

NGUYỄN THỊ THANH VÂN VĂN XUÔI TRƯƠNG TỬU TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN ––––––––––––––––––––

NGUYỄN THỊ THANH VÂN

VĂN XUÔI TRƯƠNG TỬU TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 62 22 01 21 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN HỮU SƠN THÁI NGUYÊN - 2014

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết

quả được nêu trong luận án là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công

trình khoa học nào. Nếu sai, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Thái Nguyên, tháng 12 năm 2014

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Thanh Vân

ii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Nguyễn Hữu Sơn - người thầy đã tận tình hướng dẫn và động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án.

Tôi xin chân thành cảm ơn ông Trương Tùng - con trai cả của nhà văn Trương Tửu đã cung cấp cho tôi nhiều tư liệu quý báu về cuộc đời, văn nghiệp và tác phẩm của nhà văn để hoàn thành luận án.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cơ sở đào tạo Đại học Thái Nguyên, đơn vị đào tạo trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã tạo điều kiện để tôi hoàn thành khóa học và trình bày luận án.

Tôi xin cảm ơn tới Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Yên Bái đã tạo điều kiện

để tôi được tham gia học tập, nghiên cứu.

Tôi xin cảm ơn đến các đồng nghiệp và bạn bè đã động viên, chia sẻ

những kinh nghiệm trong quá trình hoàn thành luận án.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, người thân đã động viên và giúp

đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận án.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, tháng 12 năm 2014

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Thanh Vân

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................ii

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1

1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 3

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu............................................................................ 3

4. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 4

5. Đóng góp mới của luận án ................................................................................... 5

6. Cấu trúc luận án ................................................................................................... 5

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ..................................... 6

1.1. Khái quát tình hình nghiên cứu về Trương Tửu ................................................ 6

1.1.1. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 ........................................................ 6

1.1.2. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 ............................................................ 9

1.2. Tiếp nhận văn xuôi của Trương Tửu ............................................................... 26

1.2.1. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 ...................................................... 26

1.2.2. Từ năm 1945 đến nay .................................................................................. 30

1.3. Khái lược vị trí văn xuôi Trương Tửu trong tiến trình văn học Việt Nam

đầu thế kỷ XX ............................................................................................... 34

1.3.1. Tiến trình văn xuôi Việt Nam hiện đại ......................................................... 34

1.3.2. Vấn đề Trương Tửu trong tiến trình văn xuôi hiện đại ................................. 35

Chương 2: CƠ SỞ VĂN HOÁ, VĂN HỌC NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX VÀ SỰ

XUẤT HIỆN TÁC GIẢ TRƯƠNG TỬU ................................................... 39

2.1. Đời sống văn hóa xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX với những giao lưu và

tiếp biến văn hóa ........................................................................................... 39

2.1.1. Một xã hội mới với nhiều biến động trong những năm đầu thế kỷ XX ......... 39

2.1.2. Khung cảnh văn học Việt Nam trong sự giao lưu của văn hóa Đông - Tây ......... 40

2.2. Tác giả, tác phẩm Trương Tửu trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại ... 47

2.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp ................................................................................. 47

iv

2.2.2. Nhà văn - Nhà lý luận phê bình Trương Tửu với những đóng góp trong

tiến trình văn học hiện đại ............................................................................. 49

Chương 3: HỆ THỐNG ĐỀ TÀI VÀ CẢM HỨNG SÁNG TÁC CHỦ ĐẠO

CỦA NHÀ VĂN TRƯƠNG TỬU ............................................................... 66

3.1. Đề tài .............................................................................................................. 66

3.1.1. Đề tài tình yêu ............................................................................................. 67

3.1.2. Đề tài tệ nạn xã hội trong hiện thực xã hội đô thị Việt Nam trước1945 ........ 74

3.1.3. Đề tài lịch sử ................................................................................................ 80

3.2. Hệ thống nhân vật - yếu tố quan trọng trong việc phát triển đề tài ......................... 88

3.2.1. Nhân vật tích cực ......................................................................................... 88

3.2.2. Nhân vật tiêu cực ......................................................................................... 91

3.2.3. Một số nhân vật ảnh hưởng của phân tâm học Freud .................................... 99

3.3. Cảm hứng chủ đạo trong văn xuôi Trương Tửu ............................................ 101

3.3.1. Cảm hứng phê phán ................................................................................... 102

3.3.2. Cảm hứng bi kịch....................................................................................... 106

Chương 4: MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TRONG VĂN XUÔI

TRƯƠNG TỬU................................................................................................. 112

4.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua phương thức trần thuật ............................ 112

4.1.1. Phương thức trần thuật khách quan với những nhân vật tượng trưng .......... 112

4.1.2. Phương thức trần thuật chủ quan với những nhân vật “tôi” ........................ 118

4.2. Kết cấu văn xuôi Trương Tửu ....................................................................... 120

4.2.1. Kết cấu tâm lý ............................................................................................ 121

4.2.2. Kết cấu có nội dung vào vấn đề trung tâm của câu chuyện ......................... 123

4.2.3. Kết cấu lồng ghép hai nội dung vấn đề ....................................................... 126

4.3. Ngôn ngữ ...................................................................................................... 128

4.3.1. Lời văn đối thoại ........................................................................................ 131

4.3.2. Lời văn độc thoại ....................................................................................... 136

4.3.3. Tiếng Pháp được Trương Tửu sử dụng trong các tác phẩm ........................ 139

4.4. Nghệ thuật vận dụng văn học dân gian vào tác phẩm văn xuôi của Trương Tửu .. 143

4.4.1. Vai trò của văn học dân gian trong văn Việt Nam hiện đại ......................... 143

v

4.4.2. Mô típ, nhân vật trong cổ tích, sử thi được nhà văn vận dụng vào văn

xuôi dã sử ................................................................................................... 144

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 153

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 156

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .................................................................................. 169

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Trong những năm đầu thế kỷ XX, sau những biến động lịch sử to lớn, xã

hội Việt Nam có những thay đổi sâu sắc trên nhiều lĩnh vực. Chịu sự tác động của

hoàn cảnh xã hội, với một nội lực mạnh mẽ, nền văn học cũng chuyển mình nhanh

chóng trên con đường hiện đại hóa và đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Đặc biệt,

trong giai đoạn này, nền văn học nước ta đã hình thành một lực lượng sáng tác đông

đảo và tài năng, góp phần không nhỏ vào sự thay đổi diện mạo văn học một cách rõ

rệt từ nội dung đến hình thức nghệ thuật. Trương Tửu là một trong những đại diện

tiêu biểu của đội ngũ này.

1.2. Trương Tửu (1913 - 1999) là nhà giáo, nhà văn, nhà nghiên cứu văn học

Việt Nam được nhiều người biết tiếng. Trần Đình Sử đã khẳng định “Trương Tửu

có lối viết khá khúc triết, chặt chẽ và hấp dẫn. Ông có một khí văn mạnh mẽ, lời văn

đa dạng, biến hóa, giàu chất hùng biện với một niềm tin xác tín không lay chuyển

đã làm nên sức lôi cuốn để dẫn dắt người đọc vào những lập luận khác lạ” [131].

Điều đó chứng minh từ những năm 30 của thế kỷ XX, tên tuổi Trương Tửu -

Nguyễn Bách Khoa đã nhanh chóng thu hút công chúng độc giả và được ghi danh

trên văn đàn công khai. Trong khoảng hơn hai mươi năm cầm bút, ông đã để lại một

văn nghiệp đáng trân trọng với trên 30 đầu sách về lý luận, phê bình, nghiên cứu và

sáng tác. Ông là một trong những nhà phê bình tiên phong đã đưa phê bình Việt

Nam vào thời hiện đại. Với tinh thần khách quan khoa học, nhà phê bình Trương

Tửu - Nguyễn Bách Khoa đã tạo được dấu ấn đặc biệt trong những công trình

nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học của mình; trong đó có những công trình “bề

thế” như Triết lý Truyện Kiều (1931), Nguyễn Du và Truyện Kiều (1941), Văn

chương Truyện Kiều (1944),... Trần Đình Sử thể hiện thái độ và tình cảm trân

trọng đối với Trương Tửu “chúng tôi không thể không biểu hiện niềm cảm phục

ông như một nhà nghiên cứu có nhân cách cao thượng” [131]. Trong lĩnh vực sáng

tác văn xuôi, Trương Tửu là một trong số những nhà văn tiên phong của dòng văn

học hiện thực phê phán. Với tâm nguyện làm “chiến sĩ tận tụy chống lại cái thực thể

2

mục nát của xã hội”, “giữ nhiệm vụ tên lính cảm tử phất cao ngọn cờ tranh đấu, dắt

xã hội chạy tìm những chân trời mới và đẹp trên con đường gay go của hạnh phúc”,

người “thư ký trung thành của thời đại” ấy đã hướng ngòi bút vào những số phận bé

nhỏ, những bi kịch cuộc đời, thâm nhập vào đời sống xã hội Việt Nam những năm

đầu thế kỷ XX để phản ánh hiện thực và sự chiêm nghiệm của nhà văn trước cuộc

đời, hướng tới những “chân trời mới” mà nhà văn tin tưởng. Sáng tác văn xuôi của

Trương Tửu thể hiện rõ chủ đích đấu tranh xã hội, có tính tư tưởng thống nhất,

mang đậm giá trị nhân văn. Lối văn luận đề, giàu chi tiết hiện thực khiến cho tác

phẩm của ông còn có giá trị nhiều mặt, có thể trở thành điểm tựa của nhiều bộ môn

liên ngành như lịch sử, báo chí, ngôn ngữ học, văn hóa học, xã hội học...

1.3. Tuy nhiên, độc giả hiện nay còn ít biết đến những trang văn xuôi của

Trương Tửu ra đời vào những năm ba mươi, bốn mươi của thế kỷ XX. Nhà nghiên

cứu Nguyễn Hữu Sơn chỉ ra nguyên nhân: “Sự lãng quên này có lý do bởi các tác

phẩm văn xuôi Trương Tửu đều chưa được tái bản, hơn nữa còn chịu búa rìu của

những quan niệm phê bình cực đoan, “bắt vít” một chiều, cơ hội chủ nghĩa, cố ý tạo

nên luồng dư luận không đúng và không tốt” [120, tr. 6]. Trong thực tế sáng tác,

văn xuôi Trương Tửu tạo được dấu ấn riêng và có những đóng góp đáng ghi nhận

đối với sự phát triển của văn học giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám. Mặc dù

Trương Tửu trải qua một cuộc đời 86 năm với nhiều vinh quang rạng rỡ nhưng cũng

không ít vất vả, gian truân. Nguyễn Hữu Sơn khái quát: “Cuộc đời Trương Tửu là

một chuỗi những thăng trầm, đong đầy nghịch lý với những cuộc dấn thân trên tinh

thần trung thực, đấu tranh vì học thuật lẽ phải” [123]. Sau cuộc bể dâu, những đóng

góp quan trọng của ông đối với nền văn học nước nhà đã dần được soi sáng và ghi

nhận. Hiện nay, với độ lùi thời gian cho phép, dựa trên kết quả sưu tầm, biên khảo,

nghiên cứu đã có, chúng tôi nhận thấy cần phải triển khai nghiên cứu văn xuôi

Trương Tửu một cách hệ thống và sâu sắc để xác định rõ diện mạo và đóng góp của

nhà văn trong lĩnh vực sáng tác đối với tiến trình văn học hiện đại của dân tộc và đối

với đời sống văn hóa đương thời. Tiếp nối những công trình đã có về cuộc đời, con

người, sự nghiệp của Trương Tửu, đề tài luận án đi sâu nghiên cứu: "Văn xuôi

3

Trương Tửu trong tiến trình văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX" sẽ có được những

khảo sát, nhận định, đánh giá mới về đối tượng nghiên cứu.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu: Lựa chọn đề tài "Văn xuôi Trương Tửu trong

tiến trình văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX", luận án xác định mục đích nghiên cứu

những phương diện cơ bản trong văn xuôi Trương Tửu, đặt văn xuôi Trương Tửu

trong tiến trình phát triển của văn học hiện đại Việt Nam đầu thế kỷ XX để xác định

những thành công và hạn chế (nếu có) của cây bút này, thấy được những đóng góp

và vị trí của nhà văn trong nền văn học hiện đại của dân tộc.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Tìm hiểu tình hình văn hóa, văn học trong giai

đoạn đầu thế kỷ XX với những giao lưu và tiếp biến văn hóa đã tác động tới ngòi

bút văn xuôi của Trương Tửu; đi sâu phân tích, lý giải những điểm cơ bản về nội

dung và nghệ thuật trong các sáng tác văn xuôi của ông; từ đó, đánh giá vị trí, vai

trò, đóng góp (và giới hạn) của nhà văn trong lĩnh vực sáng tác đối với tiến trình

văn học Việt Nam hiện đại.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án: Văn xuôi Trương Tửu trong tiến trình văn

học Việt Nam đầu thế kỷ XX.

3.2. Phạm vi nghiên cứu là toàn bộ các truyện ngắn và tiểu thuyết của

Trương Tửu được xuất bản từ năm 1937 đến năm 1942 (thuộc giai đoạn văn học

từ đầu thế kỷ XX đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945). Các công trình

nghiên cứu lý luận, phê bình văn học của nhà văn được sử dụng để tham khảo, so

sánh, đối chiếu trong những trường hợp cần thiết. Những tác phẩm văn xuôi của

Trương Tửu thuộc phạm vi khảo sát là:

1. Thanh niên S.O.S, NXB Minh Phương, Hà Nội, 1937.

2. Một chiến sĩ, NXB Minh Phương, Hà Nội, 1938.

3. Khi chiếc yếm rơi xuống, NXB Minh Phương, Hà Nội, 1939.

4. Trái tim nổi loạn, NXB Văn Thanh, Hà Nội, 1940.

5. Một cổ đôi ba tròng, NXB Tân Việt, Hà Nội, 1940.

4

6. Tôi nguyền rủa mãi người cha ấy, in trong tập Một cổ đôi ba tròng, NXB

Tân Việt, Hà Nội, 1940.

7. Khi người ta đói, in trên Phổ thông bán nguyệt san, số 59, tháng 5-1940,

8. Thằng Hóm, in trên Tin Mới Văn Chương, 1940.

9. Một kiếp đoạ đày, NXB Hàn Thuyên, Hà Nội, 1941.

10. Đục nước béo cò, NXB Minh Phương, Hà Nội, 1940.

11. Cái tôi của ai, in trong tập Một kiếp đọa đày, NXB Hàn Thuyên, Hà

Nội, 1941.

12. Tráng sĩ Bồ Đề, NXB Hàn Thuyên, Hà Nội, 1942.

13. Năm chàng hiệp sĩ, NXB Hàn Thuyên, Hà Nội, 1942.

Trong số đó, có 12 tác phẩm đã được tập hợp, in lại trong cuốn Trương Tửu -

Tuyển tập văn xuôi do Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm và biên soạn, xuất bản năm 2009

[120]. Tác phẩm Thằng Hóm đã được Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm và in lại trong

cuốn Trương Tửu Tuyển tập nghiên cứu văn hóa, xuất bản năm 2013 [124].

4. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp

nghiên cứu sau:

Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đây là phương pháp được sử dụng cơ

bản trong luận án. Với phương pháp này chúng tôi đi từ việc khảo sát, phân tích

các sáng tác của nhà văn trên từng phương diện từ đề tài đến cảm hứng,… để từ

đó tác giả luận án rút ra những nhận xét có tính tổng hợp, khái quát.

Phương pháp hệ thống: Với phương pháp này, khi vận dụng chúng tôi thực

hiện mục đích để phát hiện sự lặp lại nhiều lần của các phương diện khác nhau

trong sáng tác văn xuôi của Trương Tửu. Từ đó, chúng tôi mạnh dạn đi đến khẳng

định những đặc điểm mang tính ổn định trong quá trình sáng tác của nhà văn.

Phương pháp thống kê, phân loại: Chúng tôi sử dụng phương pháp này để thống

kê về các biện pháp nghệ thuật đã được nhà văn sử dụng trong khi sáng tác. Sau khi

thống kê, phân loại có kết quả sẽ được hệ thống hóa và đặt vào nội dung nghiên cứu.

5

Phương pháp so sánh: Trong quá trình phân tích, tổng hợp chúng tôi tiến

hành so sánh Trương Tửu với một số nhà văn để làm sáng tỏ vai trò của Trương

Tửu đối với văn học Việt Nam hiện đại, làm rõ vị trí của Trương Tửu trong tiến

trình văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX.

5. Đóng góp mới của luận án

Đây là công trình khoa học đầu tiên tập trung nghiên cứu toàn bộ 13 tác

phẩm văn xuôi của Trương Tửu.

Từ việc đi sâu khảo sát, phân tích và hệ thống hóa những điểm cơ bản về văn

xuôi Trương Tửu, đặt văn xuôi Trương Tửu trong bối cảnh văn học đương thời,

luận án đưa ra những nhận định, đánh giá khách quan, khoa học về vị trí và đóng

góp của nhà văn đối với văn xuôi giai đoạn 1930 - 1945 và với tiến trình văn học

hiện đại Việt Nam.

Luận án góp phần soi sáng toàn diện, sâu sắc hơn bức chân dung văn học của

Trương Tửu và diện mạo văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.

Kết quả của luận án có thể dùng trong các trường Đại học, Cao đẳng làm tài

liệu giảng dạy, nghiên cứu về Trương Tửu và về văn học hiện đại Việt Nam.

6. Cấu trúc luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục Tài liệu tham khảo, nội dung

chính của luận án được triển khai trong bốn chương:

Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu.

Chương 2: Cơ sở văn hóa, văn học nửa đầu thế kỷ XX và sự xuất hiện tác giả

Trương Tửu.

Chương 3: Hệ thống đề tài và cảm hứng sáng tác chủ đạo của nhà văn

Trương Tửu.

Chương 4: Một số phương diện nghệ thuật trong văn xuôi Trương Tửu.

6

Chương 1

TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Trên cơ sở thu thập được những tư liệu có liên quan đến Trương Tửu, chúng

tôi đặt nhiệm vụ khảo sát và hệ thống lại một cách sơ lược những ý kiến đã nêu về

con người, sự nghiệp của Trương Tửu. Tuy nhiên chúng tôi chú trọng đi sâu nghiên

cứu văn xuôi của ông trên hai thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn nhằm xác định cụ

thể hơn về vị trí của nhà Trương Tửu trong tiến trình văn học Việt Nam hiện đại.

1.1. Khái quát tình hình nghiên cứu về Trương Tửu

Trong văn học Việt Nam hiện đại đầu thế kỷ XX, ở lĩnh vực lý luận phê bình

Trương Tửu là người đã tạo cho mình một dấu ấn riêng, một lối đi riêng. Bản thân

Trương Tửu và các sáng tác của ông đã nhận được nhiều ý kiến đánh giá khác nhau.

Có ý kiến đánh giá khá khắt khe, nhưng bên cạnh đó là nhiều ý kiến chỉ ra được sự

ảnh hưởng của Trương Tửu trong đời sống văn học.

1.1.1. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945

Trương Tửu ghi danh trong “làng văn” với tư cách là nhà phê bình và nhà

tiểu thuyết. Theo khảo sát của chúng tôi, khởi nghiệp của ông từ địa hạt phê bình,

bắt đầu bằng bài Triết lý Truyện Kiều đăng trên Đông Tây tuần báo khi mới 18

tuổi; sau đó là một loạt bài phê bình văn học Việt Nam đương đại hiện diện trên

văn đàn. Phương pháp phê bình của Trương Tửu đã trở thành một “hiện tượng”

trên diễn đàn văn học công khai đương thời, nhanh chóng thu hút công chúng độc

giả, đồng nghiệp và các nhà nghiên cứu - phê bình chuyên nghiệp; tiêu biểu là

những nhận xét, đánh giá của Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh, Đinh Gia Trinh, tập

trung vào phương pháp phê bình của Trương Tửu trong cuốn Nguyễn Du và

“Truyện Kiều” (bút danh Nguyễn Bách Khoa).

Nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại nêu nhận

xét về ưu - nhược điểm của ngòi bút Trương Tửu: “Trương Tửu phê bình tỷ mỷ, kĩ

càng, nhưng phần nhiều ông xét nhận không đúng. Sự sai lầm này là do ở ông dùng

những lời to tát quá để phát biểu ý kiến về những cái hết sức nhỏ trong một quyển

sách” [107, tr. 480]. Nhà nghiên cứu tiếp tục thể hiện quan điểm một cách khá rõ

7

ràng: “Trương Tửu hay phê bình theo một thiên kiến, nên ông không công bình. Bài

“Tính sổ mười năm văn học - 1930 - 1940” của ông đăng trong Mùa gặt mới (số 2 -

1940) tỏ ra ông là một nhà phê bình rất thiên vị. Ông đã từng khen những văn sĩ

trong Tự lực văn đoàn bằng những chữ “rất lớn” trong báo Loa, rồi bây giờ theo

một khuynh hướng chính trị của ông, ông lại dìm họ xuống đất đen, bảo họ đã tạo ra

một loạt thiếu niên nam nữ trụy lạc từ thể chất đến tâm hồn” [107, tr. 481].

Nhà phê bình Hoài Thanh bày tỏ ý kiến không đồng tình với phương pháp

phê bình “nghiện khoa học” của Trương Tửu. Theo quan điểm của Hoài Thanh,

phương pháp phê bình mang tính khoa học tỉnh táo mà Trương Tửu vận dụng

không phù hợp với việc thẩm bình tác phẩm văn học, dẫn đến những cảm nhận

lệch lạc: “Với ông Nguyễn Bách Khoa, cái gì cũng rõ ràng như hai lần hai là

bốn. Ông có ngờ đâu rằng sự thực huyền diệu hơn nhiều, nhất là khi sự thực đó

là con người Nguyễn Du. Ông đang tay phân tích con người Nguyễn Du chẳng

khác gì một nhà bác sĩ phân tích thây ma trong phòng mổ xẻ. Thực là tàn nhẫn.

Và cũng thực là thô thiển! Ông thấy Kim Trọng đa tình, Thúy Kiều đa cảm, thế

là ông bảo Nguyễn Du cũng là người đa cảm, đa tình. Ông thấy Triết lý Đoạn

trường tân thanh vừa có màu đạo Khổng vừa có màu Phật giáo, ông thấy tâm lý

Đoạn trường tân thanh là một thứ tâm lý tùy thời. Ông liền gán triết lý ấy và tâm

lý ấy cho Nguyễn Du” [155]. Hoài Thanh tiếp tục phát triển quan điểm của

mình: “Chứ cái điệu bộ tướng Quảng Lạc của ông Bách Khoa thì chẳng có thể

thấy gì được. Ngay từ khi ông mới bước chân vào tôi đã nơm nớp lo sợ tưởng

chừng như thấy một anh mù múa võ trong một chỗ bày những đồ sứ, đồ pha lê,

vô giá” [155]. Chưa dừng lại ở đó, Hoài Thanh phát biểu gay gắt hơn bởi nhà

nghiên cứu cho rằng Bách Khoa mắc một chứng bệnh nghiện chữ, chứng bệnh

trong y học khó chữa được: “Bệnh nghiện chữ vốn có từ xa xưa nhưng ở thời đại

này thường nảy sinh ra nhiều biến chứng. Biến chứng thông thường nhất là biến

chứng nghiện khoa học. Phàm người mắc bệnh nghiện lạ lùng này miệng hay nói

lảm nhảm những chữ rắc rối, tâm trí thường vướng víu những điều mới lượm

được trong các sách khoa học” [155].

8

Trong thực tế, phương pháp phê bình lấy khoa học làm tôn chỉ cho hoạt động

nghiên cứu văn chương của Trương Tửu trái chiều với phương pháp phê bình mang

tính nghệ thuật ấn tượng, thiên về chủ quan, trực giác, “lấy lòng mình để hiều lòng

người” của Hoài Thanh. Những nhận xét có phần gay gắt của Hoài Thanh đối với

cách viết phê bình của Trương Tửu cũng xuất phát từ sự trái chiều trong phương

pháp tiếp cận văn học nói trên. Qua đó thấy được Hoài Thanh không đồng tình với

phương pháp phê bình của Trương Tửu. Không những thế Hoài Thanh còn tỏ rõ

thái độ khó chịu trước tư duy lý luận của nhà nghiên cứu này. Hoài Thanh bực bội

trước thao tác khoa học của Trương Tửu.

Cũng vào thời điểm sau khi Trương Tửu công bố cuốn sách khảo cứu và

phê bình “Nguyễn Du và Truyện Kiều”, Đinh Gia Trinh viết một số bài trên báo

Thanh nghị năm 1944 (đã được Mã Giang Lân tập hợp trong cuốn Những cuộc

tranh luận văn học nửa đầu thế kỷ XX, xuất bản năm 2005). Trong đó, Đinh Gia

Trinh cũng khẳng định: Trương Tửu cũng đã góp phần khai mở những điều mới

mẻ trong phê bình văn học của nước ta, bởi vì: “Lối khảo xét người dò sâu đến cội

rễ sinh lý, đến ảnh hưởng của xã hội, của hoàn cảnh là một điều mới mẻ trong

khoa học phê bình nước nhà và rất đáng khích lệ”; và “Khi xét về mối quan hệ

giữa Nguyễn Du và Truyện Kiều thì tác giả tỏ ra có minh kiến và trong những áng

văn bình luận về Truyện Kiều từ xưa đến nay ít có những ý kiến mới mẻ diễn ra

một cách bạo dạn và rõ rệt như ở trong cuốn sách của ông Nguyễn Bách Khoa”.

Đinh Gia Trinh tiếp tục khẳng định: Nguyễn Bách Khoa “đã mở cửa cho khoa phê

bình văn học Việt Nam về Truyện Kiều trông thấy những chân trời rộng rãi hơn”,

“đã có công mang vào văn chương nghiên cứu Truyện Kiều những kiến thức mới

mẻ và có giá trị” [71, tr. 112]. Cũng cần nhận thấy, bên cạnh quan điểm khoa học,

từ góc độ cá nhân, Đinh Gia Trinh không đồng tình với một số ý kiến cực đoan

của Trương Tửu về nhân vật Thúy Kiều. Ông cho rằng Trương Tửu: “nhiễm trong

óc những lý thuyết của của Freud, quen tính nói quá đáng và lý luận theo một vài

tiêu chuẩn sinh lý” [71, tr. 113].

Nhìn chung, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, việc nghiên cứu Trương

Tửu chưa được thực hiện một các hệ thống và toàn diện. Các bài viết về Trương Tửu

9

chủ yếu tập trung vào các tác phẩm phê bình văn học của ông. Nội dung các bài viết

thể hiện trực cảm của người nghiên cứu nhiều hơn việc áp dụng phương pháp luận

nghiên cứu khoa học. Chính vì vậy, qua ý kiến đánh giá của Vũ Ngọc Phan, Hoài

Thanh, Đinh Gia Trinh có thể thấy được vấn đề bàn luận: Tác phẩm lý luận nghiên

cứu phê bình của Trương Tửu trong giai đoạn 1930-1945 đã bộc lộ nhược điểm của

tác giả là quá thẳng thắn khi bày tỏ quan điểm đánh giá, nhận xét trước công chúng.

Tác phẩm lý luận phê bình của Trương Tửu ở giai đoạn trước Cách mạng tháng

Tám không được đánh giá là đặc sắc nhưng thực tế đặt ra câu hỏi: Tại sao càng về

sau tên tuổi, tác phẩm của Trương Tửu càng được đọc giả biết đến và trân trọng

nhiều như vậy? Các Hội thảo, lễ Kỷ niệm diễn ra trên các diễn đàn cho thấy một

Trương Tửu có những cống hiến không thể phủ nhận. Như vậy, các ý kiến nhận xét,

đánh giá nêu trên ở mức độ khen chê khác nhau, nhưng thống nhất ở chỗ nhận rõ

đặc điểm ngòi bút “tôn thờ khoa học” của Trương Tửu cùng với những đóng góp và

hạn chế của phương pháp phê bình này,...

1.1.2. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945

Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, mặc dù diễn tiến qua các chặng

đường có khác nhau, song hành trình nghiên cứu về Trương Tửu vẫn được tiếp tục.

Theo trình tự thời gian, hành trình nghiên cứu về Trương Tửu giai đoạn này

trải qua hai chặng đường; có thể lấy năm 1975 làm điểm mốc phân chia hai chặng

đường đó.

Chặng đường trước năm1975, giữa hai miền Nam - Bắc, việc nghiên cứu

Trương Tửu cũng có nhiều điểm khác nhau.

Ở miền Bắc, nhìn chung, tình hình nghiên cứu Trương Tửu có nhiều diễn

biến phức tạp, ý kiến đánh giá không đồng nhất, thuận chiều đối với các tác phẩm lý

luận - phê bình văn học của ông. Khi tập sách Tương lai văn nghệ Việt Nam (1945)

của Trương Tửu vừa ấn hành, nhà nghiên cứu Thanh Bình (Đặng Thai Mai) đã nêu

ý kiến trên bán nguyệt san Tiên Phong của Hội Văn hóa Cứu quốc số 2, ra ngày

1/12/1945: “Đáng tiếc là ông Trương Tửu chưa hề lĩnh hội vấn đề về văn nghệ một

cách đầy đủ và đến nơi đến chốn để đem lại cho chúng ta một chương trình thiết

thực. Tập luận án của ông Trương Tửu thực quá mông lung về phần lý luận, và khi

10

bàn đến chương trình hành động lại có ý kiến quá tỉ mỉ, quá “máy móc” và sao nhãng

hẳn những điểm rất cần thiết cho sự xây dựng một nền văn nghệ mới” [7, tr. 7].

Tiếp theo, trên bán nguyệt tạp san Tiên phong số 3 (16/12/1945) Thanh Bình tranh

luận với Trương Tửu: “Tự do - tự do cá nhân, tự do nghệ sĩ, tự do tuyệt đối, hay

lắm, đẹp lắm. Nhưng nước nhà chưa tự do thì nghệ sĩ tự do thế nào? Nói cho cùng,

nếu nước nhà được độc lập, được “giải phóng hoàn toàn” và có một chính thể “dân

chủ chân chính” thì nhà nghệ sĩ nào không được tự do?” [8, tr. 8]. Tuy không đồng

nhất với Trương Tửu về một số khái niệm và quan niệm trong văn nghệ, song tác

giả Thanh Bình đã nhận thấy từ cuốn sách Tương lai văn nghệ Việt Nam toát lên

“những lời nói chan chứa nhiệt tình đối với văn học và nghệ thuật, những cảm tình

tha thiết đối với một giai tầng dân chúng, và sự tin tưởng đối với tương lai văn hóa

dân tộc” [9, tr. 19], tác giả của cuốn sách “đã mang nặng trong tâm hồn cái nguyện

vọng tốt đẹp của một nhà văn hóa đối với tiền đồ văn hóa”, “tích cực tham gia vào

công cuộc gây dựng nền văn hóa mới” [9, tr. 19]. Thời gian sau vụ “Nhân văn Giai

phẩm”, ý kiến đánh giá về Trương Tửu trở nên gay gắt. Năm 1958, Phan Cự Đệ có

bài viết Thái độ và phương pháp giảng dạy của Trương Tửu trên báo Độc lập số 354

[30, tr. 3]. Trong bài viết này, Phan Cự Đệ đánh giá phương pháp nghiên cứu văn học

của Trương Tửu là “phương pháp duy tâm chủ quan”, “theo ý muốn cá nhân của

mình” [30, tr. 3] và kết luận về Trương Tửu “đã tỏ ra không xứng đáng một tý nào

với cương vị giáo sư một trường Đại học của chế độ ta, một chế độ tốt đẹp đang tiến

lên xã hội chủ nghĩa” [30, tr. 3]. Trong thực tế, một số lời nhận xét gay gắt lúc đó

cũng đã ảnh hưởng tiêu cực đến việc nhìn nhận về con người và tác phẩm của Trương

Tửu; theo đó, việc nghiên cứu Trương Tửu có phần lắng lại trong một thời gian dài.

Như vậy có một thời gian con người và sự nghiệp văn chương của Trương

Tửu phải chịu những đánh giá khá cực đoan. Tuy nhiên có thể khẳng định Trương

Tửu đã có một tấm lòng yêu nước và mang trong mình một tinh thần dân tộc lớn

lao, ông đã thể hiện tình yêu văn chương nghệ thuật theo cách riêng nhằm phát huy

tư duy khoa học trong nghiên cứu, ứng dụng vào lĩnh vực văn hóa, văn học.

Trên quan điểm riêng đó, mặc dù ở miền Bắc gặp phải những cơn sóng dữ

dội là những ý kiến trái chiều, còn ở miền Nam phải kể đến lời nhận xét của Lê Văn

11

Siêu vào năm 1974 về con người và cung cách làm việc của Trương Tửu trong cuốn

Về nhóm Hàn Thuyên và Nguyễn Đức Quỳnh: “Trương Tửu đáo để, thông minh,

phản ứng nhanh, học rộng, nhiều sáng kiến và rất nguyên tắc, làm giám đốc văn

chương thì như linh hồn nhà xuất bản, đã nghĩ ngày nghĩ đêm, thảo hoạch chương

trình xuất bản, phân phối việc viết sách báo cho anh em, bàn bạc hằng ngày với anh em

để hướng dẫn lập luận của sách cho không chệch ra ngoài định hướng chung” [126,

tr. 73]. Qua đó cho thấy, Trương Tửu dù ở cương vị nào, làm công việc gì cũng

luôn nghiêm túc và tự yêu cầu bản thân tuân thủ những nguyên tắc nhất định.

Ở miền Nam, văn nghiệp của Trương Tửu với bút danh Nguyễn Bách Khoa vẫn

tiếp tục được nghiên cứu. Nguyễn Văn Trung trong tập III của bộ Lược khảo văn học

xuất bản năm 1968 đưa ra ý kiến nhận xét về văn phê bình của Trương Tửu: “Thời tiền

chiến, Nguyễn Bách Khoa (Trương Tửu) là người đầu tiên và độc nhất đã đưa ra một

quan niệm phê bình rõ rệt và áp dụng nó một cách có hệ thống, với một lối văn lôi cuốn.

Chưa xét quan niệm phê bình mácxít đúng hay không đúng. Chỉ xét ở phương diện

chủ thuyết và viết thành hệ thống thì phải ghi nhận Nguyễn Bách Khoa thành công

hơn tất cả những nhà phê bình trước ông và hiện nay cũng khó tìm ra một Nguyễn

Bách khoa khác” [170, tr. 192]. Nguyễn Văn Trung đồng tình với những khẳng

định, đánh giá cao của Thanh Lãng đối với phê bình của Trương Tửu “Mấy cuốn phê

bình của Nguyễn Bách Khoa, nhất là từ sau 47 trở đi, đã hầu như biến thành sách gối

đầu giường cho thế hệ trẻ. Ở nhà trường, từ giáo sư đến học sinh đều phê bình theo

Nguyễn Bách Khoa” [170, tr. 192]. Trong cuốn Phê bình văn học thế hệ 1932 (tập 2)

xuất bản năm 1974, Thanh Lãng đưa ra nhận xét: “Cùng với các nhà văn trong Nhóm

Tân văn hóa, Nguyễn Bách Khoa đã khai mở hẳn một kỷ nguyên mới trong lịch sử

văn học Việt Nam: phê bình dựa vào biện chứng phép duy vật” [70, tr. 395].

Sang thời kỳ đổi mới của đất nước, đặc biệt là từ những năm đầu thế kỷ

XXI đến nay, trong điều kiện mới của đất nước và của văn học, sự nghiệp của

Trương Tửu được quan tâm trở lại, nhiều nhà nghiên cứu đã dày công sưu tầm, tập

hợp tư liệu về nhà văn; tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu tác phẩm của

ông. Năm 1996, tiểu sử và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Bách Khoa (Trương

Tửu) được giới thiệu trong cuốn Nhà văn phê bình của Mộng Bình Sơn và Đào

12

Đức Chương [125, tr. 218]. Từ năm 2002 đến nay, với sự nỗ lực của các nhà

nghiên cứu, nhiều bộ sưu tầm, tuyển tập tác phẩm của Trương Tửu đã được xuất

bản và việc nghiên cứu sự nghiệp của Trương Tửu không chỉ được xem xét lại mà

còn được mở rộng và đi sâu hơn về nhiều phương diện.

Năm 2002 Nguyễn Văn Luận đã đưa ra sự nhận diện và đánh giá về phương

pháp nghiên cứu của Trương Tửu trong khóa luận tốt nghiệp với đề tài: Bàn về cuốn

“Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du” của Trương Tửu. Tác giả chỉ ra “Đề tài này

tất nhiên không phải là mới nhưng nghiên cứu phương pháp và hệ thống của một

nhà nghiên cứu Truyện Kiều như là Trương Tửu thì dường như chưa có ai đặt vấn

đề một cách đầy đủ và toàn vẹn” [81, tr. 1].

Tác giả nhấn mạnh vào số lượng trang của tác phẩm 214 trang và đưa ra

nhận định: “Có thể nói học thuyết Mac – Lênin đã được Trương Tửu ứng dụng về

căn bản là toàn diện và khá bao quát. Ông đã thiết lập được một hệ thống phương

pháp luận vững chắc cho việc phê bình Truyện Kiều của mình” [81, tr. 51].

Đứng trên lập trường riêng bản thân tôi cũng có chung suy nghĩ trên. Hơn thế

sự tương đồng còn được chỉ ra khi thấy “Trương Tửu đặc biệt quan tâm tới các

tương quan xã hội, tới học thuyết đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp là hạt nhân

quan trọng thúc đẩy phát triển trong xã hội phân chia thành giai cấp” [81, tr. 52].

Tuy nhiên với phương pháp phê bình của mình, Trương Tửu cũng không tránh khỏi

những hạn chế như “Việc hiện đại hóa tác phẩm, nhiều khi ông nhồi nhét, gán ghép

nhân vật và tác giả vào những khuôn đã được định sẵn” [81, tr. 52].

Tác giả đề tài đặt ra góc nhìn Trương Tửu và những vấn đề phản ánh hiện

thực lịch sử của Truyện Kiều. Các nhân vật Truyện Kiều dưới cái nhìn giai cấp của

Trương Tửu. Mối quan hệ giữa nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều với anh hùng

Nguyễn Huệ ngoài đời. Bên cạnh đó, với góc nhìn Trương Tửu và vấn đề chủ nghĩa

nhân đạo trong Truyện Kiều đã được tác giả đề tài đi đến kết luận “Trương Tửu đã

xa đà vào dung tục, hiện đại hóa nhân vật, tác phẩm và tác giả”; “Gò ép theo quan

điểm đấu tranh giai cấp, TrươngTửu đã tìm một số biểu hiện có tính chất chống lễ

giáo phong kiến của nhân vật và tác giả coi đó là bản chất được ý thức. Trương Tửu

đánh giá cao một chiều tính chất chống phong kiến của tác phẩm” [81, tr. 60].

13

Những kết luận khá rõ ràng mang tính đóng góp vào việc nhận diện vị trí của

nhà phê bình Trương Tửu. “Trương Tửu quan niệm khá đơn giản về mối quan hệ

hiện thực – nhà văn – tác phẩm văn học. Theo ông nhà văn sống ở thời đại nào thì

chịu ảnh hưởng của thời đại ấy về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Điều

đó không có gì sai. Vấn đề là ở chỗ ông không quan tâm đúng mức đến việc tác

phẩm văn học là một sản phẩm sáng tạo của nhà văn, trong đó hiện thực xã hội thời

đại đã được nhình nhận, tái tạo qua con mắt chủ quan của nhà văn” [81, tr. 88]

Tác giả không ngần ngại đưa ra kết luận “Hệ thống nghiên cứu phê bình Mác

xit đã được Trương Tửu sử dụng một cách áp đặt chủ quan không có sự linh hoạt

đối với từng đối tượng nghiên cứu, vi phạm tính lịch sử cụ thể” [81, tr. 89], không

chỉ đánh giá về Trương Tửu mà tác giả đề tài cũng cho rằng “nhiều người khác”

cũng gặp phải “ Những cực đoan khi nghiên cứu văn học”, trong những năm 1954 –

1960. Hạn chế tiếp theo của Trương Tửu “Ông chỉ quan tâm đến nội dung tư tưởng

Truyện Kiều trên cái trục Truyện Kiều – thời đại Nguyễn Du và không hề chú tâm

tới nghệ thuật của tác phẩm”. Ở phần kết luận Trương Tửu có đề cập tới nghệ thuật

nhưng “Chỉ là những dòng sơ lược, không hề đề cập phân tích một thủ pháp nghệ

thuật, một câu thơ cụ thể” [81, tr. 89], nhưng đây cũng không phải hạn chế của

riêng Trương Tửu trong thời gian này ở Việt Nam.

Có cùng lập trường với tác giả đề tài khi xuyên suốt tác phẩm, Trương Tửu

đưa ra lời khẳng định hoàn toàn xác đáng “Là người tiên phong thí nghiệm một hệ

thống, một phương pháp luận mới, ông đã có một số thành tựu và cũng không tránh

khỏi những cực đoan, sai lầm. Một số đóng góp của ông đặc biệt là lịch sử xã hội,

kinh tế chính trị để giải thích tác phẩm văn học là một đóng góp không thể phủ

nhận” [81, tr. 92].

Năm 2004, nhà nghiên cứu Trịnh Bá Đĩnh với bài viết Các hình thái tư duy

phê bình đầu thế kỷ XX (đăng trên tạp chí Hồn Việt, số 2) đã chỉ ra những thành tựu

cũng như hạn chế trong phương pháp phê bình của Trương Tửu qua các tác phẩm:

“Nguyễn Du và Truyện Kiều”, “Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ”, “Văn

chương Truyện Kiều”. Theo Trịnh Bá Đĩnh: “ở đây không phải chỗ để đánh giá các

kết quả nghiên cứu của Nguyễn Bách Khoa, ở đây ta đề cập đến các hình thức tư

14

duy trong các văn bản khoa học. Về phương diện ấy thì có thể nói rằng các tác phẩm

của Nguyễn Bách Khoa là các văn bản khoa học thực sự: xác định về khái niệm, suy

đoán theo quy luật nhận thức và hệ thống chặt chẽ” [33, tr. 201]. Ông đã khẳng định

thế mạnh của Trương Tửu trong tư duy phê bình khoa học.

Năm 2005, Mã Giang Lân trong cuốn “Những cuộc tranh luận văn học nửa

đầu thế kỷ XX” đã xem xét lại những ý kiến gay gắt của Đinh Gia Trinh đối với

Trương Tửu trước đây và tìm cách lý giải căn nguyên: “Đinh Gia Trinh phản bác

Nguyễn Bách Khoa ở chỗ tác giả Nguyễn Du và “Truyện Kiều” tuyên bố nguyên tắc

sử dụng phương pháp khách quan, phương pháp khoa học để nghiên cứu Truyện

Kiều nhưng lại vi phạm nguyên tắc ấy, có lúc cực đoan, cứng nhắc, đơn giản, thiếu

cân nhắc” [71, tr. 114]. Mã Giang Lân đã đứng trên quan điểm lịch sử - cụ thể để

xem xét vấn đề.

Năm 2007, trong lời giới thiệu cuốn “Trương Tửu - tuyển tập nghiên cứu phê

bình”, Nguyễn Hữu Sơn và Trịnh Bá Đĩnh đã chỉ ra các lĩnh vực khoa học phương

Tây như thuyết chủng tộc - địa lý của Taine, học thuyết của Marx, phân tâm học

Freud mà Trương Tửu đã tiếp thu, vận dụng khi phê bình các tác phẩm văn học

trung đại và văn học hiện đại Việt Nam và dự đoán: “Nếu sau này chúng ta có

ngành phê bình phân tâm học văn học thì các tác phẩm của Trương Tửu phải được

xem là những viên gạch đầu tiên”[119, tr. 10]. Hai nhà nghiên cứu nhận rõ điểm

khác biệt trong “nhãn quan” phê bình khoa học của Trương Tửu: “Chủ trương phê

bình này rõ ràng là đối lập với truyền thống bình văn và cảm thụ văn học hồn nhiên

đã được xác lập vững chắc cho đến lúc đó và ngày nay vẫn chiếm ưu thế trong văn

hóa phê bình của chúng ta. Đấy là một trong những lý do chủ yếu khiến tác giả của

nó bị chỉ trích từ nhiều phía và chịu rất nhiều điều tiếng” [119, tr. 8]. Trong bài viết

này, những hạn chế mà ngòi bút phê bình của Trương Tửu đã gặp phải cũng được

nhận diện rõ: “Tất nhiên cái khởi đầu bao giờ cũng rơi vào sự đơn giản, máy móc,

cực đoan; những thiếu sót, sai lầm, bất cập lắm khi lớn hơn sự đầy đủ, đúng đắn và

sự khả thủ gấp nhiều lần. Đôi khi ý nghĩa của nó chỉ là ở sự mở đường. Phê bình

của Trương Tửu cũng không ngoài thông lệ ấy” [119, tr. 10]. Xuất bản cuốn tuyển

tập, hai tác giả Nguyễn Hữu Sơn và Trịnh Bá Đĩnh không ngoài mục đích cung cấp

15

tư liệu cho những người quan tâm đến lịch sử phê bình văn học nước nhà để không

một “hiện tượng” nào bị bỏ qua, không một nhà phê bình nào bị che khuất. Với tinh

thần ấy, các tác giả khẳng định: “một trong những cây bút phê bình khoa học đầu

tiên có nhiều thành tựu (và cũng nhiều thô sơ) không thể bỏ qua trong lịch sử phê

bình văn học nước nhà, đó là Trương Tửu” [119, tr.17].

Năm 2008, Tạ Thị Hồng Nhung với đề tài khóa luận tốt nghiệp Đọc lại công

trình “Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam” của giáo sư Truơng Tửu, đã xây dựng 3

nội dung chính.

Thứ nhất, những công trình nghiên cứu của Trương tửu về văn học truyền

thống Việt Nam [98, tr. 7].

Thứ hai, giới thiệu và lược thuật công trình Mấy vấn đề văn học sử của

Trương Tửu trong mối quan hệ với các công trình về văn học sử khác cho đến thời

điểm 1958. [98, tr. 24].

Thứ ba, những đóng góp và hạn chế của công trình Mấy vấn đề văn học sử

Việt Nam [98, tr. 65].

Tựu trung lại ở bản nội dung được triển khai trong đề tài tác giả đi đến nhận

xét: “Phương pháp nghiên cứu văn học sử của Trương Tửu như những viên gạch đầu

tiên đặt nền móng cho việc nghiên cứu văn học sử theo quan điểm Mác xít” [98, tr.

76]. Tiếp theo là kết luận theo chiều hướng tích cực đối với cây bút phê bình Trương

Tửu “Đọc lại công trình “Mấy vấn đề văn học sử” chúng tôi nhận thấy nhiều điểm

mới mẻ trong phương pháp nghiên cứu văn học sử. Lần đầu tiên những quan niệm xã

hội học Mác xít được ứng dụng một cách khoa học và có hệ thống vào nghiên cứu

văn học, một lĩnh vực thuộc văn hóa tinh thần. Ngày nay, Phương pháp nghiên cứu

này được sử dụng nhiều trong các công trình nghiên cứu văn học” [98, tr. 77].

Bên cạnh đó những hạn chế của Trương Tửu cũng được tác giả chỉ ra đó là

Trương Tửu. Quá say mê với kiến thức khoa học mà quên mất đối tượng mà mình

nghiên cứu là các tác phẩm văn học thì phải bám sát các tác phẩm đó. Mặt khác, khi

lý giải các hiện tượng, biến cố văn học, phân tích những vấn đề tác giả, tác phẩm lại

không rút ra từ bản thân văn học mà lại căn cứ vào các yếu tố kinh tế, xã hội là

chính”. Rõ ràng ý định của Trương Tửu khi cầm bút sáng tác là hoàn toàn đúng đắn

16

muốn áp dụng những lỹ thuyết khoa học hiện đại vào nghiên cứu văn chương nhưng

nội tại của tác phẩm trong sự vận động của văn học không được chú trọng mà chỉ

được đề cập đến yếu tố bên ngoài trong sự biến thiên của chính trị, xã hội, kinh tế.

Nhưng qua các tác phẩm lý luận phê bình cho thấy một Trương Tửu luôn giành

nhiều tình cảm cho nền văn học nước nhà.

Năm 2008, nhân dịp kỷ niệm 95 năm sinh của Trương Tửu, một cuộc hội

thảo về nhà văn được được tổ chức tại Đại học Sư phạm Hà Nội. Trong cuộc hội

thảo này có rất nhiều bài viết về con người và sự nghiệp của Trương Tửu. Nguyễn

Thị Bình có bài Con người và sự nghiệp Trương Tửu: Những câu hỏi còn bỏ ngỏ.

Tác giả khẳng định: các công trình nghiên cứu phê bình của Trương Tửu là mảng

chính làm nên tư cách “học giả Trương Tửu”; đóng góp của Trương Tửu là: “có

công lý thuyết hóa việc nghiên cứu văn học sử ở nước ta”, “mạnh dạn ứng dụng một

số triết thuyết mới mẻ mà ông tiếp nhận từ phương Tây vào việc phê bình tác giả, tác

phẩm. Ông chủ động, tự tin đề xuất những quan niệm có tính tiên phong trong nghiên

cứu văn học sử” [10]. Theo tác giả, hạn chế của Trương Tửu khi viết phê bình văn

học là: “ông vận dụng học thuyết Freud vào phân tích văn học khá vụng về, thô thiển,

nhiều nhận định chủ quan, cực đoan” [10].

Tham gia Hội thảo, Phan Ngọc phát biểu Một vài điều ít được nhắc lại về nhà

phê bình Trương Tửu. Tác giả đề cao con đường tự học và phương pháp dạy học của

Trương Tửu. Phan Ngọc nói về cách trình bày văn học của Trương Tửu “khác cách

trình bày của phần lớn giáo sư. Nhìn chung các giáo sư không nêu ngay các kết luận

mà đưa ra những nhận xét và chứng minh sức thuyết phục và tính đứng đắn của

nhận xét”, đối với Trương Tửu “Còn anh khi dạy anh nêu lên một loạt tiên đề, rồi

sau đó áp dụng cho từng tác giả. Anh thiên về phương pháp làm việc. Học sinh có

quyền đưa ra những kết luận khác”. Vì sao Phan Ngọc lại tường tận như vậy, và ông

cũng khẳng định “Tôi biết rõ điều này vì tôi đã từng làm trợ lý” cho Trương Tửu ở

“Khoa Văn trường Đại học Tổng hợp”. Về đường lối phê bình của Trương Tửu,

Phan Ngọc nhận thấy lập luận của Trương Tửu không tránh khỏi sự cực đoan mặc

dù mục đích là hoàn toàn trong sáng [98].

17

Kiều Mai Sơn có bài Giáo sư Trương Tửu: Người đào tạo số mệnh của chính

mình. Bài viết đã khẳng định Trương Tửu là “chiến sĩ tiên phong” luôn “giữ vững

một niềm tin”. Khẳng định Trương Tửu “đã mang lấy nghiệp vào thân” dũng cảm

“một mình một thuyền chống sào, ngược nước vượt dòng chuyển sang phê bình văn

học. Để rồi khi nhắm mắt xuôi tay, ông mang theo nguyên vẹn cả khối tình đối với

chuyên ngành này xuống tuyền đài, mọi lời trong cuốn sổ bình xét công và tội của

nhân gian xin nhường cho hậu thế đời sau” [116].

Nguyễn Đình Chú có bài tham luận Đôi điều về cuốn sách Tương lai văn

nghệ Việt Nam. Theo nhà nghiên cứu, đây có thể là công trình tâm huyết nhất của

Trương Tửu, những lại là tác phẩm đã phần nào gây tai nạn nghề nghiệp đối với tác

giả của nó. Trong bài viết này, Nguyễn Đình Chú đã giới thiệu khá cụ thể, tường tận

quá trình sáng tác, tiếp nhận cuốn Tương lai văn nghệ Việt Nam và trình bày ý kiến của

mình khi đọc lại những bài của Thanh Bình viết về cuốn sách này của Trương Tửu:

“Những lời phê bình của Thanh Bình là đáp án đương nhiên đúng trong phạm vi

công luận từ cách mạng tháng Tám 1945 đến nay ở Việt Nam ta, và cho đến nay

dường như vẫn đơn giản chỉ có một đáp án ấy. Nhưng đối với thế giới và không

chừng đối với cả tương lai thì chắc không đơn giản như thế” [18]. Với độ lùi thời

gian gần nửa thế kỷ, khi đọc lại bài viết của Đặng Thai Mai (Thanh Bình),

Nguyễn Đình Chú nhận thấy ở đó “không chỉ là phê bình” mà còn có “sự biểu

dương nồng thắm” đối với Trương Tửu khi Thanh Bình khẳng khái thổ lộ: “Tôi rất

vui lòng nhận thấy trong tập sách T.L.V.N.V.N. những lời nói chan chứa nhiệt tình

đối với văn học và nghệ thuật, những cảm tình tha thiết đối với một giai tầng dân

chúng, và sự tin tưởng đối với tương lai văn hoá dân tộc. Ông Trương Tửu đã từng

sống những giờ băn khoăn, những đêm “mắt cay, cay cả đến tâm hồn (…). Ông đã

“mang nặng trong tâm hồn cái nguyện vọng tốt đẹp của một nhà văn hoá đối với tiền

đồ văn hoá. Hơn nữa, ông cũng “muốn tích cực tham gia” vào công cuộc gây dựng

nền văn hoá mới” [9; tr. 19-20]. Nguyễn Đình Chú đánh giá, với cuốn sách Tương

lai văn nghệ Việt Nam, Trương Tửu đã “để lại cho đời một mẫu mực trong văn hoá

tranh luận” [18].

18

Tiếp tục đưa ra ý kiến đóng góp vào hội thảo, Lại Nguyên Ân có bài tham

luận Cần tiếp cận nghiên cứu một cách bài bản đối với Trương Tửu như một tác gia

và như một nhân vật văn hóa lịch sử. Bài viết chỉ ra “rõ ràng ông là một tác gia; các

sản phẩm ngôn từ của ông khá nhiều và đa dạng, cho thấy ông là nhà nghiên cứu và

phê bình văn học, là tác giả của một số tác phẩm thể truyện; ta còn có thể chứng

minh Trương Tửu là một lý thuyết gia về văn hóa học, xã hội học…; mặt khác ông

là người lập ra và chủ trì những cơ quan văn hóa như thư xã Đại Đồng, nhà xuất bản

Hàn Thuyên, tạp chí Văn mới, vào những năm 1939-1940: những năm 1955-1957

ông là một trong số những tác giả chính làm nên hiện tượng Nhân văn - Giai phẩm một

sự kiện đã in một dấu vết không thể tẩy xóa trong lịch sử tư tưởng văn hóa Việt Nam

những năm 1950-1970; ở phương diện thứ hai này, Trương Tửu là một nhân vật

hoạt động văn hóa cần được sử học nghiên cứu như một nhân vật lịch sử” [4], qua

lời khẳng định và đưa ra những minh chứng về Trương Tửu cho thấy tác giả bài viết

thể hiện mong muốn các thế hệ nghiên cứu có cái nhìn tổng quát về một nhân vật có

đóng góp nhất định đối với nền văn học Việt Nam.

Tại cuộc Hội thảo về Trương Tửu, còn có nhiều bài viết và những lời phát

biểu thể hiện tình cảm đối với ông: Kỉ niệm về cha tôi - Trương Quốc Tùng; Một

người ấy đã ra đi - Phạm Xuân Nguyên; Kỉ niệm về thầy Trương Tửu - Nguyễn Văn

Hoàn; Kỷ niệm về thầy Trương Tửu - Hà Minh Đức; Với thầy Trương Tửu - Ninh

Viết Giao,… Nội dung các bài viết thể hiện tình cảm sâu đậm về hình ảnh về một con

người yêu văn chương, yêu khoa học giàu nghị lực khiến nhiều người phải nể phục.

Tiếp theo, năm 2009, Trần Thị Hoa có đề tài luận văn thạc sỹ Đóng góp của

Trương Tửu trong lĩnh vực nghiên cứu - phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ

XX. Tác giả của đề tài nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu, đánh giá sáng tác lý luận phê

bình của Trương Tửu, khẳng định tài năng và đóng góp của ông đối với lĩnh vực

văn chương nửa đầu thế kỷ XX. Về đóng góp của Trương Tửu trong lĩnh vực

nghiên cứu phê bình văn học, tác giả có những lời khẳng định và đánh giá cao: “phê

bình khoa học của Trương Tửu là một bước tiến về tư duy của nền phê bình văn học

Việt Nam ở thời điểm đó”; “Trương Tửu là cây bút có khả năng cảm thụ văn học

19

tinh tế và sâu sắc, có quan điểm và phương pháp phê bình riêng”; “Sự nghiệp phê

bình văn học của Trương Tửu đã để lại cho thế hệ độc giả đời sau những bài học

quý”; “Với lối phê bình này, người đọc có thể tiếp nhận ở đấy một lối trình bày

logic, rõ ràng, mạch lạc, gợi cho người đọc sự độc lập trong tư duy và trong cách

tiếp cận các văn phẩm. Đồng thời, cũng qua đó, người đọc cũng rút ra cho mình

những bài học bổ ích từ những cái còn thiếu sót của Trương Tửu” [50, tr. 29]. Tác

giả Trần Thị Hoa đi đến kết luận: “Trương Tửu là một trong những nhà phê bình

tiên phong của thế kỷ XX”; “ông là một trong những nhân vật tiên phong trên con

đường đưa phê bình văn học trở thành một khoa học văn học” [50, tr. 29].

Trong tháng 11 năm 2013, đã diễn ra lễ kỷ niệm 100 năm sinh nhà văn

Trương Tửu tại Hội Nhà văn Việt Nam. Buổi lễ kỷ niệm diễn ra ấm cúng và có

nhiều bài phát biểu về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Trương Tửu. Trong bài

phát biểu của nhà nghiên cứu Phong Lê, ông đã nhắc lại một số ý kiến đánh giá về

Trương Tửu trước đó như Vũ Ngọc Phan, Đào Duy Anh, Nguyễn Mạnh Tường,

Đinh Gia Trinh, Thanh Bình… Tác giả bài viết đi vào phân tích một số công trình

của Trương Tửu và đi đến nhận định “không có may mắn được học với giáo sư

Trương Tửu”; “Thiếu đi những kỷ niệm sống động về người, thế nhưng ấn tượng về

những gì đã được đọc là rất sâu. Đọc những gì ông viết và những gì người khác viết

về ông. Rồi nhớ mãi. Bởi cách viết và phương pháp viết của ông, gồm cách nghĩ,

cách lập luận, cách kết luận trong từng công trình; và cách điều chỉnh, bổ sung hoặc

tước bỏ trong cả một hệ thống công trình, để cuối cùng vẫn là trung thành, là nhất

quán với bản thân”[79]. Không chỉ có vậy, nhà nghiên cứu còn tỏ ra nuối tiếc về sự

nghiệp cầm bút của Trương Tửu “Tiếc là với sức nghĩ ấy, ông dừng lại hơi sớm và

ngừng là ngừng hẳn”, để rồi kết luận không chỉ đối với riêng Trương Tửu mà với

bất cứ ai chọn văn làm nghiệp “Nhưng đối với một người viết, đời nghề nghiệp

ngắn hay dài không phải là điều quan trọng nhất”, Phong Lê khẳng định rất rõ ràng:

“Với người đọc là chúng ta, và hậu thế, Giáo sư Trương Tửu vẫn đủ để lại một

gương mặt trí thức rất ấn tượng trong hành trình của những tìm kiếm không ngừng

nghỉ, và thực sự là không dễ dàng trong thế kỷ XX” [79].

20

Trong bài phát biểu Thầy Trương Tửu của chúng tôi: một trí thức sáng danh

của đất nước của Nguyễn Đình Chú đã chỉ ra những lý do mang đầy ý nghĩa trân

trọng của một người để có buổi lễ kỷ niệm đang được tổ chức: “Kỷ niệm một tuổi

trẻ khát khao sôi động dân chủ, ghét bất công và hô hào bãi khóa”; “Kỷ niệm một

thanh niên con nhà nghèo nhưng giàu trí lực và quyết tâm, bằng con đường tự học là

chính, vươn lên chiếm lĩnh kho tàng văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại”; “Kỷ

niệm một nhà văn mang tên Trương Tửu, Nguyễn Bách Khoa, ròng rã 28 năm trời,

tính từ năm 1931, dọc ngang bút mặc trên văn đàn Việt Nam, để lại một văn nghiệp

không dễ có nhiều”; “Kỷ niệm một nhà văn Trương Tửu sau ngày Cách mạng tháng

Tám năm 1945 thành công đã có nhiều năm tháng kết duyên thắm thiết với cách

mạng, với kháng chiến chống thực dân Pháp tái xâm lược”; “Kỷ niệm một vị giáo

sư sáng danh trong giảng đường đại học dưới chế độ Việt Nam dân chủ cộng hòa”.

Bản thân là một học trò của Trương Tửu, Nguyễn Đình Chú không chỉ bày tỏ quan

điểm trong bài phát biểu mà còn rất xúc động khi nói về người thầy của mình.

Nguyễn Văn Hoàn với bài phát biểu Thử nhận định về quan điểm và

phương pháp nghiên cứu Truyện Kiều của Trương Tửu. Trong bài này, tác giả đưa

ra quan điểm và phương pháp nghiên cứu của Trương Tửu trong một diễn tiến thời

gian trước và sau Cách mạng tháng Tám về Truyện Kiều, đồng thời cũng tập hợp

một số ý kiến xoay quanh vấn đề Truyện Kiều của Trương Tửu.

Nguyễn Hữu Sơn phát biểu ngắn gọn, súc tích về Nhà văn Trương Tửu và

những trang khảo cứu văn hóa trước 1945, bài viết này đã được tác giả đăng trên

Tạp chí Kiến thức ngày nay, số 837 ra ngày 10/11/2013. Nội dung bài viết, tác giả

trình bày về quan điểm khảo cứu văn hóa của Trương Tửu trong một số công trình,

đồng thời nhà nghiên cứu nói rằng: “Trên phương diện tư tưởng chính trị, về cơ bản

Trương Tửu thuộc về thế hệ phái Mác-xít, vừa khẳng định cổ vũ nhiệt tình cho phái

Kinh tế quyết định, vừa trực tiếp lên tiếng tuyên truyền, đấu tranh cho các quan

điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và sự thắng thế của thuyết Kinh tế quyết

định” [122, tr. 21]. Chưa vội đi đến kết luận, Nguyễn Hữu Sơn tiếp tục chứng minh

“Vào giai đoạn gần Cách mạng tháng Tám, Trương Tửu còn có một số tiểu luận

quan trọng trực diện khảo sát, bàn luận, phỏng vấn, nhận diện, tổng kết và đề xuất

21

các phương hướng xây dựng liên quan đến văn hóa - văn nghệ Việt Nam đương

thời trên các báo Quốc gia, Văn mới”. Cuối cùng nhà nghiên cứu đi đến nhận định

“Độc giả ngày nay đọc các công trình nghiên cứu, phê bình văn hóa của Trương

Tửu trước Cách Mạng tháng Tám cần đặt tác phẩm của ông trong bối cảnh đương

thời mới có thể nhận thức rõ hơn dấu ấn một phong cách riêng cũng như những

đóng góp nhiều mặt cho đời sống văn hóa - văn học nước nhà” [122, tr. 21]. Tham

dự lễ kỷ niệm có bài Trương Tửu và Kinh thi Việt Nam của Phan Mạnh Hùng, bài

viết đã được đăng trên Tạp chí Kiến thức ngày nay, số 835, ra ngày 20/10/2013.

Tác giả bài viết giới thiệu đôi nét về tiểu sử Trương Tửu, đã khẳng định “Trương

Tửu được biết đến như một trong những người viết phê bình theo tinh thần mác xít

đầu tiên ở Việt Nam” [56, tr. 24], trên tinh thần đồng nhất quan điểm với nhiều

nhà nghiên cứu đang nhìn nhận và đánh giá Trương Tửu ở nhiều khía cạnh tích

cực, tiếp tục khẳng định “Trương Tửu là nhà trí thức có tầm hiểu biết sâu rộng,

đặc biệt là các lý thuyết mác xít, hăm hở vận dụng lý thuyết ấy vào nghiên cứu

văn học, sử học”; “Và quan trọng, qua hoạt động văn hóa, ông đã cho thấy một

tinh thần trung thực và dấn thân của người trí thức Việt Nam hiện đại trong việc

khởi động tiến trình dân chủ hóa xã hội” [56, tr. 25], tác giả còn chỉ ra vị trí quan

trọng của Trương Tửu trong nhóm Hàn Thuyên “Trương Tửu chính là linh hồn kết

nối các thành viên của nhóm Hàn Thuyên” [56, tr. 26], tác giả tiếp tục đi vào phân

tích những vấn đề trong Kinh thi Việt Nam của Trương Tửu và chỉ ra điểm mấu

chốt của công trình “Trương Tửu đã đề xuất và thảo luận hai vấn đề lớn mang tính

khoa học và thực tiễn: mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị; văn nghệ là sản

phẩm của xã hội phản ánh cá tính riêng của tác giả và tâm lý dân tộc” [56, tr. 99].

Nhà văn Trương Tửu trải qua nhiều thăng trầm trong cuộc đời và sự nghiệp

sáng tác, nhưng đến thế hệ hôm nay đã tôn vinh ông. Ông xứng đáng được yêu mến,

được nhìn nhận một cách khách quan, được đánh giá đúng đắn với những gì ông đã

có, đã làm. Các lễ Kỷ niệm, Hội thảo được tổ chức rầm rộ nhằm khẳng định về một

nhân cách, một con người với những đóng góp cho cuộc đời, cho xã hội dù ở bất cứ

vị trí nào.

Tháng 12 năm 2013, Hội thảo “Những thí nghiệm của ngòi bút tôi” Kỷ niệm

100 năm sinh nhà văn - Nhà nghiên cứu văn học Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa

22

(1913 - 1999) đã được tổ chức tại Thư viện Hà Nội. Hội thảo thu hút nhiều sự tham

gia của các nhà khoa học đã và đang làm công tác nghiên cứu, thu hút nhiều sự

quan tâm của báo giới truyền thông...

Phát biểu khai mạc Hội thảo, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên có

bài Trương Tửu là bách khoa. Dẫn dắt vào vấn đề tác giả bài viết xác định: “Tôi

không được gặp ông sinh thời. Ngày ông mất tôi đã viết một bài tưởng vọng đặt

tên là “Một người ấy” mà hôm nay tôi xin phép được nhắc lại để mở màn cho

cuộc hội thảo” [102]. Nhà phê bình nói rằng “Trương Tửu đã thí nghiệm ngòi bút

của mình”; “Trương Tửu đã thí nghiệm cả đời mình cho điều ông tin là đúng, là

phải, là có ích cho học thuật và đời sống” [102]. Vừa ở vai trò nhà phê bình nhìn

nhận, đánh giá đồng thời giữ cương vị điều hành buổi hội thảo, tác giả bài viết

mong muốn “một hội thảo như thế này về ông (Trương Tửu) là cần thiết cho nền

văn chương và học thuật nước nhà trong quá trình kiểm kê và tổng kết cái vốn văn

hóa tinh thần có được từ thế kỷ XX”; “Hội thảo sẽ góp tiếng nói để lịch sử chứng

minh Trương Tửu suốt đời là vì chân lý và lẽ phải” [102].

Trần Đình Sử với tham luận Nghĩ về phương pháp phê bình văn học của nhà

văn Trương Tửu đã khẳng định về Trương Tửu ngay ở phần mở đầu: Qua “Tuyển

tập nghiên cứu phê bình cùng Tuyển tập nghiên cứu văn hóa dày dặn của nhà

nghiên cứu văn học Trương Tửu, tuy chưa phản ánh đầy đủ hết trước tác của ông,

vẫn đem lại cho người ta một gương mặt phê bình sắc sảo, một nhà nghiên cứu văn

học có tài mà sự đánh giá không hề đơn giản” [131]. Ông không ngần ngại bộc bạch

“Trước hết, tôi nghĩ đến Trương Tửu như một nhà phê bình văn học có chủ trương,

hoài bão” tác giả đưa ra những minh chứng cụ thể cho nhận định của mình, đồng

thời cũng chỉ ra hạn chế của Trương Tửu “Điều đáng tiếc là khi vận dụng phương

pháp xã hội học thì ông chỉ khám phá nội dung xã hội, mà không khám phá văn

chương”, đi đến luận điểm cuối cùng khi nhận định Trương Tửu là nhà phê bình

Trần Đình Sử đưa ra tiểu kết nhỏ trong bài viết: “Theo tôi nghĩ, ta nên xem Trương

Tửu là nhà phê bình táo bạo, xông xáo vận dụng các phương pháp mới, người có

nhiều công khai phá, đề ra những giả thiết khác thường” [131]. Bài tham luận còn

chỉ ra “Trương tửu là nhà hoạt động văn hóa, nhà chính luận nồng nhiệt, có nhãn

23

quan rộng và giàu tính chiến đấu”, không chỉ có vậy Trần Đình Sử khẳng định:

“Trương Tửu là nhà nghiên cứu có cá tính mạnh mẽ, ông luôn có ý thức nêu vấn đề

mới, đặt lại vấn đề một cách độc lập, táo bạo, cho nên các tác phẩm của ông luôn

luôn có tính thách thức, đối thoại và tranh luận với người cùng thời để nêu kiến giải

riêng của mình”; kết thúc vấn đề nhà nghiên cứu nhấn mạnh “chúng tôi không thể

không biểu hiện niềm cảm phục ông như một nhà nghiên cứu có nhân cách cao

thượng”, đồng thời bày tỏ sự xúc động cùng với quan điểm riêng “tưởng nhớ đến

ông chúng tôi tưởng nhớ đến một nhà phê bình có hoài bão, có tư chất, nhân cách,

tuy không nhiều may mắn trong khoa học, nhưng luôn luôn táo bạo trong việc vận

dụng phương pháp mới và đặt ra những vấn đề mới cho nghiên cứu văn học” [131].

Nguyễn Hữu Sơn tham gia hội thảo với bài tham luận Nhà văn Trương Tửu

với nền văn nghệ cách mạng. Nội dung bài tham luận chia vấn đề tham luận thành

hai giai đoạn đó là Trương Tửu với nền văn nghệ trước Cách mạng tháng Tám

1945; Trương Tửu với nền văn nghệ sau Cách mạng tháng Tám 1945. Và dù ở thời

điểm lịch sử nào Trương Tửu vẫn không hề thay đổi, cuối cùng tác giả đưa đến ý

kiến “Độc giả ngày nay đọc các công trình nghiên cứu, phê bình văn hóa của

Trương Tửu cần đặt cá tính và tác phẩm của ông trong bối cảnh đương thời mới có

thể nhận thức rõ hơn dấu ấn một phong cách riêng cũng như những đóng góp nhiều

mặt với đời sống văn hóa - văn học nước nhà” [123].

Tham dự hội thảo, Lại Nguyên Ân với mong muốn tác phẩm của Trương

Tửu ngày càng đến gần hơn với đọc giả, ông có bài “Trương Tửu viết về tập thơ

Điêu tàn của Chế Lan Viên” [6] và công bố hai bài viết của Trương Tửu đăng trên

báo Ích hữu năm 1938 mới sưu tầm được (“Một thi sĩ của Điêu Tàn” và “Quan

niệm về thơ của Chế Lan Viên”). Qua bài viết của Lại Nguyên Ân, người nghiên

cứu về Trương Tửu có thêm tư liệu mới: “Khi Lê Văn Trương nắm tòa soạn thì

Trương Tửu cũng trở thành cây viết thường xuyên cho tờ này. Ông vừa đăng đều kỳ

ở đây truyện dài “Khi người ta đói” vừa giữ mục phê bình văn nghệ dưới một tiêu

đề chung: “Phải xây dựng tư tưởng và văn chương Việt Nam trên những nền tảng

mới”; “nhà văn chủ bút vào phần bình luận văn nghệ của tờ báo, hướng độc giả tới

24

ý tưởng về việc khai mở một thứ sẽ được chính Trương Tửu gọi là “văn chương

tranh đấu” [6]. Theo tài liệu của Lại Nguyên Ân, người ta còn được tiếp cận với

quan niệm văn chương của Trương Tửu đã đăng tải trên tuần báo Ích hữu:

“Từ năm 1932 đến bây giờ, chúng ta thường được nghe những tiếng “văn

học phục hưng”, “văn nghệ phồn thịnh” dùng để mệnh danh cái đà phát triển của

văn chương hiện đại. Những danh từ ấy, một vài người nông nổi ném ra, rồi một vài

người nông nổi a dua nhắc lại, om sòm trên báo chí. Sự ồn ào trống rỗng này đã làm

nhiều người cạn nghĩ tin rằng văn chương Việt Nam hiện thời là mẫu mực tuyệt mỹ

tuyệt hảo rồi. Người ta nhắm mắt vỗ tay hoan nghênh những văn phẩm chỉ có độc

một đặc điểm là làm điếm nhục nghệ thuật và bại hoại đạo lý. Người ta ca tụng một

cách mù quáng những văn sĩ thi sĩ mà đáng lẽ người ta phải cảnh cáo để họ đi vào

con đường thuận tiến bộ.

Phải phá đổ sự tin nhầm ấy. Phải đem các tác phẩm được hoan nghênh sàng

lại theo phương pháp phê bình khách quan và quan niệm tranh đấu về văn chương.

Phải soát lại ngôi thứ các nhà văn. Phải chỉnh đốn dư luận.

Chúng tôi, vì tương lai của văn chương Việt Nam, tình nguyện lĩnh cái

nhiệm vụ gai góc ấy…” [6].

Một bài tham luận khác của Nguyễn Thành tham gia hội thảo với tiêu đề Đặc

điểm phê bình văn học của Trương Tửu đã chỉ ra những lý do lý giải hiện tượng khi

Trương Tửu sử dụng lý thuyết xã hội học mác xít đưa vào các công trình phê bình

nghiên cứu của mình nhưng lại bị các nhà phê bình mác xít phê bình chỉ trích, theo

tác giả có ba lý do cơ bản đó là “Thứ nhất, tiếp nhận một lý thuyết mới mẻ, mà

trước đó chưa có một thành tựu ứng dụng, cụ thể như phê bình xã hội học mác xít

và vận dụng nó vào thời điểm mà cuộc đấu tranh ý thức hệ đang diễn ra gay gắt,

chắc chắn, bất cứ nhà phê bình nào cũng khó tránh khỏi chủ quan, phiến diện; Thứ

hai, trước Cách mạng tháng Tám có thể Trương Tửu tiếp nhận tư duy về chủ nghĩa

Marx theo tinh thần của giới học giả phương Tây, chứ không phải là chủ nghĩa

Marx như sau này phổ biến ở các nước xã hội chủ nghĩa; Thứ ba, trong thời kỳ kháng

chiến chống Pháp, Trương Tửu đã tìm đến với chủ nghĩa Marx gắn với thực tiễn công

nông hơn…” [158]. Những lý do nêu trên là nguyên nhân đưa đến các công trình phê

25

bình của Trương Tửu vừa khả năng phát hiện cái mới nhưng đồng thời cũng bộc lộ

những hạn chế nhất định về mặt tư duy suy diễn chủ quan. Cụ thể trong công trình

nghiên cứu Nguyễn Du và Truyện Kiều, trong Truyện Kiều và Thời đại Nguyễn Du,

trong Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ, trong Văn nghệ bình dân Việt Nam. Mỗi

công trình sau khi được phân tích, diễn giải, tác giả đều có lời kết luận.

Tham gia hội thảo còn có những tham luận khác của Lê Hoài Nguyên với

Trương Tửu trong những năm 1955 - 1958, của Lê Gia Linh với bài phát biểu xúc

động Nhớ lại “Lớp vỡ lòng văn học” với thầy Trương Tửu, Kiều Mai Sơn với bài

Nhà xuất bản Hàn Thuyên - Một hiện tượng độc đáo, của Nguyễn Cảnh Tuấn với

Lần đầu gặp gỡ Giáo sư Nhà văn Trương Tửu. Mỗi nội dung bài viết có hướng tiếp

cận ở những góc độ, khía cạnh khác nhau, tựu chung lại hội thảo đã diễn ra theo

đúng mong muốn của chủ tọa hội thảo như đã nêu ở trên.

Trước nhiều ý kiến đánh giá, nhận xét, chúng tôi đi đến nhận định Trương

Tửu luôn là Trương Tửu với một cá tính riêng. Ông là cây bút phê bình có phương

pháp độc đáo, có phong cách đặc trưng của nhà nghiên cứu khoa học, Sức hấp dẫn

của ngoài bút phê bình này được bắt nguồn bằng sự tìm tòi giá trị trong các sáng tác

Triết lý Truyện Kiều (1931), Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng

Nguyễn Công Trứ (1943), Văn chương Truyện Kiều (1944), Văn nghệ bình dân Việt

Nam (1951)… để mang lại đóng góp đấy trân trọng được khẳng định “Một trong

những cây bút phê bình khoa học đầu tiên có nhiều thành tựu” [119, tr. 17].

Sự nghiệp phê bình của Trương Tửu, là một phần khá quan trọng trong lịch

sử phê bình văn học Việt Nam. Từ đó thấy được ở ông quan niệm về văn chương

cho đến phương pháp, phong cách phê bình. Qúa trình tham gia vào hoạt động phê

bình văn học của Trương Tửu gồm trước Cách mạng tháng Tám và sau Cách mạng

tháng Tám. Ở mỗi giai đoạn này, tư duy của nhà lý luận phê bình có sự thay đổi

trong việc lựu chọn phương pháp sáng tác. Sau cách mạng, Trương Tửu luôn giữ

thái độ đề cao tinh thần khách quan và khoa học trong sáng tạo, chú trọng việc nhà

lý luận tự ý thức về lịch sử tiến trình lịch sử văn học dân tộc để thể hiện nét riêng

của ngòi bút trước những sản phẩm có chất lượng.

26

Như vậy, sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, quá trình nghiên cứu về nhà

văn Trương Tửu không diễn tiến một chiều theo một đường thẳng thuận chiều, nhìn

chung kết quả nghiên cứu ngày càng sâu rộng, toàn diện, khách quan, khoa học.

Nếu như giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám, những bài viết về Trương Tửu chủ

yếu tập trung vào lĩnh vực phê bình văn học của ông thì sang giai đoạn sau Cách

mạng tháng Tám, nhất là khoảng thời gian từ thập niên đầu thế kỷ XXI trở lại đây,

giới nghiên cứu văn học quan tâm “giải mã” nhiều vấn đề liên quan đến cuộc đời và

sáng tác của ông. Theo hành trình nghiên cứu, có những tư liệu quý hiếm về Trương

Tửu được sưu tầm, tập hợp; có nhận định chưa thấu đáo dần được điều chỉnh; có

những đánh giá chưa toàn diện được bổ sung. Đến nay, vị trí và đóng góp (và cả

phần hạn chế) của nhà văn Trương Tửu trong nghiên cứu - phê bình văn học đã

được xác định.

1.2. Tiếp nhận văn xuôi của Trương Tửu

Văn học Việt Nam hiện đại giai đoạn 1930 – 1945 đã nở rộ nhiều thể loại

tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, ca, kịch, lý luận phê bình chiếm vị trí quan trọng trong

lịch sử văn học nước nhà. Trương Tửu là một trong số nhà văn xuất hiện ở giai đoạn

này. Mặc dù phần nghiên cứu về mảng sáng tác văn xuôi của nhà văn tuy còn mỏng

nhưng cũng đã có được kết quả bước đầu. Điều này cho thấy sẽ giúp chúng ta có sự

đánh giá chuẩn xác hơn về nhà văn TrươngTửu, đồng thời góp phần khẳng định vị

trí của nhà văn trong giai đoạn nở rộ trào lưu văn học hiện thực.

Khảo sát những đánh giá nhận xét mang tính hệ thống về nhà văn Trương

Tửu qua thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn là hai thể loại tiêu biểu cho sự nghiệp

sáng tác văn xuôi của ông sẽ làm sáng tỏ vị trí nhà văn trong tiến trình văn học Việt

Nam đầu thế kỷ XX.

1.2.1. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945

Tự xác định vị trí trong hàng ngũ những “nhà văn tranh đấu”, với 13 tác

phẩm văn xuôi bao gồm cả truyện ngắn và tiểu thuyết xuất hiện trên văn đàn trong

khoảng thời gian 1937 - 1942, Trương Tửu đã đóng góp vào sự phát triển của trào

lưu văn học hiện thực phê phán Việt Nam.

27

Bàn về sáng tác văn xuôi của Trương Tửu, trước hết là những ý kiến nhận

xét, đánh giá của những người đương thời.

Trong Báo Mai, Sài Gòn, ra ngày 27/10/1938, nhà phê bình Kiều Thanh Quế

có bài viết bàn về quan niệm tình dục trong văn chương Việt Nam. Theo tác giả, ba

cuốn tiểu thuyết Thanh niên S.O.S của Trương Tửu, Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng,

Người đàn bà trần truồng của Nguyễn Vỹ đều thuộc dòng văn chương “phóng túng

tình dục”. Đầu thế kỉ XX, trong đời sống xã hội Việt Nam, quá trình “Âu hóa” đã

làm thay đổi quan niệm thẩm mĩ, đạo đức, lối sống so với giai đoạn trước. Trong

đời sống văn chương, nội dung của phong trào “Âu hóa” và những quan niệm mới

mà “cơn gió lạ” phương Tây thổi tới cũng được người cầm bút đề cập tới; trong đó

có vấn đề tính dục và tình dục. Từ góc nhìn hiện thực của ba cây bút Vũ Trọng

Phụng, Trương Tửu, Nguyễn Vỹ, Kiều Thanh Quế đã khái quát vấn đề: “Văn

chương Việt Nam tiến bộ. Nhà văn không còn sợ luân lý Khổng - Mạnh nữa”; “họ

mạnh dạn mang quan niệm tình dục vào văn chương” [114, tr. 9]. Kiều Thanh Quế

tìm hiểu và diễn giải thuyết Phân tâm học của S. Freud bằng tri thức nghiên cứu khoa

học và đưa ra ý kiến khẳng định ý nghĩa xã hội tích cực của cuốn Thanh niên S.O.S:

“Viết Thanh niên S.O.S, ngoài việc lấy tình dục cắt nghĩa ái tình, Trương Tửu còn

dùng nó “nghiên cứu lịch sử trụy lạc của một tâm hồn (trong truyện là nhân vật Liêu),

vạch một con đường đi tới sự giải quyết vấn đề thanh niên, bày ra một thực trạng xã

hội, toát ra một khẩu hiệu tranh đấu” (Rút trong bài tựa Thanh niên S.O.S - KTQ chú)

[114, tr. 9]. Năm 1942, Kiều Thanh Quế (với bút hiệu Mộc Khuê) tiếp tục khẳng định

khuynh hướng “xã hội tiểu thuyết” của ngòi bút Trương Tửu qua các tác phẩm:

Thanh niên S.O.S, Trái tim nổi loạn, Một chiến sĩ, Một cổ đôi ba tròng… [59, tr. 52].

Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại (1942) đã xếp tác phẩm văn xuôi

của Trương Tửu mở đầu cho mục “Tiểu thuyết xã hội” (cùng với Nguyên Hồng,

Thạch Lam, Đỗ Đức Thu, Nhượng Tống, Thanh Tịnh, Thụy An, Nguyễn Xuân Huy,

Ngọc Giao, Nguyễn Vỹ): “Những tiểu thuyết đầu tay của ông đều là tiểu thuyết

tranh đấu” [107, tr. 478]. Vũ Ngọc Phan khảo sát và đánh giá từng tác phẩm cụ thể

của Trương Tửu: Một chiến sĩ; Khi chiếc yếm rơi xuống; Khi người ta đói; Trái tim

28

nổi loạn; Một kiếp đoạ đày; Cái tôi của ai và xác định: “ông là một nhà tiểu thuyết

xã hội”; “ông bênh vực người nghèo rõ rệt” [107, tr. 482-491]. Về nghệ thuật thể

hiện của ngòi bút văn xuôi Trương Tửu, theo cảm nhận của Vũ Ngọc Phan: “lời văn

hùng hồn thống thiết. Những lời ấy nó đánh vào tình cảm người ta hơn vào lý trí

người ta. Trong tiểu thuyết của ông, nhiều chỗ văn ông trác luyện, sáng suốt, lối văn

thích hợp cho người muốn bênh vực thuyết của mình” [107, tr. 478].

Năm 1944, Trong cuốn Tạp chí Tri Tân 1941 – 1945, “Phê bình văn học”, Trịnh

Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm biên soạn có bài viết của Kiều Thanh Quế: Nhân

quyển Vang bóng một thời tục bản, tác giả đi sâu phân tích, dẫn giải cả về nội dung và

chiều sâu hình thức nghệ thuật khi tập Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân được tái

bản, qua đó nhận diện sự khác biệt về phong cách giữa Tự lực văn đoàn, Nguyễn Tuân,

Trương Tửu và Lê Văn Trương: “Nguyễn Tuân trịnh trọng ghi chép lại như một nhà

lịch sử ký sự, bằng ngọn bút tỉ mỉ của một nhà tiểu thuyết chơi văn” [32, tr. 203]. Tác

giả bài viết đưa ra những nhận định: “ Văn Tự lực văn đoàn mềm mại dịu dàng. Văn

Trương Tửu, Lê Văn Trương mạnh mẽ, đột khởi. Văn Nguyễn Tuân dí dỏm như một

cô gái làm nũng, có khi lại "đỏng đảnh" như một người đàn bà khó chiều” [32, tr. 207].

Đặc điểm văn phong Trương Tửu được Nguyễn Vỹ ngược dòng thời gian hồi

tưởng: “Trương Tửu có khiếu ngôn ngữ và lý luận. Lời nói của anh là một sản

phẩm của máy móc, lý luận của anh là một dây truyền ngôn ngữ phối trí chặt

chẽ, liên kết mạch lạc và rèn rũa với một nghệ thuật tinh vi, tế nhị. Anh là một

nhà hùng biện bẩm sinh không do một trường học nào đào tạo cả” [174, tr.183].

Những nhận xét về một người bạn, người đồng nghiệp luôn thể hiện sự

khách quan, nể phục: “Trương Tửu thuộc về loại nhà văn tự học, nhờ đọc sách

nhiều. Có lẽ một phần nhờ trường Bách nghệ huấn luyện mà Trương Tửu có sẵn

thiên tài văn nghệ lại tự đào tạo được một tinh thần máy móc cứng rắn. Lý luận của

anh rất đanh thép, câu văn của anh cũng như búa, như kềm. Lời nói của anh vang

ra như tiếng đập sắt trên đe. Lúc nào cũng nẩy lửa, nghe lâu chát cả tai, có khi

rùng rợn như tiếng cười trong địa ngục của Dante, có khi xôn xao kinh khủng như

lửa cháy thành Roma” [174, tr. 184].

29

Những tác phẩm văn xuôi của Trương Tửu cũng được Nguyễn Vỹ điểm

lược: “Truyện dài đầu tiên của Trương Tửu nhan đề Thanh niên S.O.S (1938) là

tiếng kêu cứu của một thế hệ thanh niên đang suy sụp vì phong trào lãng mạn. Kế

tiếp là Một chiến sĩ và Khi chiếc yếm rơi xuống (1939) cả ba đều do nhà Minh

Phương 15 A, cư xá Văn Tân, phố Hàng Đẫy xuất bản, bắt đầu đệ nhị thế chiến, ba

quyển này đều bị Nha thông tin và báo chí Pháp (I.P.P) cấm vì đả kích xã hội An

Nam thối nát dưới chế độ thực dân… [174, tr. 190-191].

Như vậy, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, khi văn xuôi Trương

Tửu xuất hiện trên văn đàn, một số cây bút nghiên cứu phê bình đương thời đã

trân trọng đón nhận, thẩm bình và giới thiệu với độc giả. Tuy nhiên, ý kiến của

“người đương thời” đối với văn xuôi Trương Tửu chủ yếu là những nhận xét về

tính khuynh hướng của tác phẩm hoặc những cảm nhận ban đầu về ưu - nhược

điểm nổi bật ở từng tác phẩm và nhìn chung không có những ý kiến trái chiều

dẫn đến những tranh luận gay gắt, căng thẳng trên diễn đàn văn học.

Đi vào tìm hiểu chúng ta thấy số lượng độc giả dành cho tác phẩm văn

xuôi của Trương Tửu trong những năm trước Cách mạng tháng Tám không lớn.

Trong thời điểm xã hội đương thời, không chỉ sáng tác của Trương Tửu, mà tác

phẩm của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng cũng cùng chung số phận. Bởi giữa lúc,

trào lưu văn học lãng mạn nở rộ, công chúng đang chìm đắm trong những

chuyện tình nồng thắm trên các trang tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn.

Giữa lúc nhiều nhà văn sáng tác theo thị hiếu của độc giả thì trào lưu văn học

hiện thực ra đời như một tất yếu phát triển của văn học Việt Nam. Trương Tửu là

một trong số nhà văn thuộc trào lưu mới ra đời này, ông đã mạnh dạn đứng trên

quan điểm riêng, và góp sức cho nền văn học Việt Nam một lối văn mới: phản

ánh, lên án, tố cáo nhưng không quá gay gắt. Như vậy, đối tượng chú ý đến văn

xuôi Trương Tửu không nhiều là điều dễ hiểu. Còn các nhà phê bình văn học

đương thời đi vào nghiên cứu văn Trương Tửu chỉ dừng lại ở vấn đề thấy đó là

một thứ văn mới lạ, nhưng tư tưởng sâu sa mà nhà văn gửi gắm trong đó chưa

được nhiều nhà nghiên cứu đương thời nhìn nhận đánh giá một cách thấu đáo.

30

1.2.2. Từ năm 1945 đến nay

Việc nghiên cứu sáng tác văn xuôi của ông gần như chững lại trong một thời

gian dài. Vào khoảng những năm 1956 đến 1958, cuộc đấu tranh chống Nhân văn -

Giai phẩm ở miền Bắc diễn ra rất gay gắt và quyết liệt. Trước cái nhìn phiến diện,

nặng về quy kết, định kiến của một số ý kiến có trọng lượng lúc bấy giờ đã buộc

Trương Tửu phải buông bút trong sự nuối tiếc nghiệp văn chương. Để rồi suốt một

thời gian khá dài, các tác phẩm văn xuôi của Trương Tửu đứng trước thực tế rất

đáng tiếc ít được các nhà nghiên cứu phê bình đề cập đến. Theo tư liệu đã sưu tập

được, chúng tôi nhận thấy, sau Cách mạng tháng Tám, đặc biệt là vào những năm

1958 - 1960, sự quan tâm của dư luận công chúng tập trung vào các tác phẩm lý

luận, phê bình văn học của Trương Tửu. Từ thập niên đầu thế kỷ XXI tới nay, văn

xuôi Trương Tửu được quan tâm trở lại. Công việc sưu tầm, tập hợp, nghiên cứu thu

được những kết quả rõ rệt.

Năm 2001, công trình Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam (Từ cuối thế kỷ

XIX đến 1945) - phần “Thư mục tác phẩm văn xuôi Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến

1945 - đã thống kê 7 tác phẩm văn xuôi của Trương Tửu (Khi chiếc yếm rơi xuống,

Khi người ta đói, Một cổ đôi ba tròng, Trái tim nổi loạn, Thanh niên S.O.S, Một

chiến sĩ, Một kiếp đọa đày) [1]. Đặc điểm truyện ngắn Trương Tửu được nhận diện:

“Truyện ngắn của Trương Tửu có xu hướng đi vào phân tích những éo le uẩn khúc

trong các trạng thái đời sống cũng như trong lòng người và đưa ra những triết lý về

nhân thế”. Một số truyện được nhận xét cụ thể: “Truyện Một kiếp đoạ đày gò bó,

thiếu sự linh hoạt tự nhiên và có phần cường điệu Cái tôi của ai tuy lan man, có tính

chất tuỳ bút nhưng đã thể hiện được khả năng phân tích tâm lý, cùng lối văn sắc sảo,

khúc kết trong việc diễn đạt những ý tưởng và triết lý của tác giả” [1, tr. 771-774].

Tiếp theo đó, văn xuôi Trương Tửu được tác giả Văn Tâm giới thiệu trong

cuốn Từ điển văn học (Bộ mới): “Về phương diện sáng tác, xu hướng quan tâm và

thái độ bênh vực người nghèo thể hiện rõ trong khá nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn”

[135, tr. 1865]. Theo Văn Tâm, một số nét hạn chế về nghệ thuật trong văn xuôi

Trương Tửu là: “hình tượng nhân vật tích cực của ông còn sơ lược (Hảo trong tiểu

31

thuyết Một chiến sĩ), và nạn nhân trong xã hội của ông thường gặp nhiều cảnh ngộ

đặc biệt bi đát một cách thiếu tự nhiên (Thiện trong Khi người ta đói). Do đó sáng tác

của ông thiếu sức truyền cảm cần thiết” [135, tr. 1865].

Năm 2009, Nguyễn Hữu Sơn có công trình Trương Tửu - Tuyển tập văn

xuôi; trong đó có bài giới thiệu Văn xuôi Trương Tửu trước cách mạng tháng Tám

năm 1945. Trong bài viết này, nhà nghiên cứu đã nhận xét khái quát về đề tài, hệ

thống chủ đề, bút pháp, giọng điệu trong sáng tác văn xuôi của Trương Tửu: “Các

tác phẩm văn xuôi Trương Tửu bao quát một hệ thống chủ đề và phạm vi nội dung

hiện thực rộng lớn: Đương đại, lịch sử và dã sử; đấu tranh xã hội, gia đình và cá nhân;

đấu tranh giai cấp, tình yêu và phong tục; thành thị ven đô và nông thôn; trí thức,

công chức và nông dân… Tác giả cũng sử dụng nhiều phong cách, bút pháp, giọng

điệu khác nhau: Đối thoại, độc thoại, dòng ý thức, ghi chép tư liệu, phóng sự, luận đề,

sử liệu, thư từ…” [120, tr. 11]. “Có thể chính lối tư duy luận lý mạnh về khảo cứu và

phân tích đã chi phối tư duy hình tượng và cảm xúc khiến cho ngòi bút Trương Tửu

in đậm phong cách tiểu thuyết - ký sự nghiêng hẳn về “Sinle hóa” [120, tr. 14].

Năm 2010, nhà nghiên cứu Phong Lê có một số ý kiến nhận xét về văn

xuôi Trương Tửu: truyện Một chiến sĩ “văn hơi khô, kiểu văn tranh đấu, văn nghị

luận”; “Tiểu thuyết của Trương Tửu, tuy đã có lối riêng mà Vũ Ngọc Phan gọi là

“tiểu thuyết tranh đấu”, “tiểu thuyết xã hội” nhưng chưa tạo được ấn tượng cảm

xúc và tư duy hình tượng không phải là nét trội ở ông” [78, tr. 299].

Năm 2010, Phạm Thị Mỹ trong đề tài Đóng góp của Trương Tửu trong lĩnh vực

sáng tác văn học đã tập trung phân tích một số phương diện nội dung và nghệ thuật tiêu

biểu và trong văn xuôi trương Tửu. Về phương diện nội dung, tác giả công trình đã đi

sâu nhận diện và phân tích các đề tài chính trong văn xuôi Trương Tửu: đề tài sinh

hoạt, đề tài tranh đấu, đề tài lịch sử. Ở đề tài sinh hoạt tác giả nhận thấy: “Trương Tửu

rất chú ý đến không gian sinh hoạt của con người” [90, tr. 33]. Ở đề tài đấu tranh xã

hội: “nội dung mà ngòi bút Trương Tửu thường hướng đến cũng là các vấn đề mà các

nhà văn hiện thực hay lãng mạn trước 1945 đã hoặc sẽ lựa chọn. Đó là cuộc đấu tranh

giữa các thành phần trong xã hội, kẻ giàu, người nghèo, kẻ thống trị và người bị trị, là

32

đấu tranh chống lễ giáo, tiếng nói hướng đến khát vọng giải phóng cá nhân”; Khi đề

cập đến những vấn đề về thân phận con người, Trương Tửu chú ý đến những khổ nhục

mà họ mắc phải” [90, tr. 37]. Tác giả tiếp tục khẳng định “tư tưởng đấu tranh của

Trương Tửu” [90, tr. 36] và nêu rõ: “cuộc đấu tranh xã hội trong văn xuôi Trương Tửu

là cuộc đấu tranh chống lễ giáo, của cái mới chống lại cái cũ, là đấu tranh đòi quyền

sống, quyền hạnh phúc” [90, tr. 39]. Ở đề tài lịch sử, tác giả nhận thấy: “Có hai tác

phẩm của Trương Tửu được viết từ cảm hứng lịch sử, đó là Tráng sĩ Bồ Đề, Năm

chàng hiệp sĩ” [90, tr. 41]; “Viết hai tác phẩm trên, Trương Tửu thể hiện một tinh thần

yêu nước thầm kín. Cách viết, cách nhìn của ông chan chứa không khí thời đại” [90, tr.

42]. Về nghệ thuật văn xuôi Trương Tửu, Phạm Thị Mỹ đề cập tới các phương diện:

nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu. Đề tài của tác giả là bước phát triển đáng ghi nhận

trong quá trình nghiên cứu sáng tác văn học của Trương Tửu. Trong đề tài này, văn

xuôi Trương Tửu trở thành đối tượng nghiên cứu chuyên biệt, nhiều phương diện được

đi sâu khám phá, phân tích. Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu, tác giả công trình chưa

tập trung phân tích và đánh giá mối quan hệ giữa văn xuôi Trương Tửu với tiến trình

văn học Việt Nam hiện đại.

Trong không khí sôi nổi kỷ niệm 100 sinh của nhà văn Trương Tửu (1913 -

2013), nghiên cứu sinh đã tham gia buổi lễ kỷ niệm với bài Trương Tửu với những

cống hiến không thể phủ nhận trong lĩnh vực văn xuôi hiện đại đầu thế kỷ XX. Nội

dung bài viết chỉ ra cống hiến của Trương Tửu trong lĩnh vực sáng tác văn học, đồng

thời so sánh Trương Tửu với một số nhà văn cùng thời như Nam Cao, Ngô Tất Tố,

Vũ Trọng Phụng để đi đến khẳng định ông là nhà văn hiện thực trong những năm

trước Cách mạng tháng Tám, ông là nhà văn chân chính có tài và có tâm.

Trong buổi Hội thảo “Những thí nghiệm của ngòi bút tôi” Kỷ niệm 100 năm

sinh nhà văn - Nhà nghiên cứu văn học Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa (1913 -

1999), tại Thư viện Hà Nội, nghiên cứu sinh tham gia tham luận Quan điểm và cảm

hứng sáng tác văn xuôi của nhà văn Trương Tửu nhằm mang đến hội thảo ý kiến

bàn luận về vị trí sáng tác văn xuôi của nhà văn.

33

Có thể nói các nhà nghiên cứu đi trước và hiện tại đã áp dụng lý thuyết thi

pháp học, tự sự học vào việc tìm hiểu đánh giá những tác phẩm văn xuôi của

Trương Tửu nói riêng và toàn bộ sự nghiệp của ông nói chung. Bản thân là tác giả

của luận án tôi cũng không ngọai lệ khi tiếp cận hiện tượng văn xuôi Trương Tửu từ

những phương diện lý thuyết này. Tôi nhận thấy các phương diện lý thuyết có tầm

quan trọng trong việc áp dụng để nghiên cứu đánh giá tác phẩm văn học bởi đó là

“một thành tựu lớn của khoa Nghiên cứu văn học thế kỷ XX” [48, tr.9]. Trong số

tác phẩm văn xuôi của Trương Tửu lượng tiểu thuyết và truyện ngắn là chủ yếu do

đó việc áp dụng thi pháp tiểu thuyết, thi pháp tự sự để phân tích lý giải là hoàn toàn

hợp lý. Việc áp dụng lý thuyết về tự sự học để bóc tách, đánh giá tác phẩm văn xuôi

thuộc thể loại truyện ngắn cũng là việc làm cần thiết. Chúng tôi sẽ sử dụng mảng lý

thuyết này để nắm bắt tư tưởng của nhà văn, cây bút người Hà Nội trong thời kỳ xã

hội chịu ảnh hưởng nhiều trường phái triết học du nhập.

Nhìn khái quát lại giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến

nay, hành trình nghiên cứu văn xuôi của Trương Tửu trên từng chặng đường có

gia tốc khác khau, song về cơ bản đã thu nhận được những kết quả có giá trị khoa

học. Theo hành trình nghiên cứu, tư liệu về nhà văn và các tác phẩm của ông được

tập hợp ngày càng đầy đủ hơn; những đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật

trong văn xuôi Trương Tửu được xác định ngày càng sáng rõ hơn. Tiếp thu ý kiến

của nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu đi trước, trong bối cảnh văn học hiện nay có

nhiều thuận lợi, đặc biệt dựa trên kết quả nghiên cứu với những quan điểm thống

nhất trong vấn đề khẳng định vị trí của văn xuôi trong sự nghiệp văn chương của

Trương Tửu, khẳng định mục đích và tâm huyết sáng tác của nhà văn. Một số hạn

chế về nghệ thuật thể hiện trong văn xuôi Trương Tửu đã được chỉ ra phản ánh cái

nhìn khách quan của các nhà nghiên cứu. Chúng tôi tiếp nhận từ công trình của

những người đi trước nguồn tư liệu quý giá và những định hướng khoa học thiết

thực để triển khai nghiên cứu đề tài luận án, tác giả luận án mạnh dạn tiếp cận

“hiện tượng” văn xuôi Trương Tửu nhằm đưa ra những ý kiến riêng góp phần

khẳng định vị trí của nhà văn trong nền Văn học Việt Nam.

34

1.3. Khái lược vị trí văn xuôi Trương Tửu trong tiến trình văn học Việt Nam

đầu thế kỷ XX

1.3.1. Tiến trình văn xuôi Việt Nam hiện đại

Văn xuôi Việt Nam hiện đại gắn liền với quá trình hiện đại hóa văn học Việt

Nam ở giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Một giai đoạn với bối cảnh lịch

sử, xã hội, kinh tế hết sức phức tạp. Tiến trình văn học nói chung và tiến trình văn

xuôi Việt Nam hiện đại nói riêng diễn ra như một tất yếu để phù hợp với những yêu

cầu của cuộc sống đang thay đổi từng giờ.

Điểm mốc quan trọng trong tiến trình văn xuôi hiện đại, được đánh dấu vào

cuối thế kỷ XIX bằng tiểu thuyết Truyện thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng

Quản (1887) được viết bằng chữ quốc ngữ và viết theo kiểu tiểu thuyết phương Tây

xuất hiện đầu tiên ở Nam Kỳ. Đây là tác phẩm ươm mầm đầu tiên tham dự vào tiến

trình văn xuôi hiện đại Việt Nam với những nét mới về kết cấu, ngôn ngữ, nhân vật.

Đến đầu thế kỷ XX, văn xuôi quốc ngữ của Tân Dân Tử, Nguyễn Tử Siêu,

Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Trọng Thuật, Đặng

Trần Phất… đã thu hút được số đông công chúng. Tuy nhiên các tác giả Nam Bộ

chưa thoát được lối viết truyền thống, trong các tác phẩm vẫn nhiều lời giáo

huấn, giáo điều của luân lý Khổng Mạnh. Mặc dù vậy, cũng phải ghi nhận những

nỗ lực của các nhà văn ở cả hai miền Nam, Bắc trong giai đoạn này. Họ đã góp

công sức đưa văn học Việt Nam tiến đến con đường hiện đại hóa cũng như

nhanh chóng hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới. Bên cạnh những

tác phẩm mô phỏng theo tác phẩm của Tàu như trong tác phẩm của Tử Siêu, Dân

Tử…, mô phỏng tiểu thuyết của Pháp trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh cũng

đã có những tác phẩm dựa theo truyện dân gian Việt Nam như Quả dưa đỏ của

Nguyễn Trọng Thuật, có tác phẩm viết về cuộc sống đô thị Việt Nam trong giai

đoạn giao thời như Cành hoa điểm tuyết (1921), Cuộc tang thương (1923) của

Đặng Trần Phất đã thể hiện tinh thần dân tộc, ý thức gìn giữ văn hóa, văn học

Việt. Nổi trội trong thời kỳ này có Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách với nội dung

mới mẻ thể hiện bi kịch của con người, của thời đại, tâm lý nhân vật được chú ý

35

khai thác mặc dù vẫn dựa vào tiểu thuyết Pháp. Tác phẩm Thầy Lazarô Phiền

dấu mốc bước đầu của sự thay đổi trong tiến trình văn xuôi thì Tố Tâm là minh

chứng cho thấy tiểu thuyết Việt Nam bước vào quá trình hiện đại hóa. Đến

những năm 1930-1945 văn xuôi Việt Nam có bước tiến mới với hai khuynh

hướng rõ rệt, khuynh hướng lãng mạn đại diện nhóm Tự lực văn đoàn với các tác

phẩm tiêu biểu Đoạn tuyệt (1934), Lạnh lùng (1936), Đôi bạn (1937)…và

khuynh hướng hiện thực đại diện là Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Ngô Tất Tố,

Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng với tác phẩm Tinh thần thể dục, Chí Phèo,

Giông tố, Số đỏ, Tắt đèn…Mỗi khuynh hướng đều có đóng góp vào tiến trình

văn học Việt Nam. Tuy nhiên trong bối cảnh đất nước đương thời, mặt hạn chế

của Tự lực văn đoàn trong sáng tác đã được các nhà văn hiện thực hoàn thiện, bổ

sung để đẩy nhanh tiến trình văn học tiến đến quá trình hiện đại hóa với sự cách

tân trên nhiều phương diện của văn xuôi tạo nên một giai đoạn rực rỡ trong lịch

sử văn học dân tộc.

1.3.2. Vấn đề Trương Tửu trong tiến trình văn xuôi hiện đại

Trước Cách mạng Tháng Tám, Trương Tửu viết 13 tác phẩm văn xuôi. Từ

sáng tác đầu tiên Thanh niên S.O.S (1937) đã để lại dấu ấn khiến người đọc phải

băn khoăn, suy nghĩ bởi chất hiện thực của tác phẩm về sự tha hóa của thanh niên.

Các nhân vật là những thanh niên ở thành thị có học thức được nhà văn quan sát,

miêu tả. Điều này phù hợp với hoàn cảnh của nhà văn, vì ông có cuộc sống ở thành

thị nên ông cảm nhận được những đổi thay rõ rệt trong tư tưởng, hành động của

thanh niên trong giai đoạn giao thời. Ở tác phẩm này, nhà văn đã chỉ ra mặt trái của

đô thị Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX với sự tỉnh táo và khách quan.

Thanh niên trí thức được Trương Tửu xây dựng trong 5/13 tác phẩm, với đủ

hoàn cảnh như từ quê lên thành thị trong Một chiến sĩ (1938), Trái tim nổi loạn

(1940), các trí thức nghèo ở thành thị với gánh nặng cơm, áo như trong Một cổ đôi

ba tròng (1940), Cái tôi của ai (1941). Trong các tác phẩm, nhà văn chú ý miêu tả

tâm lý nhân vật và kết thúc tác phẩm thường không có hậu. Ở thời kỳ này, không

chỉ có Trương Tửu đề cập đến vấn đề này mà Nam Cao, Vũ Trọng Phụng cũng viết

36

nhiều về hình ảnh thanh niên trí thức như trong Đời thừa, Giăng sáng của Nam

Cao, Giông tố của Vũ trọng Phụng. Với những tác phẩm này hai nhà văn tiêu biểu

cho khuynh hướng hiện thực đã sử dụng kết cấu mới mẻ và nghệ thuật miêu tả tâm

lý nhân vật rất điêu luyện để khắc họa nên hình ảnh người trí thức luôn bị giằng xé

bởi miếng cơm manh áo, bởi bi kịch trong tình yêu, gia đình và căn nguyên chỉ vì

họ là những trí thức trong những năm đầu thế kỷ XX. Như vậy, cùng với Trương

Tửu còn có Nam Cao, Vũ Trọng Phụng gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh đối với

thanh niên trí thức: Hãy giữ lấy nhân cách của người trí thức đang bị những những

mặt trái của buổi giao thời cám dỗ, bủa vây. Tài năng của nhà văn là ở chỗ nhìn

thấy ý nghĩa sâu xa ẩn trong những con người đời thường và chú ý đến những cái

vụn vặt của đời sống nghèo hèn như phải lo tiền làm ma cho mẹ, làm ma cho vợ, lo

từng bữa cơm trong cái đói cái rét, lo từng đồng, từng hào để trả tiền nhà trọ như

trong Khi chiếc yếm rơi xuống (1939), Khi người ta đói (1940)…Cuộc sống khốn

khổ, đói khát bám lấy thân phận người lao động. Đề tài này gặp nhiều trong tác

phẩm của Nam Cao với Một bữa no, Tư cách mõ…, Ngô Tất Tố với Cái bánh

chưng, Tắt đèn…, Kim Lân với Vợ nhặt, Tìm em …Sự khốn khổ nghèo đói trong

tác phẩm của ba nhà văn hiện thực tiêu biểu này khiến người đọc xót xa, thương

cảm còn với tác phẩm của Trương Tửu khiến người đọc nghèn nghẹn bởi cơ sự

nghèo khổ cùng với uất ức, tủi nhục của nhân vật. Căn nguyên là do nghèo khổ nên

Hậu trong Khi chiếc yếm rơi xuống không có tiền làm ma cho mẹ, mẹ chết nằm đấy

mà bất lực không thể làm được gì và cũng không thể cứu được bản thân khỏi cuộc

đời khốn khổ, tủi nhục đang chờ đợi phía trước. Trong Khi người ta đói, căn nguyên

của nghèo khổ mà Thanh phải chết trong uất ức, Thiện rơi vào vòng lao lý, và người

tốt như Mỹ cũng chết thảm thương…Trương Tửu đã làm nổi bật số phận thê thảm

của những con người thấp cổ bé họng trong xã hội đương thời. Những trang viết của

Trương Tửu thấm đậm chất nhân văn, đồng thời cho thấy Trương Tửu có vị trí

trong dòng văn học hiện thực khi xét từ thời điểm sáng tác và những cách tân khá

mới mẻ của ông về nội dung và hình thức so với văn xuôi thời kỳ những thập niên

hai mươi. Vị trí của nhà văn được khẳng định hơn nữa với những tác phẩm về lịch

37

sử dã sử như Tráng sĩ Bồ Đề (1942), Năm chàng hiệp sĩ (1942) với dung lượng khá

dài và số lượng nhân vật đông đảo, nghệ thuật trần thuật sử dụng nhuần nhuyễn, nội

dung xoay quanh vấn đề lịch sử nhưng có sự cách tân tạo nên sức hấp dẫn đối với

người đọc. Trương Tửu để lại một số lượng tác phẩm tiểu thuyết, truyện ngắn

không nhiều nhưng với hơn một nghìn trang cũng đủ cho thấy ông là nhà văn say

sưa, tâm huyết. Mặc dù những tác phẩm của ông chưa đạt đến sự suất sắc, chưa đạt

đến mức là những tác phẩm điển hình với nhân vật điển hình nhưng ngòi bút của

Trương Tửu đã thể hiện tinh thần tranh đấu cao và luận đề trong sáng tác của ông

luôn mang tính xã hội dù ở bất kỳ giai đoạn xã hội nào. Các tác phẩm Tôi nguyền

rủa mãi người cha ấy, Đục nước béo cò của Trương Tửu phản ánh rõ sự phê phán

những tư tưởng bảo thủ, hủ tục khiến con người trở thành nạn nhân phải chịu đau

khổ về thể xác và tinh thần.

Như vậy, ngoài lý luận phê bình Trương Tửu còn là cây bút văn xuôi có

phạm vi nội dung trong tác phẩm khá rộng. Thời gian trôi qua, những tác phẩm của

ông cũng chịu chung số phận với người sáng tác, phải chịu sự thăng trầm nhưng

hôm nay đã được các nhà nghiên cứu đánh giá khách quan để trả tên tuổi và tác

phẩm của ông về đúng vị trí xứng đáng trên văn đàn cũng như trong tiến trình văn

học. Những tác phẩm của ông nếu chỉ đọc một lần có thể chưa gây được ấn tượng

với người đọc và công chúng, nhưng khi suy ngẫm và trăn trở sẽ không thể phủ

nhận những đóng góp đáng kể của ông vào sự phát triển văn xuôi hiện đại Việt Nam

đầu thế kỷ XX.

Tiểu kết

Trương Tửu có những đóng góp đáng ghi nhận đối với văn học Việt Nam hiện

đại cả về lý luận và thực tiễn sáng tác văn xuôi. Quá trình nghiên cứu về ông được

khởi đầu từ trước Cách mạng tháng Tám, khi những tác phẩm đầu tay của nhà văn

vừa đến với độc giả. Đặc biệt, những năm gần đây, ý kiến nhận xét, đánh giá và kết

luận về sự nghiệp văn chương của Trương Tửu ngày càng khách quan, khoa học;

những nhận định trái chiều về một số phương diện cũng dần đi đến thống nhất. Một

38

số kết quả nghiên cứu đã khẳng định những đóng góp của Trương Tửu đối với nền

văn học Việt Nam. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra những điểm còn

hạn chế trong tác phẩm của ông. Điều đáng lưu ý, trong số những bài viết và những

công trình nghiên cứu về văn xuôi Trương Tửu, chưa có công trình nào đặt vấn đề

nghiên cứu văn xuôi Trương Tửu trong tiến trình văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX.

Từ thực tế đó, chúng tôi thấy rằng việc nghiên cứu đề tài này là việc làm cần thiết

trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, góp phần phục dựng và vinh danh chân dung

một nhà văn có những đóng góp thiết thực về thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn đối

với nền văn học Việt Nam hiện đại.

39

Chương 2

CƠ SỞ VĂN HOÁ, VĂN HỌC NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX

VÀ SỰ XUẤT HIỆN TÁC GIẢ TRƯƠNG TỬU

2.1. Đời sống văn hóa xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX với những giao lưu và

tiếp biến văn hóa

2.1.1. Một xã hội mới với nhiều biến động trong những năm đầu thế kỷ XX

Ở bất kỳ quốc gia nào, bối cảnh lịch sử xã hội luôn có ảnh hưởng sâu đậm đến

đời sống văn học. Nói cách khác, văn học ở mỗi thời kỳ lịch sử sẽ phản ánh chân

thực, sinh động đời sống xã hội, con người, tư tưởng của thời kỳ đó.

Lịch sử xã hội Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX đã trải

qua “một phen thay đổi sơn hà” với những biến động dữ dội về mọi phương diện:

chính trị, kinh tế, văn hóa. Những năm cuối thế kỷ XIX, sau khi triều đình nhà

Nguyễn kí hiệp ước thừa nhận sự bảo hộ của Pháp (năm 1884) và trấn áp phong trào

Cần Vương, thực dân Pháp coi như cơ bản hoàn thành cuộc xâm lược Việt Nam.

Chúng tập trung thiết lập chế độ thuộc địa nửa phong kiến và thực hiện mục đích

khai thác thuộc địa trên đất nước ta. Chúng xây dựng một số cơ sở công nghiệp (chủ

yếu là hầm mỏ, bến cảng, các nhà máy, cơ sở sản xuất); mở hệ thống đường ô tô và

đường sắt xuyên Việt. Nhiều đô thị được hình thành và mở rộng, xuất hiện và làm

tăng thêm nhanh chóng tầng lớp thị dân. Trong vài ba mươi năm, cơ cấu giai cấp,

tầng lớp trong xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi. Giai cấp tiểu tư sản thành thị tăng

lên đáng kể bao gồm nhiều tầng lớp: tiểu thương, viên chức, thợ thủ công, học sinh,

trí thức mới... Giai cấp công nhân được hình thành và phát triển nhanh chóng, ngày

càng có vị trí quan trọng trong đời sống chính trị. Giai cấp tư sản ra đời nhưng yếu

ớt và phụ thuộc vào tư bản Pháp. Bộ máy phong kiến ở làng xã vẫn được duy trì

tầng lớp địa chủ, cường hào được sử dụng làm công cụ cai trị và bóc lột của bọn

thực dân. Người nông dân chịu nhiều áp bức, công, sưu cao, thuế nặng. Một bộ

phận quá bế tắc, cùng quẫn phải bỏ làng quê ra thành thị kiếm sống hoặc đi phu mỏ,

phu đồn điền, trở thành đội quân đông đảo cung ứng sức lao động rẻ mạt cho những

kẻ bóc lột. Thủ đoạn bóc lột của tư bản Pháp cấu kết với bọn địa chủ, cường hào ở

40

nông thôn đã đẩy tầng lớp lao động vào cảnh bần cùng. Các mâu thuẫn cơ bản trong

xã hội ngày càng trở lên gay gắt và quyết liệt. Từ năm 1940, phát xít Nhật nhảy vào

Đông Dương, nhân dân ta lại phải chịu thêm một tầng áp bức. Trong thời kì Chiến

tranh thế giới thứ hai, thực dân Pháp và phát xít Nhật càng ra sức vơ vét phục vụ

cho công cuộc chiến đấu dẫn tới nạn đói khủng khiếp năm 1945, cướp đi hàng triệu

sinh mạng của đồng bào ta. Phong trào đấu tranh của nhân dân đã đến độ sục sôi.

Sức mạnh đoàn kết của dân tộc dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt

Nam đã làm nên thắng lợi vẻ vang của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945,

chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến trên đất nước ta.

Ở nước ta, từ đầu thế kỷ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, bên cạnh

những biến đổi về chính trị, kinh tế, văn hóa, văn học cũng biến đổi sâu sắc. Thời

kỳ này, môi trường văn hóa tư tưởng ở Việt Nam có nhiều chuyển biến quan trọng,

có sự giao lưu hai luồng văn hóa Đông - Tây. Ngoài hệ tư tưởng phong kiến vốn tồn

tại lâu đời ở nước ta, những luồng tư tưởng mới như hệ tư tưởng tư sản phương Tây

du nhập vào Việt Nam qua con đường chủ nghĩa thực dân, hệ tư tưởng vô sản vào

Việt Nam qua con đường đấu tranh dân tộc cùng những quan niệm mới về đạo đức,

lối sống và văn chương, nghệ thuật qua giao lưu, tiếp xúc văn hóa giữa Đông và

Tây đã thâm nhập vào đời sống xã hội Việt Nam, tác động sâu sắc đến văn học

đương thời. Như vậy, nói đến hệ tư tưởng chính là nói về góc độ triết học. Ở

phương Đông tồn tại tư tưởng duy tâm siêu hình, còn ở phương Tây là tư tưởng duy

lý, từ những thành quả của tư tưởng Hy Lạp, của thời Phục hưng đã tạo cho phương

Tây một bước tiến khá xa so với phương Đông. Đến những năm đầu thế kỷ XX,

nhiều luồng triết học ảnh hưởng sâu sắc vào đời sống của con người Việt Nam, vào

đời sống văn hóa văn học như một tất yếu của một thời kỳ lịch sử.

2.1.2. Khung cảnh văn học Việt Nam trong sự giao lưu của văn hóa Đông - Tây

Những năm đầu thế kỷ XX, do tác động trực tiếp và sâu sắc của hoàn cảnh xã

hội, văn học Việt Nam đã vận động từ phạm trù văn học Trung đại, sử dụng song ngữ

Hán - Nôm, chịu ảnh hưởng mô hình văn học Trung Quốc sang phạm trù văn học hiện

đại sử dụng phương tiện chữ Quốc ngữ và hướng theo mô hình văn học phương Tây.

41

Kết quả của quá trình hiện đại hóa đã tạo cho văn chương một môi trường hoạt

động mới khác với kiểu sinh hoạt văn chương “ngâm, vịnh, thù, tạc” của các nhà nho

xưa; hình thành nên lớp nhà văn chuyên nghiệp; văn học từng bước được cách tân. Nền

văn học mới vừa phát huy những nhân tố hiện đại vừa kế thừa những thành tựu của nền

văn học truyền thống. Vì vậy, văn học giai đoạn này có một diện mạo đặc biệt, tạo nên

những đặc điểm riêng không thể tìm thấy ở các giai đoạn trước và sau đó.

Chặng đường đầu của quá trình hiện đại hóa, một số cây bút sớm tiếp thu ảnh

hưởng của văn học phương Tây, từ lĩnh vực báo chí, dịch thuật họ đã chuyển dần

sang phỏng tác theo các tác phẩm văn học Pháp. Tiếp theo đó, các cây bút tân học đã

có ý thức vượt thoát khỏi khuôn khổ của văn chương truyền thống, tìm đến với tiểu

thuyết, truyện ngắn, kịch - những thể loại mới của văn học hiện đại, hạn chế dùng

những điển cố, điển tích, đưa lời ăn tiếng nói của đời sống vào trong sáng tác văn

học,… Sự kết hợp hai yếu tố truyền thống và hiện đại trong cả hai phương diện nội

dung và nghệ thuật là hiện tượng nổi bật trong văn học ba mươi năm đầu thế kỷ XX.

Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách là một tác phẩm tiêu biểu mang nhiều yếu tố giao

thời giữa truyền thống và hiện đại. Trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi, tiểu thuyết

của Hoàng Ngọc Phách đã xuất hiện dấu hiệu rạn nứt những quan niệm cũ. Tố Tâm,

người tuân thủ đạo đức truyền thống đã không có hạnh phúc trong chế độ đại gia đình

phong kiến, con người ấy muốn sống hết mình cho tình yêu tự do nhưng cũng không

thể đón nhận hạnh phúc trong tình yêu. Hoàng Ngọc Phách đã đem cái tôi cá nhân đặt

bên cạnh lễ giáo phong kiến và phản ánh sự xung đột giữa hai quan niệm cũ - mới

trong tình yêu nam nữ và hạnh phúc cá nhân. Về nghệ thuật, trong Tố Tâm có sự “lắp

ghép” giữa nghệ thuật viết văn của nhà nho (văn biền ngẫu, văn xuôi xen kẽ với văn

vần, ngôn ngữ mang dấu ấn của điển tích Hán Việt) với kỹ thuật viết văn hiện đại (kết

cấu mới, kết thúc không có hậu, khai thác yếu tố đời tư của nhân vật). Sự giao thoa

đó đã mang lại cho cuốn tiểu thuyết chất hiện đại bên cạnh những yếu tố truyền

thống. Đó chính là “tính giao thời” của một tác phẩm chịu sự chi phối của cuộc giao

lưu văn hóa Đông - Tây, truyền thống - hiện đại. Trường hợp của Hoàng Ngọc Phách

là trường hợp tiêu biểu cho sáng tác văn học giai đoạn đầu thế kỷ XX. Đối với người

cầm bút giai đoạn này, văn học hiện đại giống như khu vườn quyến rũ với muôn màu

42

hương sắc. Các nhà văn, nhà thơ lúc đó tuy đã có những rung động thẩm mĩ mới;

cách nhìn, cách cảm cũng khác trước nhưng lại chưa được trang bị chu đáo về mặt lý

luận. Họ đã đến với văn học hiện đại trong sự nhận thức chưa được trọn vẹn. Thói

quen cũ và ý thức mới vẫn in đậm trong sáng tác của nhiều cây bút. Nhìn chung,

trong ba mươi năm đầu thế kỷ XX, do tác động của nhiều nguyên nhân khách quan

và chủ quan, các tác giả đã “lắp ghép một cách máy móc cái truyền thống và hiện

đại” [109, tr. 37]. Hạn chế đó mang tính tất yếu của một giai đoạn chuyển biến trong

lịch sử văn học từ phạm trù văn học trung đại sang phạm trù văn học hiện đại.

Sau giai đoạn giao thời, văn học Việt Nam đã vận động mau lẹ, khẩn trương theo

hướng hiện đại hóa trên tất cả các lĩnh vực của đời sống văn học. Chỉ trong khoảng

chưa đầy nửa thế kỷ, nền văn học đã có những biến đổi sâu sắc, phát triển với nhịp

độ khẩn trương và đạt được những thành tựu to lớn. Nhiều khuynh hướng văn học

hình thành và phát triển. Nhiều tài năng và cá tính sáng tạo được khẳng định. Văn học

đã vận động tích cực, tích tụ và bồi đắp được nhiều giá trị, đóng góp những kết quả rực

rỡ đối với nền văn học nước nhà.

Trong quá trình hiện đại hóa của nền văn học dân tộc, văn học phương Tây

có ảnh hưởng về nhiều phương diện. Thời gian này, văn học Pháp có một ảnh

hưởng quan trọng đến đội ngũ nhà văn Việt Nam. Những tác phẩm tiêu biểu của

văn học Pháp đã được giới thiệu với độc giả Việt Nam: Thơ ngụ ngôn của La

Fontaine, các vở kịch Trưởng giả học làm sang. Người bệnh tưởng (Molière),

tiểu thuyết Ba người ngự lâm pháo thủ (A. Dumas), Những người khốn khổ (V.

Hugo), Miếng da lừa (H. Balzac)... Nhiều nhà văn có tên tuổi thời kì này như

Hoàng Ngọc Phách, Vũ Đình Liên, Khái Hưng, Nhất Linh, Nguyễn Mạnh

Tường... phần lớn được đào tạo từ các trường Pháp-Việt và một số đã du học từ

Pháp trở về. Đội ngũ này chịu ảnh hưởng khá mạnh mẽ tư tưởng Tây học. Họ là

lực lượng cơ bản góp phần phổ biến văn học Pháp ở Việt Nam thời kỳ nửa đầu

thế kỷ XX. Trên văn đàn công khai thời đó, trào lưu văn học lãng mạn chịu ảnh

hưởng sâu sắc văn học phương Tây; trong đó các nhà văn trong nhóm Tự lực văn

đoàn và các nhà Thơ mới là những người tiên phong. Các thi nhân của phong

trào Thơ mới đã tiếp thu và chịu ảnh hưởng của nhiều thi sĩ lãng mạn Pháp như

43

Chateaubriand, Lamartine, Musset, Hugo, Baudelaire... Trên hành trình sáng tạo,

các chủ thể sáng tác tìm đến với những con đường mới nhưng họ không đoạn

tuyệt với cái cũ, các nhà Thơ mới đã trải qua cuộc dấn thân đầy thử thách và

hoàn thành xuất sắc sứ mạng nghệ thuật của mình, tạo nên “một thời đại trong

thi ca” Việt Nam.

Bên cạnh đó, những tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa lãng mạn phương Tây đã

ảnh hưởng tới văn học Việt Nam thông qua các sáng tác văn xuôi lãng mạn. Đó là

tư tưởng chống phong kiến, đề cao ý thức cá nhân. Từ những tiếp thu văn học

phương Tây, văn học lãng mạn Việt Nam đã có những bước chuyển biến mới trong

kết cấu, cốt truyện và nhiều yếu tố nghệ thuật khác. Các nhà văn trong Tự lực văn

đoàn như Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nhất Linh, Thạch Lam, Thế Lữ đã “đem phương

pháp Thái Tây ứng dụng vào văn chương An Nam” [109, tr. 34]. Trong sáng tác của

họ, dấu ấn của Chateaubriand, V.Hugo, A.Musset, Lamartine, A.Gide... thể hiện

khá rõ. Viết về đề tài tình yêu, Nhất Linh và Khái Hưng chịu ảnh hưởng của

A.Gide. Nếu như Bản giao hưởng đồng quê (A.Gide) miêu tả tình yêu của một giáo

sĩ với một cô gái mù xinh đẹp thì ở Gánh hàng hoa (Khái Hưng), tác giả xây dựng

mối tình lãng mạn giữa cô gái bán hoa với một văn sĩ mù, còn Nắng thu (Nhất Linh)

lại đưa người đọc đến với tình yêu của một cậu học sinh trung học với một cô gái

câm mồ côi. Ở đây chúng ta thấy có một sự gần gũi về đề tài mà các nhà văn lãng

mạn Việt Nam đã tiếp thu được từ văn học phương Tây. Tác phẩm Hồn bướm mơ

tiên của Khái Hưng (1933), chịu ảnh hưởng nhiều mặt của tiểu thuyết phương Tây.

Về chủ đề trong Hồn bướm mơ tiên gần với chủ đề lãng mạn trong Atala (1801) của

Chateaubriand và Jocelyn (1836) của Lamartine. Trong việc tiếp thu văn học

phương Tây để đổi mới văn học nước nhà, có những sáng tác của Hồ Biểu Chánh.

Theo Vũ Ngọc Phan, Hồ Biểu Chánh là một hiện tượng khá đặc biệt, “một nhà tiểu

thuyết nổi tiếng”, một nhà văn bình dân nhất Nam Kỳ. Những tác phẩm của ông

góp phần hình thành thể loại tiểu thuyết Việt Nam trên chặng đường phôi thai. Khi

sử dụng chữ quốc ngữ để sáng tác, Hồ Biểu Chánh đã tiếp thu mạnh mẽ những tác

phẩm văn học phương Tây. Một số sáng tác của ông thường phóng tác theo các tác

44

phẩm phương Tây nhằm thể hiện những nội dung mới của đời sống xã hội Việt

Nam trên con đường vận động và biến đổi. Đó là trường hợp các tiểu thuyết như:

Chúa Tàu Kim Quy (phóng tác theo Bá tước Monte-Cristo của A.Dumas), Cay đắng

mùi đời phỏng theo Không gia đình của Hector Malot, Ngọn cỏ gió đùa phỏng theo

Những người khốn khổ của V.Hugo. Những tác phẩm trên nổi bật về xu hướng đạo

đức xã hội, ngợi ca cái đẹp, cái tốt, cái thiện và lên án, chống lại cái ác. Như vậy,

Hồ Biểu Chánh tiếp xúc với tác phẩm văn học phương Tây đã mang mục đích đó là

tiếp thu kinh nghiệm văn học nước ngoài để đổi mới thể loại tự sự, một thể loại mới

hình thành và phát triển trong những năm đầu của thế kỷ XX ở nước ta. Điều đáng

chú ý, khi phóng tác, nhà văn rất khéo léo trong việc vận dụng kiến thức văn học

nước ngoài đang du nhập vào nước ta, nhà văn đã thể hiện cuộc sống và con người

phức tạp của vùng Nam Bộ vào trong tác phẩm một cách rất tự nhiên như điều vốn

có của văn học.

Ở giai đoạn này, những tên tuổi tiêu biểu Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận,

Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam đã trở thành niềm tự

hào và khát khao, ngưỡng mộ của độc giả. Thế nhưng, có một sự thật là, sau niềm ngất

ngây bởi những cung bậc đời sống và thanh âm mới lạ mà văn chương mang lại, cả tác

giả và độc giả đều không thể quên đi được sự thật của cuộc sống cơm áo gạo tiền luôn

bám chặt vào người nghệ sỹ: “Nỗi đời cơ cực đương giơ vuốt/ Cơm áo không đùa với

khách thơ” (Xuân Diệu). Nguyễn Vỹ phải cất lời cay đắng trong bài Gửi Trương Tửu:

“…Thời thế bây giờ vẫn thấy khó

Nhà văn An Nam khổ như chó!

Mỗi lần cầm bút nói văn chương,

Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương,

Và nhìn chúng mình hì hục viết,

Suốt mấy năm giời kiết vẫn kiết,…” [157, tr. 99]

Trong một xã hội như thế, văn chương không thể từ chối hiện thực mà phải

nhận về mình trách nhiệm lên án những bất công, những tội lỗi của chế độ thống trị.

Vì vậy, giai đoạn này lại là thời điểm tạo nên những cây bút sắc sảo, tài năng của

45

dòng văn học hiện thực. Họ là những tri thức tiến bộ, có tinh thần dân chủ, trân

trọng công lý và gần gũi, cảm thông cho những người lao động nghèo khổ. Nguyên

tắc “tôn trọng sự thật” của chủ nghĩa hiện thực được các nhà văn đề cao.

Những năm 1920 -1930, các tác phẩm theo khuynh hướng hiện thực của

Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn đã xuất hiện với nội dung hiện thực, ngôn ngữ và

kết cấu mới. Những tác phẩm Con người sở khanh của Phạm Duy Tốn hay Chuyện

cô Chiêu Nhì của Nguyễn Bá Học, dường như ngòi bút của các nhà văn đã áp sát

vào cuộc sống, phơi bày những “sự thực ở đời”. Điều đó chứng tỏ tư duy nghệ thuật

của nhà văn đã hướng vào hiện thực, nghĩa là đã viết khác với văn chương thời kỳ

trung đại trước đây. Ở Nam Bộ, nhà văn Hồ Biểu Chánh đã cho ra đời những tiểu

thuyết mang dáng dấp phương Tây, gần với cách viết của tiểu thuyết Pháp cuối thế

kỷ XIX như đã nêu ở trên; chất liệu đời sống trong các trang sách của Hồ Biểu

Chánh hiện lên ngày càng dồi dào, phong phú. Đó cũng chính là biểu hiện sự tiếp

thu của nhà văn về cách phản ánh hiện thực của tác phẩm, vượt qua những khuôn

mẫu, những đề tài có tính mẫu mực, ước lệ của văn học trung đại.

Đến giai đoạn sau năm 1930, các nhà văn Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,

Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô Hoài và Trương Tửu đều sáng tác

theo khuynh hướng văn học hiện thực. Tuy mỗi nhà văn có một thế giới nghệ thuật

riêng, một sự nghiệp văn chương riêng, song những trang văn của họ cùng hướng

đến mục đích phê phán, tố cáo xã hội thực dân - phong kiến; tố cáo áp bức, bất

công; bênh vực người nghèo khổ. Nguyễn Công Hoan dùng ngòi bút trào phúng sắc

sảo phơi bày những cảnh đời ngang trái, những bộ mặt đê tiện, những thủ đoạn ghê

tởm của bọn quan lại thực dân phong kiến luôn tìm cách bóc lột người lao động

nghèo khổ. Ngô Tất Tố lại trực diện tấn công vào bộ máy cường hào, quan lại, bênh

vực những người nông dân khốn cùng. Vũ Trọng Phụng - “Ông vua phóng sự đất

Bắc” xây dựng những điển hình phê phán xã hội giả dối, “vô nghĩa lý”. Nhà văn

Nguyên Hồng xót thương cho những người khốn khổ trên từng trang viết, còn Nam

Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc với những kiệt tác văn học phản ánh tình trạng

đói về vật chất, mòn mỏi về tinh thần. Cùng với những nhà văn hiện thực đương

thời, Trương Tửu đã dùng ngòi bút của mình soi chiếu, lột tả, phơi bày những cảnh

46

tượng đau khổ của hạng người đói rách, bần cùng trong xã hội; bênh vực, cảm

thông cho những nạn nhân của hoàn cảnh. (Tác giả của cuốn Nhà văn hiện đại đã

xác định Trương Tửu là một nhà “Tiểu thuyết xã hội”). Tác phẩm của ông đi sâu

phản ánh thực trạng xã hội thực dân phong kiến với những đổ vỡ, hoang mang của

lớp người trẻ tuổi; những tệ nạn xã hội, những hành động tự giải thoát,… Nhà văn

còn chú trọng tìm hiểu bản chất của vấn đề, khám phá nguyên nhân dẫn tới thực

trạng xã hội. Các phương diện đề tài, chủ đề trong các tác phẩm của nhà văn đều

toát lên tinh thần tranh đấu, thể hiện khát vọng vươn tới một xã hội ngày càng tốt

đẹp hơn. Trên quan điểm như vậy, sáng tác.của Trương Tửu đã đồng nhất với quan

điểm của X.M Pêtơrốp: “Nhà văn hiện thực đi tìm sức mạnh làm thay đổi cuộc sống

theo những quy luật của tự nhiên, không phải trong lí tưởng trừu tượng mà ngay

trong cuộc sống thực” [103, tr. 103]. Tuy không có được số lượng sáng tác dồi dào

và những tác phẩm chưa có tiếng vang lớn trên văn đàn đương thời, song văn xuôi

Trương Tửu cũng là một hiện tượng văn học đáng chú ý của trào lưu văn học hiện

thực giai đoạn 1930 - 1945. Trương Tửu đã đóng góp vào sự phát triển mạnh mẽ

của khuynh hướng này với 13 tác phẩm văn xuôi ở thể loại truyện ngắn và tiểu

thuyết. Văn xuôi của ông phản ánh chân thực đời sống xã hội, có giá trị về nhiều

mặt (lịch sử, văn hóa, xã hội,…).

Trong những tác phẩm văn xuôi Trương Tửu ta có thể nhận ra khá rõ dấu ấn

của văn học truyền thống và những ảnh hưởng, tiếp thu văn học phương Tây. Sự

tiếp thu và ảnh hưởng từ văn học phương Tây trong văn xuôi Trương Tửu thể hiện

rõ trên cả phương diện nội dung và hình thức của tác phẩm. Đề tài trong tác phẩm

văn xuôi Trương Tửu đã tạo thành bức tranh xã hội rộng lớn, bao quát nhiều

phương diện đời sống. Một trong những nét mới về nghệ thuật thể hiện nhà văn đã

đi sâu phân tích bi kịch con người cá nhân bị bần cùng hóa, bế tắc trước sự biến đổi

của cuộc đời. Trương Tửu đã chú trọng phân tích tâm lý con người cá nhân theo dòng

ý thức, theo những ẩn ức tâm trạng và cả những khía cạnh tính dục. Cần phải thấy,

các nhà văn theo quan điểm “tả chân”, “tả đúng sự thật” [95, tr. 220] có khi không

phân biệt rõ ranh giới giữa chủ nghĩa hiện thực (realism) và chủ nghĩa tự nhiên

(naturalism) nên có những trang văn viết theo bút pháp tự nhiên chủ nghĩa (Hiện

47

tượng này, J.A. Cuddon trong Từ điển thuật ngữ văn học và lý luận văn học đã khái

quát: “Trong phê bình văn học chủ nghĩa tự nhiên là một từ mà thỉnh thoảng vẫn

được dùng như là từ đồng nghĩa với chủ nghĩa hiện thực” [178, tr. 574]). Trương Tửu

không ngoại lệ, những nét mới táo bạo ấy phản ánh sự ảnh hưởng rõ nét của văn học

phương Tây đến Trương Tửu và nhiều cây bút cùng thời với nhà văn.

2.2. Tác giả, tác phẩm Trương Tửu trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại

2.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp

Trương Tửu 1913 - 1999

Giáo sư - nhà văn Trương Tửu sinh ngày 18-11-1913; mất ngày 16-12-1999;

nguyên quán làng Bồ Đề, xã Phú Viên, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay là

phường Bồ Đề, quận Long Biên, Hà Nội). Sinh thời, ông được biết đến với nhiều

bút danh khác như T.T; Nguyễn Bách Khoa, Hoàng Canh, Mai Viên… Một tuổi trẻ

sôi động, khát khao Dân chủ đã lôi cuốn cậu học trò Trương Tửu theo không khí

sục sôi yêu nước đòi thả cụ Sào Nam Phan Bội Châu ở Việt Nam đầu thế kỉ XX.

Đang học năm cuối cùng ở trường Tiểu học Hàng Than, Trương Tửu chịu ảnh

hưởng mạnh mẽ từ bài thơ Chiêu hồn nước của Phạm Tất Đắc, Trương Tửu tham

gia rải truyền đơn kêu gọi học sinh bãi khoá. Ngay lập tức cậu học trò 15 tuổi bị

đuổi khỏi trường. Đây là lần đầu tiên cánh cửa cuộc đời đóng sập trước mắt Trương

Tửu. Không chịu lùi bước, bằng quyết tâm tự học, ông tiếp tục học xong Tiểu học

và Trung học ở trường tư thục đầu tiên của Hà Nội mang tên Trương Minh Sang chỉ

trong hai năm. Sau đó, ông học hết năm thứ nhất bậc trung học, rồi học trường Kỹ

nghệ thực hành ở Hải Phòng (nghề thợ tiện, cùng trường lớp với Lê Văn Siêu).

Nhưng chỉ được một năm rưỡi thì bị đuổi học (năm 1927) vì tham gia bãi khoá ở Hà

48

Nội để đòi thực dân Pháp thả Phạm Tất Đắc - tác giả bài thơ Chiêu hồn nước. Bị

buộc rời trường, ông tự học chương trình Tú tài Pháp Việt. Từ năm 1941 đến 1946,

Trương Tửu làm Giám đốc Văn chương (tương tự Tổng biên tập) Nhà xuất bản Hàn

Thuyên. Bút danh Trương Tửu bị cấm, ông phải lấy bút danh Nguyễn Bách Khoa

tiếp tục viết sách. Tháng 5/1945, ông bị hiến binh Nhật lùng bắt phải bỏ trốn và tập

san Văn mới bị tịch thu. Thời kháng chiến chống Pháp, ông là ủy viên Hội Văn hóa

Việt Nam, chi hội phó Chi hội Văn hóa Thanh Hóa, tham gia bí thư đoàn liên đoàn

Văn nghệ kháng chiến liên khu IV, dạy trường Thiếu sinh quân, trường Dự bị đại

học. Sau hiệp định Genève 1954, ông hồi cư về Hà Nội, dạy Trường Đại học Sư

phạm, Đại học Văn khoa Hà Nội. Năm 1956, ông tham gia phái đoàn giáo dục đại

học tham quan nghiệp vụ ở Trung Quốc. Năm 1957, ông được phong chức danh

Giáo sư. Với những hoạt động văn nghệ đầy sôi nổi của ông, người ta gọi ông là

một chiến sĩ tiên phong.

Những năm 1954-1955, bối cảnh xã hội, văn hóa Việt Nam có những diễn

biến phức tạp. Trong khi đó, một số trí thức, văn nghệ sĩ muốn sớm có một

không gian rộng rãi cho đời sống văn hóa, văn nghệ và tự do trong sáng tạo nghệ

thuật. Tuy nhiên, để có được sự thay đổi đó mọi vấn đề liên quan tới văn hóa,

văn học không thể diễn ra trong một sớm một chiều. Trương Tửu là người có tư

tưởng tiến bộ muốn bắt nhịp nhanh với cái mới, do đó vào đầu năm 1958 ông bị

buộc thôi việc vì liên quan đến vụ Nhân văn giai phẩm. “Vụ án” Trương Tửu

diễn ra trong thời gian khá dài. Đó là điều đáng tiếc đối với một nhà phê bình,

một nhà văn, nhà tư tưởng. Trong khoảng bốn chục năm cuối của cuộc đời, ông

chuyển sang nghiên cứu y học và sống bằng nghề Đông y. Ngày 16/12/1999, sau

một thời gian lâm bệnh, ông đã qua đời tại Hà Nội.

Nhà văn, nhà văn hóa Trương Tửu đã trải qua một cuộc đời giàu nghị lực, đầy

tâm huyết và trách nhiệm và để lại một sự nghiệp văn học đáng trân trọng. Cuộc

đời, con người và tác phẩm của ông vẫn đang tiếp tục được nghiên cứu, luận bàn;

thậm chí còn sôi nổi hơn khi ông còn sống. Những ai quan tâm đến lịch sử phê bình

văn học Việt Nam hẳn không quên trường hợp nhà phê bình Trương Tửu, một trong

số ít những người Việt Nam đầu tiên có tư tưởng rất mới: lấy khoa học làm phương

49

hướng cho hoạt động nghiên cứu văn chương. Trong xu thế đổi mới, nhiều “nghi

án” lịch sử và “nghi án” văn học được nhìn nhận lại với quan điểm lịch sử- cụ thể

và với một thái độ khách quan, khoa học, trong đó có trường hợp của Trương Tửu.

2.2.2. Nhà văn - Nhà lý luận phê bình Trương Tửu với những đóng góp trong

tiến trình văn học hiện đại

Với vai trò là nhà văn, Trương Tửu là tác giả của hơn mười tiểu thuyết và

truyện ngắn. Mười ba tác phẩm được xuất bản từ trước Cách mạng tháng Tám năm

1945. Phần lớn các sáng tác của Trương Tửu đều có mối liên hệ chặt chẽ với dự đồ

sáng tạo, với chủ đích luận đề đấu tranh xã hội, với tính tư tưởng mà tác giả suy tôn,

tin tưởng. Những lời tựa, đề từ, trữ tình ngoại đề có sự tương hợp chặt chẽ với toàn

bộ nội dung tư tưởng tác phẩm. Đây chính là một đặc điểm quan trọng, góp phần

định hướng, chi phối toàn bộ các tác phẩm văn xuôi của Trương Tửu giai đoạn

trước Cách mạng tháng Tám 1945.Ông cũng như nhiều nhà văn giai đoạn đầu thế

kỷ XX, đã xác định những con người bình thường và thế giới nội tâm của họ là đối

tượng miêu tả trong các sáng tác.

Từ thực tế những năm đầu thế kỷ XX, nước ta có nhiều sự thay đổi do khai thác

thuộc địa của thực dân Pháp và ảnh hưởng của văn hóa phương Tây du nhập nên trong

xã hội hình thành những lối sống mới, những cách ứng xử mới của con người trong đời

sống xã hội, từ đó các nhà văn như Trương Tửu, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng

Phụng…đã đưa hiện thực cuộc sống vào sáng tác một cách khá chân thực.

Người lao động và người trí thức là những người bình thường trong xã hội

thực dân nửa phong kiến được Trương Tửu nhìn nhận, đánh giá rất khách quan. Với

những cảm xúc về người lao động, ông thấy ở họ sự mòn mỏi trong cuộc sống

nghèo khổ. Ông đã tìm cho mình hướng viết bằng cái tâm, cái tài, bằng lựa chọn

chính xác cho con đường tranh đấu vì học thuật khi ông áp dụng cả những điều mới

mẻ của quá trình tự tìm tòi, học hỏi. Sâu xa hơn trong mỗi trang viết ông gửi gắm

thông điệp - tố cáo thực dân, tố cáo chính sách cai trị của nhà nước thực dân nửa

phong kiến - khiến cho đời sống của người dân An Nam khốn khổ, cùng cực, bế tắc.

Người dân lao động là những người tham gia vào hoạt động sản xuất trong xã

hội. Cuộc sống lao động sản xuất của họ được Trương Tửu khái quát sinh động.

50

Ông không dùng lời lẽ sắc sảo, chì chiết như Nam Cao nhưng cuộc sống nghèo khổ

của người dân lao động trong bối cảnh đương thời khiến người đọc không khỏi day

dứt, xót xa. Nhà văn tìm về với phương pháp sáng tác hiện thực, phản ánh cuộc

sống của con người với những bế tắc vây quanh.

Khác với Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Trương Tửu viết về cuộc sống của

những con người nghèo khổ mà không cần dùng đến sự cường điệu hóa, không lấy

mục đích đả kích, châm biếm làm trọng, không xây dựng nhân vật điển hình trong

hoàn cảnh điển hình nhưng mỗi số phận, mỗi cảnh đời như từng thước phim quay

chậm khiến người xem phải đau đáu về một xã hội lúc bấy giờ. Ngô Tất Tố có cái

nhìn của một người trí thức vẫn còn phảng phất chút Nho học nhân văn, luôn đượm

niềm thương tâm trước nỗi khốn cùng khổ của người nông dân, còn Trương Tửu

viết về nỗi khốn cùng ấy như viết về tấn bi kịch của mình. Cái tôi của ai (Tâm sự)

gần với tùy bút - triết lý hơn là một truyện vừa. Một con người tự phân tích cái tôi

của mình để thấy rõ hơn bản chất, thế giới nội tâm cũng như những hành vi ứng xử

của mình. Một vài câu chuyện được kể lại chứng minh cho những xét đoán của tác

giả. Với đồng lương của một thày ký còm tháng hai ba chục, tôi phải bảo vợ bớt

tiền chợ. Nhưng rồi cô em họ đến chơi, chứng kiến bữa cơm đạm bạc. Tôi xấu hổ,

mắng vợ và khi thấy vợ tức tưởi khóc, tôi lại thấy hối hận. Vậy là, hôm qua tôi là

cái đầy tớ của cái tôi bên trong, hôm nay lại là cái đầy tớ của cái tôi xã hội. Và khi

tôi hối hận vì đã mắng vợ vô lý, thì lại có cái tôi thứ ba nữa: cái tôi đạo đức, đóng

vai quan tòa của lương tâm mình. Tác giả cũng đề cập tới sự ích kỷ của cái tôi. Cái

tôi ích kỷ ấy khiến cho tôi đã có lần tham một gói kẹo của ai đó để quên trên xe điện.

Sự ích kỉ tham lam của tôi có căn nguyên chính là do nghèo túng khiến một thầy ký

lương tháng đôi ba chục đồng cũng trở nên quẫn bách “Thú thật với anh, lúc ấy tôi

hoàn toàn có tâm địa ăn cắp” [120, tr. 571].

Cơ sự đói nghèo của những con người lao động cứ ám ảnh trong những trang

văn của tác phẩm Khi người ta đói. Con người ai cũng có thể gặp lúc đói, lúc khốn

khổ nhưng khốn khổ như Thiện và Thanh, Mỹ thì thật ám ảnh. Thanh bị đói nghèo

làm cho tiều tụy, thảm thương. Vì đói nghèo cô phải đến nhà chủ để khất tiền thuê

nhà và cái thân tiều tụy của cô bị hành hạ, làm nhục trong hoàn cảnh ấy khiến cô tủi

51

nhục đến đau đớn ê chề và sinh bệnh “Thân bệnh não thế này, một xu không có, mẹ

vào nhà thương, anh bị giải bóp... Bây giờ lại sắp bị đuổi ra khỏi nhà. Nghĩ đến đấy

lòng nàng đau quặn như bị kim châm. Nàng sực nhớ đến cái thai trong bụng. Dạ

nàng rối bời bời. Thân thế nàng lúc này không khác gì một con nai bị bao vây tứ

phiá bởi những khẩu súng của người đi săn.

Không một nơi nương tựa, gạo hết, tiền không... Ngày mai cũng như ngày

nay... Ngày kia cũng như ngày mai... Cái số phận nằm đầu cầu xó chợ, bị gậy kêu

than lạy người qua kẻ lại... đang chờ nàng... Nàng muốn chết vì nàng thấy đời sống

của nàng đã bị dồn vào một con đường tắc tị” [120, tr. 455-456]. Và cuối cùng cô

gái đáng thương ấy treo cổ để tự giải thoát khỏi kiếp sống khốn cùng.

Thanh chết trong nỗi tủi nhục, còn người anh trai của cô là Thiện cũng có một

số phận bi đát, đau thương. Thiện yêu Mỹ, Mỹ là một cô gái có tình yêu nồng nàn,

cao thượng và tấm lòng son sắt thủy chung. Mỹ không phải một nông dân chân lấm

tay bùn, cô là một tiểu thương nhỏ kiếm sống bằng nghề “buôn cau”. Cô đã cố gắng

duy trì cuộc sống cho mình và người thân trong cơn đói kém. Cô buôn bán cau trầu

ở chợ nên cũng có chút tiền lo cho Thiện và giúp cả gia đình của người yêu. Những

tưởng một tấm lòng như Mỹ, trong một điều kiện tuy không mấy dư giả nhưng lẽ ra

cô và Thiện có thể gây dựng một hạnh phúc bé nhỏ. Vậy mà kết cục giữa những

điêu linh của số phận, cuối cùng Mỹ chết đau đớn. Cái chết của nàng như cắt đi sợi

dây níu giữ Thiện với vòng lương thiện, cắt đi niềm hạnh phúc duy nhất đã an ủi

anh trong cuộc đời con người lao động thật thà, khốn khổ.

Xã hội đầy bất công, khi những kẻ lấy đồng tiền để hà hiếp, bóc lột người dân

nghèo khổ mà vẫn sống nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật như tên Cử Mùi. Nhà văn

không khắc họa tên Cử Mùi bẩn thỉu đê tiện thành nhân vật điển hình trong hoàn

cảnh điển hình như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao mà qua đó tác giả đưa đến bạn đọc

hôm nay một thông điệp: Trong xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, còn có

biết bao kẻ giàu có đã cướp bóc trắng trợn của người nghèo. Chúng cướp đi phẩm

hạnh của người nghèo và cướp cả chút tiền công ít ỏi của người làm thuê. Tên chủ

thầu mà Thiện làm thuê cho hắn đã nuốt chửng số tiền công ít ỏi mặc cho anh van

52

xin số tiền đó về làm ma cho người vợ xấu số bất hạnh. Những kẻ xấu xa đê hèn khiến

xúc cảm của nhà văn đẩy lên đỉnh điểm với hàng chuỗi sự kiện diễn ra căng thẳng, ngột

ngạt. Tác giả đã thể hiện sinh động và rõ nét về số phận của kẻ nghèo hèn bằng cách

riêng của mình. Qua những trang văn thấm nước mắt và trĩu nặng ưu tư khiến người ta

không khỏi so sánh cuộc sống trong quá khứ và cuộc sống hiện tại.

Hôm nay, trong xã hội văn minh mặc dù vẫn có những số phận khốn khổ, họ

là những người gặp khó khăn hoạn nạn nhưng trong xã hội đã có biết bao tấm lòng

sẻ chia cả về tinh thần và vật chất để giúp họ trải qua được khó khăn và bước tiếp

trên đường đời. Lời văn của Trương Tửu tuy chưa sắc nhọn như Nam Cao với Chí

Phèo, Một bữa no... song không thể phủ nhận khả năng sáng tạo của nhà văn. Ngòi

bút Trương Tửu đã ghi và phản ánh lại một cách chân thực, khách quan về cuộc

sống của người lao động trong giai đoạn trước năm 1945. Ở bất kì quốc gia nào trên

thế giới, muốn ngày càng phát đều phải chú trọng tới nguồn nhân lực này. Còn ở

nước ta, họ trở thành những bằng chứng cho một giai đoạn lịch sử mà “nhân dân lao

động bị bần cùng hóa, xã hội phân hóa ngày càng sâu sắc”[72, tr. 122].

Mỗi tác phẩm văn xuôi của Trương Tửu đều thể hiện sự chiêm nghiệm trước

cuộc đời với niềm vui, nỗi buồn. Những số phận, những trái ngang của kiếp người cứ

hiển hiện sinh động. Trong mỗi trang viết của ông, khiến những người yêu văn chương,

yêu nghệ thuật không khỏi xót xa, suy nghĩ khi khép lại những trang văn. Đối với

người thanh niên trí thức trong xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX cũng được Trương Tửu

chú ý khám phá và đưa vào trang viết.

Nhà văn chỉ rõ một thực tế đang diễn ra trong xã hội những năm đầu thế kỷ

XX. Thực tế đó khiến nhà văn suy tư, trăn trở bởi bối cảnh xã hội đã ảnh hưởng và

tác động vào con người ghê gớm quá “Những hồi biến động 1929 -1932, tiếp đến

cơn khủng hoảng kinh tế trầm trọng, gieo vào tâm trí mọi người một thất vọng đau

đớn, một chán nản đen tối và một u sầu vô hạn.

Những giá trị xã hội, luân lí, tôn giáo, di truyền lần lượt sụp đổ dưới sức tàn

phá của trào lưu kinh tế khủng hoảng.

53

Không còn ai tín ngưỡng ở tương lai; không còn ai trông mong toại trí trong

hiện tại. Tất cả đều cảm thấy đời xã hội thiếu căn bản, đời cá nhân thiếu đảm bảo và

tự do. Tất cả đều sống trong một trống rỗng tinh thần sâu thẳm như địa ngục.

Nhất là thanh niên thì lại càng bị cái trống rỗng nguy hiểm ấy giày vò tàn

bạo hơn cả. Họ không còn biết nên theo lý tưởng nào, luân lý nào, tôn giáo nào,

Họ bỡ ngỡ như người lạc đường. Sau lưng họ, mở rộng một vực sâu trong đó nằm

lịm những mảnh vụn của văn hóa cũ. Trước mặt họ mở rộng một vực sâu đen ngòm,

chứa đựng những hiểm tượng khó lường. Đến ngay cái nơi đặt chân hiện tại của họ

cũng bấp bênh, không đủ điều kiện làm họ vững lòng mà sống” [120, tr. 47].

Thanh niên, trí thức những người nắm giữ vận mệnh của đất nước lại đang

cảm thấy trống rỗng, bế tắc, buồn chán trong xã hội ấy. Điều này khiến nhà văn

đau xót nhưng ông chỉ nhẹ nhàng lên án vì thấy họ đáng thương hơn đáng trách.

Ông hiểu được căn nguyên: những thanh niên ấy, những trí thức ấy là nạn nhân

của xã hội đó mà thôi. Họ không thể phán kháng, họ càng tự vấn lại mình họ càng

lún sâu hơn xuống đáy của đầm lầy. Liêu đã “tự thẹn và ăn năn”, nhưng “ăn năn

không đủ sức đánh đổ cái quan niệm nhân sinh hiện có của chàng. Chàng vẫn

chưa tìm thấy một lý luận nào có thể dứt bỏ tư tưởng chàng khỏi cái triết lý ăn

chơi. Chàng vẫn cần đến khoái lạc” [120, tr. 107].

Trí thức có nguồn gốc từ tiếng La-tinh là Intellidentina nghĩa là sự thông

minh, có trí tuệ, có nhận thức hiểu biết, dùng để chỉ một bộ phận người trong xã hội

có được những đặc điểm này. Theo Từ điển Tiếng Việt “trí thức là người chuyên

làm việc bằng trí óc và có tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nhà nước

của mình” [108, tr. 1034]. Trong văn học Việt Nam người trí thức được xây dựng

theo quan niệm của mỗi giai cấp khác nhau. Nếu như với Nguyễn Đình Chiểu, nhân

vật Lục Vân Tiên là mẫu người thanh niên trí thức lý tưởng, văn võ toàn tài, có lý

tưởng sống cao đẹp theo quan niệm của Nho giáo chính thống kết hợp với quan

niệm của nhân dân Nam bộ lúc bấy giờ, thì trong nền văn học lãng mạn thuộc Tự

lực văn đoàn sau này, xuất hiện người trí thức là lớp thanh niên mới có học thức

dám đấu tranh chống lại lễ giáo phong kiến để giải phóng cá nhân và tự do hôn

nhân. Tuy nhiên để phản ánh một cách chân thực, sống động về nhân vật trí thức thì

54

chỉ có ở văn học hiện thực phê phán với tác giả tiêu biểu Nam Cao, Vũ Trọng

Phụng, Trương Tửu… Trong những tác phẩm văn xuôi của Trường Tửu hình ảnh

người trí thức dưới cách nhìn của ông trong xã hội đương thời được phản ánh rỏ nét

qua nhân vật như Liêu, Văn, Hòa, Thịnh, Hiền, Hảo trong tác phẩm Thanh niên

S.O.S và Một chiến sĩ.

Trong Thanh niên S.O.S ta bắt gặp Liêu, một chàng trai trẻ đang theo đuổi con

đường học vấn, anh ta cũng hoài vọng khát khao yêu đương. Tình yêu với những

người trẻ tuổi được công nhận như một sự phát triển bình thường của bản năng.

Nhưng Liêu quá khát khao ái tình, nhất là khát khao nhục dục. Anh ta luôn đau đầu,

đau tim vì những mộng mị ái tình, hành lạc. Đầu óc anh ta quay cuồng với những ý

nghĩ táo tợn về lạc thú. Xung quanh Liêu, những người bạn của anh khiến ta có thể

hình dung cả một thế hệ trẻ sa lầy, sống trụy lạc, không lý tưởng, không mục đích. Họ

như những con thuyền chông chênh trên sóng nước, không người lái, không biết đâu

là bến bờ. Họ sống qua ngày đoạn tháng, họ tìm đến sự trụy lạc như một thói quen. Ở

trong xã hội đó với những người bạn như vậy, không bao lâu Liêu giỏi những ngón

ăn chơi và nghiện những lạc thú ấy như một thói hư khó bỏ. Liêu không xấu, nhưng

anh ta không tỉnh táo. Anh ta luôn bị ảnh hưởng bởi những cái ham muốn của

những người xung quanh mình. Đầu óc Liêu thay vì để chuyên tâm học hành, sự

nghiệp và tôn thờ tình yêu trong sáng thì chàng lại cùng Văn lao vào những cuộc ăn

chơi “Liêu lặng lẽ theo Văn lên gác. Vừa leo được vài bậc cầu thang, chàng đã ngửi

thấy mùi thuốc phiện thơm phức” [120, tr. 54]. Liêu cũng như đám bạn Hòa, Thịnh,

Văn thay phiên lấy trộm tiền của gia đình để đi giải buồn bằng gái điếm, thuốc

phiện, sàn nhẩy. Với tiểu thuyết Thanh niên S.O.S Trương Tửu đã minh chứng cho

sự ảnh hưởng mãnh liệt của hoàn cảnh đối với cá nhân. Liêu đang là một thanh niên

trí thức có lý tưởng, theo đuổi học hành, và có nhiều mơ ước nhưng những đổi thay

trong xã hội đã khiến cho lớp thanh niên như Liêu không thể thoát ra được, họ trở

thành nạn nhân trong bọc ung nhọt đang muốn vỡ ra. Hoàn cảnh xã hội đã chi phối

họ và hủy hoại họ không thương tiếc.

Ngược lại với Liêu, chàng trai Hiền trong Một chiến sĩ lại là một thanh niên trí

thức cầu tiến. Hiền mang nét đẹp của một chàng trai sống có lý tưởng cao đẹp, kiên

55

định bền lòng với lý tưởng ấy. Khát vọng của Hiền là được cống hiến cho xã hội,

được tham gia tranh đấu vì xã hội và nhân dân cần lao. Chàng yêu lý tưởng và cũng

rất yêu người con gái có tên Như Lan. Những cuộc đấu tranh giằng xé giữa cái hạnh

phúc bình dị với người thân, khi viết thư để lại cho cha mẹ xong “thiếu niên lại gục

mặt xuống bàn khóc nức nở. Chàng đã dùng hết nghị lực để chiến đấu với đau đớn”

[120, tr. 220], phải dứt bỏ người yêu nồng nàn và tương lai với một gia đình hạnh

phúc, cuối cùng Hiền đã chọn con đường hy sinh tất cả mọi hạnh phúc cá nhân, mọi

lạc thú để dâng hiến toàn tâm toàn hồn cho hoạt động đấu tranh vì mọi người, vì xã

hội. Trong lời Hiền nói với người yêu “...em còn chưa hiểu rằng anh ghét sự an nhàn

ích kỷ, trưởng giả, lặng lẽ như mặt ao tù. Em còn chưa hiểu anh ưa thích cuộc sống

nguy hiểm, giang hồ. Em còn chưa hiểu rằng anh không thể ngồi yên hưởng hạnh

phúc khi quanh mình anh còn bao nhiêu kẻ thiếu cơm ăn áo mặc, sống như súc vật

trong các só tối nhơ nhớp. Anh đã thấy ba bốn kẻ khổ tranh nhau một đống xơ mít

người ta vứt ở vỉa đường. Anh thấy những đứa trẻ nghèo khó đi bới tìm, ở các đống

rác, mẩu khoai mẩu sắn người ta ăn thừa ném đi. Anh thấy những người con gái vì

thiếu ăn phải đi làm đống một cách nhục nhằn trong các nhà hành lạc. Anh đã thấy

những kẻ hành khất nhặt những sợi bánh phở người ta ăn còn sót hắt xuống hè. Anh

đã thấy những ông già phơi mình dưới mưa nắng kêu gào rát cổ để xin khách qua

đường một vài chinh mua cháo húp cho qua cơn đói. Anh đã thấy những thợ thuyền

dân cày túng quẫn bữa cơm, bữa cháo, rút cục chết phanh thây dưới bánh xe của máy

móc hay chết thiêu trong đồng chiêm... Còn những cảnh thương tâm như thế đầy rẫy

quanh mình thìa anh không bao giờ có thể ngồi yên” [117, tr. 192-193].

Những suy nghĩ, những cách ứng xử của Hiền thật đáng để người ta khâm

phục. Suy nghĩ của nhân vật chân thực bởi nó không quá gò ép. Có nhiều đoạn

Trương Tửu miêu tả nội tâm của Hiền rất chân thành, tinh tế. Đó là khi anh ta bị

giằng xé dữ dội giữa lý tưởng cao đẹp với những trách nhiệm, nghĩa vụ và bổn phận

với gia đình, giữa lý tưởng với tình yêu sôi nổi, chân thành. Chàng nhiều lần đau

khổ khi thấy Như Lan, người yêu của chàng bộc lộ tình yêu chân thành, sâu đậm

với chàng. Những cái hôn cháy bỏng, những ánh mắt tha thiết và cả những giọt

nước mắt của người yêu quả đã có lúc khiến chàng mềm lòng “Ngồi bên giường

56

Như Lan, nhìn người yêu, lòng rối như bòng bong. Chàng nhận thấy phần trách

nhiệm to lớn của mình trong sự ốm yếu của Như Lan. Từng hồi từng lớp, những

gợn hối hận cứ xoáy vào lương tâm chàng, tác động như mũi dao bén miết vào một

ung thư nung mủ... chàng có cảm tưởng bị cấu xé tàn bạo bởi trăm nghìn nanh vuốt

vô hình” [120, tr. 199].

Sự tinh tế của Trương Tửu là ở chỗ ấy. Nhà văn xây dựng một con người -

một thanh niên trí thức - một người chiến sĩ không thể chỉ sống bằng lý trí. Trái

tim và tình cảm của cũng góp phần giúp cho anh ta có những quyết định sáng suốt

mà không tàn nhẫn, Hiền có cách ứng xử để thực hiện theo đúng lý tưởng mà vẫn

đầy tình người. Có lẽ không phải chỉ vì Như Lan là một cô gái tốt, mà chính Hiền

đã giúp cho cô hiểu và cảm thông rồi đồng lòng với lý tưởng trong sâu thẳm trái

tim anh. Con đường của Hiền chọn là con đường tranh đấu cải tạo xã hội cho dù

phía trước có đầy những gian truân, vất vả. Qua tác phẩm Một chiến sĩ và liên hệ

đến những tư liệu về Trương Tửu ta thấy nhân vật Hiền như có bóng dáng của

chính nhà văn, một chàng thanh niên say mê những hoài bão lớn và dám tranh

đấu, dám hy sinh vì lý tưởng.

Những người trí thức được phản ánh tập trung dưới cây bút của Nam Cao.

Những nhân vật trí thức đạt đến mức gắn liền với tên tuổi của nhà văn. Đó là những

trí thức sống trong cảnh nghèo nàn tù túng và bế tắc trong cuộc sống bần cùng. Các

nhân vật Điền (Trăng sáng), Hộ (Đời thừa), Hài (Quên điều độ)... họ đều muốn đem

hết tài năng ra thực hiện mong ước của mình. Hộ đã từng "mang một hoài bão lớn.

Hắn khinh những người lo lắng tủn mủn về vật chất. Hắn chỉ lo vun trồng cho cái

tài của hắn mỗi ngày một thêm nảy nở" [39, tr. 8]. Hắn ''nghĩ đến một tác phẩm nó

sẽ làm mờ hết tất cả các tác phẩm khúc cùng ra một thời” [39, tr. 18], một tác phẩm

''vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn". Nói chung, đó là những ước mơ chân

chính, hướng tới một mục đích được thể hiện đam mê với nghề nghiệp, thế nhưng lý

tưởng nghệ thuật cao siêu đành phải nhường bước cho những bài văn viết vội,

những bài báo cẩu thả và có như thế người làm nghệ thuật mới chống trọi được với

cuộc sống đói nghèo đang đeo bám. Bàn tay độc ác của chế độ thực dân phong kiến

đã bóp chết những tài năng, đẩy người trí thức vào ngõ cụt cuộc sống, để họ phải dằn

57

vặt, đấu tranh trong tâm trí trước những lý tưởng cao đẹp với cuộc sống hiện tại, những

người trí thức đã rơi vào bế tắc, không có lối thoát. Ngòi bút hiện thực phê phán của

Nam Cao đã nói lên ý nghĩa sâu sắc qua những người trí thức trong sáng tác của ông:

xã hội những năm đầu thế kỷ XX đã không thuộc về giai cấp vô sản. Người trí thức bế

tắc trong sự mâu thuẫn chính với bản thân họ. Đây cũng là điểm khác biệt rõ nét với

Trương Tửu.

Suy nghĩ, hành động, của người trí thức trong văn Trương Tửu ẩn hiện hình

dáng của chính nhà văn trong đó. Hiền, Hảo đã có những lời nói đầy tin tưởng say

sưa về mục đích tranh đấu cao cả vì dân tộc, vì nhân dân cần lao. Hiền hoàn toàn

khác Liêu. Đó là một chàng trai trẻ, đầy nhiệt huyết, một chàng trai mang nhân cách

của người trí thức trong xã hội đương thời. Chàng say mê được hoạt động, được

tranh đấu. Với chàng, “bỏ tranh đấu, tức là chết. Sống cái đời sát đất của những kẻ

hèn nhát, Hiền sẽ héo người đi mà chết. Địa hạt sinh hoạt của chàng là tranh đấu-

cuộc đấu tranh nguy hiểm không ngừng” [120, tr. 153]. Người chiến sĩ của chúng

ta, nhân vật Hiền, anh là một chàng trai ôm đầy lý tưởng và hoài bão vì nhân dân

cần lao khốn khổ, nhưng anh không chỉ sống bằng lý trí mà vẫn ấp ủ tình yêu

trong sâu thẳm trái tim. Có rất nhiều sự níu giữ của cuộc đời như tình yêu, gia

đình, hạnh phúc bình dị. Nhiều đoạn, chàng trai chiến sĩ ấy phải đối mặt, phải

tranh đấu với chính mình, với những khát khao yêu thương mãnh liệt, với chính

tình yêu nồng thắm của Như Lan. Những đoạn miêu tả cuộc giằng xé nội tâm của

Hiền được Trương Tửu viết thật đặc sắc, xúc động. Nhân vật say mê và tôn thờ lý

tưởng, nhưng nhân vật cũng là một chàng trai đa cảm và có trái tim khao khát yêu

đương. Cảm nhận những cử chỉ, lời nói xuất phát từ trái tim nóng bỏng của chàng

trẻ tuổi ấy chắc hẳn sẽ nhiều người dành cho Hiền sự cảm phục, trìu mến bởi

chàng đã làm chủ được trái tim và giải quyết những mối tơ lòng đầy thuyết phục.

Chàng trai trí thức đã muốn sự thông minh, tài trí và khả năng của mình được

dùng vào một con đường quan trọng, con đường của lý tưởng đấu tranh. Hiền là

một thanh niên cấp tiến, chàng thù ghét đời sống cằn cỗi của những kẻ phụng thờ

miếng cơm manh áo hay cam tâm làm nô lệ cho tập tục. Chàng ghê tởm cái đời tầm

thường, trói buộc của những người lấy vinh thân phì gia làm mục đích. Đó cũng là

58

một chàng trai khi đã xác định lý tưởng thì kiên định trung thành với lý tưởng, chấp

nhận mọi khó khăn đến mức “Những con đường nào thiên hạ đã lát đá phẳng lì,

chàng không muốn bước vào. Trong khu rừng um tùm, chàng muốn tự tay khai phá

một lối đi mới. Rồi trong lối đi này chàng nghênh ngang tiến bước, đầu cao mắt

sáng, luôn chiến đấu với những nguy hiểm bất ngờ” [120, tr. 137]. Chính vì mục

đích sáng rõ, lý tưởng cao quý, tư tưởng tiến bộ và nhân cách cao đẹp mà những trí

thức trẻ như Hiền, Hảo đã thể hiện cái say sưa, sôi nổi chân thành của nhà văn.

Những thanh niên nào được thấm nhuần tim óc trong hoàn cảnh tranh đấu sẽ trở

thành những chiến sĩ tận tuỵ chống lại cái thực thể mục nát của xã hội. Còn những

trí thức bị cuốn vào vòng xoáy quẩn quanh, rơi vào bế tắc, họ để cho những vi

khuẩn xâm nhập vào cơ thể mà không kháng lại được, tất yếu sẽ bị suy vong như

Liêu trong Thanh niên S.O.S, Thông trong Trái tim nổi loạn.

Như vậy người trí thức trong sáng tác của Trường Tửu và Nam Cao có ý nghĩa

khái quát về một tầng lớp người trong xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX.

Họ là những trí thức lương thiện, thấu tình đạt lý, mang hoài bão, lý tưởng, dám

tranh đấu và chọn cho mình con đường dù chông gai nhưng được thỏa chí trai vì

ngày mai tươi sáng, vì những con người cùng khổ, lầm than, vì vận vận mệnh dân

tộc. Tuy nhiên, có một số trí thức trong xã hội ấy lại bị xã hội nhào nặn và không đủ

dũng cảm để giữ vững lẽ sống đúng đắn, lành mạnh. Họ bị nhấn chìm và cuốn đi

theo dòng nước lũ giữa muôn mặt Tây, Tầu đảo lộn.

Những trang văn xuôi của Trương Tửu ra đời trong một xã hội đang diễn ra vô

vàn biến cố ảnh hưởng đến muôn mặt của đời sống. Nhưng thật bất ngờ với lối viết

của ông đó là không quá chìm đắm vào những nỗi thống khổ không lối thoát của

những con người sống trong đó. Trương Tửu rất lạc quan đi vào khai thác đối tượng

này với niềm tin và hi vọng vào cuộc một cuộc sống tốt đẹp hơn sẽ đến.

Trương Tửu là một nhà phê bình văn học có lối tư duy và phong cách độc đáo.

Ở lĩnh vực phê bình văn học, ông thuộc một trong những nhà phê bình văn học đầu

tiên ở Việt Nam theo quan điểm Mác-xit, ông đề cao phương pháp khoa học trong

59

phê bình văn học, có công lý thuyết hóa việc nghiên cứu văn học sử ở nước ta. Ông

đã đưa ra nhiều ý kiến, nhiều nhận định khá mới mẻ về cục diện văn học lúc bấy giờ.

Ở địa hạt phê bình, ông bắt đầu bằng bài báo Triết lý Truyện Kiều trên Đông

Tây tuần báo khi mới 18 tuổi. Sau đó là một loạt bài phê bình văn học Việt Nam

đương đại in trên báo Loa. Tìm hiểu trong cuốn Khảo cứu văn học Việt Nam 1932 -

1945, Trương Tửu đã phê bình sáng tác của các giả như Tản Đà; Song An, Khái

Hưng, Nhất Linh,Thế Lữ, Lan Khai và ông chỉ ra sự kế thừa và đổi mới của họ với

nền văn chương dân tộc. Theo đánh giá của tác giả cuốn sách “Lời phê bình của ông

(Trương Tửu) thời bấy giờ hãy còn lại một nhà phê bình trên quan niệm cổ điển,

dựa trên những nguyên tắc giáo điều để đánh giá cái sự nghiệp văn chương. Ông đã

ca ngợi các nhà văn thuộc nhóm Tự lực văn đoàn, mà sau nầy ông đả kích trên hai

tờ Tri Tân và Ích Hữu” [125, tr. 221]. Đi sâu vào tác phẩm văn chương, ở góc độ

này, ông phân tích và so sánh Tố Tâm, Nửa chừng xuân và Đoạn tuyệt để chỉ ra

diễn tiến tư tưởng trong quan niệm nghệ thuật về con người của các tác giả, đồng

thời Trương Tửu chỉ ra những cống hiến và hạn chế của các tác giả đó. Qua những

trang văn diễm tình của Tố Tâm, Trương Tửu khen ngợi: “Trong văn giới, ông Song

An là người có công to. Ông đứng đầu những nhà văn tả cảnh, tả tình như Khái

Hưng, Thế Lữ…” (Tuần báo Loa số 75), Trương Tửu tiếp tục đưa ra những đánh

giá mà theo tác giả cuốn Khảo cứu Văn học Việt Nam 1932-1945 là “phân tách, ca

tụng theo chủ quan của mình” [125, tr. 223], Trương Tửu không ngần ngại bộc bạch

khi phê bình cuốn Nửa chừng xuân “văn ông Khái Hưng cũng đáng liệt vào hàng

giá trị. Ông có công bồi bổ quốc văn, khêu gợi cho người sau một tin tưởng mạnh

mẽ về tương lai văn học nước nhà.

Địa vị ông trong văn học kể cũng cao lắm rồi! Tôi chỉ mong rằng khi viết văn

ông Khái Hưng không chỉ nên nghĩ đến những người đồng thời”(Tuần báo Loa số

76), tiếp tục dành những lời khen ngợi khi phê bình cuốn Đoạn Tuyệt “có thể coi là

một tiểu thuyết hay nhất trong văn học Việt Nam hiện đại…Đoạn tuyệt là tiếng nói

cuối cùng của tấn kịch thời đại. Nó được hoan nghênh như một hành vi tốt. Ngày

60

nay đang làm sách gối đầu giường của nam nữ thanh niên, mà sao nó sẽ được lưu

truyền như một kho tài liệu phong tục cho xã hội học.

Chúng ta nên cảm tạ ông Nhất Linh” (Tuần báo Loa số 77). Tấn kịch của thời

đại là xung đột giữa cá nhân và gia đình, cái mới và cái cũ, Trương Tửu nhận thấy

những nét khác biệt đáng kể giữa các tác phẩm, các nhà văn. Với cuốn Vàng và Máu

của Thế Lữ, có nhiều đoạn Trương Tửu khen ngợi tác giả “Một khi đặt bút viết câu

chuyện đường rừng, toàn thân ông say sưa sống lại những phút của một tâm hồn cổ

lộ. Mà chỉ những phút ấy, tôi mới thấy được biệt tài của ông”; “Vàng và Máu là một

bài hùng ca của nhân loại chạy theo hạnh phúc và ánh sáng. Nó có thể được chứng

nghiệm ở ba phạm vi khoa học, tôn giáo và nhân sinh” (Tuần báo Loa số 80). Ưu ái

và ca tụng, có lẽ Trương Tửu thấy được những nét mới trong sáng tạo nghệ thuật của

những nhà văn này. Đến với cuốn Đường rừng của Lan Khai cũng không ngoại lệ.

Trên tuần báo Loa số 82, “không ai yêu rừng núi tha thiết như Lan Khai, ông cho nó

một linh hồn, ông theo nó vào nét vẽ…Tôi thành thực mong rằng ông Lan Khai cứ đi

vào hai con đường quen thuộc rừng rú và lịch sử… để hiến cho độc giả những tiểu

thuyết kiệt tác” [125, tr 224]

Xét các tác phẩm của Trương Tửu về lý luận - phê bình văn học kể đến là:

Địa vị Vũ Trọng Phụng trong văn học Việt Nam cận đại in trong Tao đàn – Số đặc

biệt về Vũ Trọng Phụng, tháng 12-1939. Ông đã đánh giá đúng thái độ chính trị

yêu nước và giá trị những tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đối với thời đại. Trong

khi đó, vào thời điểm này, giá trị tác phẩm của Vũ Trọng Phụng còn nhiều ý kiến

tranh cãi, có ý kiến phủ nhận. Tiếp đến Những thí nghiệm của ngòi bút tôi (1940),

Tính sổ 10 năm văn học (1940), Kinh thi Việt Nam (1940), Nguyễn Du và Truyện

Kiều (1942), Văn chương truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công

Trứ (1945), Nhân loại tiến hóa sử (1945), Nguồn gốc văn minh (1945), Văn minh

sử (1945), Văn nghệ Bình dân Việt Nam (1951), Truyện Kiều và thời đại Nguyễn

Du (1956) và Mấy vấn đề Văn học sử Việt Nam (1958),…

61

Ở lĩnh vực lý luận phê bình, Trương Tửu đã phải trải qua những trận “búa rìu

dư luận” vì tư tưởng dân chủ của mình. Viết phê bình, Trương Tửu không chạy theo

tác phẩm cũng không muốn định giá nhà văn. Ông quan niệm: “nhà phê bình, dựa

theo những khuynh hướng hoặc đã rõ rệt, hoặc còn tiềm ẩn, vạch một con đường

cho văn học ngày mai”. Phê bình vì vậy mang tính “động” (ở năng lực dự báo và

định hướng), trái với tính “tĩnh” (ở khả năng khái quát và đúc kết kinh nghiệm) của

văn học sử khi “xếp đặt những khuynh hướng văn học vào những hình kỷ hà đã

vạch sẵn”. Nhà phê bình phải “tìm những định luật, dẫn những chứng cớ” làm căn

cứ để minh xác điều mình nói, giảng giải điều mình nghĩ. Nghĩa là ngoài năng lực

thẩm thấu văn chương, phương pháp phê bình là một điều tiên quyết. Nó làm nên

tính khách quan và khoa học của hoạt động phê bình văn học. Nó không câu chấp

vào “những tình cảm riêng, những thành kiến và dư luận” để chối bỏ lối bình tán

chủ quan. Nó đánh giá, nhận định văn học một cách thực chứng bằng cách vận dụng

thành quả của các nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn như xã hội học, tâm lý học,

di truyền học… vào nghiên cứu, phê bình văn chương. Nhất quán bởi tư tưởng đó,

phê bình văn học của Trương Tửu đi sâu tìm hiểu cá tính làm nên “sở trường” và

những “khuynh hướng” của mỗi tác giả. Ông chịu ảnh hưởng sâu sắc phương pháp

văn hoá - lịch sử của nhà triết học, nhà phê bình văn học Pháp H. Taine. Dựa vào

thuyết chủng tộc - địa lý - lịch sử của Taine, Trương Tửu đi tìm cá tính của nhà văn

Việt ở huyết thống, môi trường địa văn hoá và tình trạng văn hóa - tư tưởng bao bọc

đời sống họ. Bằng phương pháp phê bình này, ông đã có những phân tích lý thú về

cách tả cảnh của Thế Lữ, Lan Khai và Lưu Trọng Lư. Phân tích những tác động của

địa - văn hoá vùng Lạng Sơn với Thế Lữ, Tuyên Quang với Lan Khai và Quảng

Bình với Lưu Trọng Lư. Đến những công trình dài hơi như Nguyễn Du và Truyện

Kiều, Văn chương Truyện Kiều, Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ… Trương

Tửu thể hiện khá đầy đủ khả năng khai thác vấn đề văn học trên lập trường áp dụng

khoa học. Từ cái thế chân kiềng nòi giống - thời điểm - địa điểm, Trương Tửu khai

thác và vận dụng thuyết chủng tộc - địa lý của H. Taine, thuyết tâm phân học của S.

Freud và phản ánh luận của K. Marx để phát triển phương pháp phê bình khoa học

62

của mình. Hippolyte Taine (1828 - 1893) đã có ảnh hưởng mạnh tới tư tưởng của

Trương Tửu. Ông là nhà triết học, sử học, phê bình văn học Pháp. “Taine cho rằng

mọi nhà văn và tác phẩm văn học đều chịu ảnh hưởng của ba yếu tố: chủng học,

môi trường xã hội, thời đại lịch sử. Ông cho rằng các yếu tố tâm sinh lý của nhà văn

cùng các yếu tố về hoàn cảnh xã hội, về lịch sử của thời đại mà trong đó nhà văn

sinh sống, đều có vai trò quyết định đến tính chất và giá trị của tác phẩm văn học”

[24, tr, 186]. Tác giả cuốn Phương pháp luận nghiên cứu văn học đưa ra nhận xét

về Taine: “có thể nói phương pháp nghiên cứu của Taine cũng là một mầm mống

của phương pháp xã hội học hiện đại”[24, tr. 187], tiếp đến là sự khẳng định “chúng

ta không thể không nhắc đến vai trò mở đầu của ông (H. Taine) đối với phương

pháp xã hội học” [24, tr. 187]. Trương Tửu cũng như nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn

khác ở Việt Nam đã tiếp thu sự ảnh hưởng của Taine, tuy nhiên Trương Tửu “vẫn

phê phán Taine là đã không chú ý đến tâm lý cá nhân của nhà văn” [24, tr.188].

Chính lý do đó mà Trương Tửu đã tiếp thu nhiều sự ảnh hưởng khác từ Sigmund

Freud, K. Marx.. S. Freud là người khởi xướng nghiên cứu phân tâm học đối với

một số hiện tượng tinh thần như trong các lĩnh vực tôn giáo, văn học, nghệ thuật,

đạo đức, “trong lĩnh vực lý giải hiện tượng văn học và nghệ thuật, Freud cũng có

mối quan tâm đặc biệt. Theo Freud, ở đây xuất hiện cái vô thức trong sự va chạm

với cái ý thức, mơ mộng có quan hệ thân thiết với huyền thoại, với văn học và nghệ

thuật” [24, tr.149], “Freud quan niệm nội dung đích thực (được ghi nhận từ thời ấu

thơ) bao giờ cũng mang bản chất tính dục và cá nhân mỗi con người đều có bản

năng tính dục từ thời ấu thơ. Cùng thời gian bản năng đó bị dồn nén vào tầng vô

thức; khi lớn lên, các ẩn ức vô thức thỉnh thoảng lại tái hiện trong những giấc mơ và

trong những hành vi ứng xử của cá nhân; và đối với nhà văn chúng được thể hiện

bằng các hình tượng văn học trong tác phẩm” [24, tr. 149-150]. S. Freud đưa ra

quan điểm thuyết phục, độc đáo nhưng cũng bộc lộ hạn chế nhất định như “quan

niệm coi mơ mộng và sáng tác nghệ thuật là giống nhau, coi sự tham gia của ý thức

vào quá trình sáng tác là không cốt yếu bên cạnh vai trò cốt yếu của cái vô thức”

[24, tr.151]. Trương Tửu là người ham học hỏi, vì vậy khi được tiếp cận với những

63

lý thuyết mới ông nhanh chóng vận dụng để gắn vào sứ mệnh của nhà văn. Hơn thế,

thực tế cho thấy Trương Tửu luôn dũng cảm đấu tranh cho chính nghĩa, cho sự tiến

bộ như tham gia bãi khóa ở Hà Nội để đòi thực dân pháp thả Phạm Tất Đắc vào

năm 1927, đến năm 1930 ông vận động học sinh Trường Kỹ nghệ thực hành Hải

Phòng phản đối ban giám đốc bỏ các môn lý thuyết về kỹ thuật… Trương Tửu đã

rất phấn khởi khi gặp được những luồng tư tưởng mới mang đến sinh khí mới cho

văn học. Sự ủy mị, bi quan, phóng đãng và phóng túng trong văn học bị ông bài trừ,

đả kích và thay vào đó ông thể hiện khả năng nắm bắt về một loại văn chương mạnh

mẽ, phản ánh, lên án những cái xấu xa tồn tại trong xã hội. Ông là nhà văn tiếp nhận

phương pháp khoa học tức là xã hội học mác xít, đồng thời kết hợp với tư tưởng

thực chứng H.Taine và phân tâm học Freud để đi đến cái “Tôi” riêng mặc dù cái

“Tôi” riêng ấy đôi chỗ không tránh khỏi khiếm khuyết.

Trương Tửu đã đưa ra những kiến giải riêng, nhiều điểm khá thuyết phục về

cá tính sáng tạo của Nguyễn Du, tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ mà phần cốt

lõi thuộc về “cõi tiềm thức” của nhà văn. Với một hướng đi có phần cực đoan, nhà

nghiên cứu đưa ra nhiều nhận định còn mang tính áp đặt, khô cứng. Điều này cho

thấy phê bình văn học của nước ta lúc đó thường nặng về bình tán, trong khi những

tiếp xúc cần thiết với lý luận phương Tây vẫn còn quá dè dặt. Nhưng Trương Tửu đã

thể nghiệm và nói lên quan điểm riêng dù không tấu cùng bản nhạc với nhiều nhà

nghiên cứu cùng thời. Trương Tửu đã có công trong việc đổi mới nghiên cứu phê

bình văn chương, trả lại cho phê bình văn chương cái thuộc tính khoa học thiết yếu

của nó. Đây là một bước tiến quan trọng trong phê bình văn học. Trong sự tiến bộ

đáng được ghi nhận mà Trương Tửu mang đến cho bộ môn này cũng tồn tại những

mặt chưa hoàn thiện, thậm chí là sự máy móc, áp đặt của một người đem tư tưởng

khoa học vào nghiên cứu, mổ xẻ những vấn đề văn học. Trong thời gian trước Cách

mạng Trương Tửu đã viết Triết lý Truyện Kiều (1931), Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942),

Văn chương Truyện Kiều (1944). Năm 1956 Trương Tửu cho in Truyện Kiều và

thời đại Nguyễn Du nhằm bàn lại về vấn đề Truyện Kiều.

64

Năm 1957, Trương Tửu hoàn thành bản thảo công trình Mấy vấn đề văn học sử

Việt Nam. Đây là công trình có ý nghĩa quan trọng đối với Trương Tửu, mở ra thời kỳ

chuyển biến mạnh mẽ, hoàn thiện thế giới quan và tư duy khoa học của ông. Trịnh Bá

Đĩnh và Nguyễn Hữu Sơn đánh giá: Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam “là một nỗ lực

quan trọng của Trương Tửu trong việc tự ý thức về tiến trình lịch sử văn học dân

tộc”. Trong quá trình tham gia vào công tác văn hóa văn nghệ chín năm kháng chiến

đã tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy của Trương Tửu về các vấn đề phương

pháp luận mác xít cho việc xây dựng một nền móng của khoa học nghiên cứu lịch sử

văn học nước nhà và khoa phê bình văn học với tư cách là một khoa học.Về thái độ đối

với các vấn đề cấp bách của thực tiễn văn nghệ, Trương Tửu đặc biệt quan tâm đến sự

vận dụng học thuyết Mác Lênin vào công tác lãnh đạo văn nghệ của Đảng Lao động

Việt Nam. Đặc biệt khi nhìn kỹ lại bối cảnh xã hội miền Bắc cũng như thế giới những

năm đầu hòa bình lập lại mới hiểu đúng động cơ trong cách làm việc và sáng tạo nghệ

thuật của Trương Tửu trước những vấn đề phức tạp đó.

Trương Tửu đã gặp phản ứng gay gắt khi phát biểu quan điểm trên các tập

“Giai phẩm” về văn nghệ với một động cơ mà theo ông là hoàn toàn trong sáng.

Trong bối cảnh xã hội lúc đó, có những con đường đan nhau mà nhiều người cầm

bút còn đang phân vân không biết nên chọn cho mình đường đi nào, nếu không bền

tâm vững chí họ có thể lạc lối giữa những nguồn ảnh hưởng phức tạp. Trong hoàn cảnh

ấy, Trương Tửu đã chọn một con đường đầy gian khó. Sự “dấn thân” của Trương Tửu

khi vận dụng nhanh chóng cái mới của văn hóa, văn học phương Tây vào vào văn học

Việt Nam đã gây tranh cãi suốt một thời gian dài với những quan điểm trái chiều.

Nếu ở miền Bắc sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm, tên tuổi và tác phẩm của Trương Tửu

bị loại trừ, thì ở miền Nam, ảnh hưởng Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa trong các

trường đại học rất lớn. Miền Nam có Nguyễn Văn Trung và Thanh Lãng đánh giá

rất cao về phê bình của Trương Tửu. Như vậy, để hiểu và đánh giá đầy đủ, sâu sắc

về các tác phẩm lý luận - phê bình văn học của Trương Tửu, có lẽ phải cần có

những công trình nghiên cứu chuyên sâu.

65

Tiểu kết

Văn học Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX đã tiến nhanh trên con đường

hiện đại hoá. Quá trình đổi mới và hiện đại hoá diễn ra dưới những ảnh hưởng của

các trào lưu văn học, triết học phương Đông và phương Tây, nhất là sự ảnh hưởng

của văn học Pháp. Những nhà văn tên tuổi xuất hiện, họ là đại diện tiêu biểu cho cả

một thế kỷ trong quá trình vận động, tổng hợp những thành tựu của nền văn học dân

tộc truyền thống và chắt lọc tinh hoa văn hoá nhân loại.

Văn học Việt Nam hiện đại đầu thế kỷ XX gắn với sự phát triển của văn xuôi

hiện đại mà thành tựu đỉnh cao nằm ở giai đoạn 1930-1945. Văn xuôi giai đoạn này gắn

với tên tuổi của những nhà văn như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng,

Nam Cao, Trương Tửu, Nguyên Hồng,... Mỗi nhà văn một phong cách với khả năng

phát hiện, tái hiện đầy đủ, sâu sắc đời sống xã hội đương thời. Riêng Trương Tửu,

ông đã tạo cho mìnhmột dấu ấn riêng, một lối đi riêng. Trương Tửu và các sáng tác

của ông đã nhận được nhiều ý kiến đánh giá khác nhau, điều này cho thấy sự ảnh

hưởng của nhà văn trong đời sống văn học là không thể phủ nhận.

Trương Tửu với một cuộc đời trải qua nhiều thăng trầm nhưng luôn là nhà

văn, là người thầy đầy tâm huyết và trách nhiệm. Ông say mê với mỗi công việc,

để thời gian, công chúng là thước đo đúng đắn nhất về con người và những tác

phẩm văn xuôi, các sáng tác nghiên cứu lý luận phê bình mà ông từng cho xuất

bản. Những nhận định thiếu khách quan về ông rồi cũng qua đi. Hôm nay trong

xu thế xã hội mới Trương Tửu được nhìn nhận, đánh giá lại một cách đúng đắn

và khoa học hơn.

66

Chương 3

HỆ THỐNG ĐỀ TÀI VÀ CẢM HỨNG SÁNG TÁC

CHỦ ĐẠO CỦA NHÀ VĂN TRƯƠNG TỬU

3.1. Đề tài

Trong văn học, đề tài thuộc phương diện nội dung tác phẩm. Trong cuốn 150

thuật ngữ văn học khái niệm đề tài được định nghĩa là: “Phạm vi các sự kiện tạo

nên cơ sở chất liệu đời sống của tác phẩm (chủ yếu là tác phẩm tự sự và kịch), đồng

thời gắn với việc xác lập chủ đề của tác phẩm. Đối với phần lớn sáng tác thơ trữ

tình, khái niệm đề tài gần như đồng nhất vào khái niệm chủ đề. (Ở các hệ thuật ngữ

Châu Âu, khái niệm “théma” bao gồm cả hai nét nghĩa đề tài và chủ đề).

Những thuộc tính chung về đề tài (và chủ đề) là căn cứ để tập hợp tác phẩm

theo nhóm thể tài…”[ 5, tr. 127].

Theo Từ điển thuật ngữ văn học: Đề tài là “Khái niệm chỉ các loại hiện tượng

đời sống được miêu tả, phản ánh trực tiếp trong sáng tác văn học. Đề tài là phương

diện khách quan của nội dung tác phẩm” [44, tr. 110].

Các hiện tượng đời sống có thể liên kết với nhau thành loại theo mối liên hệ

bề ngoài giữa chúng hoặc thành loại theo mối quan hệ bên trong của chúng. Ở

giới hạn bề ngoài của đề tài, các phạm trù xã hội, lịch sử giữ vai trò quan trọng.

Nhiều khi đề tài gắn liền với một hiện tượng xã hội, lịch sử, xuất hiện và trở

thành phổ biến trong đời sống tinh thần của một thời hay một giới nào đó. Như

vậy, đề tài có thể xem là phương diện khách quan của nội dung tác phẩm, chỉ các

loại hiện tượng đời sống được miêu tả, phản ánh trực tiếp trong sáng tác văn học.

Các hiện tượng đời sống đó có thể liên kết nhau thành loại theo mối liên hệ bề

ngoài và bên trong. Ở giới hạn bên trong thì bản chất xã hội của cuộc sống, của

tính cách và số phận con người giữ vai trò quan trọng. Sự xác định giới hạn bề

ngoài và giới hạn bên trong như trên có ý nghĩa tương đối. Đề tài của một tác

phẩm thường là cả một hệ thống các hiện tượng đời sống liên quan với nhau, bổ

sung cho nhau, là đối tượng của nhận thức, lựa chọn gắn liền với dụng ý, thế giới

quan, lập trường tư tưởng, quan điểm thẩm mĩ của nhà văn.

67

Cũng như các nhà văn thuộc khuynh hướng văn học hiện thực, tâm hồn, tình

cảm và ngòi bút của Trương Tửu luôn gắn chặt với cuộc đời và con người, từ đó kết

tinh lại thành những trang văn giàu chất hiện thực. Nhìn chung, các tác phẩm văn

xuôi của Trương Tửu đã bao quát một hệ thống phạm vi phản ánh hiện thực khá

rộng lớn. Đề tài trong văn xuôi Trương Tửu khá phong phú như đề tài tình yêu,

hạnh phúc, tệ nạn xã hội hay những đề tài lịch sử. Điều này được thể hiện sinh động

trong 13 tác phẩm: Thanh niên S.O.S (1937), Một chiến sĩ (1938), Khi chiếc yếm rơi

xuống (1939), Trái tim nổi loạn (1940), Một cổ đôi ba tròng (1940), Tôi nguyền rủa

mãi người cha ấy (1940), Khi người ta đói (1940), Đục nước béo cò (1940), Một

kiếp đọa đầy (1941), Cái tôi của ai (1941), Thằng Hóm (1940), Tráng sĩ Bồ Đề

(1942), Năm chàng hiệp sĩ (1942). Tất cả đều bắt rễ từ cuộc đời, từ hiện thực xã hội.

3.1.1. Đề tài tình yêu

Tình yêu là một trong những đề tài nổi bật của văn xuôi Trương Tửu. Trong

các tác phẩm của ông, tình yêu của giới trẻ nhất là những thanh niên trí thức mang

đậm dấu ấn của thời đại - một thời đại vừa có sự mâu thuẫn, tranh chấp vừa giao

thoa giữa cái cũ và cái mới, giữa những tư tưởng phong kiến lạc hậu và lối sống Âu

hoá hiện đại của phương Tây đang từng ngày từng giờ xâm nhập vào đời sống xã

hội. Tác giả không chỉ đề cập tới tình yêu mang tính bản năng, vụ lợi mà còn khắc

hoạ sinh động, sâu sắc những mối tình cao thượng đẹp đẽ, trong sáng.

Ở một số tác phẩm, Trương Tửu đã lên án tình yêu trụy lạc, lối sống buông

thả, vô trách nhiệm. Trong Thanh niên S.O.S, Liêu đã nuôi trong lòng một tình cảm

trong sáng với Sâm. Chàng trẻ tuổi ấy yêu một cách âm thầm với một trái tim trong

sáng. “Từ khi gặp Sâm, chuyện trò cùng Sâm, Liêu chỉ còn biết thờ có một lý

tưởng: TÌNH YÊU, chỉ chiêm bái có một thần tượng: ĐÀN BÀ, chỉ theo đuổi có

một mục đích: LẬP GIA ĐÌNH”. Rồi trong những ngày xa người yêu, Liêu chỉ cần

ngắm ảnh nàng và “tưởng tượng đến cái tổ uyên ương ấm áp mà chàng sắp gây

dựng cũng đủ thấy lòng hồi hộp và rung động” [120, tr. 48]. Tình yêu của Liêu có

thể đã đẹp và đi đến hạnh phúc nhưng rồi kết cục là gì? Liêu đã thay đổi về tư

tưởng, về nhận thức. Chàng coi Sâm cũng chỉ là một quả quất, chàng đã “ăn cái vỏ

nõn nà của quả quất chín tới ấy. Chàng nghĩ phân vân không biết bây giờ có nên

68

ném cái ruột quất xuống rãnh bùn?” [120, tr. 110]. Chàng đã làm cho Sâm - người

mà chàng yêu tha thiết - mang thai rồi bỏ mặc nàng khiến nàng phải bỏ nhà ra đi

dấn thân vào gió bụi. Bản thân thì mắc bệnh nặng khó lòng qua khỏi vì chơi bời trác

táng. Trương Tửu đã chỉ rõ cho người đọc thấy nguyên nhân của sự đổi thay này

đến từ môi trường xã hội. Liêu làm sao có thể là một con người có chí khí, có lí

tưởng khi những người bạn xung quanh Liêu toàn những người bạn chơi bời, thuần

thục trong lí luận về ăn chơi và thuần thục trong cả những ngón nghề ăn chơi trụy

lạc? Văn - bạn Liêu - đã “bơm” vào đầu anh ta những tư tưởng đồi bại, rằng ái tình

chỉ là tình dục, chỉ là sự thỏa mãn nhục dục. Văn và những “pho tiểu thuyết diễm

tình trong rừng văn Pháp, Trung Quốc và Việt Nam”, những đoạn phim trong nhà

chiếu bóng khiêu dâm đã làm hỏng những nhận thức trong sáng về tình yêu của

Liêu. Viết về tình yêu trong quan niệm của Liêu và giới thanh niên bạn chàng, nhà

văn như cất một tiếng kêu cứu cho thứ tình cảm nhân bản nhất và cũng nhân văn

nhất của con người. Với tình yêu mù quáng, Sâm đã lãnh chịu sự đau khổ đến tột

cùng, có mang với người yêu nhưng bị người yêu bỏ rơi. Cô phải bỏ gia đình đi

hoang và tiền đồ đang chờ đợi cô chính là kiếp giang hồ, kiếm sống bằng những

việc làm nhơ nhớp. Tình yêu của thanh niên như Liêu, Sâm hay Văn không chỉ

nhầm đường lạc lối mà còn bị chi phối bởi tư tưởng cổ hủ của xã hội phong kiến

còn rơi rớt. Sâm không chỉ khổ vì yêu nhầm một chàng trai sống trụy lạc, không lý

tưởng, không mục đích. Đời cô còn khổ bởi sự sắp đặt, cưỡng ép hôn nhân của gia

đình. Nếu không có sự sắp đặt phải lấy một người mình không yêu liệu Sâm có liều

mình hiến thân cho Liêu để rồi phải chuốc lấy ê chề một đời? Và khi biết mình

mang thai cô cũng biết trước tương lai của mình bởi những định kiến hẹp hòi của

gia đình, xã hội không chấp nhận lầm lỗi trong tình yêu. Cô sẽ bị coi như kẻ bỏ đi.

Cô đã quyết định tha hương trước khi viết cho Liêu những bức thư đầy oán hờn về

tình yêu mù quáng của mình và sự vụ lợi yếu hèn của Liêu.

Phần lớn các sáng tác của Trương Tửu đều có mối liên hệ chặt chẽ với dự

đồ sáng tạo, với chủ đích luận đề đấu tranh xã hội, với tính tư tưởng mà tác giả

suy tôn, tin tưởng. Ngay ở lời tựa cho tác phẩm Thanh niên S.O.S, nhà văn đã

gióng lên một hồi chuông cảnh báo kết án “chỉ tại xã hội” khiến thanh niên sa

69

ngã vào tình yêu bản năng, ích kỉ, hưởng thụ thân xác. Như vậy, có thể thấy,

những lời tựa, đề từ, trữ tình ngoại đề đều có có sự kết hợp chặt chẽ với toàn bộ

nội dung tư tưởng tác phẩm. Đây chính là một đặc điểm quan trọng, góp phần

định hướng, chi phối hầu hết các tác phẩm văn xuôi của Trương Tửu giai đoạn

trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Ở tác phẩm Trái tim nổi loạn, thông qua câu chuyện tình của Thúy và Thông,

Trương Tửu đã đề cập đến đề tài tình yêu ở một hoàn cảnh khác. Thúy và Thông

đến với nhau bằng sự cuốn hút của ái tình, lạc thú. Tình yêu của Thông thể hiện rõ

sự cuồng nhiệt nhưng cũng rất chân thành. Với Thúy, ban đầu là sự cuốn hút bởi

nhục dục nên cũng say mê đắm đuối với tình yêu, nhưng nàng thật sự đến với ý

định hôn nhân của Thông bởi cần một sự giải thoát cho hoàn cảnh bi kịch của mình,

giống như một kẻ chết đuối cần một cái cọc để bám. Hôn nhân có những toan tính,

hôn nhân bất đồng về tập quán, lối sống, hôn nhân không có điểm chung là những

nguyên nhân khiến cho cái gia đình hạnh phúc mà họ tạo nên sớm đổ vỡ. Tưởng

rằng cuộc hôn nhân vượt lên trên cả lễ giáo gia phong, được xây dựng bằng sự say

mê của ái tình sẽ có kết cục hạnh phúc viên mãn, nhưng không phải vậy. Kết thúc

câu chuyện thật buồn, Thông đã dìm chết cả bản thân và người vợ sắp li dị trong

cơn biển động. Trong lòng anh là cả một sự đổ nát, tâm hồn anh trống rỗng vì mất

mát. Tại đâu mà hạnh phúc của họ tan vỡ khi họ đã quyết chí đến với nhau? Ngoài

nhiều lý do có thể kể đến, có lẽ có cả nguyên nhân từ Thúy, một cô gái quá tân thời!

Lối sống với quan niệm yêu tự do và phóng túng đến buông thả mà cô ảnh hưởng từ

phương Tây sao có thể gây dựng một mái ấm hạnh phúc bình dị? Với người đàn bà

này, tình yêu sôi nổi chỉ để thỏa mãn ham muốn nhất thời của cá nhân. Lối sống ích

kỷ đó không hiếm gặp ở thanh niên bấy giờ.

Tác giả đã lên án lối sống buông thả, tình yêu ích kỷ chỉ nhằm thoả mãn bản

năng sẽ dẫn con người đến những kết cục đầy thảm hoạ. Đây cũng là tiếng kêu cứu

về lối sống sa ngã đầy bản năng dục vọng của những thanh niên trí thức đương thời.

Trương Tửu không giới hạn về hướng phát triển của một đề tài. Đề tài tình yêu

còn được thể hiện khá linh hoạt, khai thác ở nhiều góc cạnh, nhiều chiều trong các

tác phẩm văn xuôi của ông. Nhà văn đã không ngớt lời ca ngợi tình yêu đẹp, tình

70

yêu đồng nghĩa với hy sinh, với khát vọng bình dị và cao thượng. Đó là tình yêu

giữa Như Lan và Hiền (Một chiến sĩ); tình yêu giữa những con người nghèo khổ như

Thiện và Mỹ (Khi người ta đói) hay tình yêu cao thượng của Huấn và Nguyệt Minh

(Tôi nguyền rủa mãi người cha ấy)… Như Lan và Hiền trong Một chiến sĩ là những

thanh niên đáng yêu, đáng trân trọng. Tình yêu của họ đẹp một cách nồng nàn và

trong sáng. Điều đáng khâm phục là họ biết đấu tranh để từ bỏ những ham muốn cá

nhân, tôn thờ những cái thiêng liêng. Nghĩa vụ của một chàng trai trong thời loạn là

biết hy sinh hạnh phúc của mình để nghĩ đến hạnh phúc cho mọi người. Còn Như

Lan, vốn là một cô gái yếu đuối, yêu tha thiết nhưng cô đã nhận ra, thấu hiểu và

cảm thông cho những lý tưởng của người yêu dù cô vô cùng đau đớn khi phải chấp

nhận hy sinh. Như Lan đã để Hiền đi trên con đường anh chọn. Cô không níu kéo

người yêu cho riêng mình khiến người yêu phải vướng bận mà cao thượng chọn

một lối đi bên cạnh để chờ đợi lặng thầm, hi vọng làm động lực cho người yêu hoàn

thành chí hướng.

Trong tác phẩm Khi người ta đói, Trương Tửu lại đặt tình yêu vào một thử

thách không kém phần khốc liệt của cuộc sống, đó là nạn đói. Thiện thất nghiệp.

Anh lương thiện, có bàn tay khối óc nhưng không tìm được việc làm. Anh đói đến

thảm thương. Thiện còn không cứu nổi mình trong cơn đói khát. Ngồi bên những

câu nói êm dịu của người yêu mà Thiện đói lả, Mỹ - người yêu của anh phải mua

vội bát phở để cứu anh khỏi cơn đói điêu linh. Vậy mà trên vai anh còn người mẹ

già bệnh tật, một cô em gái yếu đuối. Cả gia đình đói kém, họ không chỉ quay cuồng

với tiền rau cháo qua bữa, đoạn ngày mà họ còn khốn khổ vì bị ám ảnh ghê gớm với

tiền thuê nhà không có trả. Thiện chỉ còn cái áo ba-đờ-suy cho em đi cầm, nhưng

cái áo cũ sờn đó không được nổi một xu. Vậy mà nổi trên cái nền xám ngắt của đói

nghèo và những số phận bất hạnh, nổi lên trong cái xã hội tôn thờ kim tiền ấy, anh

đã có một tình yêu rất đẹp, nồng thắm. Mỹ đã dành cho anh một tình yêu trong sáng

vô ngần. Mỹ chia sẻ với người yêu qua cơn đói kém bằng tấm lòng trân trọng, bao

dung. Cô yêu anh bằng tất cả sự chân thành. Cô thương xót người yêu bị cảnh bần

hàn ghì sát đất. Mỹ không chỉ chia sẻ về vật chất, cô luôn bên Thiện để chàng trai

đang phẫn chí vì đói nghèo đó không sa ngã. Và ngay cả khi Thiện phải vào tù tội,

71

người yêu anh đã vượt qua sự ngăn trở của bà dì ghẻ, bước qua cả những đàm tiếu

của người đời để đến ở cùng và thay anh phụng dưỡng mẹ già. Rõ ràng, trong cơn

bĩ cực của cuộc đời, tình yêu của Mỹ giống như những tia nắng toả hơi ấm thắp

sáng cho cuộc đời đầy giông bão quay cuộc với mưu sinh, với cơm, áo, gạo, tiền mà

Thiện đang phải chống trọi. Với người lao động tình yêu khiến cho họ vơi đi những

nhọc nhằn, khổ sở của cuộc sống hiện tại như trong Thằng Hóm. Thằng Hóm tuy

tận cùng khổ cực nhưng ở nó vẫn có những khát khao về cuộc sống và tình yêu. Đó

là những đoạn truyện Trương Tửu viết về tình cảm trong trẻo, đời thường của Hóm

và Tún: “Hóm yên lặng nhìn Tún. Nó thích Tún quá, yêu Tún quá vì nó thấy Tún

cũng thích nó, cũng yêu nó… Hóm ôm chầm lấy Tún, hôn đánh chụt một cái vào

má, Tún đẩy ra kêu khẽ… Ở trên nhà biết thì chết bây giờ! Hóm mỉm cười, lại chạy

ra sân rửa nốt bát đĩa. Tay thì rửa bát, mắt thì nhìn Tún chằm chằm. Còn Tún thì

quay mặt vào bếp. Trống ngực cô đập thình thịch. Cô thấy trong đời cô chưa có

phút nào cô được sung sướng như phút này… Đêm ấy, Hóm trằn trọc mãi không

ngủ được. Nó vẫn còn thấy cái dư vị êm đềm của mối tình chớm nở. Trong mười

bảy mười tám năm trời cả trái tim lẫn xác thịt nó đều bị đè ép dưới sức uy trị của

đói rét. Bây giờ, được đủ điều kiện để tự giải phóng, cả hai cái ấy đều bùng

dậy…”[124, tr. 1012-1014]. Tình yêu của đôi trẻ Hóm- Tún cho ta cảm nhận thế

giới của những người nghèo cũng đầy tình yêu thương khiến người ta cảm động.

Người đọc cũng trân trọng tình yêu trong sáng của Huấn và Nguyệt Minh

trong Tôi nguyền rủa mãi người cha ấy. Đó là một mối tình đẹp bởi chính họ đã xác

định giữ gìn một tình yêu trong khiết, nguyên vẹn không nhục dục, không vụ lợi đê

hèn. Khác với Liêu ở Thanh niên S.O.S, Huấn trong Tôi nguyền rủa mãi người cha

ấy đã “giữ giá” cho người yêu, không bao giờ đi quá giới hạn. Anh bộc bạch: “Tôi

muốn người yêu tôi giữ được nguyên giá cho đến lúc làm vợ tôi. Mà xưa nay tôi

vẫn thường ghê sự sa ngã về nhục dục do sự gần nhau sinh ra” [120, tr. 379]. Vậy

mà đôi trai gái ấy cũng khó có hạnh phúc trong tình yêu. Họ đã va phải bức tường

cổ hủ hà khắc từ người cha tàn nhẫn, độc đoán của Nguyệt Minh. Bị ngăn cấm tình

yêu, Nguyệt Minh đã tìm đến với người yêu nhưng bị cha bắt được. Người cha ấy

hành hạ nàng đến tật nguyền. “Nguyệt Minh có đôi mắt bồ câu, nước da trắng mịn

72

của tôi! Nàng Nguyệt Minh ấy bây giờ chột một mắt và có hai ba vết sẹo sâu hoắm

ở hai bên má…” [120, tr. 389]. Đó là chứng tích đau đớn mà người cha thô bạo vũ

phu đã ghi dấu lên hình hài con gái mình. Tình yêu của đôi trái gái này không

nhuốm màu sắc dục, được giữ gìn trọn vẹn, trong sáng nhưng rào cản của những tập

tục cổ hủ vẫn đeo bám khiến cho người yêu của Huấn đã không còn lành lặn. Cô bị

tổn thương cả về thể xác và tâm hồn. Cô gái xinh đẹp đã bị tật nguyền vì những trận

đòn kinh hoàng của người cha vũ phu, tàn nhẫn. Gặp lại Nguyệt Minh trong tình

cảnh đó, Huấn vẫn xin cưới cô gái đáng thương ấy về làm vợ. Bởi tình yêu của họ

đồng nghĩa với tình thương cao thượng.

Đề tài tình yêu cũng được đề cập đến khá đậm nét trong những trang tiểu

thuyết dã sử. Tình yêu trong sáng của tráng sĩ Bồ Đề và Tú Lan (Tráng sĩ Bồ Đề)

hay tình yêu lặng thầm của Việt Liễu, của Kim Sơn với ni cô Thanh Tuyền (Năm

chàng hiệp sĩ). Trong tiểu thuyết Tráng sĩ Bồ Đề, mặc dù sự thất bại của đảng Từ Bi

khiến người đọc hụt hẫng thì một kết thúc có hậu cho tình yêu của người tráng sĩ lại

khiến chúng ta hài lòng, mãn nguyện. Đó là điểm sáng của tác phẩm. Tình yêu trong

những trang tiểu thuyết dã sử của Trương Tửu cũng nồng nàn khát vọng yêu và

được yêu. Nhân vật Việt Liễu, một cô gái trong sáng, ngây thơ và yếu đuối đã yêu

lặng thầm nhưng mãnh liệt người anh được cha mẹ cô nhận làm con nuôi. Tình cảm

ấy đến tự nhiên. Một tình yêu sâu đậm nhưng lặng thầm nhưng không được đáp lại

khiến cô gái thanh xuân ấy trở nên tiều tụy, mỏi mòn. Cô lâm vào tâm bệnh không thể

cứu vãn. Cuối cùng cô gái đáng thương ấy cũng được mãn nguyện khi bước sang thế

giới khác trong vòng tay người cô yêu thương.

Về đề tài tình yêu, những cây bút văn xuôi hiện thực và lãng mạn đương

thời cũng đã tập trung phản ánh ở nhiều góc độ khác nhau. Cũng thời điểm xuất

hiện với những tác phẩm của Trương Tửu, có thể kể đến Làm đĩ của Vũ Trọng

Phụng, Người đàn bà trần truồng của Nguyễn Vỹ. Trương Tửu khai thác mảng

đề tài này không phải là mới, bởi tình yêu tồn tại trong đời sống sinh hoạt không

biết từ bao giờ, có biết bao câu chuyện tình yêu trong văn học dân gian, đề tài

tình yêu diễn tiến trong suốt quá trình lịch sử văn học. Và trước Trương Tửu,

trước các nhà văn hiện thực nhóm Tự lực văn đoàn khá thành công trong việc

73

triển khai đề tài tình yêu vào các sáng tác trong những năm ba mươi của thế kỷ

XX. Các nhà văn Tự lực văn đoàn thông qua tác phẩm, qua nhân vật đã gửi gắm

mong muốn về quyền tự do trong tình yêu, hôn nhân, thể hiện quan điểm bênh

vực người phụ nữ. Tác phẩm Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng nhà văn đã khai

thác đề tài tình yêu thật thơ mộng, lãng mạn. Tình yêu giữa Ngọc và Lan trong

sáng, lãng mạn, mặc dù tình yêu ấy vướng phải rào cản tôn giáo, họ không tiến

tới hôn nhân nhưng tình yêu của họ diễn ra rất say đắm, mãnh liệt. Nhà văn đã đề

cao tình yêu tự do, tác giả để cho tình yêu lên tiếng, tình yêu bật lên tiếng nói

riêng trong chính tâm hồn của nhân vật. Trái ngược với hạnh phúc, say nồng của

hương vị ngọt ngào mà tình yêu thuần khiết ban tặng, trong Đời mưa gió của

Khái Hưng và Nhất Linh với nhân vật Tuyết vượt lên tất cả mọi lễ nghi, cô tìm

đến tình yêu là đến với khao khát của nhục dục, của khoái cảm xác thịt. Cô gái

này đã bị ép duyên và vì không yêu chồng cô đã đi theo tiếng gọi của ái tình và

cuối cùng sa vào đời mưa gió, nhưng với con người Tuyết cô thấy mình phù hợp

với những chốn ăn chơi sa đọa. Cô trở thành ả giang hồ không phải để kiếm sống

mà theo Tuyết đến với cuộc sống đó mới kiếm tìm được những mê li của xác thịt

trong hoàn cảnh dễ dàng đổi thay tình ái. Từ trong suy nghĩ Tuyết có quan niệm

sống sa đọa, cô coi gia đình là nơi lưu trú tạm thời khi chạy theo tình ái mệt mỏi.

Tuyết hưởng lạc ái tình với nhiều nhân tình, cô giải phóng bản thân trong lối

sống buông thả. Như vậy, Tuyết đã bị tha hóa, cô có tâm lý hoàn toàn khác với

đa số phụ nữ Việt Nam truyền thống luôn mong muốn gặp được và có được tình

yêu chung thủy, bền chặt. Miêu tả về nhân vật tha hóa trong xã hội đương thời,

khác với giai đoạn đầu, sau này các nhà văn Tự lực văn đoàn đã có điểm tương

đồng với Trương Tửu ở nhân vật Tuyết người đọc thấy có nét của Liêu, Văn về

cách quan niệm tình yêu, hạnh phúc.

Có thể nói, trong đề tài tình yêu, so với một số cây bút thời đó thì Trương

Tửu không thực sự nổi bật, nhưng ông đã biết tìm ra một góc độ riêng trong việc

phản ánh xã hội. Trong văn xuôi của Trương Tửu, người ta bắt gặp một hiện

trạng báo động đỏ trong giới trẻ, đó là lối sống. Đề tài tình yêu đã thể hiện được

phần nào sự cảnh báo này. Những con người trẻ tuổi trong sáng tác của Trương

74

Tửu luôn khao khát yêu thương nhưng họ không có được hạnh phúc trọn vẹn.

Tình yêu, khát khao hạnh phúc gia đình luôn bị chi phối bởi chính xã hội đang

rối ren, hỗn độn, bát nháo.

Tình yêu luôn gặp những trắc trở, bất hạnh đến từ nhiều phía. Phần lớn thanh

niên không tìm thấy được hạnh phúc từ tình yêu và hôn nhân mà trở thành nạn

nhân của xã hội. Hoặc họ chịu ảnh hưởng bởi đạo đức suy đồi, bởi những dục

vọng thấp hèn như những cơn lốc từ phương Tây tràn đến với sức tàn phá ghê

gớm. Hoặc họ va phải những bức tường phong kiến hủ lậu dù đang “tróc vôi, lở

gạch” những vẫn còn tồn tại khá vững chắc trong lòng xã hội khó lòng đạp đổ.

Viết về tình yêu dường như nhà văn đã trút tất cả bút lực để thể hiện thật sinh

động cái muôn hình vạn trạng của tình yêu trong một xã hội rối ren. Những tác

phẩm của ông không chỉ phản ánh thực tại mà còn thể hiện sự cảm thông. Ông

muốn dùng tiếng nói của văn nghệ để cảm hóa thế hệ thanh niên đương thời hãy

biết nâng niu tình yêu trước những dục vọng thấp hèn.

3.1.2. Đề tài tệ nạn xã hội trong hiện thực xã hội đô thị Việt Nam trước1945

Những năm đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam đầy những biến động phức tạp.

Những thay đổi nhận thức của xã hội về cả những phạm trù đạo đức, những ảnh

hưởng nhiều chiều của văn hóa phương Tây, sự sa sút về kinh tế hay cả những biến

động phức tạp về chính trị đã làm biến đổi xã hội Việt Nam. Một trong những sản

phẩm dù không muốn vẫn được sinh ra trong xã hội ấy là những hiện tượng trụy lạc

của thanh niên, mà căn nguyên xô đẩy họ chính là xã hội. Thanh niên mất hết tự

chủ, họ không thể đứng vững trước dòng lũ hỗn độn và đồi bại của những tệ nạn xã

hội. Và bằng nhận định tinh tường của một đôi mắt ưu tư trước thời cuộc, Trương

Tửu đã nhập cuộc với các cây bút đương thời khi phản ánh những tệ nạn xã hội

trong xã hội đô thị với mục đích tranh đấu để thanh lọc xã hội đương thời. Quan

niệm chung về tệ nạn xã hội: Đó là các hiện tượng xã hội bao gồm những hành vi

sai lệch với chuẩn mực xã hội,vi phạm đạo đức và pháp luật, gây hậu quả xấu về

mọi mặt đối với đời sống xã hội.

Không chỉ Trương Tửu quan tâm khai thác đề tài này mà còn có một số nhà

văn nổi tiếng cùng thời như Nguyễn Công Hoan, và nhất là nhà văn Vũ Trọng

75

Phụng. Nhưng trong bối cảnh xã hội những năm đầu thế kỷ XX, độc giả chưa nhận

thấy ngay mục đích cao quý của các nhà văn. Họ quy kết rằng tác phẩm viết về tệ

nạn xã hội của các nhà văn như Trương Tửu và Vũ Trọng Phụng đều cố ý phóng

túng tình dục văn chương, một số cá nhân cho rằng: “Tình dục, giai cấp phú hào

đang thi vị nó để hành lạc. Người ta dựa vào học thuyết Freud mà dâm đãng hóa

tình dục. Freud thật là đắc tội khi tạo ra một cái thuyết để cho muôn người hiểu sai”

[114, tr. 9]. Vũ Trọng Phụng là một trong những tên tuổi nổi bật hàng đầu trong nền

văn xuôi Việt Nam trước cách mạng. Dư luận coi ông là kiện tướng xuất sắc của

khuynh hướng “tả chân” đương thời. Xung quanh Vũ Trọng Phụng đã từng có

những cuộc tranh cãi diễn ra trong nhiều năm, ông trở thành một “vụ án” nghiêm

trọng kéo dài trong lịch sử của nền văn học nước ta. Từ khi đất nước có công cuộc

đổi mới, “vụ án” đó dần được được giải tỏa và những nhà văn như Vũ Trọng Phụng,

Trương Tửu đã có vị trí xứng đáng trong tiến trình văn học dân tộc hiện đại, vị trí

của các nhà văn được khẳng định dứt khoát. Nhiều người quan niệm mỗi quyển

sách khi ra đời đã có một số phận riêng. Rất nhiều tác phẩm vừa ra đời đã được dư

luận quan tâm nhưng người đọc chỉ chú ý trong vài ba năm, hay vài mươi năm, rồi

sau đó chìm hẳn vào lãng quên dưới lớp bụi của thời gian. Với Vũ Trọng Phụng -

đời văn và tác phẩm vừa buổi ra mắt đã phải hứng chịu nhiều búa rìu của dư luận.

Công chúng quan tâm đến tác phẩm, đó chính là niềm vui đối với người sáng tác,

không chỉ có vậy mà điều đó còn là thước đo tài năng người nghệ sĩ nhưng đồng

thời cũng là sự khắc nghiệt mà cuộc đời đã dành sẵn cho những số phận tài năng.

Các tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng luôn đề cập đến những vấn đề diễn ra trong xã

hội, nhất là mảng đề tài về tệ nạn xã hội, ông đã khái quát được một phạm vi cuộc

sống hết sức rộng lớn mà ta không thể tìm thấy được ở những sáng tác khác của

những nhà văn cùng thời. Giông tố, Số đỏ, Làm đĩ là những tác phẩm tiêu biểu trong

hệ thống sáng tác của Vũ Trọng Phụng, bản thân nhà văn và tác phẩm đã nếm trải

nhiều sóng gió của dư luận trái chiều nhưng vị trí của tác phẩm đến nay đã được

đứng trong số những sáng tác góp mặt vào việc làm hiện nên một thời kỳ văn hóa

trong xã hội đương thời của nhà nước ta. Phong cách Vũ Trọng Phụng nổi bật với

giọng văn trào phúng châm biếm. Có thể thấy ở Vũ Trọng Phụng có nét tương

76

đồng với Balzăc, nói cách khác ông như một Balzăc ở Việt Nam. Tuy nhiên, với

phong cách "tả chân" và yếu tố tính dục được đưa vào tác phẩm mà ông đã bị

chính quyền bảo hộ Pháp tại Hà Nội gọi ra tòa vì "tội tổn thương phong hóa"

(outrage aux bonnes moeurs). Về sau này, tác phẩm của ông lại bị cấm in, cấm đọc

vì là "tác phẩm suy đồi" tại miền Bắc Việt Nam và Việt Nam thống nhất cho đến

tận cuối những năm 1980. Trở lại với nhà văn Trương Tửu, đề tài viết về tệ nạn xã

hội được ông quan tâm đào sâu với ý nguyện hướng tới lớp độc giả trong xã hội là

tầng lớp thanh niên. Mở đầu tiểu thuyết Thanh niên S.O.S ông đã viết: “Tặng tất cả

những ai có tâm huyết, thường lưu ý đến vấn đề thanh niên hiện thời”. Ngay ở lời

tựa của tác phẩm ông đã nhiệt tình gay gắt thể hiện quan điểm cá nhân ở đề tài này:

“Không lúc nào bằng lúc này, thanh niên nhắm mắt mà sống, nghiến răng mà sống,

rút rít mà sống, rẫy rụa mà sống - sống với những lời nguyền rủa trên môi và những

ưu phiền não nuột trong lòng.

Không lúc nào bằng lúc này, thanh niên đem cả thông minh tiêu phí vào khói

thuốc phiện, đem cả danh dự ném vào chiếc đệm bông, đem cả tương lai vứt vào bài

tăng gô, đem cả cuộc đời quăng vào một hộp đêm.

Không lúc nào bằng lúc này, thanh niên hoài nghi tất cả trừ khoái lạc, chán

nản tất cả trừ tiền tài, công kích tất cả trừ tội ác, làm tất cả trừ bổn phận, không tin

vào một tôn giáo nào, không nhận một luân lý nào, không thờ một lý tưởng nào,

không trọng một quyền thế nào” [120, tr. 27].

Tác giả đã chỉ ra một hiện trạng trong xã hội đô thị lúc đó. Thanh niên - thế

hệ gánh vác trọng trách của đất nước đang sống như thế nào? “Nhắm mắt mà

sống, nghiến răng mà sống, rút rít mà sống, rẫy rụa mà sống”. Họ sống không có

ngày mai, chỉ có hưởng thụ và trác táng, chạy theo những cám dỗ cá nhân đầy tầm

thường của con người: “đem cả thông minh tiêu phí vào khói thuốc phiện, đem cả

danh dự ném vào chiếc đệm bông, đem cả tương lai vứt vào bài tăng gô, đem cả cuộc

đời quăng vào một hộp đêm”. Trong con mắt nhà văn, thanh niên là những kẻ không

nhìn thấy tiền đồ, tương lai, không có chí tiến thủ, không nghề nghiệp và cả hoài bão

ước mơ cũng chỉ là một con số không tròn trĩnh ! Thanh niên là những cơ thể sống

77

nhưng đã chết và đang mục ruỗng từ hành động, tâm hồn, tính cách và lý tưởng:

“thanh niên hoài nghi tất cả trừ khoái lạc, chán nản tất cả trừ tiền tài, công kích tất cả

trừ tội ác, làm tất cả trừ bổn phận, không tin vào một tôn giáo nào, không nhận một

luân lý nào, không thờ một lý tưởng nào, không trọng một quyền thế nào”.

Nguyên nhân của hiện trạng trên là đâu? Trương Tửu đã không ngại ngần chỉ

rõ: “Chỉ tại xã hội. Trong một xã hội mà giàu áp chế nghèo, nghèo căm tức giàu; mà

công lý nhân đạo, lẽ phải đều bị dẫm bẹp dưới gót sắt của tiền bạc, quyền thế, sức

mạnh; trong một xã hội mà kẻ ăn thừa mứa đổ đi, người nằm chết đói ở vỉa đường, kẻ

vung vãi bạc trăm bạc ngàn để ăn chơi, người đổ mồ hôi nước mắt lấy bát gạo; trong

một xã hội mà đặt chân vào một xó tối nào cũng gặp một gái đĩ, dạo chơi hè phố nào

cũng chạm trán một tên ma cô; trong một xã hội mà rạp chiếu bóng là buồng đợ của

nhục dục, công viên là cung điện của dâm thần… Trong một xã hội như thế, thanh

niên tránh thế nào được sự trụy lạc? Kết án họ là ngu độn” [120, tr. 28].

Tác giả đã chỉ ra căn nguyên của căn bệnh “sống mà như chết” của thanh niên

lúc đó là do xã hội. Thực trạng xã hội được xây dựng “trên một nền tảng kinh tế

không tổ chức”, “dung túng các sự bóc lột, áp chế, bất công, chênh lệch” tất yếu sẽ

dẫn thanh niên đến đời sống truỵ lạc.Vì vậy, phải kết án để “phá bỏ nó đi” và “làm

lại xã hội” mới “theo một quan niệm khác về sự tổ chức kinh tế và chính trị”, “theo

chủ nghĩa xã hội”.

Thanh niên S.O.S của Trương Tửu thể hiện một cái nhìn, một sự nghiên cứu

sâu sắc lịch sử trụy lạc của một tâm hồn, vạch ra một con đường đi tới sự giải

quyết. Tác phẩm bày ra một thực trạng đầy rẫy các tệ nạn xã hội nhưng mục đích

để toát lên một khẩu hiệu đấu tranh. Chọn đề tài về những trụy lạc xấu xa của xã

hội, nhà văn Trương Tửu muốn hướng bạn đọc hiểu tác phẩm theo quan điểm và

mục đích ấy.

Bức tranh xã hội trong Thanh niên S.O.S u ám, ảm đạm nhưng đầy tính thời

sự. Em của Quế Hương, cậu Liêu, vốn là một thanh niên trong sáng, khát khao một

tình yêu đẹp, sự thành đạt về công danh. Nhưng rồi, chính xã hội với những xô đẩy

của hoàn cảnh, những cuốn sách gợi tình, gợi nhục dục và cả những lôi kéo của bạn

bè (mà bạn bè quanh Liêu hầu như đều đã sa ngã, nếu Liêu không sa ngã anh ta sẽ

78

lạc lõng, và bản thân anh ta cũng không đủ nghị lực để chống lại hoàn cảnh và số

đông) mà thành ra anh ta trở nên hư đốn, trụy lạc, chạy theo tình dục. Liêu nằm

mộng thì luôn tơ tưởng đến một người con gái, mà lại ở những hoàn cảnh cũng rất

gợi tình như vào tiệm hút đen tối, vào nhà chớp bóng… để được phá hư danh tiết

một người con gái. Một xã hội bệnh tật. Cuối cùng Liêu chết vì hành lạc thái quá.

Cái kết buồn mà hiển nhiên để Trương Tửu kết án dục tình, thuốc phiện, những tệ

nạn đang hoành hành hiển nhiên trong xã hội. Lời kết tội được Trương Tửu hóa

thân vào đốc tờ nói với Quế Hương về bệnh tình của Liêu: “Nếu tôi không nhầm thì

cậu Liêu nhà ta hay tới những chốn ăn chơi. Vì trác táng lâu ngày nên tạng phủ trong

người mòn yếu… Tôi làm nghề thuốc đã năm sáu năm nay. Những bệnh nhân trẻ tuổi

đến tĩnh dưỡng ở bệnh viện của tôi như cậu Liêu kể có non nghìn người. Thôi thì loạn

óc, đau tim, đau cuống phổi, ho lao, thần kinh… đủ các chúng bệnh tinh thần. Mà tôi

xét ra không phải họ làm việc thái quá bằng tâm trí mà sinh ra thế. Tất cả đều đã hoặc

đang mắc bệnh hoa liễu. Họ say đắm nhiều quá những thú vui dâm dục. Họ thức đêm

này qua đêm khác để uống rượu, hút thuốc phiện. Họ luôn nuôi trong óc những ý

nghĩ bất chính. Họ sống thuần bằng những mộng dâm đãng, những mưu cơ lừa dối.

Bởi vậy nên thể chất và tinh thần họ suy vi rất mau chóng. Tôi chắc cậu Liêu ở vào

những ca ấy” [120, tr. 117]. Nhà văn như một vị đốc tờ nhìn xã hội đầy ưu tư. Ông

muốn thể hiện chân thực để phanh phui tất cả xã hội, để gióng lên hồi chuông cảnh

tỉnh cho con người ngoài đời khi đến với tác phẩm của ông.

Đề tài được khai thác trong Thanh niên S.O.S được quan niệm và xếp đặt

theo một định luật xã hội học: Cá nhân không là gì hết, hoàn cảnh là tất cả.

Những điều kiện sinh hoạt của một hoàn cảnh đẻ ra những tâm trạng, tư tưởng,

pháp luật… tất cả hợp thành một sức mạnh cuốn người ta một cách tàn nhẫn.

Người ta không đủ thời giờ và nghị lực dừng bước hay rẽ tạt sang bên cạnh.

Người ta mất hết tự chủ. Người ta chỉ còn là cánh bèo trên dòng thác. Đối với cá

nhân, hoàn cảnh tác động như một số mệnh. Căn cứ định luật ấy, tác giả Thanh

niên S.O.S cắt nghĩa hiện tượng trụy lạc của thanh niên. Thanh niên sống thế

nào, nghĩ thế nào, tác giả phơi bày trên mặt giấy, y nguyên, linh hoạt. Trương

Tửu không muốn tố cáo, không biện hộ. Tác giả chỉ muốn ghi dấu vết một hoàn

79

cảnh của thời đại. Hoàn cảnh trong Thanh niên S.O.S là một hoàn cảnh trụy lạc.

Những thanh niên như Văn, Liêu, Hà, Sâm chỉ là những nạn nhân của hoàn cảnh.

Trên con đường u ám đầy những oan trái, tai họa, vậy mà người đi trước cứ dắt

kẻ đi sau, để rồi tất cả cùng rơi vào một vực thẳm tối tăm không lối thoát. Chủ đề

người thanh niên, nạn nhân của hoàn cảnh xã hội trong tiểu thuyết Thanh niên

S.O.S từng trở thành một vấn đề được bàn luận sôi nổi.

Vẫn đi vào đề tài tệ nạn xã hội để nhìn nhận xã hội và thấu hiểu cho những số

phận con người, Trương Tửu lại góp thêm vào mảng đề tài này với tiểu thuyết Khi

chiếc yếm rơi xuống. Quan điểm sáng tác và cái đích mà nhà văn muốn hướng đến

cũng được bộc lộ thẳng thắn ngay ở những dòng đề từ mà Trương Tửu mượn lời

của Victor Hugo:

“Truyện này là chuyện gì?

Truyện xã hội mua kẻ nô lệ

Mua của ai? Của nghèo đói…

Người ta bảo chế độ nô lệ mất rồi.

Nhầm.

Nó vẫn còn, và tên là MÃI DÂM.

Nó đè trĩu trên số kiếp người đàn bà, nghĩa là đè trĩu trên duyên thắm, trên

nhan sắc. Trên tình mẫu tử” [120, tr. 223].

Nhân vật “Tôi” mở đầu cho những trang truyện Khi chiếc yếm rơi xuống bộc

bạch: “Bên phải tôi, nhà cô đầu; bên trái, nhà cô đầu; trước mặt, nhà cô đầu. Ngay

đến tầng dưới nhà tôi- một hiệu tạp hóa nhỏ- cũng là chỗ lui tới hàng ngày của cô

đầu” [120, tr. 224]. Đầy rẫy, nhan nhản những nơi đàng điếm, trụy lạc để thỏa mãn

nhục dục của con người và cũng là nơi phá hủy những giá trị của con người. Trong

tác phẩm này, hình ảnh một người đàn bà còn trẻ với nét mặt u sầu, buồn tủi của

kiếp "cầm ca" mãi ám ảnh người đọc. Người đàn bà đó, có tên là Hậu, mà cuộc đời

chị lại không giống như cái tên của mình. Cô gái đó bị mất trinh tiết vì ông chủ

ngay khi mới 15 tuổi để rồi cả cuộc đời trôi theo dòng chảy xô bồ của xã hội kim

tiền, dâm dục. Hậu là một nạn nhân của xã hội mà Trương Tửu đã đưa vào tác phẩm

để gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh cho thân phận người đàn bà thê thảm muốn giữ

80

nhân phẩm, muốn sống một đời trong sạch cũng không thể được trong xã hội truỵ

lạc đương thời.

Đọc và tiếp nhận đề tài trong Thanh niên S.O.S, Khi chiếc yếm rơi xuống

chúng ta thấy giá trị đạo đức xuống cấp. Cả một xã hội rối ren! Nhưng Trương Tửu

không chỉ dừng lại ở việc phản ánh hiện thực mà cùng với nó là đấu tranh cải biến

xã hội. Và cứ theo đúng trình tự tiến hóa của xã hội thì mục đích tranh đấu của nhà

văn đã không lạc thời, không đơn độc.

Theo Trương Tửu, chính thực thể mục nát của xã hội đương thời đã tạo ra một

hoàn cảnh trụy lạc. Những thanh niên trong tác phẩm có thể cuồng quay với những

thác loạn nhưng độc giả mà nó hướng tới- cũng là đối tượng thanh niên sẽ thấm

nhuần tư tưởng tranh đấu, sẽ trở nên những chiến sĩ tận tụy cải thiện và làm thay đổi

cái thực thể mục nát của xã hội, cải biến để xã hội phát triển hợp lí và nhân đạo hơn.

Và như vậy ta có thể thấy, khi phản ánh hiện thực xã hội đương thời, những tiểu

thuyết của Trương Tửu thuộc dòng “tiểu thuyết xã hội” có mục đích đấu tranh, phê

phán xã hội rất rõ ràng đúng như nhận định của nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan

trong Nhà văn Việt Nam hiện đại.

3.1.3. Đề tài lịch sử

Viết về lịch sử trong văn học giai đoạn đầu thế kỷ XX không chỉ có Trương

Tửu. Chúng ta có thể thấy một số tiểu thuyết gia đương thời cũng khá quan tâm tới

lịch sử. Ngược dòng thời gian ta thấy Lan Khai là nhà văn có số lượng tiểu thuyết

lịch sử lớn nhất ở thế kỷ XX. Đương thời các cây bút như Nguyễn Tử Siêu, Nguyễn

Triệu Luật… cũng viết khá nhiều tiểu thuyết lịch sử, nhằm tái hiện "đầy đủ" các sự

kiện và "nguyên mẫu" nhân vật, nhưng trong các tiểu thuyết lịch sử của mình,

Trương Tửu lại có hướng đi riêng. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của ông được

nhìn qua lăng kính của một nhà cách tân tiểu thuyết. Do vậy, muốn khám phá tiểu

thuyết viết về đề tài lịch sử của Trương Tửu, cần tìm hiểu ý thức nghệ thuật đương

thời của nhà văn.

Từ thời xa xưa, vấn đề văn - sử - triết bất phân đã trở thành một tình trạng phổ

biến trên thế giới. Điều này có thể thấy rõ trong các nền văn hoá của cả phương

Đông lẫn phương Tây. Tình trạng đó thể hiện ở chỗ bóng dáng lịch sử luôn tồn tại

81

trong nhiều thể loại văn học. Đồng thời, tính văn học cũng có mặt trong các cuốn sử

ký của các nhà chép sử. Người ta vẫn thường thưởng thức tác phẩm Sử ký của Tư

Mã Thiên (Trung Quốc) hay Liệt truyện đối chiếu của Plutark (Hy Lạp) như là

những tác phẩm văn học... Dần dần, loại hình văn học lịch sử đã tiến tới được định

hình rõ ràng, trong đó chúng ta có thể nói đến một số thể loại văn học lịch sử như:

truyện thơ lịch sử, kịch lịch sử, và đặc biệt là tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết dã sử.

Trương Tửu đã không bám sát cốt truyện lịch sử giống như Nguyễn Tử Siêu

mà mượn những ký ức lịch sử được lưu truyền trong dân gian để xây dựng cốt

truyện trong tiểu thuyết của mình. Ông cũng không sử dụng yếu tố hoang đường kì

ảo để tạo nên tính thần kỳ trong cốt truyện và nhân vật của mình như Lan Khai mà

bám sát hiện thực. Tiểu thuyết của Trương Tửu nghiêng nhiều về tính dã sử mang

màu sắc của truyện truyền thuyết, không mang yếu tố thần kỳ.

Khác với các nhà văn lãng mạn thời bấy giờ, Trương Tửu viết lịch sử không

phải để trốn vào lịch sử, mà ông khai thác lịch sử từ góc độ hiện thực đương thời và

phục vụ cho cuộc sống hiện tại. Theo Từ điển bách khoa, tiểu thuyết lịch sử là "tiểu

thuyết lấy một giai đoạn lịch sử làm khung cảnh và mong muốn truyền bá cái tinh

thần, kiểu cách, và các điều kiện xã hội của một thời kỳ quá khứ với những chi tiết

hiện thực và trung thành với sự thật lịch sử (tuy nhiên trong một số trường hợp sự

trung thành này chỉ là giả tạo). Công trình sáng tạo đó có thể đề cập đến những nhân

vật lịch sử có thật... hoặc có thể bao hàm một sự pha trộn nhân vật lịch sử với nhân

vật hư cấu". Trong thể loại văn học này, lịch sử trở thành một nguồn cảm hứng cho

tự do sáng tác văn chương.

Có thể nói, từ khi ra đời, tiểu thuyết lịch sử nhanh chóng chiếm lĩnh được

vị trí quan trọng trong hệ thống các thể loại văn học, tạo ra những đỉnh cao văn

học và có ảnh hưởng sâu rộng đến các thể loại và giai đoạn văn học. Nó đưa văn

học trở về với đời sống thực trong quá trình phát triển lịch đại của loài người. Vì

thế, thể loại văn học lịch sử nói chung và thể loại tiểu thuyết lịch sử nói riêng

đang và sẽ luôn chiếm một chỗ đứng quan trọng trong lịch sử văn học của mỗi

dân tộc và của toàn nhân loại. Đến thế kỷ XX, tiểu thuyết, trong đó có tiểu

thuyết lịch sử, bắt đầu có chỗ đứng vững chắc trong nền văn học và trở thành lực

82

lượng nòng cốt cho sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại. Với tư cách là

một thể loại “đang phát triển và còn chưa định hình” (Bakhtin), tiểu thuyết luôn

là một thể loại tiêu biểu cho một nền văn học. Nó có khả năng bao quát rộng lớn

và thâu tóm mọi thể loại văn học khác.

Tiểu thuyết lịch sử của Trương Tửu được hình thành từ hai nguồn: lịch triều

và dã sử, không chỉ nhằm tái hiện danh nhân và sự kiện, mà mỗi tác phẩm là một

bức tranh riêng về số phận con người. Thế giới nhân vật của ông gồm đủ thành

phần: Vua chúa, thái tử, thế tử, khanh tướng, người anh hùng, phụ nữ trong hoàng

tộc, thị tỳ, dân chúng, binh sĩ, kẻ cướp nước và bán nước,... Tất cả tạo nên một dải

phổ làm nên sự tổng hoà của những mối quan hệ xã hội trong tác phẩm. Nhưng nhà

văn lại chú ý đi sâu vào thế giới bên trong của con người, đưa nhân vật về với đời

thường với những yêu, ghét, hờn ghen, âm mưu và thù hận. Trong hàng ngũ bá

vương hay vua chúa, mệnh quan trọng thần có người tài cao đức cả và cũng có kẻ

bất tài, bạo ngược.

Dương Hậu trong Tráng sĩ Bồ Đề, khát ái tình và quyền lực đã quên đi cái

bổn phận vương phi, mê say Thập đạo tướng quân Lê Hoàn. Để thoả dục tình và

tham vọng, Hậu không ngần ngại làm những điều phản trắc, cấu kết, thông dâm,

bỏ trưởng lập thứ trái với đạo lý… nhằm đạt được ước vọng bá chủ thiên hạ cho

con trai mình. Phải chăng nhà văn muốn cảnh tỉnh: trong giàu sang phú quý chưa

hẳn con người đã hạnh phúc, một khi dục vọng trần thế vẫn trong vòng cương

toả của những lễ nghi hà khắc. Giải phóng con người và bản năng là một nhu cầu

tồn tại, là khát vọng chân chính của loài người!

Cô Năm Hoa Lư vốn là một quận chúa xinh đẹp nhưng cũng rất tàn ác. Với cô

ta sắc đẹp chỉ là “một đồ vật” để mưu cầu cho mục đích của mình. “Nàng đã đem

sắc đẹp ra quyến rũ Nguyên Phong. Nàng đã sai khiến hắn như một đứa con nít”.

Khi nàng thấy “Nguyên Phong không còn đủ kiên nhẫn và lòng hi sinh mù quáng để

giúp được đảng nàng nữa, nên nàng định giết Nguyên Phong đi” [120, tr. 645].

Trong con mắt của nhà văn Trương Tửu, hình ảnh vua chúa cũng bị hạ bệ. Quận

chúa Như Mai - cô Năm Hoa Lư - trong thân phận một tên đảng trưởng của Ban do

thám là kẻ tham vọng, quỷ quyệt, đầy mưu mẹo và giết người không ghê tay. Nam Việt

83

Vương cũng chỉ là kẻ tầm thường, bất tài và sợ chết. Dương Hậu thì dâm ô, Lê Hoàn

thì tàn bạo…

Những trang viết về các cuộc tình trong tiểu thuyết lịch sử của Trương Tửu

cũng cho thấy đây là một cây bút sớm có cái nhìn mới mẻ về vấn đề tính dục. Tác

giả xem đây như một phương diện tự nhiên của đời sống và trong nghệ thuật. Trong

quan niệm truyền thống, người anh hùng không vướng bận nữ nhi thường tình,

nhưng người anh hùng của Trương Tửu lại rất đời thường. Họ cũng yêu đương,

ghen tuông, hờn giận. Minh Tâm thầm yêu Bồ Đề, nhưng Bồ Đề lại yêu Tú Lan nên

nàng đã rất đau khổ, ghen tuông khi thấy hai người bên nhau. Nhưng vì nghĩa lớn

của đảng Từ Bi, nàng đã hi sinh tình cảm của mình (Tráng sĩ Bồ Đề). Điều đó cho

thấy, dường như chỉ có tình yêu mới hướng con người về cái thiện. Trương Tửu đã

dành nhiều tâm huyết viết về người phụ nữ, cho dù ở địa vị nào, họ đều khao khát tự

do, được yêu thương hạnh phúc. Ta có thể thấy điều đó rất rõ ở các nhân vật nữ như

Tú Lan, Minh Tâm, Kim Chi,… trong Tráng sĩ Bồ Đề hay nhân vật Việt Liễu, ni cô

Thanh Tuyền trong Năm chàng hiêp sĩ. Họ xinh đẹp, trẻ trung, tài giỏi. Họ mạnh

mẽ, có trái tim khao khát yêu thương và ở họ cũng có những điều mà người con

gái trong xã hội phong kiến không có đó là tình yêu mãnh liệt, sự lả lơi rất gợi tình,

sự khao khát ái tình rất mãnh liệt. Chẳng hạn Ngọc Nữ lần đầu gặp Bạch Hạc mà đã

“lẳng lơ hỏi”, “trách ngọt ngào” rồi “nguýt chàng” [120, tr. 690]. Cô Năm Hoa Lư

còn “táo bạo, trực tiếp và lẳng lơ” bộc bạch rõ tình yêu của mình đối với Bồ Đề,

muốn được cùng tráng sĩ “dắt tay nhau chung sống, làm việc với nhau, thành bại

có nhau” [120, tr. 651]…

Rõ ràng, mang thân phận nữ nhi trong một giai đoạn lịch sử cuối thời nhà

Đinh, nhưng những nhân vật nữ trong tiểu thuyết dã sử của Trương Tửu lại có đời

sống tình cảm phong phú, phóng túng như của những cô gái ở thế kỷ XX. Ở họ ý

thức về con người trần thế, bản năng luôn vượt thoát con người của cương thường

giáo lý với những sợi dây ràng buộc vô hình. Đó là điểm khác biệt về nhân vật trong

tiểu thuyết lịch sử của ông với nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử của các nhà văn

khác. Việc đào sâu vào khát vọng trần thế của con người cho thấy, ý thức người

84

cầm bút đã tấn công vào thành trì lễ giáo phong kiến với những trở lực ngàn năm

còn tồn tại. Mặt khác việc tái tạo các chi tiết éo le của đời sống cũng tạo nên sức lôi

cuốn cho bạn đọc của nhà tiểu thuyết lịch sử này. Đặc biệt, hoạt động của các tráng

sĩ Bồ Đề, Bạch Hạc và các cô Minh Tâm, Kim Chi trong đảng Từ Bi đối lập với

đảng Thập Đạo nơi kinh thành cho thấy màu sắc hiện đại và dấu ấn ảnh hưởng

không khí xã hội đương thời khá đậm đà ở các nhân vật này. Nhất là “tình trạng do

thám”, “hiện tượng phản bội” hay “bị xử kín” diễn ra khá phố biến trong tác phẩm

rất giống với không khí của xã hội Việt Nam những năm 1930 - 1945. Tiểu thuyết

Năm chàng hiệp sĩ cũng vậy. Với 2 quyển, 14 chương, tác phẩm đã lấy bối cảnh

lịch sử xã hội thời Lý Anh Tông (1138- 1175), xây dựng nhiều nhân vật đảng viên

trung kiên trong đảng Quần Anh đan xen những mối tình lãng mạn, những hoạt

động do thám, thủ tiêu, lật đổ. Các xung đột giữa con người với con người về

quyền lợi và dục vọng để dẫn đến những bi kịch trong tiểu thuyết lịch sử cũng

được Trương Tửu quan tâm khám phá, để người đọc soi vào cái bi của thời đại

mình lúc đó.

Dường như với Trương Tửu, đề tài lịch sử còn có mục đích là mượn lịch sử để

bàn về hiện tại. Lịch sử giống như một kho kinh nghiệm cho con người của thời đại

ngày nay. Có vẻ như có nhiều vấn đề của ngày nay, nếu được nói bằng hình tượng

lịch sử thì sẽ có hiệu quả thẩm mỹ hơn bất cứ một phương thức nào khác. Vì thế tác

động thẩm mỹ và tác động xã hội của tiểu thuyết lịch sử trong giai đoạn đương đại

đang tỏ ra cần thiết hơn bao giờ hết. Và vì thế ngay từ những năm đầu thế kỷ XX

này tiểu thuyết lịch sử nhận được sự quan tâm của nhiều nhà văn hơn bất cứ giai

đoạn nào trong lịch sử văn học Việt Nam. Nhưng như thế, “chất sử” trong tiểu

thuyết cũng mờ nhạt dần, yếu tố truyền thuyết tăng cao. Do đó, ở tiểu thuyết viết về

lịch sử của Trương Tửu tính chất dã sử đậm đặc hơn tính chất lịch sử. Các sự kiện

lịch sử rất mờ nhạt, thậm chí chỉ là một “cái bóng” của quá khứ. Ở tiểu thuyết

Tráng sĩ Bồ Đề, sự kiện nhà Đinh tiêu vong, nhà Lê soán ngôi chỉ là cái nền để tác

giả khắc hoạ tài năng và phẩm giá của những người anh hùng tài năng, võ nghệ cao

cường và đức độ như Bồ Đề, Bạch Hạc.

85

Nhìn chung, hai tiểu thuyết Tráng sĩ Bồ Đề và Năm chàng hiệp sĩ có thời

gian, bối cảnh, sự kiện, có mối liên hệ với nhân vật thuộc thời trung đại và được

ghi chép trong chính sử. Tiểu thuyết Tráng sĩ Bồ Đề nương theo sự kiện Thập đạo

tướng quân Lê Hoàn thay thế nhà Đinh vào giai đoạn cuối thế kỷ X. Trong tác

phẩm có rất nhiều các nhân vật hay yếu tố sự việc có nguồn gốc từ lịch sử như

Dương Hậu, Đinh Liễn… Nhà văn Trương Tửu đến với đề tài lịch sử theo hướng

dựa vào sự thật lịch sử nhưng làm biến dạng nó đi một cách tự nhiên. Những đoạn

giáo huấn xuất hiện rất nhiều trong tiểu thuyết dã sử của Trương Tửu. Với chủ

trương giáo huấn như vậy nhưng nhân vật trong tác phẩm không xây dựng một

cách đơn giản, dễ dãi theo kiểu cái lý trí sẽ lấn át tình cảm, để rồi nhiều khi dẫn

đến việc diễn tả suy nghĩ và hành động của nhân vật một cách đơn giản. Ví dụ

điển hình nhân vật trong tiểu thuyết dã sử có đời sống tình cảm khá phong phú đến

phức tạp là tráng sĩ Bồ Đề trong tiểu thuyết dã sử cùng tên. Đó là một chàng trai

có đạo đức và lý tưởng cao đẹp. Một nhân vật được nhận sự tin cậy, sự quý trọng

của rất nhiều các nhân vật khác trong truyện. Chàng hoàn hảo từ ngoại hình, dáng

vẻ đến đạo đức khoan dung, độ lượng“cử chỉ của chàng có vẻ phong nhã… chàng

thanh niên điềm tĩnh… cứ bình thản ngồi nghe… Và bằng thứ giọng bình tĩnh…

Cặp mắt sáng và hiền hậu của chàng thanh niên chiếu thẳng vào người khác…”

[120, tr. 602-603]. Trong cuộc trò chuyện của Bồ Đề với tráng sĩ Bạch Hạc ngay ở

đầu câu chuyện chàng đã tỏ ra sự đức độ, từ bi “…Mối oán thù càng thắt càng

chặt, không bao giờ cởi gỡ ra được. Phải tha thứ cho kẻ đã hại mình, đã làm mình

đau khổ. Ta nên học cái lượng khoan dung của Phật tổ, lấy lòng từ bi mà đối xử

với mọi người. Kẻ gian ác ta có thể giết nó đi mà không thù ghét nó. Giết nó

không phải vì mình mà chính là vì thiên hạ” [120, tr. 603]. Bồ Đề hiện lên oai

phong bởi vẻ đẹp tài năng, tay kiếm của chàng linh hoạt, uyển chuyển khiến ai nấy

đều kính phục, trầm trồ. Ở chàng còn toát lên vẻ đẹp của một tâm hồn nhạy cảm,

dễ rung động. Một chàng trai đáng yêu và được nhiều người yêu mến. Nhân vật

tráng sĩ Bồ Đề hay tráng sĩ Bạch Hạc hoặc tráng sĩ Kim Sơn, Đông Tùng đều

mang vẻ đẹp hào hiệp, tài năng như đúng cách gọi “tráng sĩ”. Bên cạnh vẻ đẹp rất

86

“xưa” ở họ lại toát lên những nét hiện đại của những chàng trai thế kỷ XX bởi sự

lãng mạn, nhạy cảm, dám yêu và hết lòng vì tình yêu. Ngoài cách hành xử đúng

như như cách gọi “tráng sĩ”, họ còn mang nét hào hoa, những rung động tinh tế

mà mạnh mẽ của con người hiện tại. Ở một số nhà văn khi đến với tiểu thuyết dã

sử để các nhân vật trong tiểu thuyết của họ mang nặng dấu ấn quan điểm “dùng

văn để dạy sử”. Về điểm này Trương Tửu lại có cách thể hiện sắc sảo hơn khi ông

kết hợp dấu ấn lịch sử, dấu ấn văn học dân gian và hiện đại để tạo cho mình một

phong cách văn xuôi độc đáo. Nếu như trong tiểu thuyết thông thường, hư cấu là

kỹ thuật đương nhiên của nhà viết tiểu thuyết, thì đối với tiểu thuyết lịch sử, nghệ

thuật hư cấu chính là lĩnh vực chủ yếu để nhà văn thể hiện sự sáng tạo của mình,

làm cho tác phẩm đúng là một cuốn tiểu thuyết, và làm cho tiểu thuyết lịch sử

khác với một công trình sử ký, thông qua các sự kiện hư cấu nhà văn thể hiện quan

điểm riêng đối với lịch sử. Trương Tửu đã làm được điều này tuy chưa thực sự

xuất sắc nhưng đó cũng là một cống hiến, một tấm gương cho sự sáng tạo về việc

dám đặt bút vào một lĩnh vực khá mới mẻ.

Tuy nhiên, hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử có một nét đặc thù riêng, không

giống với hư cấu của tiểu thuyết nói chung. Tiểu thuyết lịch sử phải căn cứ vào sự

kiện và nhân vật lịch sử có thật, cho nên dù có hư cấu thì cũng chỉ có thể tạo ra các

sự kiện giống như "chất phụ gia”cho lịch sử chứ không thể làm sai lệch lịch sử.

Trong đề tài của tiểu thuyết lịch sử Trương Tửu còn xuất hiện hình tượng các

nhân vật quần chúng đông đảo. Mặc dù nhà văn không mô tả tường tận tính danh,

nhưng mỗi lần họ xuất hiện đều gắn liền với sức mạnh và những biến cố lớn lao của

lịch sử. Những người hành khất, kẻ ăn mày, dân gian… được tái hiện phong phú,

sinh động trong tiểu thuyết Năm chàng hiệp sĩ. Hình ảnh đám đông và dân gian

lồng ghép khéo léo với thời gian và không gian lịch sử nhằm diễn tả một phần sức

mạnh trong đảng Quần Anh. Chính họ - đám đông quần chúng đã góp phần vào

thắng lợi cho những tráng sĩ như Kim Sơn, Đông Tùng, Cát Điền…

Bên cạnh đó, nhà văn có cơ hội mô tả nhiều bình diện về tâm lý và tính cách

con người hơn cái "khuôn mẫu" nhân vật trong chính sử, tạo cho bạn đọc thêm cảm

87

nhận về sự gần gũi của họ với những con người trong “truyện đường rừng” và

truyện cổ dân gian. Tính tổng hoà xã hội của con người trong tiểu thuyết dã sử của

Trương Tửu hay một số nhà văn khác cao hơn con người trong chính sử, nhờ những

yếu tố thế sự và đời tư, phép “lạ hóa” được người viết chuyển vào lịch sử một cách

linh hoạt để trang sách và đời sống gần gũi nhau hơn.

Tiểu thuyết lịch sử của Trương Tửu ra đời trong trào lưu cách tân tiểu

thuyết đáp ứng nhu cầu tiếp nhận đa chiều của bạn đọc. Con người trong tiểu

thuyết của ông không "trùng khít" với nhân vật lịch sử. Nhà văn đã tước bỏ

những yếu tố ước lệ, các điển tích, điển cố, những "khuôn mẫu" trong văn

chương trung đại và những trang viết của các nhà Nho đầu thế kỷ XX, thay vào

đó là con người mang trong mình "cái hay cái dở" của cuộc đời. Việc thoát ra

kiểu kết cấu chương hồi, tạo tiếng nói đa thanh phức điệu, kết hợp hoà trộn linh

hoạt các yếu tố sử thi, thế sự, đời tư, tâm lí, lạ hóa, khéo sử dụng cái hài cùng

các chất liệu dân gian là những cách làm mới tiểu thuyết dã sử của Trương

Tửu. Mặc dù có những điểm hạn chế về sự cách tân “táo bạo”, có chỗ nhà văn

đã cho nhân vật nói tiếng nói của chàng và nàng ở thế kỷ XX, song nhìn chung

sáng tác của Trương Tửu đã thể hiện cái nhìn mới về bản chất con người xã

hội, gắn với các sự kiện tiêu biểu trong từng triều đại hoặc ở mỗi địa phương để

tạo nên cốt truyện. Số lượng nhân vật trong mỗi tác phẩm không nhiều, nhưng

chi tiết gây ấn tượng ở việc dựng cảnh dựng người, tạo tình huống bất ngờ cùng

với lời thuật linh hoạt, kể chuyện xen miêu tả, dùng từ ngữ mang dấu ấn lịch

sử, phép lạ hoá, dùng biệt ngữ và địa danh, kết hợp tư liệu lịch triều và dã sử

tạo nên các bức tranh nghệ thuật nhiều màu sắc. Sự thành công và dụng ý nghệ

thuật của tác giả ở mảng đề tài lịch sử, dã sử thể hiện ở các nhân vật chính,

những nhân vật không quá nổi tiếng hoặc không có trong chính sử. Đó là tráng

sĩ Bạch Hạc, tráng sĩ Bồ Đề, tráng sĩ Kim Sơn hay Đông Tùng… Đó là những

con người lý tưởng: Họ đẹp toàn diện, tài năng, dám sống hết mình vì mục đích

thiêng liêng, cao đẹp và dám yêu mãnh liệt bằng tất cả con tim... Tất cả làm nổi

lên bức chân dung rõ nét của một nhà tiểu thuyết lịch sử những thập niên đầu

88

thế kỷ XX của nước ta, một trong những cây bút đi tiên phong trên hành trình

cách tân tiểu thuyết. Và như vậy, dường như sự còn mất về tên tuổi của một

nhà văn ở mỗi thời đại văn học có lẽ cần được xác định ở hướng đi riêng.

Ngoài những tác phẩm viết về tình yêu, gia đình hay những tệ nạn xã hội,

tiểu thuyết viết về lịch sử của Trương Tửu tuy số lượng 2/13 tác phẩm , nhưng đã

để lại một dấu ấn khá quan trọng trong tiến trình hiện đại hoá của văn học nước

nhà khi đưa lịch sử hoà nhập vào với đời sống, đưa người anh hùng trở về với đời

thường. Đây có thể coi là thành công bước đầu của nhà tiểu thuyết khi dấn bút vào

một thể loại khá phức tạp - thể loại tiểu thuyết lịch sử.

3.2. Hệ thống nhân vật - yếu tố quan trọng trong việc phát triển đề tài

3.2.1. Nhân vật tích cực

Đây là hệ thống nhân vật thể hiện những giá trị tinh thần, những phẩm chất

cao đẹp. Họ mang những hành vi cao cả, những hoài bão lớn lao hay những khát

vọng bình dị. Họ có tính cách đáng mến trọng. Họ thể hiện lí tưởng thẩm mỹ của

nhà văn, cũng phần nào là lí tưởng của xã hội.

Nhân vật tích cực xuất hiện khá rõ nét trong một số tác phẩm của nhà văn.

Tiêu biểu là những tiểu thuyết mang tính dã sử như Tráng sĩ Bồ Đề hay Năm chàng

hiệp sĩ. Ngoài ra, còn phải kể đến những nhân vật như Hiền, Như Lan, Hảo trong

Một chiến sĩ; hay nhân vật Thông, vợ chồng Huấn (bạn thân của Thông) trong tiểu

thuyết Trái tim nổi loạn; Thiện, Mỹ trong Khi người ta đói; nhân vật “Tôi” với đầy

sự cảm thông, chia sẻ những kiếp đời bất hạnh.

Nhân vật tích cực trong văn xuôi Trương Tửu khá đa dạng. Mỗi nhân vật một

tính cách, đặc biệt hơn nhà văn đã để cho nhân vật tự đi đến với số phận của riêng

họ rất khách quan. Nhân vật Hiền, Hảo, Như Lan trong Một chiến sĩ hay tráng sĩ Bồ

Đề trong tiểu thuyết cùng tên, tráng sĩ Kim Sơn, Đông Tùng trong Năm chàng hiệp

sĩ… giúp ta cảm nhận được rõ nét lí tưởng, quan điểm của nhà văn, bởi các nhân vật

ấy có vẻ đẹp được kết tinh trên tinh thần tranh đấu để xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.

Đời sống của con người sẽ được thay đổi trong xã hội mới đó. Trong tiểu thuyết

Một chiến sĩ, nhân vật Hiền là một chàng thanh niên thật đẹp. Anh lương thiện, có

89

lối sống lành mạnh, có lí tưởng và mục đích sống rõ ràng. Hiền không chấp nhận lối

sống luồn cúi, khép mình hay vì tiền để đạt được danh vọng. Anh cũng không chấp

nhận một cuộc sống bình thường, êm đềm một cách nhạt nhòa… Với anh, lẽ sống

đồng nghĩa với tranh đấu. Với anh, tình yêu đồng nghĩa với cống hiến và hy sinh.

Cá nhân phải biết vì cộng đồng và mọi người. Đó là một chàng trai có trái tim khao

khát yêu thương với một trái tim nóng hổi tình yêu nhưng cũng sục sôi khát vọng

tranh đấu vì xã hội. Với một mục đích sống rõ ràng và chính nghĩa, Hiền và Hảo đã

sáng suốt trong suy nghĩ, hành động. Họ can đảm để lại sau lưng những tình cảm ủy

mị của gia đình, người yêu để dấn thân vào cuộc đời của một chiến sĩ dám hy sinh

vì nghĩa lớn. Tuy nhiên, ta cũng thấy rằng ở những chàng trai nhiệt huyết như Hiền

và Hảo, con đường mà họ đi cũng đang ở mức “nhận đường”. Họ vẫn ít nhiều phải

băn khoăn, day dứt về con đường mình đã chọn. Họ dám dấn thân trên một con

đường chưa nhiều người đi. Đôi khi, ngòi bút Trương Tửu đã lách thật sâu vào nội

tâm nhân vật, để cho thấy những băn khoăn, dằn vặt, âu lo.

Hiền là một thanh niên “Thông minh, tài đức của chàng người ta muốn dắt vào

một con đường- con đường phú quý- thì chàng dự bị vào dùng một con đường khác

- con đường lí tưởng… Nhưng “người chiến sĩ của chúng ta lại có một trái tim đa

cảm!” [120, tr. 138]. Từ lâu, Hiền đã tự nhận ra chàng không muốn ngồi trong bốn

bức tường của một ngôi nhà hạnh phúc ích kỷ mà “rung đùi ngâm nga bài thơ véo

von của tình yêu… Con đường mà cha mẹ chàng, cha mẹ Như Lan, cả Như Lan nữa

đã đồng lõa vạch ra kín đáo cho thân thế chàng - con đường của giàu sang nhàn nhã

- con đường ấy, Hiền không muốn bước vào, không thể bước vào” [120, tr. 139].

Hiền cứ như một con thuyền bị xô đẩy trên hai dòng thác. Anh đau đớn, dằn vặt

giữa lí tưởng và những hạnh phúc bình dị. Anh yêu Như Lan và cũng rất thương mẹ

cha. Điều mà Trương Tửu thử thách nhân vật của ông, và cũng thử thách tình cảm

của bạn đọc là ông để cho Hiền phải trải qua với những giằng co, đau khổ trong

chọn đường. Một bên là hạnh phúc cá nhân mà ai cũng mơ ước. Một bên là lí tưởng

đấu tranh của người chiến sĩ vì cộng đồng. Với Hiền, tình yêu nồng nàn, đắm đuối

của Như Lan làm chàng tột cùng hạnh phúc thì cũng tột cùng khổ đau. Những khi

chàng trai ấy cảm nhận được hạnh phúc trong tình yêu thì lại chính là lúc trái tim

90

chàng đau khổ: “Thấy tình yêu của Như Lan đối với mình trong trẻo và đằm thắm

quá, Hiền cảm động ứa nước mắt” [120, tr. 140]. Bởi để nuôi dưỡng một tình yêu là

kết quả sẽ có một gia đình bé nhỏ, đầm ấm. Với người đời, có lẽ như thế là tất cả,

nhưng với Hiền: “Bỏ tranh đấu tức là chết. Sống cái đời sát đất của những kẻ hèn

nhát, Hiền sẽ héo người đi mà chết. Địa hạt sinh hoạt của chàng phải là tranh đấu-

cuộc tranh đấu nguy hiểm, không ngừng. Chàng chỉ có thể tìm được lẽ sống ở

những hành động vị tha, ở những hoài bão lớn lao, ở những hy sinh bất vụ lợi…

Cả một tinh thần tranh đấu vụt đứng dậy trong linh hồn người thanh niên dũng

cảm ấy… Hiền không thể gò ép đời mình trong phạm vi nhỏ hẹp của gia đình. Địa

hạt của chàng phải là xã hội vì chỉ có ở đấy chàng mới cảm thấy mình sống” [120,

tr. 153-154]. Khi chứng kiến giọt nước mắt của cha mẹ, người yêu, chàng thanh

niên ấy mủi lòng để rồi, sau đó ngọn lửa tranh đấu lại bùng cháy mạnh mẽ hơn.

Hiền là một trong những điểm sáng của thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Trương

Tửu, là nhân vật thể hiện rõ nhất lý tưởng đấu tranh của nhà văn.

Một số nhân vật khác, tráng sĩ Bồ Đề hay tráng sĩ Bạch Hạc trong Tráng sĩ Bồ

Đề, tráng sĩ Kim Sơn hay Đông Tùng trong Năm chàng hiệp sĩ cũng là những nhân

vật chính diện tiêu biểu với sự lí tưởng hóa cao của Trương Tửu. Những tráng sĩ ấy

có lòng nhiệt huyết và tài năng siêu phàm, một mặt lại là những thanh niên hăm hở vì

lý tưởng và cũng có những tình yêu cao đẹp, nồng nàn. Các nhân vật trong tiểu thuyết

dã sử của nhà văn Trương Tửu khá hoàn hảo về nhân cách, hành động và tài năng.

Các nhân vật tuy sống trong một thời đại của quá khứ nhưng được nhà văn xây dựng

với điểm nhìn hiện tại nên có dấu ấn của sự hiện đại hóa. Để nhân vật đạt đến độ lí

tưởng hóa, Trương Tửu đã xây dựng nhân vật với màu sắc hư cấu. Nhất là về phương

diện tài năng, các nhân vật dường như đều phi phàm, trác việt. Bên cạnh đó, nhân vật

chính diện trong tiểu thuyết dã sử còn được khắc họa rõ nét qua đời sống tâm hồn,

tình cảm phong phú. Họ không chỉ tài năng, đức độ, họ còn biết yêu chân thành, dám

hết mình cho tình yêu. Những trang văn thể hiện sự rung cảm chân thành và tinh tế về

tình yêu đã tô đậm cho nhân vật một vẻ toàn bích, hoàn thiện và lý tưởng. Có lẽ tiểu

thuyết dã sử là một mảnh đất màu mỡ để nhà văn ươm trồng những hạt nhân lí tưởng,

những nhân vật mà ông khó tìm thấy trong hiện tại, ngoài cuộc sống đương thời.

91

Nhân vật tích cực trong văn xuôi Trương Tửu đã góp một phần không nhỏ

thể hiện những dự đồ sáng tạo, mục đích sáng tác của nhà văn. Qua nhân vật mà

ông dụng công hoàn thiện càng thêm hiểu và trân trọng hơn những điều mà nhà

văn ấp ủ, kiếm tìm. Đó là hình tượng những con người hoàn mĩ, sống đẹp, điều

khó tìm trong cái xã mục nát với những hỗn độn và đồi bại. Đây chính là sự khác

biệt của Trương Tửu với những nhà văn Nam Cao, Ngô Tất Tố khi xây dựng hình

tượng nhân vật chính.

Nhân vật tích cực trong những tác phẩm của Nam Cao là những con người

đời thường như Lão Hạc, Hộ… tất cả đều được xây dựng từ việc tác giả khám phá

sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật, khắc họa rõ nét những con người sống trong

xã hội bấy giờ. Nhân vật của ông thường rơi vào những nghịch cảnh. Miếng ăn,

cái đói, cái nghèo và nước mắt trở thành nỗi ám ảnh, đè nặng cuộc đời. Sự nghèo

nàn, tàn lụi len lỏi vào mỗi số phận, mỗi mái ấm gia đình, làm cho cuộc sống con

người trở nên đau thương, quanh quẩn. Nhân vật tích cực của Nam Cao thường bị

đặt vào hoàn cảnh chênh vênh bên bờ vực của số phận, của nhân cách và tài năng,

bằng ngòi bút hiện thực Nam Cao thiên về phân tích nội tâm nhân vật để khẳng

định những giá trị của con người.

Có thể nói, cùng xây dựng những nhân vật tích cực cho tác phẩm của mình

nhưng mỗi nhà văn lại có cách khai thác khác nhau và có bút pháp nghệ thuật miêu

tả riêng. Không dằn vặt đau khổ cùng quẫn tìm đến cái chết như lão Hạc của Nam

Cao, cũng không phải sống khổ sở đến phải xé lòng bán con như chị Dậu, nhân vật

tích cực của Trương Tửu mang đến cho ta một cái nhìn lạc quan về xã hội, với

những con người có phẩm chất cao đẹp luôn muốn được cống hiến cho cộng đồng.

3.2.2. Nhân vật tiêu cực

Trước hết cần thấy “Thực tiễn sáng tác, phê bình và nghiên cứu đã nêu lên

nhiều kiểu và loại nhân vật văn học, tương ứng với những dấu hiệu phân loại khác

nhau” [5, tr. 251]. Đặc biệt “Do phục vụ cho việc truyền đạt sự đánh giá và thể hiện

lý tưởng xã hội của nhà văn, người ta nêu ra “nhân vật chính diện” (tích cực), và

“nhân vật phản diện” (tiêu cực)- cách phân biệt này tuy ước lện nhưng lại tiêu biểu

92

cho sáng tác của khá nhiều xu hướng văn học” [5, tr. 251]. Nhân vật tiêu cực trong

tác phẩm văn học, có thể nói là nhân vật mang những phẩm chất xấu xa, trái với đạo

lí và lí tưởng của con người, được nhà văn miêu tả trong tác phẩm. Khái niệm tiêu cực

là “có tác dụng phủ định, làm trở ngại sự phát triển” hoặc tiêu cực là “không lành

mạnh, có tác dụng không tốt đối với quá trình phát triển của xã hội”. [108, tr. 990].

Như vậy, nhắc đến nhân vật tiêu cực trong tác phẩm của các nhà văn đương thời phải

nói đến Nghị Quế của Ngô Tất Tố trong Tắt đèn, Nghị Lại của Nguyễn Công Hoan

trong Bước đường cùng. Nghị Quế, Nghị Lại là những tên địa chủ thôn quê.

Không châm biếm, mỉa mai, sắc sảo, nhưng Trương Tửu khắc họa nhân vật

tiêu cực trong tác phẩm là kẻ đê hèn, khốn nạn như Cử Mùi trong Khi người ta

đói, những kẻ mất nhân tính như Bích, Thi trong tiểu thuyết Đục nước béo cò, hay

Nguyệt trong Một kiếp đọa đày biết mình có chút nhan sắc, và được mẹ yêu chiều

nên đối xử tàn nhẫn với người chị ruột bị tàn tật bất hạnh. Nguyệt nói những lời

cay nghiệt, độc địa với Liễu không một chút xót thương hay động lòng trắc ẩn của

tình cảm chị em ruột thịt, Nguyệt xem việc hành hạ được người chị xấu người, xấu

số ấy là một thú vui… Từ những hành động, lời nói lạnh lung của Nguyệt và mẹ

cô đã khiến Liễu trở nên oán hờn, và thành người độc ác đến đáng sợ.

Cử Mùi trong truyện Khi người ta đói, hắn lợi dụng người ta nghèo đói, không

trả được tiền thuê nhà mà lấy đó làm cái cớ để hắn ngang nhiên cưỡng bức một cô

gái nghèo khổ, yếu đuối đến đáng thương. Hành động đê hèn của Cử Mùi không chỉ

vùi dập thân thể người phụ nữ. Sự dâm ô, bẩn thỉu của hắn đã ám ảnh cô gái trong

trắng khiến cô tủi nhục ê chề đến phát bệnh mà chết. Đau đớn về thể xác, quẫn bách

về tinh thần, nhất là cái nghèo hèn góp phần vào việc đầy đọa một người tội nghiệp

như Thanh. Cô đã chết sau khi phải trải qua muôn vàn tủi nhục, đắng cay. Quyền

lực vạn năng của đồng tiền đã khiến Cử Mùi càng thêm hống hách. Hắn có quyền,

có tiền nên hà hiếp người lương thiện. Sự dâm ô đốn mạt của hắn đáng phải bị trừng

trị. Hành động đưa cho Thanh mấy đồng bạc sau khi thực hiện hành vi thú tính càng

cho thấy sự ghê tởm về một kẻ như hắn. Đây cũng là thành công của nhà văn khi

không tốn quá nhiều giấy mực nhưng bằng một vài chi tiết đã khiến cho một nhân

vật tiêu cực như Cử Mùi lộ nguyên hình là con quỷ dâm dục.

93

Nhắc đến hai vợ chồng Bích, Thi không ác đến mức cầm dao để giết người,

không sống quá trụy lạc như Liêu, Văn trong Thanh niên S.O.S nhưng cuộc sống

của họ khiến ta không khỏi trăn trở. Con người ta có thể sống lạnh lùng, vô đạo

đến thế kia sao? Bích vốn là một kẻ trăng hoa, ham hưởng lạc. Vợ anh ta, Thi

cũng là một phụ nữ sống thực dụng đến tầm thường. Thi chỉ mê bài bạc. Cô ta

không có một chút phẩm chất nào của một người làm mẹ, làm vợ.Thi mê bài bạc

đến nỗi bỏ bê việc gia đình, bỏ mặc con nhỏ thì thật đáng trách. Cái hình ảnh

người mẹ ham đánh bài đến rơi cả con xuống đất khiến đứa trẻ mới ẵm ngửa

khóc điếng, khóc lặng thật khiến người ta bất bình. Thi chỉ có thừa một điều là

sự tàn nhẫn, độc ác. Cô đối xử với em gái thật bạc tình. Đánh đập Tuất khi em

gái cô khi đang bụng mang dạ chửa chỉ vì thói trăng hoa của chồng. Thi nhục

mạ, đay nghiến em, cưới em làm lẽ cho chồng để hành hạ, sỉ nhục, xem em như

một con ở để hầu hạ cô, điều này thật đáng sợ ở một người chị gái. Cuộc ẩu đả

giữa Thi với chồng và em gái khiến đứa con còn ẵm ngửa của Thi rơi xuống đất.

Đứa bé sau đó bệnh nặng và chết. Hoàn cảnh và cơ sự như vậy mà Thi chỉ buông

một câu nói: “Thôi đành vậy, sống thì nuôi, chết thì chôn,…” [120, tr. 508]. Khi

Tuất quá hoảng sợ chị gái và hiểu rõ tâm địa người anh rể khốn nạn, cô đã bỏ đi.

Đứa con của cô vừa sinh đành để lại. Thi đã dỗ con của chồng và em gái mình

bằng những lời độc ác “Con nín đi, không có bà ăn thịt cho bây giờ”. Còn người

cha của Thi và Tuất không chỉ mong con gái được người anh rể để mắt đến để có

khoản tiền là một chục đồng tiền khao thọ, để được ngồi mâm trên. Câu chuyện

xoay quanh gia đình Thi, Bích nhưng nó khiến ta bất bình trước giá trị đạo đức

xuống cấp, suy đồi. Tuy chưa phải là kẻ mất hết nhân tính lẫn nhân hình như Chí

Phèo của Nam Cao nhưng các nhân vật như vợ chồng Thi, Bích đã có thể được

xếp vào tuyến phản diện bởi qua những nhân vật này nhà văn cho thấy từ suy

nghĩ đến hành động của họ đều là hẹp hòi, đểu giả. Qua đời sống ở một gia đình

mà nhà văn phản ánh, Trương Tửu muốn thức tỉnh những giá trị đạo đức, những

tình cảm máu mủ, ruột thịt, những luân thường đạo lí tốt đẹp ngàn đời của một

dân tộc.

94

Như vậy những nhân vật tiêu cực trong tác phẩm Trương Tửu đã khắc họa được

phần nào sự đồi bại mất đạo đức, nhân phẩm của con người trong xã hội bấy giờ. Nhân

vật của Trương Tửu tuy chưa đạt đến tính điển hình như nhân vật tiêu cực của một số

nhà văn cùng thời nhưng đã cho thấy một thực trạng xã hội đang đầy rẫy những con

người chạy theo danh lợi và đồng tiền mà sẵn sàng đánh đổi tình thân, đánh đổi đạo

đức lương tâm của chính mình .

Trong quá trình tìm hiểu về cuộc sống con người và xã hội những năm đầu thế kỷ

XX ở nước ta, ngòi bút Trương Tửu đã khá mạnh taytrong việc khắc họa nhân vật tiêu

cựctrở thành những kẻ tha hóa đáng bị cộng đồng lên án.

Tha hóa là một từ được dùng theo những ý nghĩa khác nhau, nói cách khác là

một từ có nhiều khái niệm: Trong đời sống cộng đồng, tha hóa là một khái niệm có

ý nghĩa đạo đức, nói về những trường hợp người bị biến chất, bị mất đi những phẩm

chất tốt đẹp vốn có của mình trước đây.

Trong nghiên cứu khoa học - xã hội, tha hóa là một khái niệm có ý nghĩa triết

học, nói về một hiện tượng, một quy luật diễn ra trong đời sống xã hội.

Từ điển Tiếng Việt, định nghĩa tha hóa (Động từ) có hai nghĩa: “Con người bị

biến chất thành xấu đi”. Thí dụ: “Bị tha hóa trong môi trường tiêu cực”. Hay biến

thành cái khác đối nghịch lại.

Như vậy nhân vật tha hóa là nhân vật bị biến chất mất đi những phẩm chất tốt

đẹp vốn có trước những thế lực đen tối trong xã hội. Như nhân vật Nghị Hách trong

tác phẩm Giông Tố của Vũ trọng phụng- điển hình cho tầng lớp quan lại thời đó, sắc

nét và sống động. Nghị Hách không phải là một ông nghị tầm thường, hắn là một

tên địa chủ có năm trăm mẫu đồn điền trong tỉnh nhà, hắn còn là một nhà đại tư bản,

một nhà đại công nghiệp có mỏ than ở Quảng Yên, ba chục nóc nhà Tây ở Hà Nội,

bốn chục nóc nữa ở Hải Phòng. Cái ấp của hắn đồ sộ nhất tỉnh, đến dinh quan công

sứ cũng không bằng. Cách ăn chơi của hắn thì y như các vị công hầu khanh tướng

trong tiểu thuyết Tàu, có mười một nàng hầu đặt dưới quyền một mụ quản gia.

Không những thế, Nghị Hách lại sắp ứng cử ghế Nghị trưởng, sắp có Bắc Đẩu bội

tinh. Xuất thân của Tạ Đình Hách chỉ là tên cai thợ nề, thế rồi sang Lào một chuyến,

95

không biết làm ăn ra sao mà khi về trở nên giàu có thế ấy. Chính vợ con hắn kể tội

ác của hắn:

“- Ừ đấy, bà thế đấy! Nó là cung văn thật đấy, nhưng mà bụng dạ tốt, nó ăn ở có

nhân có nghĩa... Nó còn hơn cái mặt mày, đồ lường đảo! Quân giết người! Đồ lường

thầy phản bạn! Quân hiếp dâm! Ừ! Mày cứ ly dị bà đi! Rồi bà tố cáo tội lường gạt, tội

giết người của mày trước pháp luật cho mà xem! Mày về mày hỏi mười một con vợ lẽ

của mày xem có phải mày hiếp chúng không? Có phải mày đã bỏ bã rượu vào nhà bố

mẹ đẻ chúng để bố mẹ chúng phải bán rẻ cho mày không?...” [89, tr. 422-423].

Thành công tiêu biểu của Vũ Trọng Phụng là việc sáng tạo nhân vật tha hóa

Nghị Hách. Nhà văn đã xây dựng được nhân vật điển hình có tính cách đa dạng và

thống nhất về bản chất xã hội. Ông đã khắc họa nhân vật bằng nhiều chi tiết mà chi

tiết nào cũng tiêu biểu tạo dựng một nhân vật tha hóa độc đáo.

Giai đoạn trước cách mạng tháng Tám năm 1945, Việt Nam là nước thuộc địa

có tình hình xã hội phức tạp. Nhà nước thực dân phong kiến đã dồn ép, đẩy tầng lớp

nhân dân lao động vào tình trạng dở sống, dở chết, cùng quẫn, bế tắc. Trường Tửu

không tập trung bút lực vào việc miêu tả tình trạng đói cơm, rách áo, bần cùng, lầm

than của người dân lao động mà tác giả quằn quại đau đớn với những con người bị

xã hội lôi kéo, đánh mất đi những bản chất cao đẹp vốn có.

Chúng ta không còn lạ với nhân vật Liêu, Văn, Sâm trong tiểu thuyết xã hội

Thanh niên S.O.S ban đầu Liêu là một thư sinh nho nhã cũng có ước mơ về một con

đường học hành. Nhưng rồi lại bị lôi kéo bởi những dục vọng đê hèn về xác thịt. Họ

trở thành những thanh niên trụy lạc, trác táng với lối sống, lệch lạc trong nếp nghĩ

và nhận thức, bệnh hoạn về tinh thần. Ở đây giọng văn của Trương Tửu gần với Vũ

Trọng Phụng. Trương Tửu phản ánh sinh động tất cả những sự trụy lạc trong lối

sống tha hóa của Liêu và của những thanh niên đương thời. Cái xã hội với những

nhà chứa, nhà cô đầu, thuốc phiện, gái đĩ nhan nhản, ta có cảm giác đúng như nhà

văn phản ánh: “…một xã hội mà đặt chân vào một xó tối nào cũng gặp một gái đĩ,

dạo chơi hè phố nào cũng trạm trán một tên ma cô; trong một xã hội mà rạp chiếu

bóng là buồng đợ của nhục dục, công viên là cung điện của dâm thần…” [120, tr. 27].

Xã hội như thế nên sản sinh ra những lớp người, đau đớn lại là những thế hệ trẻ

96

luôn chỉ biết coi trọng nhục dục hơn những giá trị đạo đức, họ yêu thích hành lạc và

hưởng thụ mà quên đi bổn phận, trách nhiệm với chính mình, họ say mê tiền tài,

khoái lạc và hoàn toàn xa lạ với những mĩ từ “lí tưởng”, “tương lai”. Họ đem cả

tương lai đốt vào những thuốc phiện, những cuộc ăn chơi trụy lạc và kết quả là

những cái chết rất trẻ, quằn quại vì bệnh xã hội. Những thanh niên ấy, người đi

trước dắt kẻ đi sau rồi cùng bị đẩy xô xuống vực thẳm đầy xương máu. Vậy đằng

sau những thanh niên như Liêu, Văn, Sâm… nhà văn muốn nói điều gì? Nhà văn

kết tội xã hội để nêu những hành động người trí thức cần làm, đó là phải cải biến xã

hội, phải hành động để chống lại cái thực thể mục nát của xã hội cho đến khi kiến

thiết được một xã hội mới hợp lí và nhân đạo hơn. Chính vì vậy dù là những trang

văn đầy những từ ngữ về sự trụy lạc, những hành động suồng sã, những cử chỉ đầy

dục tình của lớp thanh niên nhưng đằng sau đó là một đôi mắt đầy ưu tư của nhà

văn cho cả xã hội bấy giờ. Có thể nói đó là mặt thành công của Trương Tửu khi ông

đi sâu vào đối tượng những con người bị tha hóa bởi cuộc sống trụy lạc, chủ nghĩa

vật chất. Trương Tửu nêu rõ chủ kiến sáng tác bằng cả bài viết từ Thanh niên S.O.S

đến Một chiến sĩ, trong đó ông nhấn mạnh tính hệ thống và mối liên hệ chặt chẽ

giữa hai tác phẩm:

Thanh niên S.O.S được quan niệm và xếp đặt theo một định luật xã hội học: cá

nhân không là gì hết, hoàn cảnh là tất cả. Những điều kiện sinh hoạt của một hoàn

cảnh đẻ ra những tâm trạng, tư tưởng, pháp luật tương đương. Tất cả họp thành một

sức mạnh lôi cuốn người ta một cách tàn nhẫn. Người ta không đủ thời giờ và nghị

lực dừng bước hay rẽ tạt sang bên cạnh. Người ta mất hết tự chủ. Người ta chỉ còn

là cánh bèo trên dòng thác, một bánh xe trong bộ máy. Đối với cá nhân, hoàn cảnh

tác động như một số mệnh.

Căn cứ vào định luật ấy, tác giả Thanh niên S.O.S cắt nghĩa về hiện tượng

trụy lạc của thanh niên. Tác giả đặt ra một bài toán. Thanh niên sống thế nào,

nghĩ thế nào và ông không ngần ngại đem phô bầy lên mặt giấy y nguyên, linh

hoạt. Tác giả không tố cáo, không biện hộ, mà chỉ ghi dấu lại một hoàn cảnh của

xã hội đương thời..

Bằng một giọng văn có thể nói là điềm tĩnh đến lạnh lùng, giọng điệu ấy có sự

tương đồng với phong cách Nam Cao khi các nhà văn muốn phản ánh hiện thực.

97

Đằng sau cái lạnh lùng của Nam Cao, cái điềm nhiên của Trương Tửu là những ưu

tư, trăn trở. Họ như người thư kí của thời đại và nhường sự đánh giá, phán xét cho

công chúng và bạn đọc.

Ở cô gái giang hồ có tên là Hậu, nhân vật chính trong tiểu thuyết Khi chiếc

yếm rơi xuống, một cô gái tốt, đẹp bị hoàn cảnh xô đẩy mà trở nên tha hóa, nhà văn

cho ta một cái nhìn thương cảm với một lớp người dưới đáy xã hội. Họ không phải

xấu xa từ bản chất. Ban đầu Hậu vốn rất lương thiện, dòng dõi quan cách. Gia cảnh

khánh kiệt đến mức cô phải bán mình để có tiền lo ma chay cho mẹ. Khi chiếc yếm

rơi xuống cô trở thành loại gái mà người ta phỉ nhổ khi nhìn thấy nhưng lại rất cần

khi nhục dục khát thèm. Hậu nhiều lần muốn thoát khỏi nơi ô nhục để gột rửa

những bùn nhơ nhưng chính con người quanh cô quá tàn nhẫn nên cô dù có muốn

hoàn lương mà không thể. Họ coi cô là hư nết rồi thì không thể quay về. Hai lần lấy

chồng nhưng sự đớn hèn, bạc nhược của hai người chồng và sự cay độc của những

người xung quanh khiến Hậu còn ghê tởm họ hơn cả kiếp sống của cô. Thiên tiểu

thuyết đã gửi một cách nhìn đầy thương cảm đến kiếp sống của hạng người vốn bị

coi thường, khinh rẻ. Cuối tác phẩm về cô gái giang hồ ấy nhà văn bộc lộ suy ngẫm:

“Khi mảnh yếm rơi xuống…

Thì người đàn bà phải thay nó bằng cái cooc xê.

Cuộc đời người đàn bà như nạn nhân trong truyện này, từ thời đại cũ đến thời

đại mới, có cả một thảm sử.

Có cả sự nghèo đói.

Có cả sự túng quẫn.

Và có cả cái lòng dục thú vật của người đàn ông.

Khi chiếc yếm rơi xuống…

Thì người đàn bà không mặc nó lên được nữa. Một bàn tay đã in dấu vết vào

da thịt thì những bàn tay đàn ông khác xô đến.

Trên cái dấu vết nhơ nhuốc ấy, xã hội khắc một dòng chữ: “Mày đã làm đĩ, thì

phải làm đĩ suốt đời” [120, tr. 244].

98

Vẫn là sự điềm nhiên đến lạnh lùng nhưng tấm lòng của nhà văn đầy sự cảm

thông cho con người. Viết về họ, nhà văn muốn phản ánh xã hội, lên án xã hội. Nếu

không đọc kỹ, không hiểu thấu được rằng những tác phẩm viết về đề tài thanh niên

trụy lạc của Trương Tửu cũng thấm đẫm chất nhân văn.

Cũng xây dựng nhân vật tha hóa Vũ Trọng Phụng viết về con người bị tha

hóa bởi chính đồng tiền, giàu sang mang đến sự phức tạp khó giải thích trong nội

tâm của nhân vật, lúc đáng thương, lúc đáng giận, lúc thấy nhà văn yêu thương,

lúc lại thấy mỉa mai, đã kích. Như nhân vật Thị Mịch và cha mẹ cô trong “Giông

Tố”, cô Mịch con gái ông đồ hiền lành ngây thơ quê mùa đã hứa hôn với Long,

nhưng Mịch đã bị Nghị Hách hiếp dâm. Mịch nghĩ không còn xứng đáng với người

tình, Mịch đã treo cổ tự vẫn nhưng không chết, Long đã hiểu cho hoàn cảnh của

Mịch nhưng rồi sau đó, sự nghi ngờ chiếm hữu khiến Long xa lánh Thị Mịch

dần. Cuối cùng Mịch có thai và trở thành vợ bé của Nghị Hách, lên làm Bà lớn

Mịch cảnh vẻ quát tháo con ở, ngoại tình với Long, dâm đãng như bất kỳ người

đàn bà có tiền có thế lực nào. Mịch đã trở thành con người tha hóa, và tình yêu

của Mịch lúc này chỉ còn là sự thù hận. Cha mẹ Mịch ngày trước trong sạch tôn

trọng đạo đức thánh hiền thì nay vênh váo trên chiếc xe của Nghị Hách, mặt mũi

phởn phơ không kém gì hạng người ngày trước ông bà khinh bỉ. Chính bản thân

Mịch cũng thù ghét cha mẹ ở thái độ đổi trắng thay đen nhanh đến thế.

Có thể nói bằng việc xây dựng hình ảnh nhân vật tha hóa vì đồng tiền mà Vũ

Trọng Phụng đã phanh phui “thú tính” nơi con người kể cả ở những con người hiền

lành chân thật nhất.

Tuy vậy, không phải không có những hạn chế trong cách xây dụng nhân vật

của hai nhà văn. Để phản ánh sinh động cái thực thể xã hội, Trương Tửu có quá

nhiều câu văn viết về sự trụy lạc. Dẫu mục đích và dự đồ sáng tạo của ông là chân

chính nhưng sử dụng những câu văn quá tự nhiên về sự trụy lạc và đời sống tình

dục cũng là một hạn chế.

Hơn nữa, tuy phản ánh hiện thực sinh động nhưng Trương Tửu quá bi quan

khi nhìn vào hiện thực. Với những nhân vật tha hóa trong Thanh niên S.O.S, Khi

chiếc yếm rơi xuống, Thằng Hóm nhà văn khiến người đọc không chỉ nhận thức về

99

xã hội mà còn có thể mất niềm tin vào cuộc đời, bởi ở bất cứ đâu, trong bất cứ hoàn

cảnh nào, con người ta cũng bị bủa vây bởi sự suy đồi, sự xuống cấp của đạo đức,

sự oan trái của số phận. Chọn cách sống bằng nghề ăn cắp là một sự lựa chọn duy

nhất trong hoàn cảnh hiện tại của Hóm: “Thế là, rốt cục Hóm lại chỉ sống bằng nghề

ăn cắp. Mà nó suy xét kỹ cũng chỉ thấy còn cả nghề ăn cắp là hơn cả, đối với một số

kiếp thằng như nó” [124, tr. 993]. Trương Tửu đã lên án Nhà nước và chế độ luật

pháp đương thời. Con người sống trong một xã hội như thế khiến người ta hư

hỏng, xấu xa là tất yếu, không thể khác được.

Trương Tửu có những tác phẩm đi sâu khai thác cuộc cải biến xã hội đương

thời, những cuộc va chạm quyết liệt giữa cái mới và cái cũ, đặc biệt phản ánh sâu

sắc những đổ vỡ, hoang mang, ngỡ ngàng của lớp người trẻ tuổi trước thực tại xã

hội thời thực dân hóa cùng mặt trái của thời kỳ đô thị hóa, hiện đại hóa. Thông qua

những tấn bi kịch tình yêu và gia đình, nhà văn đi sâu phân tích bi kịch con người

cá nhân, con đường bần cùng hóa, bế tắc và không còn khả năng thích nghi với cuộc

sống đang biến đổi mau chóng Những trang văn của ông phần nào bắt nhịp và tiếp

xúc đồng đại với văn học phương Tây đương đại, ông chú trọng phân tích tâm lý

con người cá nhân theo dòng ý thức, theo những ẩn ức thân phận và cả khía cạnh

tính dục để làm nổi bật nội dung cần phản ánh.

3.2.3. Một số nhân vật ảnh hưởng của phân tâm học Freud

Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud, một bác sĩ người

Áo gốc Do Thái sáng lập. Phân tâm học trong nghiên cứu văn học “Phân tâm học

xem hoạt động sáng tạo nghệ thuật như biểu hiện sự thăng hoa (sublimation) của

những xung lực tâm lý khởi thủy và những ham muốn (về cơ bản là ham muốn tình

dục tuổi thơ) bị thực tại bác bỏ, phải bù lại bằng cách tìm sự thỏa mãn ở lĩnh vực

huyễn tưởng. Phân tâm học vạch ra ở lịch sử văn học một loạt những sơ đồ cốt

truyện ổn định, trong đó tác giả tự đồng nhất mình với nhân vật, và mô tả: hoặc là

sự thực hành những ham muốn vô thức của mình, hoặc là sự xung đột bi kịch của

các ham muốn ấy với những thế lực cấm đoán về mặt xã hội hoặc đạo đức... Những

mẫu mực đầu tiên về việc áp dụng phân tâm học vào xem xét văn học, nghệ thuật là

do S. Freud đưa ra, tuy vậy chính ông đã cảnh cáo và chống lại việc lẫn lộn nhiệm

100

vụ của phân tâm học và của nghiên cứu văn học: Phân tâm học chỉ khảo sát văn học

như một tài liệu có tính chất minh họa, tự thân nó không có năng lực giải thích sự

khác biệt...” [5, tr. 256-257]. Một trong những tác phẩm chủ yếu của Freud trên con

đường xây dựng phân tâm học là Ba tiểu luận về lý thuyết tính dục". Công trình này

làm rõ cơ sở lí thuyết giải thích nhu cầu dồn nén và những nguồn năng lực xúc cảm

nằm dưới vận động và những ứng xử có ý thức và vô thức của con người. Freud gọi

năng lực đó là libido. Freud đã xem xét sự loạn dâm, thói phô bày, ác dâm,... hiện

tượng có thật trong đời sống tình dục của con người... Chấm dứt thời kì tiềm ẩn của

đời sống tình dục, chứng minh cho sức mạnh đời sống vô thức.

Dưới sự ảnh hưởng của phân tâm học, một số nhân vật trong tác phẩm của

Trường Tửu được tái hiện qua đời sống tình dục, đó là những đam mê xác thịt, nó

chi phối mọi hành vi, ý nghĩ. Ông tạo dựng ra những nhân vật nam nữ thanh niên

với một ham muốn nhục dục “Phàm một người con gái phải trải qua một thời kỳ mà

cơ thể kêu gào một khoái cảm, khoa học gọi là thời kỳ động tình. Trong thời kỳ đó,

không gì làm người con gái hoạt bát, có duyên, tươi tỉnh, lẳng lơ bằng đứng trước

mặt một người con trai” [120, tr. 69]. Vậy phải chăng quá trình trụy lạc hóa của

những thanh niên nói chung và Liêu nói riêng trong Thanh niên S.O.S còn có những

nguyên nhân từ phía nhu cầu đời sống tình dục cá nhân của con người, cái mà văn

chương, giáo dục gia đình và xã hội đương thời thường né tránh, ít dám đề cập tới,

thậm chí cho đến hôm nay vẫn còn là điều kiêng khem, cấm kỵ đối với nhiều

người? Phải chăng đây là quá trình vật lộn, giằng giật một mất một còn giữa cái The

Ego và cái The Id (cái tôi và cái siêu tôi - chữ dùng của Sigmund Freud) ở Liêu.

Trong cuộc vật lộn đó, cái siêu tôi luôn tạo nên áp lực ức chế đối với cái tôi. Nhu

cầu tình dục là quá trình tìm kiếm những cảm giác khoan khoái nhằm chống lại cái

siêu tôi trong đời sống tâm lý cá nhân đã bị xã hội tước đoạt đi một cách vô thức.

Mặt khác, trong trường hợp này, cái tôi luôn là kẻ bị trừng phạt và bị bỏ rơi bởi cái

siêu tôi. Sự lôi kéo của những người bạn càng làm tăng thêm ham muốn đó trong

Liêu. Cũng chính vì ham muốn tình dục mà Thi bất chấp cả những luân thường đạo

lý không buông tha cho cả em vợ mình.

101

Là người thuộc văn phái tả chân, Vũ Trọng Phụng đã đề cập trực tiếp đến khái

niệm Tính dục (thời đó gọi là Dâm) và phân định khá rõ nội dung cũng như ý nghĩa

xã hội và giá trị nhân bản của khái niệm này. Thái độ chung của nhiều xã hội, Đông

hay Tây trước đây, là né tránh mọi sự bàn luận công khai về tính dục, thậm chí về

cơ thể con người. Trong những dòng đầu Lời tựa cuốn Làm đĩ, Vũ Trọng Phụng đã

nói rõ quan niệm của mình về Tính dục. “…Cái dâm tự nó không xấu, mà nó là cái

điều cao thượng đẹp đẽ và linh thiêng vô cùng, vì nhờ nó mà loài người không tiêu

diệt, nhờ nó mà có chúng ta đây. Tác giả xin để Freud cắt nghĩa cho các ngài nghe

rằng sự dâm có điều bẩn thỉu không đáng nói đến chăng, tưởng là đã đủ. Vậy thì,

thưa các ngài. Ôi! Hỡi người đọc ta, phường đạo đức giả mà giống hệt ta! Tại làm

sao cái điều ấy, cái điều mà người ta tự cho mình là đúng đắn, đạo đức không dám

nói ra miệng bao giờ, thì chính là cái điều mà bất cứ lúc nào người ấy cũng có thể

phải nghĩ thầm trong bụng? Cái dâm thuộc về cái quyền sinh lý học, luân lý không

kiềm chế nổi”. Ông thường nói về cái dâm và nạn mãi dâm. Chủ nghĩa Freud cho

rằng: ý thức bị tiềm thức chi phối và nội dung của tiềm thức là cái Libiđô nghĩa là

bản năng nhục dục. Cái Libiđô tình dục đó đã chi phối mọi hành vi hoang dâm,

ngoại tình đĩ điếm trong nhân vật của ông. Gần 300 trang, thông qua chủ đề về một

cô gái sa ngã, Vũ Trọng Phụng đã đề cập đến nhiều vấn đề xã hội lớn vẫn còn nóng

cho tới ngày nay: Trách nhiệm của người cầm bút, nguyên nhân các tệ nạn xã hội và

nhất là kêu gọi giáo dục thanh thiếu niên (về mặt giới tính) như là một biện pháp

hiệu quả nhất để đảm bảo sự phát triển lành mạnh của tuổi trẻ.

Cả Trương Tửu và Vũ Trọng Phụng đều ảnh hưởng phân tâm học Freud khi

đưa nhục dục ham muốn của con người vào trong tác phẩm của mình, thông qua đó

phản ánh cái thối nát của xã hội để thức tỉnh những con người lạc lối, nhằm kêu gọi

tầng lớp thanh niên đừng lãng phí thời gian mà hãy đứng lên đấu tranh chống lại những

cám dỗ tầm thường, chống lại những âm mưu của kẻ thù dân tộc.

3.3. Cảm hứng chủ đạo trong văn xuôi Trương Tửu

Cảm hứng “là trạng thái tâm lý đặc biệt khi có cảm xúc và sự lôi cuốn mãnh

liệt, tạo điều kiện để óc tưởng tượng sáng tạo, hoạt động có hiệu quả” [108, tr. 106].

Cảm hứng chủ đạo là trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm, xuyên suốt tác phẩm,

gắn liền với một tư tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm

102

xúc của những người tiếp nhận tác phẩm. Beelinxki coi cảm hứng chủ đạo là điều

kiện không thể thiếu của việc tạo ra những tác phẩm đích thực, bởi nó “biến sự chiếm

lĩnh thuần túy trí óc đối với tư tưởng thành tình yêu đối với tư tưởng, một tình yêu

mạnh mẽ, một khát vọng nhiệt thành”. Lý luận văn học xem cảm hứng chủ đạo là

một yếu tố của bản thân nội dung nghệ thuật, của thái độ tư tưởng cảm xúc ở nghệ sĩ

đối với thế giới được mô tả. Theo nghĩa này “cảm hứng chủ đạo thống nhất với đề tài

và tư tưởng của tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo đem lại cho tác phẩm một không khí

xúc cảm tinh thần nhất định, thống nhất với tất cả các cấp độ và yếu tố nội dung tác

phẩm. Đây là cái mức căng thẳng cảm xúc mà nhờ đó nghệ sĩ khẳng định các nguyên

tắc thế giới quan của mình trong tác phẩm” [44, tr. 45].

Nhà văn Trương Tửu đã nắm bắt nguồn cảm hứng một cách xâu chuỗi từ cảm

hứng phê phán đến cảm hứng bi kịch. Bắt nguồn từ cái nhìn chân thực về đời sống

xã hội đã khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho một cây bút văn xuôi chân chính và có

trách nhiệm trước tác phẩm của mình khi ra mắt độc giả.

3.3.1. Cảm hứng phê phán

Phê phán là “vạch ra cái sai trái để tỏ thái độ không đồng tình hoặc lên án” [108,

tr. 776]. Từ quan niệm về phê phán, nhà văn khơi nguồn cảm hứng này để viết nên

tác phẩm nhằm thể hiện thái độ của chính mình một cách cụ thể nhưng lại hết sức

khách quan trước những diễn biến của con người, xã hội.

Trương Tửu phê phán, lên án và tố cáo xã hội, phê phán lối sống của những

người được trang bị học thức nhưng lại lầm đường lạc lối, dấn thân vào những cuộc

chơi thâu đêm suốt sáng trong tiểu thuyết Thanh niên S.O.S. Nhà văn phê phán

những kẻ có tiền, có quyền sẵn sàng bán lương tâm cho quỷ dữ để tước đoạt sự

trong trắng của một cô gái đáng thương trong Khi người ta đói, cũng trong tác phẩm

này ông phê phán những kẻ sử dụng lao động đã luôn ăn chặn, luôn dồn người lao

động vào bước đường cùng khiến họ phải giành giật đấu tranh để cố gắng giữ được

lương thiện.

Trong xã hội mục nát và đầy rẫy những thói hư tật xấu đang hủy hoại thanh

niên, nhà văn mang mong muốn cứu vãn được tư tưởng của tầng lớp thanh niên

103

lúc đó nên ông đã ẩn mình vào vị bác sĩ để đưa ra giải pháp “chỉ có một cách dứt

bỏ được sự trụy lạc của thanh niên là phá đổ tận gốc các xã hội mục nát hiện thời

đi” [120, tr. 118]. Với văn học hiện đại, Thanh niên S.O.S (1938) là tiếng kêu cứu

của một thế hệ thanh niên đang suy sụp vì sự rối loạn của thời đại. Thông qua tác

phẩm, Trương Tửu không chỉ phê phán những ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa

ngoại lai, mà còn kín đáo phê phán những cổ hủ, lạc hậu của tư tưởng phong kiến

khiến người phụ nữ trở thành nạn nhân trong xã hội đó như Sâm trong Thanh niên

S.O.S, nhân vật Hậu trong Khi chiếc yếm rơi xuống, Tuất trong Đục nước béo cò.

Họ chỉ vì bị cha mẹ ép phải lấy người không yêu thương làm chồng, vì người cha

tranh giành kiện tụng để có vị trí trong thôn xã khiến gia tài tiêu tán, gia đình nát

tan, cụ Đội là cha của Tuất chỉ vì món tiền để khao làng lên lão theo “lệ làng”

[120, tr. 503] mà cụ gần như ép con gái lấy anh rể, cam phận làm lẽ chính chị gái

ruột. Từ những định kiến của xã hội cũ đã khiến thanh niên càng đến gần với sự sa

ngã, với tư tưởng bế tắc.

Không chỉ có vậy, ở một số tác phẩm nhà văn còn lên án, phê phán lối sống,

cách cư xử của mỗi thành viên trong đời sống gia đình. Với nguồn cảm hứng này,

có nhiều tác giả khi sáng tác đã đề cao giá trị nhân văn giữa con người với con

người như Ngô Tất Tố xây dựng hoàn cảnh vợ chồng chị Dậu bị bắt bớ, đánh đập

vì chưa nộp đủ tiền sưu thuế nhưng tình chồng nghĩa vợ ở họ vẫn đằm thắm sẻ

chia. Chị Dậu vùng lên đánh lại tên lính khi thấy hắn đánh đập chồng mình. Nam

Cao xây dựng hình ảnh Thị Nở nấu bát cháo hành cho Chí Phèo… Trương Tửu lại

khác, ông đã nhìn thấu mặt trái của xã hội với những méo mó, lệch lạc của đời

sống gia đình trong xã hội tư sản thành thị. Tất cả hiện thực đó được ông mở ra

như một cuốn phim quay chậm về những mảnh vỡ của hôn nhân không thể cứu

vãn như trong gia đình chị em Quế Hương và Liêu với cảnh bố mẹ ly thân, người

cha bỏ lại vợ, con để đi ở với người đành bà khác, điều này đã ảnh hưởng nhiều

đến chàng thanh niên vốn ngoan hiền, say mê học hành. Liêu thiếu đi người cha

đồng nghĩa thiếu đi một sự dạy bảo khiến anh ta trở thành hư hỏng, thân đầy tật

bệnh. Đến gia đình vợ chồng Thông Thúy tan vỡ trước những đòi hỏi nổi loạn của

104

Thúy với nhu cầu về nhục dục và cả nhu cầu về vật chất. Thúy đã ngoại tình bỏ lại

tổ ấm sau lưng không cần mảy may suy nghĩ để kết thúc là cái chết trong giông

gió của cơn biển lộng.

Bên cạnh đó ông phê phán tình cảm chị em gái ruột thịt đã bị lối sống thực

dụng chi phối. Những truyền thống “chị ngã em nâng”, “một con ngựa đau cả tàu

bỏ cỏ” nhường chỗ cho sự ích kỉ, hẹp hòi và kết thúc là chị em hủy hoại lẫn nhau

như Thi đối Tuất trong Đục nước béo cò. Tình cảm chị em giữa họ được nhà văn

khắc họa chân thực và để họ xuất hiện đồng hành cùng với nhều ngôn từ dung tục.

Lời của Thi chửi rủa em mình là “Con đĩ voi giầy kia! Con giời đánh kia” [120, tr.

505], “Đồ đĩ rạc đĩ rầy”[117, tr. 510], Liễu với Nguyệt trong Một kiếp đọa đày,

Liễu nuôi nỗi hận thù cô em gái, còn em cô thì kênh kiệu, đỏng đảnh, coi thường

người chị đáng thương, Nguyệt có những hành động không thể chấp nhận ở một

người em “Lấy ngón tay trỏ ấn vào má Liễu”, cô còn chì chiết người chị kém may

mắn “Giời đã bắt cái mồm méo sệch thế này mà còn lắm nhời…” [120, tr. 524].

Đối với Nguyệt sự ích kỉ đã đánh mất tình yêu thương của cô từ lúc nào “Từ lúc

bắt đầu cuộc ồn ào này, Nguyệt lấy làm khó chịu. Nàng còn phải bận óc về nhiều

cái khác hơn về cái số kiếp người chị tàn tật kia - bận tính toán công việc sắm áo

cưới chẳng hạn. Trong cái tâm hồn nhỏ hẹp ấy không có chỗ để cho một tình cảm

vị tha nào đặt chân vào được” [120, tr. 530]. Biết chị viết thư nặc danh phá hoại

hạnh phúc của mình, Nguyệt đã không có được lòng độ lượng vị tha để tha thứ

cho người chị để rồi kết cục Liễu đã “ghé răng vào môi Nguyệt, ngoạm một

miếng, nghiến thật mạnh… Đứng nhìn môi em rách tung, Liễu thỏa sướng vô

cùng” [120, tr. 555]. Chị em cắn xé lẫn nhau (cắn xé được sử dụng cả hai nét

nghĩa) là do đâu? Có phải bản chất con người là căn nguyên dẫn tới cuộc chiến

trong gia đình hay còn lý do nào khác? Nhà văn tài tình ở chỗ đó, ông khai thác

mọi khía cạnh của cuộc sống để lên án khi tình cảm, trách nhiệm con người đối

với tổ ấm gia đình xuống cấp. Trương Tửu đã nêu ra vấn đề và để ngỏ câu trả lời

cho đến tận xã hội ngày nay. Nội dung phán ánh trong tác phẩm không chỉ đúng

trong xã hội đương thời mà trong xã hội hiện đại với sự bùng nổ của nền công

nghệ thông tin như hiện nay chưa hẳn không tồn tại những gia đình như vậy.

105

Đặc biệt, ở một số tác phẩm Trương Tửu phê phán người làm cha, làm mẹ đã

đối xử tàn độc với con cái dưới những hình thức hành động hay lời nói. Ông phê

phán cách dạy bảo con cái độc đoán như người cha của Nguyệt Minh đã đánh cô

không thương tiếc, đến nỗi sẹo đầy mặt, chột cả mắt và bị bệnh tim sau trận đòn

chỉ vì để cấm cản con gái yêu chàng trai có tên là Huấn trong Tôi nguyền rủa mãi

người cha ấy, “Ông Bá đánh Nguyệt Minh chán tay rồi bỏ xuống nhà dưới. Nàng

nằm đờ trên giường như người hấp hối, thân thể đau đớn. Đang nằm nàng lại thấy

ông Bá lên. Rồi ông lại đánh nàng một trận nữa. Nàng chết ngất đi. Người nhà

phải xô nhau lại phun nước lã vào mặt, giật tóc mai nàng mới tỉnh.

Hôm sau nàng không ăn uống gì được, mình mẩy thâm tím như người tội

phạm bị tra tấn ở buồng thú tội. Nhất là ngực nàng đau dữ lắm. Không hiểu ông

Bá điên rồ ấy nghĩ thế nào mà lại lên đánh nàng một trận nữa. Trận này đau hơn

tất cả vì nàng không còn một chút hơi sức nào để chống cự với cái đau nữa.

Nàng cứ nằm bệt cho cha muốn đánh thế nào thì đánh. Bỗng nàng thấy đau chói

ở mắt bên trái. Nàng rú lên một tiếng rồi ngất lịm đi. Thì ra ông Bá đã phang

mẩu củi vào giữa mắt nàng” [120, tr. 384].

Bà Phán trong Một kiếp đọa đày không dùng vũ lực như ông Bá, nhưng đối

với đứa con tàn tật lẽ ra phải được bà yêu thương và bù đắp, thì bà lại hắt hủi coi

đứa con gái đó như cái gai làm xấu mặt bà. Bà đã không công bằng trong việc dạy

bảo các con. Là người mẹ, lẽ ra bà phải là người phân xử đúng sai khi các con có

mâu thuẫn, phải uốn nắn, khuyên răn các con, phải bảo ban, động viên đứa tật

nguyền. Nhưng bà Phán lại khó chịu với Liễu mà chỉ bênh vực Nguyệt, khiến Liễu

đau đớn, tủi cực vì bị chính mẹ và em xa lánh. Bà Phán không bao giờ dành cho

Liễu nụ cười “kể từ ngày con biết nghĩ đến giờ, con chưa bao giờ thấy mẹ cười âu

yếm với con một lần nào”, có chăng là những lời chửi rủa hơn cả với “người dưng

nước lã” như “Cha tiên nhân nhà nó! …Tao vẫn biết cái tâm địa mày ác lắm cơ

mà!... À! Lại còn gái đĩ già mồm à… À! Cha tiên nhân mày, hôm nay mày lục tội

bà có phải không…” [120, tr. 524-530]. Bà Phán đã đối xử với đứa con mà bà dứt

ruột mang nặng đẻ đau như vậy. Bà không dùng đến đòn roi nhưng những lời bà

dành cho đứa con gái tội nghiệp sao cay nghiệt đến thế, mỗi câu bà chửi con kèm

106

với thái độ ghét bỏ như hàng nghìn mũi dao đâm vào tim Liễu. Sự đau đớn đã khiến

kẻ tàn tật đó trở thành tội đồ với hai tội danh trong cái gia đình ấy. Tội thứ nhất do

cô bị sinh ra ở trên cõi đời này khiến người thân của cô phải xấu hổ. Tội thứ hai cô

chính là kẻ ác thú hủy hoại nhan sắc của em gái và cuộc sống tưởng chừng như yên

bình của cả gia đình. Nhà văn đã rất khách quan khi sử dụng cảm hứng phê phán để

đẩy kịch tính của tình huống truyện lên đến đỉnh điểm đó là sự trả thù của Liễu.

Như vậy, Trương Tửu đã không dừng lại ở việc miêu tả chân thực khách quan

về con người và xã hội, bằng cảm hứng phê phán ngòi bút của ông đã lên án mạnh

mẽ vào những chủ trương chính sách của bọn thực dân và những tàn dư phong kiến

còn sót lại khiến cuộc sống của mỗi con người trong xã hội ấy bị đè nén và bế tắc.

3.3.2. Cảm hứng bi kịch

Nguồn cảm hứng bi kịch là niềm cảm thương day dứt, ám ảnh trong một số tác

phẩm văn xuôi Trương Tửu. Tiếng Pháp bi kịch là tragédie. Bi kịch phản ánh không

phải bằng tự sự mà bằng hành động của nhân vật chính, mối xung đột không thể

điều hòa được giữa cái thiện và cái ác... diễn ra trong một tình huống cực kì căng

thẳng mà nhân vật thường chỉ thoát ra khỏi nó bằng cái chết bi thảm gây nên những

suy tư và xúc động mạnh mẽ đối với công chúng [44, tr. 18]. Theo Arixtốt bi kịch là

“sự bắt chước hành động hệ trọng và trọn vẹn” nhằm “dùng hành động chứ không

phải bằng kể chuyện, bằng cách gây nỗi xót thương và nỗi sợ hãi để thực hiện sự

thanh lọc những nỗi xúc động tương tự” [dẫn theo cuốn Từ điển thuật ngữ văn học].

“Như vậy, bi kịch sẽ không còn là bi kịch nữa nếu người xem không bị rung động

bởi nhân vật và nếu toàn bộ nỗi xúc động và khiếp sợkhông dẫn đến đượcmột giải

quyết nào đó về tình cảm theo hướng tích cực. Nhân loại tìm thấy ở các tác phẩm bi

kịch những gì khủng khiếp mà cái ác có thể gieo rắc, áp đặt cho mình, do đó không

thể bang quan và chịu khuất phụctrước sức mạnh tàn bạo của nó được” [44, tr. 18-

19]. Nhà văn đề cập tới sự ích kỷ của cái tôi, đó cũng là một trong những căn

nguyên của bi kịch. Cảm hứng bi kịch được thể hiện ở nhiều cấp độ với nhiều nhân

vật. Trong Cái tôi của ai, sự đau buồn trăn trở về lương tâm đạo đức của con người

được tác giả miêu tả khá chi tiết, đồng thời nhà văn để nhân vật cố dứt cái tôi ích kỷ

của mình nhưng là chuyện không dễ dàng. Sống trong sự bon chen của cuộc đời, vì

107

tiền bạc, vì hãnh diện, con người không dễ thắng cái tôi ích kỷ. “Muốn sống còn, tôi

cũng phải ích kỷ như mọi người” [120, tr. 583]. Tác giả kể một câu chuyện để minh

họa cho triết lý ấy. Một lần, các đồng nghiệp ở sở vận động nhau ký vào đơn đòi chủ

tăng lương. Tôi không ký, nhưng vì người cầm đầu là Thiệp ráo riết vận động, lại sợ

bản tính liều lĩnh, du côn của Thiệp, nên tôi đành ký. Hôm sau, chủ hứa hẹn trấn an

các nhân viên. Tôi được gọi vào gặp chủ; ông chủ đưa cho xem những lá đơn xin việc

đang chờ với số lương yêu cầu chỉ bằng hai phần ba số lương tôi đang lĩnh. Tôi sợ

hãi, xin rút ý kiến đòi tăng lương. Ông chủ vẫn hăm dọa đuổi việc và hỏi tên chủ

mưu. Tôi đành khai ra Thiệp. Thiệp bị đuổi việc. Trước ánh mắt hằn học của Thiệp

khi rời sở, tôi luôn sống trong sự sợ hãi và ám ảnh về sự đê hèn của mình: chỉ vì giữ

một chỗ làm mà tố cáo, làm hại đồng nghiệp. “Thì ra, cái tính ích kỷ mà tôi khinh, tôi

ghét, tôi cố tìm diệt, nó vẫn ở trong máu tôi”… [120, tr. 587].

Nhân vật đã nhận ra phần xấu trong chính mình. Kết thúc tác phẩm là sự sám

hối và tiếng kêu tuyệt vọng của một người ý thức về nhân phẩm nhưng không

thắng nổi sự ích kỷ xấu xa của con người mình: “Tôi chán tôi đến cực điểm rồi.

Tôi không muốn là tôi nữa. Tôi sợ cuộc đời tôi sẽ mãi mãi chỉ là một chuỗi dài

những cái ích kỷ bẩn thỉu và tội lỗi. Trời hỡi trời! Không biết tôi còn bị giam

trong sự ích kỷ đến ngày nào? Đến lúc nào??? [120, tr. 596]. Tác phẩm bật ra

tiếng kêu từ những kiếp sống lay lắt, tàn tạ. Những cơ thể đang sống mà như tách

biệt khỏi cuộc sống, vô phương hướng, không mục đích sống. Đó cũng chính là bi

kịch của con người trong xã hội lúc bấy giờ và nhà văn đã lấy đó làm nguồn cảm

hứng không thể thiếu trong quá trình sáng tác.

Đọc cả truyện Khi chiếc yếm rơi xuống, người ta chỉ thấy rặt một màu đen tối,

không có lấy một tia hy vọng ở kẻ nghèo “Ả giang hồ sau những đêm ăn lóc trên

chiếc đệm bông, bán hình hài mua cơm áo, sa vào cảnh bĩ; kiếm chẳng đủ tiền phấn

sáp, chép miệng cởi chiếc quần dài, tháo đôi hoa tai, lủi thủi... đến nhà Vạn Bảo”

hay “...Cậu công tử nửa mùa, kiếm ăn chung quanh nhà chứa, tiệm hút, một buổi

sớm bụng thấy đói, sờ túi hết tiền, nhăn nhó bọc tròn bộ com-lê đến nhà Vạn Bảo”

[120, tr. 389] (Vạn Bảo là nơi tụ tập của những kẻ nghèo hèn xơ xác, bế tắc. Họ đến

Vạn Bảo để cầm một món đồ gì đó kiếm chút tiền qua ngày đói khát). Chao ôi,

108

những kiếp người quẫn bách đến thảm hại, khốn cùng. Nhà văn đã hướng đôi mắt

đến họ, những con người tiều tụy đáng thương. Thanh, nhân vật trong Khi người ta

đói nghèo khổ,thảm hại. Sự túng quẫn đã hằn trên gương mặt hốc hác, xanh xao. Cô

rét run vì phong phanh không đủ ấm, nhưng cô cũng đang thổn thức bởi nghĩ đến

anh trai cô “Lạnh thế này, anh có độc một chiếc áo Ba-đờ-xuy cũ mà cũng cởi ra

cho cô đi cầm thì chịu thế nào được? Nàng biết anh mình cơ cực, bần hàn nhưng

vẫn cố cho mẹ và nàng được đỡ một vài phần đói rét” [120, tr. 400].Trước mắt nàng

hiện ra hình ảnh mẹ già co ro chờ tiền rau cháo bữa chiều. Nàng lại thoáng nghĩ đến

tiền nhà mà giật mình, buốt gáy. Nàng nhớ đến hành động thô lỗ, tiếng chửi bẩn

thỉu, tục tĩu của tên chủ đến đòi tiền nhà. Viết tiểu thuyết Khi người ta đói Trương

Tửu đã thể hiện tấm lòng thương cảm trước những kiếp người khổ sở. Các nhân vật

trong truyện hiện lên thật thê thảm. Bất cứ ai có lương tri, cảm xúc chắc hẳn sẽ

động lòng trắc ẩn với những kiếp người như Thanh, Thiện... Nghèo dẫn đến bi kịch

và đau đớn thảm thương, không lối thoát, Thanh đã treo cổ tự vẫn trước ánh mắt ái

ngại, xót xa của những người hàng xóm. Họ thương hại cô nhưng không giúp được

gì vì họ cũng đói, cũng tiều tụy và bần hàn chẳng kém. Viết về những số kiếp bị đọa

đầy bởi đói kém, cơ hàn phải chăng nhà văn đã lên án sâu sắc xã hội đương thời

thối nát. Cái đói, cái nghèo tưởng đã có thể buông tha cho tầng lớp tiểu thương, Mỹ

là đại diện. Mỹ khéo léo bán buôn nên có đồng ra đồng vào, cô lo cho Thiện, giúp

gia đình Thiện trong cảnh khốn cùng. Vậy mà sự ác nghiệt của số phận đã đẩy cô

gái ấy đến cái chết trong thê thảm. Cái chết của cô khiến Thiện đau đớn. Thiện là

một chàng trai khốn khổ bởi cái nghèo đói, túng quẫn đeo bám, và chỉ có Mỹ cùng

tình yêu của cô là niềm an ủi anh, nhưng cuối cùng những người thân của Thiện cứ

lần lượt ra đi mãi mãi bỏ lại anh trong đau đớn vật vã. Xã hội của những kẻ giàu có,

quyền thế, của những bất công mà trong đó người bóc lột người đã đẩy những con

người đáng thương như Thiện vào cảnh phá sản cả về vật chất cả về tinh thần. Họ bị

tước đi tất cả một cách tàn nhẫn. Tác phẩm Khi người ta đói, khiến ta cảm nhận

được cõi lòng trĩu nặng của nhà văn trước những cái chết do đói nghèo dằn vặt.

109

Ngòi bút của nhà văn được khơi từ nguồn cảm hứng đó để bật ra thành câu, thành

lời trong sự băn khoăn, day dứt và trăn trở.

Đến với nhà văn Nam Cao, ông cũng là cây bút khơi nguồn cảm hứng sáng

tác từ những bi kịch trong cuộc sống đời thường. Bi kịch của người nông dân, bịch

tinh thần của những trí thức tiểu tư sản được Nam Cao khắc họa rõ nét. Trong văn

xuôi Trương Tửu, nhà văn khắc họa bi kịch của thanh niên trí thức, bi kịch của

người dân lao động. Nhà văn Trương Tửu và Nam Cao khi sáng tạo cùng có chung

dụng ý là phản ánh, tố cáo xã hội và bộc lộ sự cảm thương trước số phận nghiệt

ngã của con người.

Với những bi kịch về cái chết trong tác phẩm của Nam Cao, tác giả muốn

chỉ rõ đó là do đói nghèo, áp bức, bất công. Nam Cao hướng ngòi bút đến người

nghèo, Nam Cao chú ý đến những bi kịch về tinh thần của họ, đó là những nông

dân, những người trí thức tiểu tư sản. Nhà văn phát hiện ra bi kịch trong tâm hồn

họ. Nông thôn trong tác phẩm Nam Cao là nông thôn Việt Nam vốn triền miên

trong bần cùng với thảm họa khủng khiếp năm 1945. Nam Cao xây dựng tình

huống đưa nhân vật của mình đến cái chết, phần lớn đều là tự vẫn. Đó là những

cái chết chủ động, những cái chết được chuẩn bị chu đáo, như Lão Hạc trong

truyện ngắn cùng tên. Anh Cu Phúc trong Ðiếu văn chết lặng lẽ trong xó nhà ẩm

thấp trước đôi mắt "dại đi vì quá đói" của hai đứa con. Nam Cao không chỉ nói

đến bi kịch về tình cảnh bị bóc lột về thể chất mà đi sâu vào nổi khổ, tâm hồn

con người bị đày đọa, nhân phẩm bị xúc phạm, giá trị làm người bị tước đoạt.

Nhân vật của Nam Cao đương đầu với cái chết, đối diện với cái chế vì họ chưa

được giác ngộ cách mạng, do đó lối thoát duy nhất của họ là thoát khỏi hoàn

cảnh hiện tại tức là tìm đến với cái chết.

Còn bi kịch về cái chết trong những trang văn xuôi của Trương Tửu lại vạch

trần một xã hội đang loạn lạc về những giá trị tinh thần và văn hóa. Viết về xã hội

đương thời, Trương Tửu nhìn xã hội ở một tầm khái quát trước vấn đề về lối sống

của con người trong xã hội nói chung, đặc biệt nhà văn nhấn mạnh thế hệ thanh niên

với những vấn đề tệ nạn xã hội đang hoành hành làm tha hóa nhân cách con người.

110

Như vậy cùng đề cập đến bi kịch về cái chết, nhân vật của Trương Tửu cũng

chết vì đói nghèo, bần hàn nhưng bên cạnh đó còn có nhân vật tự tìm đến cái chết vì

những bệnh hoạn tồn tại xã hội. Trương Tửu muốn giải phẫu hiện thực xã hội để

nghiên cứu lịch sử truỵ lạc của một tâm hồn và vạch ra một con đường đi tới sự giải

quyết những vấn đề ấy. Những cái chết của nhân vật trong văn Trương Tửu có thể

không vật vã, không thể hiện được chiều sâu của sự day dứt nội tâm, sự khủng

hoảng bế tắc về tâm hồn nhưng đó là những cái chết cảnh tỉnh cho cả một thế hệ.

Qua những kết thúc như vậy Trương Tửu luôn đặt ra mục đích đấu tranh để cải tạo

xã hội. Văn xuôi Trương Tửu có xu hướng đi vào phân tích những éo le, uẩn khúc

trong các trạng thái đời sống cũng như trong lòng người và đưa ra những triết lý về

nhân thế. Cảm hứng bi kịch chi phối phong cách văn xuôi Trương Tửu. Trong tác

phẩm của ông có những bi kịch chết vì đói nghèo, vì bệnh tật của nhục dục đê hèn.

Cảm hứng bi kịch chi phối khá rõ tác phẩm của Trương Tửu với những kết thúc

không có hậu, những cái chết đau đớn và bế tắc hay cả những cái chết trong những

cơ thể đang sống mòn. Tuy nhiên, cảm hứng này không làm cho tác phẩm của ông

quá bi quan, tiêu cực mà ngược lại nó tác động sâu sắc đến nhận thức của người

đọc. Đặc biệt là nó thể hiện sự đấu tranh cải biến xã hội của nhà văn.

Tiểu kết

Trương Tửu đã góp phần không nhỏ vào việc hình thành và phát triển văn

xuôi ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX. Cùng xu hướng hiện thực với

Nam Cao, Ngô Tất Tố, Kim Lân, Vũ Trọng Phụng… Trương Tửu đã thể hiện chân

thực đời sống, xã hội đương thời qua đề tài và cảm hứng sáng tác trong những trang

viết. Trong số các nhà văn Việt Nam hiện đại, Trương Tửu đến với sáng tác văn học

bằng lòng yêu thích văn chương và ý chí của một người ham học để xây dựng tác

phẩm trên quan điểm thể hiện cái tâm của người cầm bút và cái tài của người luôn

tự trang bị kiến thức. Chính vì vậy, 13 truyện ngắn và tiểu thuyết của ông đã để lại

suy ngẫm cho người đọc.

Những trang văn xuôi in đậm tính luận đề và chất dã sử của Trương Tửu khá

nổi tiếng giai đoạn những năm ba mươi, bốn mươi của thế kỷ XX, nhưng dường

như sau này bị bạn đọc quên lãng mà nguyên nhân do những biến cố của lịch sử văn

111

học đưa đến đã ảnh hưởng không nhỏ tới người cầm bút khiến Trương Tửu dừng

hẳn sự quan tâm tới sáng tác văn xuôi. Có những lý do chủ quan và khách quan như

vậy đã tác động đến việc sáng tác văn xuôi của trương Tửu không được tái bản

trong suốt một thời gian dài, thậm chí có những bản chỉ còn được lưu trữ trong thư

viện ở Pháp như Thằng Hóm khiến việc bạn đọc tiếp cận văn bản gặp khó khăn. Có

lẽ vì vậy mà mảng văn xuôi của Trương Tửu đã bị lãng quên? Trên thực tế, sáng tác

của Trương Tửu với trên một nghìn trang dày dặn là minh chứng cho một cây bút

bản lĩnh trong làng văn xuôi giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám.

112

Chương 4

MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT

TRONG VĂN XUÔI TRƯƠNG TỬU

4.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua phương thức trần thuật

Khảo sát các tác phẩm văn xuôi của Trương Tửu, chúng tôi nhận thấy có hai

phương thức trần thuật cơ bản, đó là phương thức trần thuật khách quan và phương

thức trần thuật chủ quan. Ngoài ra, trong một số tác phẩm nhà văn đã sử dụng phối

hợp cả hai phương thức này.

4.1.1. Phương thức trần thuật khách quan với những nhân vật tượng trưng

Quá trình tìm hiểu về loại hình tự sự, phương thức trần thuật khách quan là

phương thức nghệ thuật xuất hiện từ khá sớm. Đây là phương thức trần thuật mà

người kể không can dự vào câu chuyện. Theo Nguyễn Văn Hạnh và Huỳnh Như

Phưng chỉ ra: “Trong phương thức khách quan, sự trần thuật được tiến hành từ điểm

nhìn của một người quan sát đứng ở một góc độ nhất định nào đó. Trong trường hợp

này, người trần thuật là người chứng kiến tất cả những gì mà người ấy kể lại. Chỉ

những hành động và sự kiện nàođược người trần thuật tiếp cận từ phía của mình nmới

được miêu tả” [45, tr 202]. Trong hầu hết 13 tác phẩm đều được nhà văn sử dụng

phương thức trần thuật khách quan này.

Các nhà văn khi xây dựng tác phẩm văn xuôi đều rất chú trọng nhân vật, coi

nhân vật như cái “cốt” để tác phẩm tồn tại. Do đó, nhân vật là yếu tố quan trọng

trong tác phẩm văn xuôi. Thông qua ngôn ngữ trần thuật, nhân vật bước ra từ tác

phẩm mang trọng trách là sứ giả của nhà văn đến với độc giả.

Đến với văn xuôi Trương Tửu, người đọc sẽ thấy được nhà văn là người có tài

quan sát, phản ánh những vấn đề của cuộc sống hiện đại trong bối cảnh “Âu hóa”.

Không hiếm thấy điều này trong các sáng tác của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng

Phụng, Nam Cao, Ngô Tất Tố... Mỗi nhà văn có một cách riêng để miêu tả và gửi

gắm tâm tư, tình cảm vào nhân vật của họ. Trương Tửu xuất hiện trên văn đàn vào

những năm đầu thế kỷ XX, nhưng không quá sớm như Hoàng Ngọc Phách, Hồ Biểu

Chánh. Tác phẩm văn xuôi đầu tiên của Trương Tửu ra đời vào năm 1937 khi xã hội

113

đang dần bước vào thời kỳ Mặt trận dân chủ 1936 -1939, trước nhiều biến thiên của

nền kinh tế, chính trị, xã hội cùng với tư tưởng mới của một trí thức tự học nên qua

ngôn ngữ trần thuật trong sáng tác ông đã xây dựng khá thành công kiểu nhân vật

tượng trưng trong xã hội đầu thế kỷ XX.

Với những nhà văn giai đoạn trước như Nguyễn Trọng Quản, Nguyễn Bá Học,

Phạm Duy Tốn, Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách đã có những bước tiến mới

trong nghệ thuật xây dựng kiểu nhân vật tượng trưng cho lớp người mới. Tuy nhiên,

qua phương thức trần thuật, lớp nhân vật này của các nhà văn được xây dựng dựa

trên những công thức nhất định và bị áp đặt bởi những giáo huấn về đạo đức lễ giáo

truyền thống khiến hầu hết nhân vật trong các tác phẩm của họ chưa thể hiện được

hết cá tính, chưa thể hiện được bản chất con người trong đời sống hiện thực.

Xung quanh vấn đề xây dựng kiểu nhân vật tượng trưng cho lớp người mới

trong xã hội những năm đầu thế kỷ XX, các nhà tiểu thuyết trong Tự lực văn đoàn

đã gặt hái được những thành công nhất định. Nhân vật được Nhất Linh, Khái Hưng

xây dựng khá phong phú, đa dạng. Họ xây dựng nhân vật dựa trên vốn kinh nghiệm

tích lũy trong xã hội tư sản, tiểu tư sản và tàn dư phong kiến nên qua phương thức

trần thuật lớp nhân vật này trở nên sống động với tính cách phong phú. Các nhà văn

thuộc khuynh hướng này rất chú ý đến đời sống nội tâm của nhân vật. Từ hành

động đến suy nghĩ, lời nói của kiểu nhân vật này đều được các tác giả miêu tả khá tỉ

mỉ, cụ thể với tư tưởng giải phóng con người cá nhân.

Trở lại với văn xuôi Trương Tửu, phương thức trần thuật của nhà văn rất khách

quan. Bằng phương thức trần thuật khách quan, nhà văn như một thư ký ghi lại toàn bộ

những quan sát về lớp người mới trong xã hội thông qua nghệ thuật xây dựng nhân

vật. Nghệ thuật xây dựng kiểu nhân vật tượng trưng cho lớp người mới chính là nghệ

thuật xây dựng về một thế hệ thanh niên trí thức trẻ tuổi đang cựa mình sống trong chế

độ xã hội với nhiều đổi thay. Trong xã hội ngày càng đô thị hóa và chịu ảnh hưởng của

sự du nhập nền văn hóa phương Tây nhưng lại chưa hoàn toàn thoát khỏi tàn dư phong

kiến, lớp người mới này được Trương Tửu xây dựng như thế nào? Họ vượt lên đấu

tranh hay thuận theo quy luật tất yếu của xã hội tư sản? Qua phương thức trần thuật

114

khách quan, nhà văn đã xây dựng nhân vật thanh niên trí thức trẻ tuổi trong Thanh niên

S.O. S như Liêu, Văn, Thịnh, Hòa là những sinh viên; trong Một chiến sĩ, Hiền là trí

thức làm tại tòa báo, Hảo là gia sư; trong Trái tim nổi loạn với Thông là một thầy giáo,

Thúy đã từng là sinh viên. Bằng phương thức trần thuật khách quan người trần thuật

đứng ngoài nhân vật nhưng vẫn khéo léo khắc họa kiểu nhân vật này. Với biện pháp

nghệ thuật này, nhà văn xây dựng nhân vật thường thông qua những đoạn đối thoại liên

tiếp trong tác phẩm khiến cho lớp nhân vật này thể hiện rõ nét tính cách rất tự nhiên

qua từng chặng đường của cuộc đời con người. Ở những tác phẩm này chủ thể luôn

giữ một khoảng cách nhất định với câu chuyện. Trong Tự lực văn đoàn, kiểu nhân vật

này xuất hiện khá nhiều, trong Gánh hàng hoa với nhân vật Minh là nhà báo, trong Đời

mưa gió nhân vật Chương là giáo viên trường tư thục...Họ là những người của thế kỷ

XX, họ tiếp thu nhiều cái mới mẻ trong thời đại mới nên dưới ngòi bút và tư tưởng của

các nhà văn họ là những nhân vật dám tranh đấu cho tình yêu, hạnh phúc và đặc biệt

cho quyền của người phụ nữ trong gia đình, xã hội. Không khó để nhận ra tư tưởng

đồng nhất giữa Trương Tửu và các nhà văn Tự lực văn đoàn trên phương diện này.

Nhân vật Sâm trong Thanh niên S.O.S cũng không muốn kết hôn với vị hôn phu được

cha mẹ định sẵn. Sâm chán nản tâm sự với bạn và bày tỏ quan điểm về hôn nhân, hạnh

phúc “Như cái việc của em chẳng hạn. Em thấy nó vô lý quá. Em hết sức phản đối cách

hôn phối nài ép đó. Mà rút cục cũng chẳng có hiệu quả gì” [120, tr. 64]. Nhân vật Hảo

trong Một chiến sĩ mặc dù có tình yêu với Như Lan nhưng chàng thấy cuộc đời còn

nhiều việc phải làm, nên trong lòng dù rất mâu thuẫn nhưng đấu tranh và giải phóng

chính bản thân thoát ra khỏi những tù túng để theo đuổi lý tưởng hoài bão khiến một

nhà báo như chàng cảm thấy có ý nghĩa với xã hội chàng bộc bạch suy nghĩ: “Tranh

đấu! Chỉ có tranh đấu. Chỉ nghĩ đến tranh đấu. Cái gì làm ngừng tranh đấu là thù

nghịch. Phải khu trù tất cả những thù nghịch bất kỳ ở mặt trận nào. Khu trừ rất tàn

nhẫn, rất cương quyết, rất độc đoán. Không được lý luận, không được lưỡng lự, không

được tiếc” [120, tr. 190]. Nhân vật Thông là thầy giáo trong Trái tim nổi loạn đã trả lời

cha mẹ chàng “theo ý con thì bất kỳ cuộc hôn nhân nào muốn có kết quả tốt cũng phải

được thành lập do sự ưng thuận của cả hai người, bên trai và bên gái. Mà muốn cả hai

115

người ưng thuận lấy nhau thì ít nhất hai người đó cũng phải biết nhau và yêu nhau”

[120, tr. 294]. Đỉnh điểm của việc bảo vệ cho tình yêu hạnh phúc cá nhân Thông đã

thẳng thắn trả lời cha trong không khí căng thẳng. Ông Tú muốn Thông lấy con gái ông

Chánh, nhưng Thông muốn kết hôn với Thúy là cô gái ở ngoài Hà Nội. Chàng quyết

bảo vệ ý kiến cá nhân về tình yêu hôn nhân đến cùng cho dù gặp phải sự phản đối kịch

liệt của cha mình.

Như vậy, kiểu nhân vật tượng trưng cho lớp người mới trong sáng tác của

Trương Tửu, trong tác phẩm của Tự lực văn đoàn họ đều đấu tranh để giải phóng

con người cá nhân, để bảo vệ tình yêu hạnh phúc tự do, để bảo vệ lẽ sống và lý

tưởng riêng. Mỗi nhân vật có cách đấu tranh riêng, cho dù bằng hành động, lời nói

hay sâu thẳm trong tư tưởng họ cũng đều thể hiện một cách đầy đủ nhất về lớp trí

thức mới trong những năm đầu thế kỷ XX.

Trương Tửu sử dụng khá thành công phương thức trần thuật khách quan để

xây dựng kiểu nhân vật tượng trưng cho lớp người mới trong xã hội đầu thế kỷ XX.

Kiểu nhân vật này trở nên sống động trong đời sống sinh hoạt. Qua sự vận dụng

biện pháp nghệ thuật này, cho thấy Trương Tửu có một sự cách tân sáng tạo trong

văn xuôi hiện đại.

Văn xuôi Trương Tửu đã mang màu sắc hiện đại, tuy nhiên phảng phất trong

khá nhiều tác phẩm của ông vẫn tồn tại những thế lực bảo thủ, kìm hãm sự phát

triển của con người cá nhân cũng như của cộng đồng nói chung. Đó là những tư

tưởng về “môn đăng hộ đối” trong hôn nhân, tư tưởng “mua quan bán quyền”, tư

tưởng phải “khao làng” để được lên lão.Tất cả những tư tưởng hủ tục xưa cũ đó, trở

thành công cụ sử dụng cho bọn thực dân Pháp và tay sai trong chính quyền nhà

nước thực dân phong kiến nhằm vào việc cai trị nhân dân ta. Mục đích tàn độc của

chúng mong muốn người dân đất An Nam chìm đắm trong mịt mờ tăm tối .

Thực dân Pháp tận dụng tàn dư phong kiến còn sót lại để thực hiện những

chính sách văn hóa nô dịch, chúng muốn dân ta chìm ngập trong đêm dài mông

muội để dễ dàng cai trị. Tuy nhiên, khi sử dụng hạ sách này bọn chúng đã vấp phải

sự phản kháng không nhỏ của những nhà văn dùng cây bút làm vũ khí thay cho

116

gươm, mác, súng để lên án chế độ thực dân, lên án những tàn dư phong kiến còn sót

lại khiến nhân dân lao động rơi vào hoàn cảnh bi đát, đáng thương. Những nhà văn

đã xây dựng kiểu nhân vật tượng trưng cho những tàn dư phong kiến như trong Tự

lực văn đoàn với những bà Án trong (Gia đình, Thừa tự, Nửa chừng xuân) bà Phán

trong (Đoạn tuyệt, Lạnh lùng). Trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan, Nam Cao,

Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng những nhân vật như lão Bá Kiến, ông Huyện, ông

Nghị hiện ra thật rõ nét. Đến với văn Trương Tửu, ông đã không miêu tả một cách

chi tiết vào từng con người cụ thể, mà nhà văn đã dùng phương thức trần thuật

khách quan để tái hiện chân thực cả một nền luân lý, lễ giáo luôn ghì chặt lấy con

người, kiềm tỏa sự phát triển của con người và xã hội. Nhà văn viết vài ba câu đối

thoại giữa nhân vật Sâm và Quế Hương mà hình ảnh những kẻ tri huyện trong bối

cảnh đương thời hiện ra thật bẩn thỉu trong Thanh niên S.O.S: “Hắn cố chạy ra tri

huyện là để mua lấy cái danh.Vả lại tri huyện dễ đục khoét”; “Chào, giàu thế thì

sướng nỗi gì. Xương máu của đám dân hèn đem mà chắt bóp ra tiền thì đồng tiền

ấy em cho là phi nghĩa”; vì muốn được làm tri huyện mà đức anh chồng của cô Tố

Nữ chủ hiệu may đẹp nhất Hà Thành sẵn sàng nghĩ đến kế sách hiến vợ. Vẫn tiếp tục

câu chuyện, Sâm càng thêm đau khổ vì bị ép gả cho một kẻ sắp ra làm tri huyện mà

cô không hề có tình yêu, cô sợ mình sẽ là nạn nhân giống như cô Tố Nữ kia. Một xã

hội trong đó người phụ nữ luôn chịu những thiệt thòi được nhà văn khách quan bộc

bạch “Thế mới biết làm đàn bà ở xã hội này khổ thật”. Hình ảnh ông Tú là cha của

thầy giáo Thông, cùng với ông Xã, ông Chánh được nói tới trong Trái tim nổi loạn là

kiểu nhân vật tượng trưng cho lễ giáo phong kiến. Bằng phương thức trần thuật khách

quan, nhà văn gián tiếp khắc họa về tính cách của nhân vật ông Tú qua nỗi lo sợ của

bà Tú về cuộc xung đột gia đình xảy ra giữa chồng và con trai: “Bà thương con trai

gặp phải một người cha nghiêm khắc. Bà lại thương chồng gặp phải một đứa con

ngang ngạnh. Bà biết rằng nếu xảy ra việc gì không hay cho sự yên ấm của gia đình

thì ông Tú sẽ đau đớn hơn cả. Ông vốn là người sợ tai tiếng lắm, nhất là tai tiếng

trong tộc họ, xóm làng. Ông cho là nhà vô phúc, mình hèn kém, nên con cái mới dám

kháng cự lại. Ông sẽ xấu hổ với bà con về sự hèn kém của mình. Người ta sẽ lên án

ông không biết dùng cái phụ quyền oai nghiêm mà lễ giáo đã trao, để điều khiển gia

đình” [120, tr. 292]. Theo nhân vật Thông thì cha chàng là người bảo thủ: “Từ sau

117

hôm ở quê ra, Thông không còn nhìn nhận cái oai quyền khắc nghiệt của người cha

bảo thủ kia nữa” [120, tr. 296]. Ông Tú muốn chủ động sắp xếp cuộc hôn nhân của

con trai mà không cần có sự bàn bạc. Tất cả được ông lên kế hoạch như một điều hiển

nhiên mà con trai ông chỉ có bổn phận thực hiện: “Ông Tú điềm nhiên trả lời:

- Thưa bác, tôi đã coi lịch rồi, định đến mùng bốn sang tháng thì đi trầu cau dạm

ngõ, rồi độ cuối tháng xin luôn cả ăn hỏi và rước dâu cho tiện” [120, tr. 293]. Cuộc

trò chuyện giữa người bác và cha Thông diễn ra như không hề có sự liên quan tới

anh. Trong khi việc hôn nhân và hạnh phúc là vấn đề của bản thân Thông, vậy nhưng

Thông chỉ được ngồi nghe, cha anh không hỏi xem thái độ, tình cảm của anh ra sao

trước mối lương duyên này.

Trong Khi chiếc yếm rơi xuống, vẫn là sự điềm tĩnh trong phương thức trần

thuật khi xây dựng nhân vật lý trưởng sau là chánh tổng của một làng ở Hưng Yên

bị “huyền chức”, chính là “thầy”- cha của Hậu, cô gái mang cuộc đời ca kỹ hẩm

hiu. Cũng chỉ với một đoạn văn ngắn hai mươi dòng “Em là dòng dõi một nhà quan

cách...”[120, tr. 235] mà nhà văn dựng nên cảnh quan chức ở chốn làng quê thật lắm

éo le. Cha của Hậu bỏ hết tài sản của nhà để chạy chức nhưng bổng lộc chưa thấy

mà cuối cùng là cảnh gia đình phân ly, tiễn biệt trong cùng quẫn tang tóc. Cha Hậu

được nhà văn xây dựng bằng đôi nét phác họa qua lời kể của Hậu với nhân vật “tôi”

vừa là nạn nhân, nhưng cũng là nhân vật được nhà văn xây dựng tượng trưng cho

tàn dư phong kiến đang nhào nặn tư tưởng “làm việc quan thì bổng lộc chẳng bao

lâu sẽ kiếm lại được số tiền bỏ ra”. Và rồi tàn dư phong kiến để lại cuộc đời của

Hậu, cuộc đời đau khổ chất chứa bao buồn tủi, cực nhục. Đó lại là một phụ nữ là

nạn nhân của tàn dư đó.

Đến tác phẩm Đục nước béo cò, nhân vật mà nhà văn xây dựng tượng trưng

cho tàn dư phong kiến thông qua nhân vật cụ Đội. Vẫn bằng phương thức trần thuật

khách quan qua câu chuyện giữa cụ Đội và cụ Hương bàn về việc lên lão của cụ

Đội, về vấn đề phải có “chục bạc” để “khao làng” nếu không sẽ không được ngồi

“chiếu lão”. Miêu tả về câu chuyện của hai người già trong làng nhưng là cả nội

dung lớn mà nhà văn muốn nói đến trong đó. Chỉ có việc “khao làng” nhưng cụ Đội

gần như đã bán con gái làm lẽ cho anh con rể, làm phận lẽ mọn và người giúp việc

cho chính người chị gái. Tủi nhục nhưng Tuất không thể phản kháng, cô chấp nhận

118

cuộc sống hiện tại để rồi cuộc đời cô lại rơi vào vòng luẩn quẩn của nhà thổ, cô đầu.

Trong làng xã Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX vẫn tồn tại những tập tục phong

kiến vô hình đè nặng lên cuộc sống của người nghèo, những tập tục đó được cụ thể

hóa dưới ngòi bút nhà văn khi xây dựng nhân vật cụ Đội là tượng trưng cho những

tàn dư phong kiến còn sót lại như những đốm lửa tàn chưa thể dập tắt, tàn dư đó

khiến cuộc đời của Tuất bị vùi dập, tàn dư đó một lần nữa thấy trong trang văn của

Trương Tửu là nguyên nhân khiến cuộc đời của người phụ nữ trở nên đen tối, mịt

mờ, không lối thoát.

Với nghệ thuật xây dựng kiểu nhân vật này, người đọc dễ dàng bắt gặp trong

các sáng tác của Tự lực văn đoàn.

Như vậy Trương Tửu khá thành công khi xây dựng nhân vật tượng trưng cho

những tàn dư phong kiến qua phương thức trần thuật khách quan. Ngòi bút nhà văn

đã khơi gợi ra bộ mặt của những kẻ mua quan chạy chức trong xã hội lúc đó được

khắc họa không chỉ một cá nhân riêng biệt, mà trở thành vấn đề nóng bỏng từ huyện

phủ đến làng quê. Vấn nạn mua quan chạy chức đã kéo theo những hủ tục khiến cho

người dân rơi vào tình cảnh khốn khổ.

Qua phương thức trần thuật và bằng những nét phác họa tinh tế, lớp nhân vật

được Trương Tửu xây dựng đã có nét riêng của bối cảnh xã hội đương thời. Điều này

khiến người đọc càng thêm trân trọng sự sáng tạo của nhà văn và thêm trân trọng

cuộc sống tự do dân chủ hôm nay. Với biện pháp nghệ thuật khá đặc sắc, mỗi lời văn

trang viết của nhà văn đều gửi gắm ý nghĩa sâu xa khi đặt tác phẩm của ông vào tiến

trình văn học đang ngày càng phát triển không ngừng dưới sự lãnh đạo của Đảng và

chủ trương của Nhà nước.

4.1.2. Phương thức trần thuật chủ quan với những nhân vật “tôi”

Phương thức trần thuật chủ quan là phương thức trần thuật được tiến hành từ

ngôi thứ nhất xưng “tôi”. Hai nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hạnh và Huỳnh Như

Phưng xác định: Người trần thuật là một trong các nhân vật và từ điểm nhìn của một

nhân vật, người trần thuật “có khả năng nhìn thấy được tất cả mọi sự và có khả năng

đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật” [45, tr. 202]. Đặc điểm của phương thức

trần thuật chủ quan khi vai trò vừa là một nhân vật, vừa là người kể chuyện, người

119

trần thuật sẽ kể lại những gì mà người ấy đã chứng kiến. Đây là phương thức trần

thuật mà: “Hành động của nhân vật được miêu tả dựa trên trạng thái nội tâm của

nhân vật đó, từ điểm nhìn của chính anh ta hay điểm nhìn của một người quan sát có

năng lực phân tích tâm lý” [45, tr. 202]. Tuy nhiên, nhà văn sử dụng phương thức

trần thuật chủ quan này trong 3/13, số lượng này chiếm ít hơn so với phương thức

trần thuật khách quan. Nhưng có thể nói trong những năm đầu thế kỷ XX, đây cũng

là hiện tượng đặc biệt trong tác phẩm văn xuôi Trương Tửu

Xuyên suốt vào văn xuôi Trương Tửu, trong một số tác phẩm thấy nhân vật

“tôi” xuất hiện. Trong Khi chiếc yếm rơi xuống, Tôi nguyền rủa mãi người cha ấy,

Cái tôi của ai, người đọc dễ dàng nhận thấy nhân vật “tôi” vừa giữ vai trò là một

nhân vật trong tác phẩm lại vừa là người kể chuyện. Có điểm đặc biệt, Trương Tửu

khác với những nhà văn giai đoạn trước và những nhà văn cùng thời với ông đó là

nhân vật “tôi” mà Trương Tửu xây dựng là những thanh niên trẻ có sự am hiểu

trong xã hội. Xây dựng nhân vật bằng phương thức trần thuật chủ quan, vị trí của

nhà văn nhường chỗ cho vị trí của nhân vật: “Cách đây ba năm, tôi có dịp ở thuê

một căn gác giữa phố Khâm Thiên. Bên phải tôi nhà cô đầu; bên trái, nhà cô đầu;

trước mặt, nhà cô đầu. Nay đến từng dưới nhà tôi - một hiệu tạp hóa nhỏ - cũng là

chỗ lui tới hàng ngày của cô đầu.

Nhờ vậy, tôi thường lân la trò chuyện với các người đàn bà trụy lạc ấy. Trong

những phút thân mật, họ đã kể cho tôi nghe, không sượng sùng, không ngần ngại, tất cả

những cực khổ âm thầm của nghề ca kỹ” (Khi chiếc yếm rơi xuống) [120, tr. 225].

Khi xây dựng nhân vật bằng nghệ thuật trần thuật chủ quan, kiểu nhân vật

xưng “tôi”đã tự nói lên tiếng nói của họ “Tôi thương Nguyệt Minh vô hạn. Người

con gái ấy chỉ vì yêu tôi mà phải chịu những cực hình như thế. Tôi thấy tôi cũng có

một phần trách nhiệm lớn trong cái đau khổ của nàng. Dần dần lòng thương Nguyệt

Minh, tâm hồn tôi, nhường chỗ cho một oán hờn tức tối” (Tôi nguyền rủa mãi người

cha ấy) [120, tr. 385].

Bằng nghệ thuật trần thuật chủ quan, theo nhà văn đã Flaubert đã dời chỗ vào

nhân vật để đi thẳng vào nội tâm của nhân vật để phải suy ngẫm, phải trăn trở, phải

day dứt: “Vậy là trong người tôi có ba cái tôi: Cái tôi cá nhân, cái tôi xã hội và cái

120

tôi đạo đức. Ừ! Có thế chứ. Có thế mới hiểu được tại sao nhiều khi tôi lại không

nhận tôi là tôi mà tôi lại vẫn là tôi. Chính thế rồi! Chính ba cái tôi ấy, chúng lần lượt

sai khiến tôi, luôn xung đột nhau và hành hạ tôi” (Cái tôi của ai) [120, tr. 565].

Qua tìm hiểu, nghiên cứu có thể thấy trong những năm đầu thế kỷ XX, dòng

văn xuôi hiện đại có số lượng tác phẩm khá nhiều về kiểu nhân vật xưng “tôi” khi

vừa là nhân vật vừa là người kể chuyện. Thực tế được chứng minh cùng với Trương

Tửu còn có Nam Cao, Thạch Lam, Kim Lân đã sử dụng phương thức trần thuật chủ

quan này ở trong tác phẩm Một cơn giận, Sợi tóc... của Thạch Lam, trong Lão Hạc,

Dì Hảo... của Nam Cao, trong Cầu đánh vật, Đứa con người cô Đầu, Người kép già

của Kim Lân. Như vậy có thể thấy, các nhà văn có những nét tương đồng nhất định

và ở phương diện nghệ thuật.

4.2. Kết cấu văn xuôi Trương Tửu

Kết cấu là yếu tố quan trọng của nghệ thuật góp phần tạo nên sức hấp dẫn cho

tác phẩm. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học: “Bất cứ tác phẩm văn học nào

cũng có một kết cấu nhất định. Kết cấu là phương tiện cơ bản và tất yếu của khái

quát nghệ thuật. Kết cấu đảm nhiệm các chức năng rất đa dạng, bộc lộ tốt chủ đề và

tư tưởng các tác phẩm; triển khai, trình bày hấp dẫn cốt truyện; cấu trúc hợp lý hệ

thống tính cách; tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả; tạo ra tính toàn vẹn của

tác phẩm như là một hiện tượng thẩm mỹ” [44, tr. 157]. Như vậy, kết cấu cũng

giống như cốt truyện, nó mang tầm quan trọng đối với sáng tác của các tác giả.

Nói đến kết cấu của tác phẩm văn học là người ta muốn nhắc tới toàn bộ

những tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm. Nếu như bố cục là thuật ngữ

nhằm chỉ sự sắp xếp, phân bố các chương, đoạn, các bộ phận của tác phẩm theo

một trật tự nhất định thì thuật ngữ “Kết cấu” thể hiện nội dung rộng rãi và phức

tạp hơn, nó bao hàm sự liên kết nội tại, nội dung bên trong của tác phẩm, từ đó tạo

ra được nét đặc trưng của từng tác phẩm, từng khuynh hướng và đặc biệt của từng

nhà văn. Bất cứ một tác phẩm văn học nào cũng có một kết cấu nhất định. “Kết

cấu tác phẩm văn học bao gồm việc phân bố các nhân vật (tức là hệ thống hình

tượng), các sự kiện và hành động (kết cấu cốt truyện), các phương thức trần thuật

121

(kết cấu trần thuật như là sự thay đổi các điểm nhìn đối với cái được miêu tả), chi

tiết hóa các khung cảnh, hành vi, cảm xúc (kết cấu chi tiết ), các thủ pháp văn

phong (kết cấu ngôn từ), các truyện kể xen kẽ hoặc các đoạn ngoại đề trữ tình (kết

cấu các yếu tố ngoài cốt truyện)” [5, tr. 169].

Như vậy, vai trò của kết cấu là thực hiện nhiệm vụ đối với các yếu tố liên kết

trong nội dung tác phẩm. Nhiệm vụ của kết cấu là tổ chức tác phẩm sao cho đề tài,

chủ đề phải tập trung, tư tưởng phải thống nhất. Việc tác giả lựa chọn hình thức kết

cấu cho tác phẩm thường phụ thuộc vào đối tượng phản ánh, vào tài năng và phong

cách riêng của người sáng tác.

Do đặc trưng của phương thức phản ánh mà trong sáng tác của mình, Trương

Tửu có sự tổ chức cho tác phẩm những dạng kết cấu cụ thể, thể hiện một văn phong

nhất quán trong sự đa dạng của nội dung. Ông đã sử dụng linh hoạt các kiểu kết cấu

trong sáng tác của mình.

4.2.1. Kết cấu tâm lý

Trương Tửu sử dụng lối kết cấu tâm lý trong một số sáng tác. Sử dụng kết

cấu này nhà văn đã thu được kết quả của việc miêu tả tâm lý là khắc họa tâm trạng

của nhân vật. Nhân vật trong tác phẩm ra mắt công chúng không phải bằng hành

động, sự kiện mà bằng chính tâm lý, xúc cảm của mỗi nhân vật. Tâm trạng của

nhân vật luôn biến đổi theo từng khoảng thời gian và hoàn cảnh rộng, hẹp khác

nhau. Chính điều này khiến nhà văn phải quan sát một cách tinh tế về sự phát triển

liên tục, tất yếu của tâm trạng nhân vật, sau đó nhà văn xâu chuỗi quá trình tâm lý

phức tạp ấy lại.

Đối với tác phẩm tiểu thuyết đầu tay Thanh niên S.O.S sáng tác vào năm 1937

được nhà văn sử dụng kiểu kết cấu tâm lý, đây cũng là điểm mạnh của Trương Tửu

vì vận dụng kết cấu này, nhà văn đã tái hiện được chiều sâu của nội tâm nhân vật và

số phận cá nhân của nhân vật trước hoàn cảnh. Vận dụng nghệ thuật này, độc giả dễ

thấy trong sáng tác của Trương Tửu khi nhà văn khai thác khá trình tự từ việc phân

tích và nắm bắt tâm lý nhân vật đến việc cắt nghĩa những hiện trong xã hội. Với bút

pháp hiện thực, Trương Tửu đi vào thế giới nội tâm nhân vật sau đó phơi bày sự

thật trong đời sống, tiếp đến nhà văn đặt thành một vấn đề lớn cần được cả xã hội

122

quan tâm, giải đáp. Cụ thể là Liêu trong tác phẩm là chàng sinh viên với bao hoài

bão nhưng kết cục không thoát khỏi mặt trái của sự Âu hóa. Diễn biến tâm lý của

Liêu rất phức tạp với những giằng xé trước những cám dỗ nhưng Liêu không thể

chiến thắng chính mình, kết quả chỉ còn lại tâm trạng ê chề của một thanh niên là

nạn nhân của hoàn cảnh, của xã hội...

Vận dụng lối kết cấu tâm lý, Trương Tửu góp phần vào thành công đáng kể

khi viết về cuộc sống nghèo khổ của con người bình dân thành thị giai đoạn đầu thế

kỷ XX. Diễn biến của tác phẩm Khi chiếc yếm rơi xuống, Cái tôi của ai đòi hỏi nhà

văn đi sâu vào miêu tả, khắc họa tâm lý.

Tác phẩm Khi chiếc yếm rơi xuống ngay ở năm câu đầu tiên sau lời đề từ, tác giả

đã mở ra một trạng thái tâm lý của nhân vật “tôi”. Qua ngỡ ngàng khi người đọc đang

chú ý tới trạng tâm lý của nhân vật này, thì lại mở ra cả một chuỗi diễn biến tâm lý của

một “gái đĩ” tiêu biểu của xứ An Nam thời đó. Nhân vật Hậu mang kiếp của con người

mạt hạng dưới đáy xã hội nhưng những ẩn ức về căn nguyên xô đẩy cô đến với số phận

nghiệt ngã không đáng trách mà lại thật cảm thương và xót xa cho cô.

Kết cấu tâm lý đã thể hiện tính ưu việt khi nhà văn sử dụng, vì đã kết hợp

được hành động và tâm lý của nhân vật. Điều này giúp cho tác phẩm thể hiện nội

dung càng thêm sâu sắc. Hình ảnh người mẹ chết, em vừa mới sinh mà Hậu không

có tiền làm ma, thây mẹ vẫn đang nằm đấy. Cô rối bời, không biết xoay xở cách

nào. Vậy mà, những kẻ vô lương tâm như ông Cai vẫn đến để mua chuộc, mặc cả

đưa Hậu dấn thân vào con đường nhơ nhớp. “Ông ta năn nỉ mời em đi… đến ông

xếp” [120, tr. 237], lúc đó là chín giờ tối trong khi đó mẹ và em Hậu mất lúc bẩy

giờ. Không làm theo lời lão Cai có thể cô sẽ bị đuổi việc. Cô nói với lão Cai về tình

cảnh hiện tại nhưng cũng vô ích và cô đã bắt đầu như thế. Hành động chấp nhận

hiện tại khi không thể phản kháng vì đói nghèo ghìm chặt khiến trạng thái tâm lý

của nhân vật càng tiến triển theo từng giai đoạn của cuộc đời.

So với tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao, nhà văn đã vận dụng kết cấu tâm lý

khi ông kết hợp một cách rõ nét giữa hành động và tâm lý của Chí Phèo. Ở điểm

này Nam Cao có phần nổi trội hơn Trương Tửu. Nam Cao để nhân vật thể hiện

hành động “vừa đi vừa chửi…” ngay ở đầu tác phẩm đã gây ấn tượng mạnh mẽ với

123

người đọc trước trạng thái của kẻ say mà tỉnh hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, phải

khẳng định rằng hai nhà văn cùng thể hiện nỗi đau đớn, dằn vặt của nhân vật trong

tâm trạng khi sử dụng kết cấu tâm lý nhưng mỗi nhà văn đều có thành công riêng.

Trương Tửu không thể hiện sắc nét về hành động của nhân vật nhưng diễn biến tâm

trạng mà tuyến nhân vật của ông biểu cảm có lẽ khiến cho các thế hệ bạn đọc phải

suy ngẫm dù ở bất kỳ thời đại nào.

Cũng với kết cấu tâm lý ở Cái tôi của ai mở ra một nhân vật Tôi với ích kỉ,

hẹp hòi. Hắn tham gói kẹo trên xe buýt, hắn còn mắc tính sĩ diện, hắn bán rẻ đồng

nghiệp… Vô số những cái xấu tồn tại trong tính cách con người hắn. Nhưng rồi hắn

cũng sẽ nhận được sự thông cảm của người đọc khi nhà văn để cho tâm trạng nhân

vật được bày tỏ, bộc bạch. Bản thân con người cũng chỉ vì nghèo mà sinh ra hèn hạ,

nhục nhã từ trong suy nghĩ. Vấn đề này được nhà văn thể hiện khá sâu sắc không

chỉ riêng với nhân vật “Tôi” mà còn rất gần trong đời sống mà ai đó cũng rất dễ

phạm phải.

Trong số tác phẩm văn xuôi của Trương Tửu, ở khá nhiều tác phẩm được nhà

văn sử dụng lối kết cấu này, tuy nhiên mức độ vận dụng đậm nhạt khác nhau. Cái

tài của nhà văn khiến người ta bị lôi cuốn vào dòng suy nghĩ đầy tâm tưởng của

nhân vật. Suy nghĩ của nhân vật đan cài từ thực tại rồi lại hồi tưởng quay về quá

khứ, từ quá khứ lại trở về thực tại cuộc sống đang diễn ra trước mắt của nhân vật.

Với lối kết cấu này, nội dung cốt truyện diễn ra một cách tự nhiên đồng thời nhà

văn đã phản ánh tình trạng ngột ngạt của tầng lớp bình dân thành thị trong xã hội

nửa Tây nửa Ta ở giai đoạn đầu thế kỷ XX. Trương Tửu sử dụng kết cấu tâm lý nên

sáng tác của ông cứ nhẹ nhàng đi vào tâm hồn người đọc.

4.2.2. Kết cấu có nội dung vào vấn đề trung tâm của câu chuyện

Đó là một dạng kết cấu tiêu biểu trong sáng tác của Trương Tửu. Nhà văn

muốn thể hiện cái khốn cùng, tuyệt vọng của những người khổ, ở đầu thiên tiểu

thuyết Khi người ta đói tác giả đã gợi ra một không gian nhốn nháo, tiêu điều với

những gương mặt bơ phờ vì đói, rách. Họ van lơn qua ánh mắt đau thương và tuyệt

vọng, họ đem đi cầm cố manh áo cũ, sờn, vàng ố và nhàu nát để mong có vài xu

nhỏ lo rau cháo qua ngày:

124

“- Đồng bẩy!

- Hai đồng tư!

- Bốn đồng sáu hào ba xu!

- Ba đồng!

- Không cầm thì mang về!…

Những lời đánh giá, những câu gắt gỏng, những tiếng càu nhàu cứ luôn ở bên trong

mấy chiếc cửa tò vò của nhà Vạn Bảo đưa ra, cục cằn và ráo hoảnh…”[120, tr. 397]

Khi người ta bị đói, người ta bị khinh rẻ, bị làm nhục, bị bắt giam, bị chửi bới

nhiếc móc. Nhưng cũng khi người ta đói, người ta lại càng làm tôn thêm lòng nhân

hậu, lòng yêu thương con người. Đó là những điều Trương Tửu muốn gửi gắm vào bạn

đọc ngay từ những câu chữ đầu tiên, những dòng văn đầu tiên của tiểu thuyết Khi

người ta đói. Ông muốn phản ánh ngay và phản ánh thẳng một cách gay gắt cho công

chúng hiểu về cái xã hội mà họ đang sống.

Cũng ngay từ những dòng văn đầu tiên của Một kiếp đọa đày Trương Tửu đã

đi thẳng vào số phận của hai chị em Liễu và Nguyệt qua lời trò chuyện của người

mẹ. Bà mẹ đẻ ra hai người con gái, mà ta cứ ngỡ như bà Phán Đức và Nguyệt là mẹ

con nhà Cám. Sự hắt hủi, cay nghiệt của bà đã khiến cho cô con gái bà đứt ruột đẻ

ra sự bất hạnh đớn đau.

… “Yên lặng một lát, mẹ nàng nói tiếp, buồn bực:

- Giá nó cứ chết quách từ cái ngày nó lên đậu ấy thì có phải bây giờ đỡ khổ tôi…

-…Chẳng qua kiếp trước tôi nợ nó, kiếp này nó vào nó báo, bao giờ hết nợ thì

nó bước, chứ ngữ ấy thì chồng mới con gì!” [120, tr. 523].

Đó là những lời người mẹ nói về đứa con kém may mắn, nhan sắc bị hủy hoại

do căn bệnh thủa ấu thơ. Lời bà ta sao lạnh như băng, độc ác như nói với kẻ thù. Đó

là cách nhà văn đi thẳng đến điều ông muốn nói. Số phận con người, giá trị đạo đức

được nhìn nhận chân thực. Trong đó tình mẫu tử, tình chị em ruột thịt chỉ bằng sự

lạnh lùng, và những cay nghiệt, mỉa mai hơn cả người dưng nước lã.

125

Qua lối hành văn thẳng thắn, nhà văn không chủ ý vẽ ra một chương trình

hành động. Điều này thể hiện rõ nét trong tập truyện vừa Một kiếp đọa đầy Truyện

thứ nhất kể về hai chị em gái. Người chị tên Liễu xấu xí lại bị mọi người xung

quanh ghẻ lạnh đã rắp tâm ghen ghét và trả thù cô em. Khi em Nguyệt có cậu Tú

Duyên đến hỏi cưới thì Liễu giả làm người khác viết thư gây chia rẽ, gây sự đánh

Liễu rồi bỏ đi. Truyện của Trương Tửu có xu hướng đi vào phân tích những éo le,

uẩn khúc trong các trạng thái đời sống cũng như trong lòng người và đưa ra những

triết lý về nhân thế. Ở tác phẩm Thằng Hóm nhà văn tiếp tục vận dụng kết cấu này,

kết cấu nội dung đi thẳng vào số phận cuộc đời Thằng Hóm. Ngay ở phần thứ nhất

của truyện, nhà văn đi vào miêu tả về “hai đứa trẻ đang ngồi co ro sát vào nhau, bốc

cơm nguội đựng trong một vỉ buồm cũ nát đặt trên cái bậc cửa ra vào của một hiệu

sơn đã đóng cửa kín im ỉm từ chập tối” [124, tr. 877]. Hai đứa trẻ đó là Tếu và

Hóm. Tiếp những trang văn sau đó, cuộc đời Hóm dần sáng tỏ về cội nguồn của

hắn, về những người hắn yêu thương, về những lần bị cảnh sát đánh và bắt bớ...Tất

cả xoay quanh về đứa trẻ đáng thương hơn đáng trách. Đứa trẻ ấy nếu được nuôi

dạy trong môi trường tốt ắt hẳn sẽ có ích cho cộng đồng, xã hội bởi trong con người

Hóm luôn chan chứa tình yêu thương với những người có cùng cảnh ngộ khốn khổ

như mình, Hóm biết chia sẻ từ miếng cơm nguội cho Tếu và dù được bác Tương,

chính là cha Hóm nhận nuôi nhưng Hóm không nỡ bỏ bạn. Một đứa trẻ như vậy, lẽ

ra phải được đón nhận những điều tốt đẹp, nhưng trong xã hội ấy, xã hội những năm

đầu thế kỷ XX với bao nhiêu những phức tạp khiến mỗi cá nhân con người trong đó

có Hóm bị rơi vào vòng xoáy trong bối cảnh của sự giao thoa Tây – Đông.

Với lối kết cấu có nội dung vào vấn đề trung tâm của câu chuyện, vào vấn đề

mà nhà văn muốn nói, các tác phẩm văn xuôi Trương Tửu bao quát một nội dung

hiện thực rộng lớn về lịch sử và dã sử; đấu tranh xã hội, gia đình và cá nhân; đấu

tranh giai cấp, tình yêu và phong tục; thành thị, ven đô và nông thôn; trí thức,

công chức và nông dân để qua đó có những nhận định, phê phán về xã hội đương

thời, lên án cái xấu, cái bất công tồn tại trong xã hội đó.

126

4.2.3. Kết cấu lồng ghép hai nội dung vấn đề

Trong sáng tác của Trương Tửu, có những tác phẩm ông viết về những

chuyện rất đời thường, những câu chuyện tưởng chừng nhỏ nhặt trong cuộc sống

hằng ngày nhưng trong đó tác giả lại bộc lộ một nội dung khác có ý nghĩa to lớn đối

với con người và xã hội. Vì vậy tác phẩm của nhà văn đã mang kết cấu có hai nội

dung. Trong đó một nội dung gắn với đề tài của tác phẩm, một nội dung gắn với tư

tưởng của tác giả. Xuyên suốt vào tác phẩm của Trương Tửu, người đọc dễ dàng

nhận thấy hai hai nội dung này có sự tương hỗ, bổ sung cho nhau để thể hiện chủ ý

của nhà văn.

Xây dựng kiểu kết cấu này, nhân vật trong sáng tác thường bộc lộ những lời

nói, suy nghĩ mang tư tưởng của chính tác giả, nhân vật này có thể là nhân vật chính

hoặc chỉ là một trong số những nhân vật trong tác phẩm. Trong tác phẩm Một chiến

sĩ, nhà văn xác định đối tượng mô tả là những nhân vật trí thức Hiền, Hảo đây chính

là hình ảnh của chính tác giả nên góc độ nhà văn luôn đặt ở hai vị trí đó là đứng ở

bên ngoài để quan sát và đứng vào chính nhân vật để tự thuật.

Khi đứng ở bên ngoài quan sát, nhà văn để Hảo thể hiện những suy nghĩ rất

chân thật của một trí thức nhưng những lời anh đã thốt ra lại mang ý nghĩa triết lý

sâu sắc về cuộc sống xã hội:

“Nhà văn muốn tìm cảm hứng và tài liệu để viết thì không còn cái nguồn nào

dồi dào hơn đời sống đâu thương của anh chị em cùng khốn. Ở địa hạc ấy, sự thống

khổ mới xác thực vì nó trần truồng không bị những ước lệ giả dối bao phủ như ở

giai cấp trưởng giả. Anh thử bước chân vào chợ Đồng Xuân hay chợ Cửa Nam; anh

thử vào một xưởng máy, anh thử dừng bước bên túp lều của một nông phu, anh thử

dạo quanh các vỉa hè Hà Nội trong một đêm đông...Anh sẽ thấy được cả một cái xã

hội lầm than bị đày ải trong nghèo đói. Cái xã hội ấy đông đúc gấp trăm gấp nghìn

cái xã hội giàu sang mà anh thường thấy phô bày ra giữa ánh sáng của thị thành.

Bao nhiêu người đàn ông khỏe mạnh đem bán sức lao động trong xưởng máy, ngoài

đồng, đầu tắt mặt tối mà chỉ để đổi lấy một số lương chết đói. Bao nhiêu người đàn

127

bà nai lưng buôn bán từ sớm đến chiều, mà vẫn thiếu cơm ăn áo mặc. Bao nhiêu trẻ

con vì sinh ở cảnh nghèo nàn mà hóa ra tội lỗi, chết non chết yểu ở đầu hè xó chợ.

Bao nhiêu con gái ngây thơ vì đói mà đi làm đĩ. Anh thử nhắm mắt tưởng tượng

những tấn kịch thê thảm này đến hàng ngày cho những số kiếp khốn cùng ấy. Thì

anh phải nhận với tôi rằng kẻ nào cầm bút mà có thể quên bẵng được gai cấp nghèo

khổ ít ra cũng phải là kẻ vô lương tâm, lòng dạ thối nát” [120, tr. 132].

Đến với những suy nghĩ và lời nói của Hiền cũng mang tính triết lý “Đấy cái

xã hội này chín phần mười là sống chật vật như thế hết. Có được mấy nhà giàu. Bao

nhiêu người đổ mồ hôi nước mắt mà vẫn không đủ ăn. Những công lao của họ chỉ

càng làm giầu thêm cho những người có vốn sẵn... ”[120, tr. 206].

Như vậy, với tư cách là người đứng ngoài quan sát cuộc đối thoại giữa

Hảo và Hiền, Hiền với Như Lan, Trương Tửu đã đưa vào tác phẩm văn xuôi cách

xét đoán của người cầm bút nhằm nhấn mạnh về dự đồ sáng tạo ra tác phẩm

mang tính tranh đấu. Còn khi nhà văn đứng ở vị trí của nhân vật, ông đặt bản

thân vào hoàn cảnh của Hiền để luôn đấu tranh với bản thân để “chọn con đường

chiến sĩ”, vượt lên những tình cảm gia đình, tình yêu đôi lứa, chấp nhận hy sinh

từ bỏ cuộc sống an nhàn đầy đủ.

Trong tác phẩm Một cổ đôi ba tròng, để lý giải việc ông ký Thảo từ chỗ có

gia đình vợ con, công việc nhưng kết thúc là cái chết thương tâm. Trương Tửu đã

đưa vào truyện về cuộc sống sinh hoạt của đại gia đình thầy ký Thảo. Đồng thời

ông cũng đưa ra lời nhận xét về sự tất yếu dẫn tới cái chết của thầy ký vì “Kẻ nào

sống lấy một mình là kẻ hèn nhát. Đời người có giá trị nhất ở chỗ quên thân mình

để làm phận sự đem hạnh phúc đến cho người khác, huống hồ người khác ấy lại là

cha mẹ, chị em...phải hy sinh đi để phụng sự gia đình: đó mới là hành vi của người

có giáo dục và tâm huyết” [120, tr. 374]. Nhà văn đã đứng ở vị trí bên ngoài để

quan sát diễn biến trong đời sống sinh hoạt của gia đình thầy ký Thảo. Tất cả gần

mười thành viên gồm cha mẹ, vợ con, chị em của thầy ký Thảo đều sinh sống

trong cùng một căn nhà và trông vào đồng lương của ông ký. Ở vị trí này nhà văn

128

nhận thấy cái chết của thầy ký Thảo như kết cục tất yếu logic vì một người bị bệnh

lao yếu đau và với đồng lương như thầy ký không thể cáng đáng nuôi nổi đại gia

đình là lẽ hiển nhiên. Một triết lý được nêu ra ở đây chính là trong gia đình cần có

sự sẻ chia về công việc cũng như về đời sống tinh thần. Mỗi người cần tránh cách

sống ích kỉ, dựa dẫm, trở thành gánh nặng cho người thân và xã hội. Khi nhà văn

đặt mình vào vị trí của nhân vật, Ông ký Thảo “phân vân, bối rối không biết giải

quyết bài toán cuộc đời ông ra sao. Ông nằm cân nhắc những lý luận để tìm ra một

lời giải xác đáng” [120, tr. 373]. Nhà văn như nhập thân mình vào với những trăn

trở băn khoăn của nhân vật, trước những mâu thuẫn giằng xé của nhân vật về cách

cư xử và quan hệ với mọi người trong đại gia đình.

Có thể nói, không chỉ Trương Tửu vận dụng kết cấu này trong tác phẩm. Đối

với một số nhà văn cùng thời với ông như Nam Cao đã sử dụng kết cấu lồng ghép

trên hai nội dung vấn đề như trong truyện Lão Hạc, truyện Nhỏ nhen, ở những tác

phẩm này Nam Cao đã vận dụng và đem lại cái nhìn sâu sắc đối với người đọc. Như

vậy về mặt kết cấu, giữa Nam Cao và Trương Tửu có điểm chung trong quá trình

sáng tạo nghệ thuật, chính điều này cho thấy tên tuổi của Trương Tửu ngày càng

được đánh giá khoa học và khách quan.

Khi Trương Tửu sử dụng kết cấu lồng ghép hai nội dung vấn đề đã tạo sức

thuyết phục cho tác phẩm của ông. Với kiểu kết cấu này, nhà văn đã tạo nên một nội

dung cho tác phẩm đồng thời thể hiện nội dung thứ hai phản ánh đời sống xã hội về

tầng lớp trung lưu ở thành thị những năm đầu thế kỷ XX. Điều quan trọng hơn cả

nhà văn đã lựa chọn đúng đắn phương thức kết cấu để thể hiện những suy ngẫm về

nhân tình thế thái của người viết văn, của một trí thức luôn được tác giả đặt thành

vấn đề để hướng tới cuộc đấu tranh cải biến xã hội.

4.3. Ngôn ngữ

Theo cuốn Từ điển Tiếng Việt, ngôn ngữ là những âm, những từ và những quy

tắc kết hợp chúng mà những người trong cùng cộng đồng dùng làm phương tiện để

giao tiếp với nhau” [108, tr. 688].

129

Từ ngôn ngữ nghệ thuật đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn là con đường

tiếp nhận văn học phù hợp với bản chất của nghệ thuật ngôn từ. Theo cuốn Lí luận

văn học (Phương Lựu chủ biên), Ngôn ngữ nghệ thuật là: "…một hệ thống các

phương thức, quy tắc thông báo bằng tín hiệu thẩm mĩ của một ngành, một sáng tác

nghệ thuật. Người ta có thể nói "ngôn ngữ ba lê", "ngôn ngữ chèo", "ngôn ngữ điện

ảnh". Cũng có thể nói đến ngôn ngữ nghệ thuật của sáng tác văn học trên cấp độ đó"

[84, tr. 185-186].

Đặc điểm chung của thi pháp học cấu trúc là dựa vào mô hình ngôn ngữ, đó

không chỉ vì ngôn ngữ là cơ sở của khoa học nhân văn và khoa học xã hội, mà còn

vì họ nhận thấy mọi nhận thức không tách rời với sự ràng buộc của ngôn ngữ. Thi

pháp học cấu trúc không phải là thi pháp của các yếu tố tách rời, mà là thi pháp về

các quan hệ của các yếu tố tạo nên tác phẩm, góp phần tạo nên thành công cho sáng

tác của nhà văn. Cùng với một số phương diện nghệ thuật khác, ngôn ngữ trong văn

xuôi của Trương Tửu cũng làm nên một phong cách, một giọng điệu độc đáo. Đó là

kiểu ngôn ngữ thể hiện được khả năng phân tích tâm lý với lối văn sắc sảo, khúc

chiết trong việc diễn đạt những ý tưởng và cũng là ngôn ngữ mang tính triết lý.

Ngôn ngữ văn xuôi Trương Tửu có nét cổ điển của xã hội phong kiến còn xót lại

nhưng cũng chứa nhiều cách diễn đạt rất mới mẻ, rất táo bạo theo phong cách ngôn

ngữ phương Tây. Điểm mạnh (ưu điểm) là lối văn “trác luyện, sáng suốt”, “tỉ mỉ, kỹ

càng”, một vốn ngôn ngữ phong phú, độc đáo. Về phong cách Trương Tửu, Vũ

Ngọc Phan nhận diện qua một thiên tiểu thuyết thuộc dòng “đấu tranh xã hội” tiêu

biểu. Đọc Một chiến sĩ, người ta nhận thấy Trương Tửu là một nhà văn lời lẽ hùng

hồn, thống thiết. Những lời ấy nó đánh vào tình cảm người ta hơn vào lý trí người

ta, mà người đời thường vị tình hơn theo lý. Trong tiểu thuyết của ông, nhiều chỗ

văn ông trác luyện, sáng suốt, lối văn thích hợp cho người muốn bênh vực thuyết

của mình. Những đoạn những câu Hiền bày tỏ sự hoài bão của mình cho Như Lan

nghe để nàng hiểu mình, đừng có sầu não quá độ là những đoạn thấm thía, dễ cảm

người đọc… Với loại sách “có tính cách xã hội”, Vũ Ngọc Phan khảo sát và đánh

130

giá từng tác phẩm cụ thể: “Quyển Khi chiếc yếm rơi xuống tuy mang cái nhan đề

khơi gợi nhưng cả tập tiểu thuyết tuyệt nhiên không có chỗ nào gợi tình hay suồng

sã với những hành động dâm đãng hay lả lơi. Nó gần là tập phỏng vấn một gái

giang hồ để tìm nguyên nhân trụy lạc của phần đông gái nhà chứa. Cái nguyên nhân

ấy là sự đói khát, sự ghẻ lạnh của xã hội và sự cay nghiệt của người đời... Tập tiểu

thuyết xã hội Khi người ta đói của Trương Tửu là một tập ông viết một giọng thô

bạo và hằn học bội phần nếu người ta đem so với các tiểu thuyết khác của ông. Đọc

cả truyện, người ta chỉ thấy rặt một màu đen tối, không có lấy một tia hy vọng ở kẻ

nghèo (…). Viết tập Khi người ta đói Trương Tửu cũng nương tựa vào nhiều thành

kiến như trong khi phê bình nên nhiều khi ông thiên vị và tạo nên những việc buồn

thảm quá đáng. Người ta thấy Trương Tửu phải chăng hơn khi viết tập ái tình tiểu

thuyết Trái tim nổi loạn (…). Đoạn kết rất là đột ngột và thê thảm. Một truyện ái

tình bi đát, tả bằng những nét hơi đậm một chút nhưng tỉ mỉ, kỹ càng. Chỉ phải vài

ba đoạn nghị luận hơi dài, nhắc đi nhắc lại một ý kiến về ái tình và hôn nhân, làm

cho những đoạn ấy kém phần thú vị. Tuy vậy, Trái tim nổi loạn của Trương Tửu

cũng đáng kể là một tiểu thuyết xây dựng khá kỹ càng về sự việc và ngôn ngữ,

giọng điệu độc đáo...

Trương Tửu có khiếu ngôn ngữ và lý luận. Lời nói của ông là một sản phẩm

chính xác của máy móc, lý luận của ông chặt chẽ như một dây truyền ngôn ngữ phối

trí chặt chẽ, liên kết mạch lạc và rèn rũa với một nghệ thuật tinh vi, tế nhị. Giọng

văn của ông, ngôn ngữ của ông là phong cách một nhà hùng biện bẩm sinh. Không

do một học đường nào đào tạo. Ông dùng lối văn trác tuyệt đó vào những khảo cứu

văn học và triết học, và độc đáo là Trương Tửu viết truyện bằng ngôn ngữ sắc sảo,

đa thanh của mình. Truyện dài đầu tiên của Trương Tửu nhan đề Thanh niên S.O.S

(1938) là tiếng kêu cứu của một thế hệ thanh niên đang suy sụp vì phong trào lãng

mạn. Giọng điệu thống thiết, ngôn từ tuy có ảnh hưởng khá nhiều của phương Tây

nên khá suồng sã, tự do nói về tính dục nhưng là một thứ ngôn ngữ của tư duy sắc

bén, sáng suốt. Với vốn ngôn ngữ phong phú nhà văn nhiệt tình phê phán thực trạng

131

xã hội mục nát bởi những thói hư tật xấu, bên cạnh đó ông thể hiện lòng nhiệt tình

về mục đích đấu tranh cải biến xã hội, kế tiếp tác phẩm Một chiến sĩ và Khi chiếc

yếm rơi xuống (1939) được ra đời từ nhà xuất bản Minh Phương nhưng sau đó

những tiểu thuyết này đã bị cấm lưu hành vì lời văn thóa mạ, đả kích mạnh mẽ xã

hội An Nam thối nát dưới chế độ thực dân.

4.3.1. Lời văn đối thoại

Đối thoại là “nói chuyện qua lại giữa hai hay nhiều người với nhau” [108, tr.

338]. Trong bất kỳ một thiên tiểu thuyết nào người viết cũng cần sử dụng đến ngôn

ngữ đối thoại để khắc họa nhân vật. Ngôn ngữ đối thoại cho người đọc những ấn

tượng đầu tiên về nhân vật. Tính cách nhân vật, phẩm chất đạo đức hay bản chất của

nhân vật đều phần nào thể hiện qua ngôn ngữ và cử chỉ. Mặc dù có những trang văn

được viết theo lối gần như là lý luận, hùng biện nhưng đa số tác phẩm của Trương

Tửu phong phú về lời đối thoại giữa các nhân vật.

Có người hỏi:

- Sao chị không mượn lấy một con sen hay u già, có đỡ khổ thân không?

- Mượn rồi đấy chứ nhưng chúng nó ăn vụng như ranh, không chịu được tôi

lại tống ra…

Thi lại với cây bài và lại đang mải nói chuyện, để trễ ngay hai đùi xuống làm

đứa nhỏ đang bú lăn phịch xuống giường khóc váng lên…”[120, tr. 499].

Đó là những câu đối thoại của người đàn bà mê bài bạc, thị không một chút

phẩm chất của người có thể làm mẹ, chỉ ham mê những cuộc vui và nghĩ xem cần

phải làm gì cho mình hả giận và cho người ta bị đầy đọa. Hạng đàn bà như Thi chỉ

có duy nhất một điều là sự độc ác, tàn nhẫn, sự cay độc mà thôi. Thi nói về số phận

đứa con xấu số mà thanh thản, nhẹ nhàng và cay nghiệt. Người đàn bà đáng sợ đó

bộc lộ bản chất qua ngôn ngữ đối thoại thật sinh động.

Trong Thanh niên S.O.S, độc giả bắt gặp những câu đối thoại của các thanh

niên Liêu, Văn, Thanh Hà, Hòa, Thịnh… Đó là lớp thanh niên lớn lên trong tình

trạng đảo lộn của xã hội Việt Nam về các phương diện sinh hoạt, những con người

132

luôn thất vọng, đau đớn, nỗi chán nản và cuộc sống quẩn quanh khiến thanh niên lạc

đường trong nhận thức. Họ đi từ chán nản đến sự trụy lạc để thoát khỏi hiện thực.

Nhưng đó lại là một lối đi đen tối, khiến họ trở thành những kẻ sống không lý

tưởng, thiếu tương lai và thừa những khát thèm dục vọng.

Ngôn ngữ của nhà văn, ngôn ngữ của nhân vật hầu như xoay xung quanh

những thú vui nhục dục để tiêu khiển qua ngày của lớp thanh niên có thể khiến

người ta có những hình dung thật bi quan về xã hội đang mục nát đương thời. Cuộc

sống của họ phơi bày qua lời họ nói, việc họ làm là một cuộc sống đang chết mòn,

tha hóa.

Văn nói với Liêu những câu thiếu mục đích sống về chuyện thi cử.

“Liêu: - Tao lo cuối năm thi mà chuội thì ê lắm.

Văn: - Ê quái gì. Đỗ với trượt cũng thế. Kinh tế khủng hoảng này, đỗ ra, ai bổ

mày đi làm. Bây giờ không phải lúc đem bằng cấp ra kiếm ăn được… Muốn sống

được no ấm và đường hoàng ở đời này chỉ cần đểu giả, phải ba que, phải lừa lọc, thế

thôi.” [120, tr. 36].

Cũng lời của Văn đang mở rộng cho Liêu: “Tao xin mày hãy xếp xó cái ái

tình lãng mạn. Nó cũ rích lắm rồi. Bây giờ chỉ có khoái lạc, chỉ có xác thịt. Chỉ có

những cái sờ nóng người lên! Chỉ có những cái hôn cháy môi! Chỉ có những cái hôn

tê tái cơ thể…” [120, tr. 36].

Nhà văn để các nhân vật thể hiện rõ sự sa ngã, trụy lạc với những tâm hồn rã

rời, mỏi mệt qua ngôn ngữ đối thoại. Đó là những đối thoại của lớp thanh niên lạc

đường, họ sa ngã vào khoái lạc, họ trác táng bởi ái tình và bàn đèn thuốc phiện. Tuy

nhiên, nghệ thuật ngôn ngữ của Trương Tửu khá sắc bén khi ông nhanh chóng để

người đọc thoát ra khỏi cảm giác thất vọng khi đến với Một chiến sĩ ngôn ngữ đối

thoại của nhân vật giúp chúng ta cảm nhận sự nhiệt huyết đang sục sôi của người

chiến sĩ dám dấn thân trên con đường tranh đấu, đó là lời nói của Hiền và Hảo.

Lời đối thoại giữa Hiền và Hảo là lời tâm đầu hợp ý của người cùng chí hướng.

Lời họ thốt ra không một chút suy tính cho bản thân mình, họ luôn hướng lòng mình

133

đến những con người cùng khổ. Họ đau cái đau của những kiếp người bất hạnh ngoài

đời, họ vui và sung sướng vì được phụng thờ lý tưởng. Tuy có màu sắc lý tưởng hóa

song các nhân vật như Hiền, Hảo trái ngược hoàn toàn với những thanh niên trong

Thanh niên S.O.S. Lời họ không chán nản mà luôn say sưa:

“ - Người ta vẫn có quyền tả những cảnh giàu sang, nhưng người ta có bổn

phận giúp kẻ nghèo trong cuộc tranh đấu đòi cơm áo. Người ta có bổn phận khu

trừ cho xã hội những áp chế, bóc lột. Khi người ta đã nhận làm những bổn phận ấy

một cách sốt sắng thì người ta phải thấy rằng lúc này mà còn mượn mầu nghệ

thuật để ca tụng bọn phú hào tức là phản động, tức là phản bội cái nhiệm vụ chính

đáng của mình” [120, tr. 132].

Hai thanh niên tràn trề sức trẻ nói về lý tưởng với bầu nhiệt huyết sục sôi nhưng cũng

thiết tha, day dứt:

“ - Đau đớn lắm anh ạ. Anh tính vợ con ai không yêu? Tiền bạc ai không thích?

Yên ổn ai không mong? Thế mà đời chiến sĩ là đời không được bám víu đến vợ con,

không được tơ hào đến giàu sang, không được ao ước sự an vui. Người ta bôn tẩu chán

thì quay về nghỉ ngơi trong gia đình yên ấm. Người chiến sĩ không có quyền chán…

Tuy vậy, sống đời chiến sĩ mới là sống. Sống đầy đủ. Sống hoàn toàn những năm tháng

ngày giờ của mình. Vì trong cái sống ấy phút nào cũng phải tranh đấu” [120, tr. 134].

Họ bâng khuâng kết luận:

“Đời tầm thường đã kém đời nghệ sĩ nhiều. Mà đời nghệ sĩ lại kém đời chiến

sĩ nhiều lắm. Một đằng luân lạc để hưởng thú vui luân lạc. Một đằng luân lạc để

phụng thờ lý tưởng”[120, tr. 137].

Hiền và Hảo cũng là lớp thanh niên đầu thế kỷ XX, nhưng họ không tơ tưởng

đến lối sống buông thả, lạc thú hay nhục dục như Liêu, Văn. Phải chăng, nhà văn

muốn đưa ra ý kiến riêng khi sáng tác nhằm gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh lớp

thanh niên ăn chơi, bế tắc, hồi chuông vang lên để cứu những kiếp người đang luân

lạc trong vòng rối ren của xã hội suy đồi, và ông cũng nêu những tấm gương về

người chiến sĩ dũng cảm dám hy sinh cuộc sống nhung lụa dấn thân vào gian khó

134

đấu tranh cải tạo xã hội. Tuy nhiên Trương Tửu cũng như một số nhà văn cùng thời

như Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố chỉ dừng lại ở

việc nêu ra vấn đề chưa đi sâu vào giải quyết mâu thuẫn giải cấp, nên Hiền Hảo là

những chàng trai có lý tưởng đẹp nhưng chưa thực sự nhận ra con đường cần đi,

những việc cụ thể cần làm. Con đường tranh đấu của Hiền, Hảo đang được bắt đầu

bằng lý tưởng và họ mong muốn thực hiện được lý tưởng đó. Lời đối thoại của họ

phát ra từ trái tim nhiệt huyết, từ trí não trong sạch và khát vọng lớn lao.

Nếu ngôn ngữ của Liêu, Văn tiêu cực, bế tắc, chán chường thì ngôn ngữ của

Hiền lại sôi nổi hướng tới lý tưởng cao đẹp. Ngay cả khi Hiền ủ ê, đau khổ thì nỗi

đau ấy không vì sự chán chường bi quan, mà chàng đau khổ, dằn vặt vì đã đem đến

cho người thân nỗi buồn khi quyết hy sinh tình cảm riêng tư để theo đuổi phụng sự

lý tưởng cao đẹp. Nỗi đau của Hiền thấm trên từng lới đối thoại với Như Lan, người

yêu chàng và với mẹ cha.

Hiền: “Thuộc vào hạng thanh niên cấp tiến, Hiền thù ghét đời sống cằn cỗi của

những kẻ phụng thờ miếng cơm, manh áo, cam tâm làm nô lệ cho tập tục. Chàng

ghê tởm cái đời tầm thường, trói buộc lấy vinh thân phì gia làm mục đích.

Chàng chỉ khao khát sống một cách đầy đủ, mãnh liệt và nguy hiểm. Những

con đường thiên hạ đã lát đá phẳng lì, chàng không muốn bước vào. Trong khu

rừng người um tùm, chàng muốn tự tay khai phá một lối đi mới. Rồi trong lối đi

này, chàng nghênh ngang tiến bước, đầu cao mắt sáng, luôn chiến đấu với những

nguy hiểm bất ngờ” [120, tr. 137].

Ngôn ngữ đối thoại của tráng sĩ Bồ Đề rất đa dạng, bởi tráng sĩ giao thiệp

với nhiều hạng người. Lời chàng nói với các nhân vật khác thể hiện nhân cách

cao đẹp của một chàng trai trí dũng và võ nghệ vô song. Qua lời nói, ta cảm nhận

tư chất của một chàng trai nho nhã, khoan dung, mực thước và rất đỗi khiêm

nhường, mặc dù tài năng của Tráng sĩ quả khó ai sánh kịp. Với nhân vật Bồ Đề

hay Năm chàng hiệp sĩ Trương Tửu như gửi gắm ước mơ về sự toàn bích cho

hình tượng người anh hùng.

135

Khi nói với bằng hữu là tráng sĩ Bạch Hạc, ngôn ngữ của Bồ Đề khiêm

nhường, từ tốn nhưng sáng ngời lý tưởng cứu khốn phò nguy:

- “Tôi không nghĩ như tráng sĩ. Tôi cho rằng khi mình có một thanh kiếm thì

quyết nhiên không phải để dung nó cho một mình mình. Cái thân của một tráng sĩ

phải dung làm đầy tớ cho công lý, đầy tớ cho thiên hạ.

Người võ sĩ (Bạch Hạc) cười lớn:

- Công lý mờ tối đã từ lâu rồi, thiên hạ đổ nát đã từ lâu rồi, tráng sĩ không biết sao?

Vẫn bằng thứ giọng bình tĩnh, chàng thanh niên đáp:

- Biết là thế như thế, rồi để mà khoanh tay ngồi yên sao? Đức Phật có câu “Ta

không vào địa ngục thì ai vào địa ngục?” Kẻ tráng sĩ phải nhận lấy cái bổn phận

dựng lại công lý, chỉnh lại thiên hạ, nếu có tài mà thấy việc đời suy đốn lại chán nản

làm lơ thì cái tài ấy dùng để làm gì?...

...Bạch Hạc trả lời:

- Cái tài ấy ví thử dùng để báo một mối thù không đội trời chung, thì tráng sĩ

cho là nên hay không?

Cặp mắt sáng và hiền hậu của người thanh niên chiếu thẳng vào khuôn mặt

của người võ sĩ như để dò xét, giây lâu chàng mới đáp:

- Không nên! Cái đó rất không nên. Mối oán thù càng thắt nó càng thêm chặt,

không bao giờ cởi gỡ ra được. Phải tha thứ cho những kẻ đã hại mình, đã làm mình

đau khổ. Ta nên học cái lượng khoan dung của Phật tổ, lấy lòng từ bi mà đối xử với

mọi người. Kẻ gian ác, ta có thể giết nó đi mà không thù ghét nó. Giết nó, không

phải vì chính mình mà là vì thiên hạ” [120, tr. 603].

Nghe tráng sĩ Bồ Đề nói vậy, Bạch Hạc run run cảm động:

“ - Tôi chu du trong thiên hạ đã nhiều mà chưa hề gặp ai giàu lòng nghĩa hiệp,

giàu lòng nhân từ như tráng sĩ..” [120, tr. 603].

Ngôn ngữ của Bồ Đề luôn khiêm nhường và ẩn chứa lòng hào hiệp, chuộng

nghĩa. Người tráng sĩ ấy để lại bao ấn tượng qua phong thái, ngôn từ và cử chỉ…

Tất cả đều toát lên vẻ đáng yêu, đáng mến, đáng trân trọng.

136

Như vậy, ngôn ngữ đối thoại tuy không miêu tả nhân vật nhưng đã góp phần

quan trọng hoàn thiện nhân vật. Nhân vật không chỉ tự bộc lộ bản chất hay phẩm

chất của mình mà còn tôn thêm vẻ đẹp của nhau.

4.3.2. Lời văn độc thoại

Trong cuốn Từ điển tiếng Việt, độc thoại là nói chuyện một mình [108, tr.

336]. Xét trong những tác phẩm của nhà văn ta tìm hiểu về khái niệm độc thoại nội

tâm. Theo 150 thuật ngữ văn học, độc thoại nội tâm là: “phát ngôn của nhân vật nói

với bản thân mình, trực tiếp phản ánh quá trình tâm lý bên trong; kiểu độc thoại

thầm mô phỏng hoạt động suy nghĩ xúc cảm của con người trong dòng chảy trực

tiếp của nó” [5, tr. 127]. Trong những tác phẩm văn học, độc thoại chiếm một dung

lượng không nhỏ và có vai trò rất quan trọng khi thể hiện bản chất bên trong của

nhân vật. Bởi khi đối thoại với chính mình, các nhân vật sẽ bộc lộ chân thực nhất

điều họ nghĩ, quan điểm của mình. Cho nên có thể nói ngôn ngữ độc thoại thể hiện

sinh động và rõ nét nhất bản tính của mỗi nhân vật theo dự đồ sáng tạo của nhà văn.

Trong Thanh niên S.O.S, ở phần đầu tác phẩm Liêu được xây dựng là chàng

trai ngoan, là một trí thức có lý tưởng, hoài bão và ước mơ về tình yêu trong sáng.

Tình yêu của Liêu với Sâm trở nên mãnh liệt trong tâm trí, nhưng chàng đau khổ

khi hay tin Sâm sẽ lấy chồng, điều này khiến Liêu bấn loạn trong dòng suy nghĩ nội

tâm “Đứng vịn song cửa nhìn ra vườn hoa, chiều hôm nay, Liêu để mặc cho những

giọt nước mắt từ từ lăn trên hai gò má. Chàng mường tượng đến Sâm, lòng buồn

rười rượi như kẻ đeo tang. Đã một tuần lễ rồi, chàng ngẫm nghĩ ngày đêm về cái tin

Sâm lấy chồng”, “Rồi chàng bận bịu trí não tìm câu trả lời đến ăn ngủ thất thường,

mặt mày hốc hác như người sốt rét” [120, tr. 49],

“…Liêu trầm mặc như nhà toán học đang tìm lời giải cho một bài tính đố.

Rồi như để bác một ý nghĩ gì đau đớn mới nảy ra trong óc, Liêu lẩm bẩm:

- Có thể thế được ư?

Có lẽ nào người yêu của chàng phản bội tình yêu vì lợi? Có lẽ nào vẻ nhu mì

thanh tú của Sâm là bề ngoài giả dối của một tâm địa đê hèn – tâm địa của con mi nu?

137

Chàng dùng hết nghị lực để gạt bỏ cái hoài nghi đau đớn ấy. Nhưng đã hoài

nghi thì phải hoài nghi mãi mãi cho đến lúc tìm được đủ lý để không hoài nghi nữa”

[120, tr. 51].

Qua những dòng độc thoại nội tâm, Trương Tửu đã để nhân vật thể hiện một cách

chân thật về sự khổ sở, dằn vặt, nghi ngờ của Liêu. Trong tâm hồn của chàng trai “si

tình và ngây thơ” đang diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt để khẳng định “tình yêu chân

chính và thành thực”. Với nhân vật Liêu, nhà văn đã khẳng định được tài năng trong

việc miêu tả tâm lý nhân vật với những cung bậc nội tâm đa dạng và phức tạp.

Những câu độc thoại của Thông trong tiểu thuyết Trái tim nổi loạn cho thấy

phẩm chất đáng quý của một chàng thanh niên trí thức tuy tiến bộ nhưng lại rất

đạo đức, thủy chung. Vì vậy khi phát hiện ra những điều không thể dung hòa

trong cuộc sống gia đình Thông đã rơi vào tận cùng đau khổ, cuộc sống của

chàng đau khổ nhiều hơn hạnh phúc khi lựa chọn hôn nhân với Thúy. Nhà văn

diễn tả tất cả những chán chường, thất vọng của nhân vật bằng cách để cho

Thông bị dày vò với những cuộc xung đột nội tâm gay gắt. Ngôn ngữ độc thoại

nội tâm của nhân vật cho thấy một tâm hồn bị tổn thương dữ dội bởi tình yêu,

bởi sự thất vọng ê chề khi lâu đài hạnh phúc mà chàng cố công xây dựng đang

sắp vỡ vụn. Để có được cuộc hôn nhân theo lựa chọn riêng, Thông đã đánh mất

cả gia đình lớn đến nỗi cha mẹ không nhìn mặt, vậy mà hạnh phúc rồi sẽ tan vỡ

mà chàng không thể cứu vãn khiến Thông như một con thú bị thương, cùng

đường không lối thoát.

Qua ngôn ngữ độc thoại cho người đọc hiểu hơn về Liễu, một cô gái tàn tật,

xấu xí trong Một kiếp đọa đày. Ở Liễu vừa đáng thương vừa đáng trách. Cô đáng

thương bởi người thân cô cay nghiệt, đày đọa cô, đến kẻ ăn người ở cũng coi

thường cô. Họ khiến cô rơi vào tận cùng tủi nhục. Nhưng trong sâu thẳm cõi lòng

tổn thương ấy Liễu vẫn mang một tâm hồn đằm thắm cho dù cô vừa gây ra tội ác.

Khi Liễu sửa soạn quần áo muốn bỏ đi thật xa, cô chợt chạnh lòng khi nhìn đứa em

138

trai “Ta sắp phải xa lìa đứa em nhỏ này mãi mãi ư? Rồi đây, trong nhà, ai là người

chăm nom đến nó?” [120, tr. 534].

Nhưng khi nàng nghĩ về người em gái xinh đẹp hay nanh nọc, đày đọa nàng,

nàng gằn trong dạ “Nếu bây giờ nó xấu đi”. Liễu cứ bần thần nhắc đi, nhắc lại câu

nói ấy, khởi điểm cho những tội ác hãi hùng. Sự phẫn uất, cùng đường khiến người

ta trở thành tàn ác.

Độc thoại là một cách nhà văn miêu tả tâm lý con người (nhân vật) khi để

cho dòng nội tâm vận động và phát triển tự nhiên không có bất cứ sự can thiệp

nào.Vận dụng biện pháp nghệ thuật này, Trương Tửu đã thể hiện tính hiện đại

cho những trang văn xuôi hiện thực của ông. Không riêng ở Trương Tửu mà

Nam Cao, Kim Lân cũng khai thác lĩnh vực này rất thành công. Độc thoại nội

tâm của những nhân vật nông dân như ông Hai trong Làng, cụ Tứ trong Vợ

nhặt…của Kim Lân được đặt vào những tình huống bất ngờ trước thử thách khó

khăn mà cuộc sống mang đến nhưng nhân vật của Kim Lân đã vượt qua sự trớ

trêu của số mệnh và thể hiện sự lạc quan để sống tốt. Độc thoại nội tâm của nhân

vật trí thức Hộ trong Đời thừa, Thứ trong Sống mòn…của Nam Cao đã cho thấy

sự tương đồng với Trương Tửu khi luôn có sự đồng cảm trong việc miêu tả sâu

sắc về tâm lý của người thanh niên trí thức. Mỗi nhà văn có cách khai thác nghệ

thuật độc thoại khác nhau và không thể phủ nhận ngòi bút văn chương của họ đã

góp phần làm phong phú nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Đọc truyện ngắn của Trương Tửu có thể với cá nhân nào đó cho rằng tác

phẩm của ông chưa thật độc đáo, hấp dẫn nhưng những phát hiện thú vị về mặt

tâm lý nhân vật một cách chân thực để tính cách nhân vật thể hiện rõ nét trong

từng thời điểm sẽ khiến không ít độc giả thay đổi quan điểm riêng đó. Trương

Tửu sử dụng lời văn độc thoại trong tác phẩm nhằm mục đích để cho tuyến nhân

vật có một diễn biến tâm lý phúc tạp, để thấy được sự thay đổi trạng thái của

cùng một nhân vật vào các thời điểm khác nhau. Qua đó dấu ấn phong cách của

Trương Tửu được thấy rõ hơn.

139

4.3.3. Tiếng Pháp được Trương Tửu sử dụng trong các tác phẩm

Khảo sát tác phẩm trong cuốn Trương Tửu - Tuyển tập văn xuôi, năm 2009, do

Nguyễn Hữu Sơn, sưu tầm biên soạn:

TT Tên tác phẩm Tổng số trang Số lần xuất hiện

1 Thanh niên S.O.S 93 32

2 Một chiến sĩ 98 39

Khi chiếc yếm rơi xuống 3 21 11

Trái tim nổi loạn 4 104 12

5 Một cổ đôi ba tròng 22 2

Tôi nguyền rủa mãi người cha ấy 6 14 2

7 Khi người ta đói 95 11

8 Đục nước béo cò 25 1

9 Một kiếp đọa đày 33 0

10 Thằng Hóm 167 14

11 Cái tôi của ai 37 14

12 Tráng sĩ Bồ Đề 152 0

13 Năm chàng hiệp sĩ 129 0

Qua bảng khảo sát 13 tác phẩm với tổng 943 trang in trên khổ 16 x 24 cm.

Trong đó có 10/13 tác phẩm sử dụng tiếng Pháp. Đây là một nét mới trong sáng

tác nghệ thuật của Trương Tửu. Trong10 tác phẩm với 629 trang văn đã xuất

hiện 138 từ Pháp.

Qua sự ảnh hưởng văn hóa, văn học phương Tây nói chung và của Pháp nói

riêng đã đưa đến cho văn học Việt một tinh thần mới với lớp từ mang hơi thở của

cuộc sống hiện đại. Có lẽ sự xuất hiện từ Pháp trong sáng tác là bằng chứng để thấy

rằng nhà văn có ảnh hưởng rất lớn của văn hóa, văn học Pháp trong quá trình sáng

tác. Hệ thống từ Pháp xuất hiện khá đa dạng trong sáng tác của Trương Tửu, thể

hiện những quan điểm hay tư duy của nhà văn.

140

Hầu hết nhân vật trong văn xuôi Trương Tửu là lớp thanh niên, họ thường

là tầng lớp trí thức trẻ, tiếp thu văn hóa phương tây, nhất là văn hóa Pháp.

Ngôn từ Pháp trong tác phẩm Trương Tửu góp phần thể hiện con người nhân

vật nói riêng đồng thời thể hiện con người trong đời sống xã hội đương thời nói

chung. Các nhân vật chào hỏi, giao tiếp thường dùng một số từ ngữ tiếng Pháp

như một thói quen của những người trí thức. Ở tiểu thuyết Thanh niên S.O.S

hay Trái tim nổi loạn,… các thanh niên như Văn, Liêu, Thông đều sử dụng

ngôn từ Pháp, dùng như một trào lưu. Mật độ từ Pháp trong Thanh niên S.O.S,

cứ mỗi trang tiểu thuyết đều xuất hiện ít nhất một đến hai từ Pháp. Hầu hết là

những từ xưng hô, chào hỏi (“Bonjour”, “Ô voa”…), những tên nhà văn Pháp

như Lamartine, André Gide, Victor marguerite, Musset… tên nhân vật, tên tác

phẩm (Nouvelles nuorritures, La Cour de Néron, Nouvelles littéraires, Le

Couple,…) hay những từ nói về thú vui, giải trí như (sex- appeal: Vẻ khêu gợi;

dancing: Đi nhảy; ciné: Xem phim), hoặc những danh từ, tính từ, động từ được

sử dụng khá phổ biến như Carte postale: Bưu thiếp, ảnh bưu thiếp; Insonie:

Mất ngủ; chimie: Môn hóa học, bài hóa học; reponse: Lời giải, kết quả, bài

làm; tremplin: phương tiện, bàn đạp; Caisse: Quầy bán vé; Caissière: Hàng bán

vé; abonner: Thuê, đặt mua; plage: Bờ biển; Pais Magazin: Tạp chí Paris;

Mouvenment respiratiore: Động tác hô hấp, hô hấp nhân tạo…).

Những câu nói hoàn toàn bằng tiếng Pháp như

-“Oui! C’est un phénomène”: Vâng, một hiện tượng.

-“C’ est cà! Dix points!”: Được đấy, mười điểm.

- “Bonne nuit”: Chúc ngủ ngon, ngủ ngon nhé.

- “Ah ! Bonjour mon cher Hiền. Asseyer vous. Une cigare s’il vous plait”:

Chào ông Hiền thân yêu của tôi. Mời ông ngồi xuống đây. Ông vui lòng dùng một

điếu xì gà.

- “Double évent!”: May mắn gấp đôi!

141

Sự du nhập ngôn ngữ đã thể hiện những tác động của văn hóa Pháp sớm ảnh

hưởng đến tầng lớp thanh niên trí thức trong xã hội. Không chỉ trong văn Trương Tửu

mà một số nhà văn như Vũ Trọng Phụng cũng sử dụng từ Pháp nhưng không nhiều

như trong tác phẩm của Trương Tửu. Khảo sát một số tác phẩm của Vũ Trọng Phụng

trong cuốn Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, (tập I, II), năm 2005, do Nguyễn Đăng

Mạnh, Trần Hữu Tá sưu tầm, tuyển chọn:

TT Tên tác phẩm Tổng số trang Số lần xuất hiện

1 Giông tố 304 20

Số đỏ 2 204 45

3 Trúng số độc đắc 49 4

Vỡ đê 4 219 0

5 Bộ răng vàng 46 0

6 Hồ sê líu hồ líu sê sàng 4 0

7 Người có quyền 5 0

8 Một đồng bạc 8 0

9 Gương… tống tiền 14 0

10 Người tù được tha 48 0

Qua khảo sát 10 tác phẩm tiêu biểu của Vũ Trọng Phụng có tổng số 682 trang in

trên khổ 14,5 x 20,5 cm. Trong đó có 3/10 tác phẩm xuất hiện tiếng Pháp, 3 tác phẩm với

tổng số 557 trang có 69 từ tiếng Pháp. Việc sử dụng từ Pháp và một số cụm từ tiếng Pháp

trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng có sự tương đồng với nhà văn Trương Tửu.

Trong số 10 tác phẩm trên, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng sử dụng từ Pháp nhiều

hơn cả. Tác phẩm ra đời vào lúc xã hội Việt Nam chạy theo trào lưu Âu hóa, ngôn

ngữ sử dụng ở đây cũng được chuyển biến rõ nét, mỗi tình tiết, mỗi nhân vật đều

thể hiện sự tha hóa của con người trước xã hội du nhập văn hóa phương Tây tràn

vào. Đồng tiền lên ngôi, con người chạy theo vị thế muốn trở thành dân Tây chuyên

142

nghiệp, các nhân vật đều muốn âu hóa, họ cho mình là những “Me xừ” chính hãng

mà không biết rõ nó có nghĩa gì, hàng loạt các từ “xanh ca - xanh xit” (năm đều -

năm sáu), những cái tên rất “âu”: (Bà phó đoan, Min đơ, Min toa, ông Tip phờ nờ,

joseph Thiết, Phán mọc sừng, me sừ Xuân, Victor Ban,… ). Ngay cả trong đối thoại

các nhân vật cũng học theo lối tây như Bà Phó đoan gọi con mình, “ - À, cậu tắm!

Cậu của Me ngoan” hay “Me xin lỗi cậu vậy, Me thơm cậu vậy”. Cụ cố Hồng xưng

“toa moa với con” hoan nghênh cử chỉ theo lối tây tàu của con, “thế Toa đến đây từ

bao giờ hở Toa?”, “Moa đi tìm Toa có việc cần”, một số cụm từ Pháp Dernières

créations! (Những sáng tạo cuối cùng) [89 (II), tr. 285], La guèrre! La guèrre!

(Chiến tranh! Chiến tranh!) [89 (II), tr. 417], A bas Xuân! A bas Xuân!

Desexplications [89 (II), tr. 419]. Trong Giông tố có các cụm từ Santan couduit ball

[88 (I), tr. 450], hoặc A la santé de tous! (Chúc sức khỏe tất cả!) [89 (I), tr. 451],...

Mỗi nhà văn sử dụng từ ngữ nước ngoài trong tác phẩm đều có mục đích

riêng. Ở đây luận bàn đến mục đích của Trương Tửu khi ông sử dụng ngôn từ Pháp

trong sáng tác. Không khó khăn để thấy nhà văn muốn thể hiện hai mục đích rõ

ràng. Thứ nhất, Trương Tửu nêu lên hiện tượng một số bộ phận người dân nước ta

lúc bấy giờ thích sử dụng ngôn ngữ ngoại lai. Giai đoạn đầu thế kỷ XX, quá trình

Âu hóa diễn ra trên nhiều phương diện của đời sống, văn hóa giao tiếp của nhóm

người này hình thành quy định bất thành văn khi giao tiếp phải nói được vài ba từ

Pháp mới thể hiện là người có trình độ học vấn cao. Bộ phận người này sử dụng

ngôn ngữ ngoại lai như một cái “mốt” mà quên đi giá trị trong sáng của ngôn ngữ

tiếng Việt. Như vậy, Trương Tửu đã phản ánh thực trạng xã hội về việc dân ta ưa

chuộng ngôn ngữ nước ngoài lúc đó. Mục đích thứ hai ẩn dưới ngòi bút của một nhà

văn, trên cơ sở của sự du nhập văn hóa, văn học ông thấy cần tạo nên một giá trị

thẩm mỹ mới trong sáng tác nghệ thuật. Ngôn ngữ Pháp được sử dụng nhiều trong

10/ 13 sáng tác có chữ Pháp, nhưng việc kết hợp tiếng Việt và tiếng Pháp đã không

ảnh hưởng tới nội dung tác phẩm, mà nhà văn vẫn thể hiện được mong muốn phản

143

ánh của người sáng tạo. Đây cũng là một nghệ thuật nhằm thu hút người tiếp nhận

đồng thời cũng góp phần thể hiện phong cách của Trương Tửu.

4.4. Nghệ thuật vận dụng văn học dân gian vào tác phẩm văn xuôi của Trương Tửu

4.4.1. Vai trò của văn học dân gian trong văn Việt Nam hiện đại

Văn học dân gian là một mạch nguồn trong trẻo, dồi dào không chỉ với đời

sống tinh thần của nhân dân mà còn góp phần nuôi dưỡng, ấp ủ phôi thai nền văn

học viết. Nhận xét về ảnh hưởng to lớn của văn học dân gian đối với văn học thành

văn Việt Nam, Giáo trình Văn học dân gian nhận định: “Văn học dân gian là cội

nguồn, là bầu sữa mẹ nuôi dưỡng nền văn học dân tộc Việt Nam. Nhiều thể loại văn

học viết được xây dựng và phát triển dựa trên sự kế thừa các thể loại văn học dân gian.

Nhiều tác phẩm, nhiều hình tượng do văn học dân gian tạo nên là nguồn cảm hứng, là

thi liệu, văn liệu của văn học viết. Nhiều nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc (Nguyễn

Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Phan Bội Châu, Hồ Chí

Minh,…) đã tiếp thu có kết quả văn học dân gian để sáng tạo nên những tác phẩm văn

chương ưu tú” [153, tr. 53]. Đó là một nhận định xác đáng thể hiện rõ văn học dân gian

đã tác động đến tư duy sáng tác của nhiều tác giả là nhà văn hiện đại trong suốt tiến

trình phát triển của văn học dân tộc Việt Nam. Có lẽ cũng như nhiều người cầm bút

khác, Trương Tửu sớm hiểu “việc sử dụng trực tiếp hay gián tiếp những hình ảnh, cốt

truyện và phương tiện thi ca của văn học dân gian trong văn học” [40, tr. 258] sẽ hình

thành quá trình sáng tạo và tạo nên giá trị cho tác phẩm văn xuôi hiện đại.

Về văn xuôi, văn học dân gian đã sớm ghi lại những dấu ấn khá đậm nét.

Truyện cổ dân gian Việt Nam với nhiều thể loại phong phú, đặc biệt là thần thoại,

truyền thuyết, cổ tích, sử thi đã trở thành đề tài cho những tác phẩm văn xuôi chữ

Hán sớm nhất của nước ta. Các tác giả Việt Điện u linh, Lĩnh Nam chích quái,

Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Tang thương ngẫu lục,… đã ghi chép lại

truyện dân gian, trên cơ sở đó đã hư cấu lại hoặc ít hoặc nhiều. Như vậy chính các

thể loại truyện cổ dân gian đã khơi nguồn tạo nên thể loại “truyền kì”, “chí quái”

trong văn học viết trung đại. Bất kỳ nhà văn, nhà thơ, nhà văn hoá lớn nào của

144

nước ta cũng đều khẳng định và tôn vinh giá trị của văn học dân gian. Điều này

không chỉ tồn tại trong ý thức mà các tác giả đã vận dụng ngôn ngữ và nghệ thuật

của văn học dân gian vào sáng tác của mình một cách sáng tạo.

Đã có khá nhiều nhà nghiên cứu đi vào tìm hiểu về sự ảnh hưởng của văn

học dân gian đối với văn xuôi hiện đại. Tiêu biểu trong cuốn Vai trò của văn học

dân gian trong văn xuôi hiện đại Việt Nam của Võ Quang Trọng [168], đã chỉ ra

rất rõ vấn đề này. Văn học dân gian đã kết tinh quá trình sáng tạo của nhân dân

qua nhiều thế hệ. Văn học dân gian có giá trị về nhiều mặt không chỉ bồi đắp tâm

hồn cho con người Việt Nam mà còn khơi nguồn sáng tạo vô tận đối với nhiều tác

giả, Trương Tửu không ngoại lệ, ông nắm bắt những chi tiết hình ảnh trong cổ

tích, trong sử thi kết hợp với quan điểm, tư tưởng mới để tạo ra sự cách tân trong

đời sống văn học. Hơn thế, song hành với tư duy logi nhà văn mong muốn tạo ra

nét mới trong sáng tác. Bên cạnh đó yếu tố tự thân nền văn học, đòi hỏi văn học

phải thay đổi. Do bối cảnh lịch sử xã hội đã tạo ra ảnh hưởng, giao lưu giữa văn

học dân gian và văn học hiện đại trong những năm đầu thế kỷ XX. Trương Tửu đã

nắm bắt, vận dụng sáng tạo yếu tố này để viết nên những trang viết có sức lôi cuốn

người đọc. Cho đến hôm nay, không thể phủ nhận ông là cây bút văn xuôi mang

dấu ấn riêng khi vận dụng linh hoạt yếu tố truyền thống và hiện đại trong sáng tác

góp phần bồi đắp cho nền văn học dân tộc thêm phần giàu có.

4.4.2. Mô típ, nhân vật trong cổ tích, sử thi được nhà văn vận dụng vào văn xuôi

dã sử

Ở hai tiểu thuyết dã sử của Trương Tửu là Tráng sĩ Bồ Đề và Năm chàng hiệp

sĩ tuy đậm yếu tố lịch sử nhưng lại mang rất nhiều yếu tố hư cấu. Các chuyện lịch

sử được kể lại vừa có sự kiện, nhân vật lịch sử (Đinh Bộ Lĩnh, Hoàng hậu Ca ông-

tức Dương hậu, Lê Hoàn…) nhưng cũng có khá nhiều yếu tố kì ảo như những

truyện truyền thuyết trong dân gian kể lại với những căn hầm thâm sâu bí ẩn, những

hành động siêu phàm của nhân vật (hành động của tráng sĩ Bồ Đề, tráng sĩ Bạch

Hạc, của Cô Năm Hoa Lư…). Qua những tình tiết trong sáng tác, có thể thấy rõ văn

học dân gian đã đem lại sự sáng tạo cho nhà văn. Từ những môtíp, những khuôn

145

mẫu về người anh hùng xuất chúng và kết thúc có hậu thường thấy trong cổ tích, sử

thi đã được ngòi bút của Trương Tửu xây dựng thành tác phẩm hiện đại mang dấu

ấn của những năm đầu thế kỷ XX. Lấy ví dụ cụ thể, tiêu biểu:

1. Tên truyện Truyện cổ tích Tráng sĩ Bồ Đề

Chử Đồng Tử (Tác giả Trương Tửu)

Khơi nguồn cảm hứng cho nhà 2. Những môtíp Khơi nguồn sáng tạo cho tác

giả dân gian. văn Trương Tửu sáng tác.

* Nhân vật chính - “Cù Vân chết, Chử Đồng - “Cha chàng mới mất, chàng

có hoàn cảnh mồ Tử lấy khố đóng cho cha rồi liền bán hết gia tư, điền sản xách

côi. mới chôn” [18, tr. 40]. kiếm lên đường” [120, tr. 620].

* Những nàng tiên, - “có nàng công chúa tên là - “Người con gái ăn mực kiểu

cô công chúa hay Tiên Dung, nhan sắc tuyệt võ sĩ, tay cầm kiếm hiện ra

những cô gái xinh trần... Tiên Dung giội nước ngưỡng cửa, giữa một vùng

đẹp thường xuất một lúc hì bỗng nhiên Chử ánh sáng tưng bừng... Trước

hiện trong truyện Đồng Tử trồi lên” [18, tr. cảnh tượng lộng lẫy đó, Bồ Đề

rồi trở thành “hồng 40]. choáng váng cả người... nhìn

nhan tri kỉ” của say đắm” [120, tr. 613].

nhân vật chính.

* Kết thúc có hậu. - “Tiên Dung bảo Đồng Tử - Minh Tâm ra đi, cô tìm đến

rằng: ...Thiếp với chàng là tự phật đài để cầu nguyện cho Bồ

trời xe duyên , việc gì mà từ Đề và Tú Lan... “hai người

chối! ...Từ hôm ấy hai người sống đang sung sướng được

thành vợ chồng” [18, tr. 41]. sung sướng đến trọn duyên

kiếp” [120, tr. 751].

Văn học dân gian là nhân tố đã khơi nguồn sáng tạo cho nhà văn. Ông đã phát

huy vốn kiến thức tự học và khả năng tư duy để hoàn thành tác phẩm. Trong quá

trình phát triển tác phẩm Trương Tửu đã kết hợp với lối tư duy mới, hiện đại nhưng

không làm mất đi dấu ấn dân tộc. Tác giả đã đặt mục đích hướng thiện, ca ngợi cái

đẹp, loại bỏ cái xấu để vươn tới một giá trị chân - thiện - mĩ. Chàng trai trong Tráng

sĩ Bồ Đề có hoàn cảnh mồ côi rất gần gũi với môtíp trong các câu truyện cổ tích như

146

truyện Chử Đồng Tử, Cây khế... những nhân vật mồ côi bước ra từ câu chuyện

thường có tâm hồn trong sáng, trọng nghĩa tình. Ở tiểu thuyết Tráng sĩ Bồ Đề của

Trương Tửu, hình ảnh chàng trai mồ côi có tên Bồ Đề giỏi giang xuất chúng, trải

qua nhiều khó khăn, nhưng luôn trọng tình, trọng nghĩa. Ở Trương Tửu, ông đã có

một tư tưởng mới với những nhận thức mới về một nền văn học hiện đại tất yếu

diễn ra tại Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX nên nhân vật mồ côi được

khắc họa trong tác phẩm của ông có sự khác biệt rõ rệt so với nhân vật mồ côi trong

văn học dân gian, ngòi bút nhà văn tạo ra nhân vật tài giỏi, hấp dẫn. Không chỉ có

vậy môtíp những cô công chúa, cô gái xinh đẹp cũng thường được các em nhỏ yêu

thích khi đọc truyện cổ dân gian thì giờ đây tuyến nhân vật này đã được nhà văn

đầu thế kỷ XX khắc họa khá phong phú trong tác phẩm hiện đại. Bạn đọc không chỉ

thấy những cô tiên dịu hiền, những cô công chúa trẻ trung, xinh đẹp như nàng Tiên

Dung, như cô Tấm mà ở các nhân vật nữ như Kim Chi, Tú Lan, Minh Tâm… trong

tác phẩm của Trương Tửu đều xinh đẹp, mưu trí, tinh thông võ nghệ dám sống chết

cho lý tưởng và mục đích của mình. Họ mạnh mẽ, linh hoạt, bạo dạn và dũng cảm.

“…Tên lính vừa quay người lại, cúi xuống lấy trầu ở gầm bàn thì Ngọc Nữ đã

rút dao trong ngực áo, thẳng tay đâm một nhát trúng gáy hắn. Nàng rón rén lại ngục

giam, lấy hộp thuốc độc trong túi… châm lửa, ném vào trong ngục… Trong ngục

một vài đứa cựa mình…

Ngọc Nữ Biết là thuốc đã có hiệu quả, liền chạy về dinh Định Quốc Công trình

báo về việc đầu độc bọn tù nàng vừa làm… Một người gan dạ như Định Quốc Công

mà nghe Ngọc Nữ bình tĩnh thuật chuyện cũng phải hồi hộp, phục thầm là nàng can

đảm phi thường- và tàn nhẫn cũng phi thường” [120, tr. 697].

Môtíp kết thúc có hậu khơi nguồn cảm hứng cho nhà văn đã mang lại giá trị

nhân đạo cho tác phẩm. Kết thúc có hậu của nhiều câu chuyện cổ tích cho thấy cái

thiện luôn chiến thắng cái ác, trong cổ tích những người ngay thẳng, thật thà, nghĩa

hiệp suy nghĩ giản đơn không thù hận luôn gặp may mắn. Bồ Đề trong tác phẩm của

Trương Tửu mặc dù trải qua vô vàn khó khăn, nhất là khi lý tưởng, mục đích không

147

thành nhưng kết thúc nhân vật chính vẫn được ở bên người mà chàng thương yêu.

Khi tiểu thuyết Tráng sĩ Bồ Đề kết thúc, chiến thắng tuy chưa thuộc về chính nghĩa

là đảng Từ Bi nhưng nhân vật chính là tráng sĩ Bồ Đề đã để lại trong tâm trí người

đọc là sự cảm mến, ở chàng có nét hao hao với Thạch Sanh hay những nhân vật

theo môtíp “tráng sĩ” trong thế giới cổ tích của nhân dân. Tráng sĩ Bồ Đề hay Bạch

Hạc đều phi phàm nhưng họ cũng thật đời thường với những mối tình lãng mạn,

những ham muốn tự nhiên của tạo hóa. Khi nhà văn diễn tả tâm trạng của Bồ Đề và

Tú Lan” Bồ Đề nhìn theo bóng giai nhân, lòng mênh mang khó hiểu... chàng cảm

động rạt rào vì một người con gái” [120, tr. 614], “Bồ Đề rộn rạo cả tâm hồn. Lúc

Tú Lan đứng lên, chàng gặp ngay cặp mắt nàng quay nhìn mình. Cái nhìn đủ nói dài

về tình yêu của hai linh hồn hào hiệp ấy” [120, tr. 675]. Khi Kim Chi gặp tráng sĩ

Bạch Hạc tại phủ Võ Vệ Hầu:

“ …Thiếu nữ (Tức Kim Chi hay còn gọi là Ngọc Nữ) lẳng lơ hỏi:

-Thế thì còn là gì nữa?

…Thiếu nữ đỏ bừng mặt, trách ngọt ngào:

-Tráng sĩ Bạch Hạc say rồi!

Bạch Hạc mê loạn tâm thần:

- Vâng, tôi say, say lắm. Không phải là say rượu, không phải say kiếm pháp,

tôi say vì cái nhan sắc diễm lệ của mỹ nhân.

Bạch Hạc còn nói nhiều nữa, nhưng người thiếu nữ nguýt chàng âu yếm”…

[120, tr. 689- 690].

Như vậy, Trương Tửu đã vận dụng linh hoạt các yếu tố trong văn học dân gian

đồng thời ông kết hợp những nét mới trong tư duy nghệ thuật do tiếp thu của nền

văn học phương Tây để cho ra đời tác phẩm văn xuôi hiện đại nhằm thu hút sự chú

ý của công chúng đọc giả. Nhân vật anh hùng trong sử thi của văn học dân gian Việt

Nam đã được vận dụng sáng tạo. Lấy ví dụ tiêu biểu:

148

Nhân vật Nhân vật sử thi Nhân vật tiểu thuyết

Tên nhân vật Đam San

Thân hình, Bồ Đề - “Dáng dấp khoan thai” [120, tr. 601] - “Dẻo như con rắn trong hang, con hùm bên bờ suối” diện mạo [18, tr. 27] - “khuôn mặt Bồ Đề đẹp như một thứ đẹp hùng vĩ, thiên thần”

Tiếng nói, tiếng - “Tiếng nói cười của chàng nghe như sấm vang sét đánh. -“Ngọt ngào mà mạnh như một nghiêm lệnh” [120, tr. 607] - “Giữa ánh lửa hồng dáng điệu và

cười

Chẳng ở đâu có người cười nói như Đam San” [18, tr. 27]

lời nói của Bồ Đề như của một thiên thần làm rung động mãnh liệt các tâm hồn có mặt” [120, tr. 674]

- “Đầu đội khăn kép, vai

Trang phục

-...“một ngựa, một người xách kiếm sống cuộc đời lãng du” [120, tr. 620] mang túi da” - “Đam san cưỡi ngựa ra đi. Chàng khoác áo màu đen, màu trắng. Tay cầm lao. Gươm giắt

thắt lưng” [18, tr. 26]

- Bồ Đề là người dũng cảm, tài giỏi nhưng luôn có thái độ điềm đạm, kín đáo. Bồ Đề được đánh

Thể lực, hành động và tài năng - Đam San dũng cảm, gan dạ muốn vươn tới đỉnh cao của vũ trụ, chàng một mực đi tìm đường đến nhà nữ thần mặt trời. Đam San có sức khỏe phi thường “Chặt sườn núi... giết tê giá qua lời của Bạch Hạc chàng là người “giàu lòng nghĩa hiệp, giàu lòng nhân từ”. Qua lời Nam Việt Vương “chưa hề gặp người nào hiên ngang và hành động hợp lẽ như tráng sĩ”. Bồ Đề có tài bơi lội “bơi lội ngụp lặn

giác... giết hùm... giết quạ diều... giết ma quỷ...” [18, tr. 29]

chàng đều thông thạo hết” [120, tr. 611], đặc biệt là tài kiếm pháp “Bồ Đề là một tay kiếm cao cấp, trong nước ít có người

sánh kịp...” [120, tr. 618]. Trong tất cả những lần giao đấu Bồ Đề luôn mưu trí, dũng cảm.

149

- Tính cách nhân vật phát - Trong toàn bộ tác phẩm, tính

triển tự nhiên. Tác giả dân cách nhân vật phát triển tự nhiên

gian miêu tả nhân vật Đam từ suy nghĩ đến hành động.

San là người anh hùng của bộ Trương Tửu khắc họa hình ảnh

tộc rất thẳng thắn, rõ ràng và nhân vật Bồ Đề luôn là người tôn

dứt khoát, Đam San đã đánh thờ sự hào hiệp, thẳng thắn, dứt

bại hai tù trưởng để bảo vệ khoát, không chấp nhận những

hạnh phúc, danh dự và quyền cái xấu tồn tại trong xã hội.

lực. Chàng thấy bọn lục lâm thảo

- Đam San luôn mang khát khấu Ngũ hổ ức hiếp người

vọng trở thành tù trưởng hùng lương thiện liền ra tay trừng trị.

mạnh, chàng đã không bằng - Chàng không bao giờ tha thứ

lòng với những gì đã có đó là cho kẻ phản bội. Không thể phản

hai người vợ với trăm chiêng bội sự tin tưởng của rất nhiều

núm, trăm chiêng bằng, trăm người trong Đảng, không thể

Phát triển tính con voi, rừng đầy tràn nồi phản bội Tú Lan.

cách nhân vật đồng, đồng nước đầy tràn nồi - Là người kín đáo, trọng tình

đồng, lợn dê đầy sân, tiếng trọng nghĩa, luôn suy xét trước

tăm vang tận thần núi... mọi hành động. Cuối cùng Đảng

- Đam San cương quyết và Từ Bi thất bại, mục đích và lý

dứt khoát đi bắt nữ thần mặt tưởng của Bồ Đề không thành.

trời về làm vợ cho dù phải Đây cũng là một trong những thất

đối diện với biết bao hiểm bại mà con người thường gặp phải

nguy đến tính mạng. Cuối trong đời sống. Nhà văn để cho

cùng Đam San chết trong nhân vật trải qua thất bại nhưng

rừng sáp đencủa thần ngòi bút của nhà văn khá sắc xảo

Sunyrít. Đây là cái chết của khi ông diễn đạt thành công tâm

người anh hùng trên hành trạng của nhân vật ở phần cuối tác

trình vươn tới khát vọng lớn phẩm, dù ở vào thế thua phải nhìn

lao, chân chính, đáng ngợi nhận lại cục diện, phải đánh giá

ca, chân trọng. lại tình hình, có chiến lược đứng

lên sau thất bại.

150

- Qua nhân vật Bồ Đề, cho thấy

nhà văn Trương Tửu đã đưa yếu

- Qua nhân vật Đam San có tố nhân vật trong văn học dân

thể thấy tác giả dân gian gian vào tác phẩm một cách tài

miêu tả nhân vật theo kiểu tình, nhà văn kết hợp với những

khái quát hóa về một con yếu tố hiện đại để đưa vào tác

người cá nhân có sức mạnh phẩm một luồng sinh khí mới,

siêu nhiên để thể hiện một nhân vật anh hùng trong trang

khát vọng lớn muốn khám sách của ông vừa mang nét anh

Tổng kết phá, chinh phục tự nhiên của hùng sử thi nhưng lại rất gần với

cả một cộng đồng, dân tộc. đời sống con người của xã hội

Đam San là một anh hùng hiện đại. Nhân vật hội tụ đủ mọi

mang tính sử thi trong văn trạng thái, cảm xúc, có yêu, có

học dân, là biểu hiện cho lý ghét, gặp mọi hoàn cảnh nhưng

tưởng thẩm mĩ và đạo đức luôn “phụng thờ nhân đạo” [120,

mà tác giả dân gian gửi gắm tr. 750]. Ngay nhan đề tác phẩm

trong đó. đã khiến người đọc liên tưởng

tới con người trong dân gian

“Tráng sĩ Bồ Đề”.

Văn học dân gian với những tiền đề là cơ sở rất quan trọng để văn học hiện đại

Việt Nam phát triển vào đầu thế kỷ XX với sự tiếp thu, kế thừa. Cho đến đầu thế kỷ

XX, xã hội Việt Nam mới chứng kiến một sự chuyển mình của văn học với tên tuổi

của Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Bửu Mọc, Trần Quang Nghiệp,…

và nhất là thế hệ nhà văn hiện thực như Nam Cao, Trương Tửu, Vũ Trọng Phụng,...

Mỗi nhà văn đã tìm cho mình một hướng đi riêng nhưng trên nền tảng luôn giữ gìn

bản sắc, tiếp thu ảnh hưởng mới có sáng tạo để đi đến thành công trong sự nghiệp

cầm bút. Trương Tửu cho thấy các sáng tác phong phú, đa dạng cả về nội dung và

nghệ thuật. Mặc dù nhà văn cũng có những hạn chế nhất định như xây dựng nhân

vật chưa mang tính điển hình cao. Nhưng đặc biệt, trong một số sáng tác văn xuôi

rất mới của ông lại được xây dựng trên phông nền văn học dân gian, từ “sự lặp lại

151

của các mô típ trong văn học dân gian là đặc điểm nổi trội làm nên tính truyền

thống vững bền của hệ thống thẩm mĩ” [151, tr. 19], những môtíp, người anh hùng

xuất chúng mà người đọc thường bắt gặp trong các truyện cổ tích, truyền thuyết, sử

thi... được nhà văn đổi mới, cách tân bằng cá tính sáng tạo của mình. Đó là kết quả

tất yếu của sự giao thoa giữa văn học dân gian và văn học hiện đại trong những năm

đầu thế kỷ XX và cũng là thành công đáng kể của văn xuôi Trương Tửu khi ông vận

dụng văn học dân gian để đưa vào sáng tác như một biện pháp nghệ thuật mới mẻ.

Không riêng một số tác phẩm có sử dụng trực tiếp nguồn tư liệu của văn học dân

gian, mà thông qua giá trị của các tác phẩm nhà văn không chỉ thể hiện một tinh

thần tranh đấu, một thực trạng của xã hội đương thời mà còn muốn gửi gắm vào

mỗi sáng tác lời nhắn nhủ hãy giữ lấy những giá trị tinh thần của truyền thống dân

tộc, hãy bảo tồn và phát huy nguồn tư liệu, thi liệu văn học dân gian.

Tiểu kết

Với lối văn luận đề, giàu chi tiết hiện thực đời thường khiến cho tác phẩm của

Trương Tửu để lại nhiều dấu ấn trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Về

phương diện nghệ thuật Trương Tửu có những nét riêng mà không thể phủ nhận

năng lực nhạy cảm trước cái mới của ông. Nhà văn thể hiện khả năng xây dựng

nhân tượng trưng qua phương thức trần thuật khá điêu luyện, bên cạnh đó ông có

những phát hiện về tâm lý nhân vật rất chân thực, điều này giúp cho tính cách

nhân vật trở nên rõ rệt hơn. Ngôn ngữ trong văn Trương Tửu rất tự nhiên không

cầu kì, trau truốt, đặc biệt việc vận dụng yếu tố truyền thống và hiện đại đã thể

hiện sức sáng tạo của người cầm bút. Tác giả vận dụng linh hoạt các phương

thức nghệ thuật để tạo nên một giọng văn phong phú, đa dạng.

Mười ba tác phẩm văn xuôi chứng minh Trương Tửu là một trong những cây

bút đa tài, góp tiếng nói vào dòng văn học hiện thực phê phán những năm đầu thế

kỷ XX. Cùng với các nhà văn tên tuổi như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Trương Tửu

có một phong cách độc đáo, không lẫn với bất kì nhà văn nào cùng thời. Ông để lại

dấu ấn là cây bút Hà Nội đa tài, thông minh và bản lĩnh. Một cuộc đời trải qua nhiều

thăng trầm nhưng ông luôn là nhà văn, là người thầy đầy tâm huyết và trách nhiệm.

152

Với phong cách của một người làm khoa học, ông say mê với mỗi công việc dù ở

bất cứ vị trí nào ông đều làm hết lòng, tận tâm. Thời gian, công chúng là thước đo

đúng đắn nhất về con người và những tác phẩm văn xuôi, nghiên cứu, lý luận và

phê bình mà ông từng cho xuất bản. Cách viết cá tính của ông không được hoàn

toàn hoan nghênh ngay từ những ngày đầu tiên. Tuy nhiên, những nhận định khiên

cưỡng, cực tả về ông rồi cũng qua đi, hôm nay trong xu thế xã hội mới Trương Tửu

đã được nhìn nhận, đánh giá lại một cách đúng đắn, khách quan và khoa học hơn.

153

1. Tấm gương soi chiếu, phản ánh trung thực xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX

KẾT LUẬN

là những trang văn xuôi của các nhà văn như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng,

Nam Cao, Ngô Tất Tố và nhất là gần đây, giới nghiên cứu đã và đang khẳng định sự

đóng góp đầy ý nghĩa của giáo sư, nhà văn Trương Tửu.

Thế hệ nhà văn chân chính trong những năm đầu thế kỷ XX đã tạo nên một

diện mạo mới trong nền văn học Việt Nam. Cũng như nhiều nhà văn hiện thực

đương thời, Trương Tửu sáng tác những trang văn nhằm tái hiện cuộc sống ở

nhiều góc độ khác nhau góp phần hoàn thiện bức tranh văn hóa, văn học Việt

Nam đầu thế kỷ XX.

2. Với trên một nghìn trang văn xuôi được viết trong thời gian năm năm từ

1937 đến 1942, Trương Tửu đã khẳng được vị trí trong nền văn xuôi hiện đại đầu

thế kỷ XX. Thời gian là thử thách đối với những tác phẩm nghệ thuật nói chung và

văn xuôi nói riêng. Mười ba tác phẩm của Trương Tửu là minh chứng khi đã vượt

qua thời gian dài để đến tay độc giả hôm nay. Xem xét trên hai phương diện nội

dung và nghệ thuật đều cho thấy nhà văn đã có những đóng góp không nhỏ cho

tiến trình phát triển của văn học Việt Nam. Về nội dung, các phẩm văn xuôi

Trương Tửu có hệ thống đề tài mang tính khái quát cao. Về phương diện nghệ

thuật, Trương Tửu thể hiện là một ngòi bút có cá tính. Ông chọn cho mình một lối

đi riêng để thực hiện những trọng trách của người nghệ sĩ với cuộc đời. Phong

cách văn xuôi của Trương Tửu luôn linh hoạt để tìm cho mình những dấu ấn riêng

trên bức tranh văn học đầy màu sắc ở đầu thế kỷ XX.

3. Những năm đầu thế kỷ XX ở nước ta nở rộ lên những trang tiểu thuyết của Tự

lực văn đoàn với lời văn lãng mạn mang tính chủ quan nhưng không bao lâu các nhà

văn như Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Kim Lân, Trương Tửu, Vũ Trọng

Phụng... xuất hiện. Họ là những nhà văn cùng chí hướng khi đặt vấn đề hướng ngòi bút

vào việc tả thực về một giai đoạn xã hội. Những trang viết chân thật nhưng thấm đượm

chất nhân văn đã tạo ra vườn hoa văn học giai đoạn 1930 – 1945 đầy hương sắc.

Trương Tửu cũng như các nhà văn cùng thời luôn trăn trở: Cần phải làm gì trước thực

154

trạng xã hội trong những năm đầu thế kỷ XX? Các nhà văn lựa chọn phương thức

lấy ngòi bút thay cho súng, gươm, giáo, mác. Ngòi bút của họ đã phản ánh mặt trái

của nhà nước cai trị đương thời, nhà nước thực dân phong kiến nhằm đồng hóa dân

ta bằng những chính sách thâm độc. Qua đó cho thấy, những tác phẩm của Trương

Tửu đã góp phần trong công cuộc “đấu tranh” của tầng lớp nhân dân nhằm tiến tới

một xã hội tốt đẹp, phồn vinh.

4. Trước trào lưu hiện đại hóa nền văn học đầu thế kỷ XX, Trương Tửu trên

cơ sở tiếp thu những thành tựu của nền văn học phương Tây cùng vốn văn hóa, văn

học truyền thống dân tộc, đặc biệt phải kể đến vốn kiến thức tự học ông đã góp

công sức vào việc cách tân thể loại văn học Việt Nam theo hướng hiện đại hóa.

Nhân vật trong sáng tác của Trương Tửu trên hai phương diện nội dung và nghệ

thuật đã cho thấy sự sáng tạo của nhà văn, đồng thời thấy được Trương Tửu có

những nét khác biệt so với Tự lực văn đoàn. Trương Tửu thể hiện tính khái quát cao

khi ông sớm tiếp cận và vận dụng phân tâm học Freud để tạo ra loại nhân vật có ẩn

ức về sinh lý. Đồng thời nhà văn đã vận ngôn ngữ một cách linh hoạt các phương

thức nghệ thuật từ kết cấu đến ngôn ngữ để sáng tác thêm sâu sắc.

Mặc dù sự tiến bộ của nền văn học nghệ thuật đã được minh định bằng chính

thể loại, nhưng việc cách tân văn xuôi của Trương Tửu còn gắn liền với bối cảnh

lịch sử văn học Việt Nam đang diễn ra nhanh chóng trong quá trình hiện đại hóa.

Với các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Bá Học, Đặng Trần Phất, Tự lực văn

đoàn... đều là minh chứng thể hiện tính hiện đại của văn học Việt Nam. Văn xuôi

Trương Tửu không nằm ngoài quỹ đạo ấy, nhưng nhà văn có sự khác biệt khi kết

hợp các giá trị chân, thiện, mỹ trong tổng thể hệ thống văn xuôi một cách tinh tế.

Qua đó thấy được Trương Tửu có khả năng nắm bắt bản chất của con người và xã

hội, không chỉ có vậy, ông còn là nhà văn có vốn văn hóa phong phú. Ông tiếp thu

nét mới của văn hóa phương Tây, đồng thời tạo ra những lát cắt đối lập với thuần

phong mỹ tục của người Việt để dân ta thêm hiểu rõ hơn về cái được và cái mất khi

luồng văn hóa, văn học mới đang du nhập nhanh chóng vào nước ta lúc đó. Tuy

nhiên, bên cạnh những đóng góp văn xuôi của Trương Tửu cũng bộc lộ một số hạn

chế nhất định như nhà văn chưa chỉ rõ căn nguyên sâu xa nỗi thống khổ của người

155

dân lao động, chưa lách sâu ngòi bút vào những mâu thuẫn giai cấp, trong sáng tác

đôi chỗ nhà văn không tránh khỏi những suy nghĩ chủ quan, nhân vật trong sáng

tác của ông chưa đạt đến độ điển hình như nhân vật của một số nhà văn cùng thời.

Có lẽ Trương Tửu là người quá thẳng thắn, luôn thể hiện sự yêu ghét rõ rệt về

những vấn đề của cuộc sống, của văn học nên dẫn đến tư duy chủ quan hạn chế

trong một số trang viết cũng là điều dễ hiểu.

5. Tóm lại, trong những thập niên ba mươi, bốn mươi của thế kỷ XX, Trương Tửu là

cây bút văn xuôi có đóng góp đối với diện mạo hiện đại của nền văn học Việt Nam.

Những giá trị trong việc sáng tạo và cách tân của ông từ những tác phẩm văn xuôi đã mở

ra cái nhìn mới đối với văn học đương thời. Tuy nhiên, con đường nghệ thuật của Trương

Tửu không đi đến cùng, sự dang dở giữa chừng có lẽ là một mất mát lớn cho nền văn học

nước nhà. Mục đích của sự nghiên cứu và khảo sát để có thêm cái nhìn chính xác hơn,

khách quan hơn về một hiện tượng văn học phức tạp đang cần được đánh giá và nhìn nhận

lại sau bao nhiêu sóng gió, búa rìu dư luận. Trương Tửu cần được nghiên cứu nhiều hơn để

không quên đi những đóng góp quý giá của nhà văn với nền văn học dân tộc đầu thế kỷ

XX. Nghiên cứu, đánh giá về văn xuôi của Trương Tửu, chúng tôi góp phần vào việc đánh

giá nhà văn trên tinh thần khách quan, công bằng về những đóng góp của ông đối với văn

xuôi Việt Nam hiện đại, đồng thời có định hướng phát triển đề tài được tổng hòa trong một

cây bút nhằm tìm ra mối liên hệ trên ba phương diện qua các cuốn sách Trương Tửu -

Tuyển tập nghiên cứu phê bình; Trương Tửu - Tuyển tập văn xuôi; Trương Tửu - Tuyển

tập nghiên cứu văn hóa; riêng đối với văn xuôi Trương Tửu việc nghiên cứu dựa trên khảo

sát các mô hình cấu trúc để tìm ra những đặc trưng riêng về mặt thể loại, đi sâu hơn nữa

vào việc xác định thể loại một cách chính xác cho văn xuôi Trương Tửu nhằm tìm ra mối

liên hệ giữa các kiểu mô hình cấu trúc của Trương Tửu với sáng tác của các nhà văn cùng

thời; vấn đề văn xuôi Trương Tửu trong góc nhìn văn hóa của người Việt.

156

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tham khảo tiếng Việt

1. Vũ Tuấn Anh - Bích Thu (Chủ biên), (2001), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt

Nam (Từ cuối thế kỷ XIX đến 1945), NXB Văn học, Hà Nội.

2. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại nhận thức và thẩm định, NXB

Khoa học Xã hội , Hà Nội.

3. Lại Nguyên Ân (Sưu tầm, biên soạn) (1997), Vũ Trọng Phụng tài năng và sự

thật, NXB Văn học, Hà Nội.

4. Lại Nguyên Ân (2008), Cần tiếp cận nghiên cứu một cách bài bản hơn đối với

Trương Tửu như một tác giả và như một nhân vật văn hoá - lịch sử, Hội thảo

về Trương Tửu, khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức.

5. Lại Nguyên Ân (2011), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

6. Lại Nguyên Ân (2013), Trương Tửu viết về tập thơ Điêu tàn của Chế Lan Viên,

Hội thảo “Những thí nghiệm của ngòi bút tôi” - Kỷ niệm 100 năm sinh nhà văn -

nhà nghiên cứu văn học Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa (1913 - 1999),

Hội Nhà văn Hà Nội tổ chức.

7. Thanh Bình (1945), “Phê bình tập sách Tương lai văn nghệ Việt Nam của

Trương Tửu”, Tạp chí Tiên phong (2), Hà Nội. tr. 7 – 9.

8. Thanh Bình (1945), “Phê bình tập sách Tương lai văn nghệ Việt Nam của

Trương Tửu”, Tạp chí Tiên phong (3), Hà Nội. tr. 9 – 10.

9. Thanh Bình (1946), “Phê bình tập sách Tương lai văn nghệ Việt Nam của

Trương Tửu”, Tạp chí Tiên phong (6), Hà Nội. tr. 19 – 20.

10. Nguyễn Thị Bình (2008), Con người và sự nghiệp Trương Tửu: Những câu

hỏi còn bỏ ngỏ, Hội thảo về Trương Tửu, khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư

phạm Hà Nội tổ chức.

11. Bakhtin M. (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch),

Trường viết văn Nguyễn Du xuất bản, Hà Nội.

157

12. Bakhtine M. (1993), Những vấn đề thi pháp Dostoievski (Trần Đình Sử, Lại

Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch), NXB Giáo dục, Hà Nội.

13. Henri Benac (2005), Dẫn giải ý tưởng văn chương (Nguyễn Thế Công dịch), NXB

Giáo dục, Hà Nội.

14. Patrick Brunel (2006), Văn học Pháp thế kỷ XX (Nguyễn Văn Quảng dịch), NXB

Thế giới, Hà Nội.

15. Lê Nguyên Cẩn (1999), Cái kì ảo trong tác phẩm của Banzắc, NXB Giáo dục, Hà Nội.

16. Nguyễn Huệ Chi, Trần Hữu Tá, Phùng Văn Tửu, Đỗ Đức Hiểu (Đồng chủ biên) (2004),

Từ điển văn học (Bộ mới), NXB Thế giới.

17. Nguyễn Đình Chú - Nguyễn Lộc (Chủ biên), (2000), Văn học 10, (tập I), (Tái

bản lần thứ nhất), NXB Giáo dục, Hà Nội.

18. Nguyễn Đình Chú (2008), Đôi điều về cuốn sách Tương lai văn nghệ Việt Nam

của nhà văn Trương Tửu, Hội thảo về Trương Tửu, Khoa Ngữ văn Trường

Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức.

19. Nguyễn Đình Chú (2013), Thầy Trương Tửu của chúng tôi: một trí thức sáng

danh của đất nước, Lễ kỷ niệm 100 năm sinh nhà văn Trương Tửu, Hội Nhà

văn Việt Nam tổ chức.

20. Vũ Khắc Chương (2000), Nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm Nam Cao, NXB

Văn học, Hà Nội.

21. Hồng Chương (1987), Tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam, NXB Sách giáo

khoa Mác - Lê Nin, Hà Nội.

22. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học - lý luận và ứng dụng, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

23. Nguyễn Văn Dân (2000), Lý luận văn học so sánh, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

24. Nguyễn Văn Dân (2006), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB Khoa học xã

hội, Hà Nội.

158

25. Phạm Đăng Dư, Lê Lưu Oanh (2006), Giáo trình Lý luận văn học, NXB Đại

học Sư phạm, Hà Nội.

26. Nguyễn Đức Đàn (1964), Đặc điểm văn học hiện thực phê phán Việt Nam, NXB

Văn học, Hà Nội.

27. Nguyễn Đức Đàn (1968), Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt Nam, NXB

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

28. Đặng Anh Đào (1994), Tài năng và thưởng thức, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

29. Đặng Anh Đào (1997), Banzăc và cuộc săn tìm nhân vật chính diện trong bộ

Tấn trò đời, NXB Giáo dục, Hà Nội.

30. Phan Cự Đệ (1958), “Thái độ và phương pháp giảng dạy của Trương Tửu”, Báo

Độc lập, số 354, Hà Nội. tr. 3 – 4.

31. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Hà

Văn Đức, (2000), Văn học Việt Nam 1900-1945, NXB Giáo dục, Hà Nội.

32. Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn (Sưu tầm biên soạn), (1999), "Phê bình văn

học", Tạp chí Tri Tân (1941-1945), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

33. Trịnh Bá Đĩnh (2004), “Các hình thái tư duy phê bình văn học đầu thế kỷ XX”,

(2), Tạp chí Hồn Việt.

34. Trịnh Bá Đĩnh (2007), Phê bình văn học - Trường hợp Trương Tửu, Lời giới thiệu

cuốn Trương Tửu - Tuyển tập nghiên cứu, phê bình, NXB Lao động, Hà Nội.

35. Hà Minh Đức (1997), Khảo luận văn chương, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

36. Hà Minh Đức (1999), Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Văn học, Hà Nội.

37. Hà Minh Đức (Chủ biên) (2001), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

38. Hà Minh Đức (chủ biên), (2001), Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, NXB

Khoa học xã hội, Hà Nội.

39. Hà Minh Đức (Biên soạn), (2002), Tuyển tập Nam Cao, (tập II), NXB Văn

học, Hà Nội.

159

40. Êmêlianốp L. I (1966), Nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và văn học dân

gian/ Những vấn đề phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB Khoa học,

Hà Nội.

41. Freud S. (1969), Nghiên cứu phân tâm học (Vũ Đình Lưu dịch), NXB An Tiêm,

Sài Gòn.

42. Freud S. (1970), Phân tâm học nhập môn (Nguyễn Xuân Hiếu dịch), Khai trí,

Sài Gòn.

43. Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu, Trung tâm học liệu (tái

bản), Sài Gòn.

44. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên) (2009), Từ điển

thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

45. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lý luận văn học - Vấn đề và suy

nghĩ, NXB Giáo dục, TP. HCM.

46. Lê Thị Đức Hạnh (2007), Bàn thêm về mấy vấn đề trong văn học hiện đại Việt

Nam, NXB Thế giới, Hà Nội.

47. Trần Văn Hiếu (2000), Ba phong cách trào phúng trong văn học Việt Nam thời

kỳ 1930 - 1945: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, NXB Văn học,

Hà Nội.

48. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

49. Phùng Minh Hiến (2002), Tác phẩm văn chương một sinh thể nghệ thuật, NXB

Hội Nhà văn, Hà Nội.

50. Trần Thị Hoa (2009), Đóng góp của Trương Tửu trong lĩnh vực nghiên cứu -

phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn,

Trường Đại học Vinh.

51. Nguyễn Thái Hoà (2000), Những vấn đề thi pháp truyện ngắn, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

52. Nguyễn Công Hoan (1971), Đời viết văn của tôi, NXB Văn học, Hà Nội.

160

53. Nguyễn Văn Hoàn (2013), Thử nhận định về quan điểm và phương pháp

nghiên cứu Truyện Kiều của Trương Tửu, Lễ kỷ niệm 100 năm sinh nhà văn

Trương Tửu, Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức.

54. Nguyễn Huy Hoàng (2001), Tìm hiểu thi pháp truyện ngắn N.V. Gogol,

NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

55. Phạm Mạnh Hùng (2001), Thi pháp hoàn cảnh trong tác phẩm của Ngô Tất Tố,

Vũ Trọng Phụng và Nam Cao, NXB Thanh Niên, Hà Nội.

56. Phan Mạnh Hùng (2013), “Trương Tửu và Kinh thi Việt Nam”, Tạp chí Kiến

thức ngày nay, (835), TP. Hồ Chí Minh. tr. 24 - 27 và 98 – 99.

57. Đoàn Thị Đặng Hương (2000), Văn chương và đời, NXB Thanh niên, Hà Nội.

58. Đỗ Văn Khang (2001), Nghệ thuật học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

59. Mộc Khuê (1942), Ba mươi năm văn học, NXB Tân Việt, Hà Nội.

60. Nguyễn Khuê (1998), Chân dung Hồ Biểu Chánh, NXB TP Hồ Chí Minh.

61. Nguyễn Hoành Khung (1990), Truyện ngắn Việt Nam 1930 - 1945, NXB Giáo

dục, Hà Nội.

62. Nguyễn Hoành Khung (1994), Nhìn lại và suy nghĩ xung quanh một vụ án văn học

In trong “Vũ trọng Phụng con người và tác phẩm”, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

63. Nguyễn Hoành Khung, Lại Nguyên Ân (Sưu tầm, biên soạn) (1994), Vũ Trọng

Phụng - con người và tác phẩm, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

64. Kharapchencô M.B (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của

văn học, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.

65. Khrapchencô M. B. (1984), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người, NXB

Khoa học xã hội, Hà Nội.

66. Kharapchencô M. B. (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp nghiên cứu

văn học, (Trần Đình Sử tuyển chọn và giới thiệu), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

67. Konrat N. (1997), Vấn đề chủ nghĩa hiện thực và các nền văn học phương

Đông, trong sách Phương Đông và phương Tây (Trịnh Bá Đĩnh dịch), NXB Giáo

dục, Hà Nội.

161

68. Kundera M. (1997), Nghệ thuật tiểu thuyết, (Nguyên Ngọc dịch), NXB Đà Nẵng.

69. Đinh Trọng Lạc (1999), Phong cách học Tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.

70. Thanh Lãng (1974), Phê bình văn học thế hệ 1932, (tập II), Phong trào Văn

hóa xuất bản, Sài Gòn.

71. Mã Giang Lân (2005), Những cuộc tranh luận văn học nửa đầu thế kỷ XX, NXB

Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

72. Đinh Xuân Lâm (Chủ biên), (2001), Đại cương lịch sử Việt Nam, (tập II),

NXB Giáo dục, Hà Nội.

73. Nguyễn Lộc (1999), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

74. Phong Lê (1997), Văn học trên hành trình của thế kỷ XX, NXB Đại học Quốc

gia Hà Nội.

75. Phong Lê (2001), Văn học Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

76. Phong Lê (2003), Nam Cao - người kết thúc vẻ vang trào lưu văn học hiện thực,

NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

77. Phong Lê (2008), Viết từ đầu thế kỷ mới, NXB Thanh niên, Hà Nội.

78. Phong Lê (2010), “Đọc Giáo sư Trương Tửu”, Phong Lê - Tuyển chọn, NXB

Khoa học xã hội, Hà Nội.

79. Phong Lê (2013), Sự nghiệp khoa học của giáo sư Trương Tửu, Lễ kỷ niệm 100

năm sinh nhà văn Trương Tửu, Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức.

80. Nguyễn Văn Long (2009), Phân tích tác phẩm văn học hiện đại Việt Nam từ

góc nhìn thể loại, NXB Giáo dục, Hà Nội.

81. Nguyễn Văn Luận (2002), Bàn về cuốn “Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du”

của Trương Tửu, Khóa luận tốt nghiệp khoa Văn học - Trường Đại học Khoa

học xã hội và nhân văn, Hà Nội.

82. Phương Lựu (1999), Mười trường phái lý luận phê bình văn học phương Tây

đương đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.

83. Phương Lựu (2011), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB Đại học Sư

phạm, Hà Nội.

162

84. Phượng Lựu (Chủ biên), (2012), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

85. Lưu Trọng Lư (1939), “Cái sức sáng tạo màu nhiệm ấy”, Tạp chí Tao đàn (số

Đặc biệt tháng 12).

86. Trần Hạnh Mai (2003), Sự nghiệp phê bình của Hoài Thanh, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

87. Nguyễn Đăng Mạnh (Chủ biên) (1996), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật

của nhà văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.

88. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội.

89. Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Hữu Tá (Sưu tầm, tuyển chọn), (2005), Tuyển tập

Vũ Trọng Phụng, (tập I, II), NXB Văn học, Hà Nội.

90. Phạm Thị Mỹ (2010), Đóng góp của Trương Tửu trong lĩnh vực sáng tác văn học,

Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh.

91. Lê Minh, Thu Nam (2008), Nguyễn Công Hoan: Nhà văn - Chiến sĩ, NXB Hội

Nhà văn, Hà Nội.

92. Hoài Nam (2008), “Bản lĩnh và cá tính Trương Tửu”, Báo Tiền phong cuối tuần,

(14), Hà Nội.

93. Vương Trí Nhàn (1986), Sổ tay người viết truyện ngắn, NXB Tác phẩm mới,

Hà Nội.

94. Vương Trí Nhàn (1986), Bước đầu đến với văn học, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.

95. Vương Trí Nhàn (1996), Khảo về tiểu thuyết (Sưu tầm biên soạn), NXB Hội Nhà

văn Hà Nội.

96. Vương Trí Nhàn (2000), Những lời bàn về tiểu thuyết trong văn học Việt Nam từ

đầu thế kỷ XX đến 1945, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

97. Mai Thị Nhung (2006), Phong cách nghệ thuật Tô Hoài, NXB Giáo dục, Hà Nội.

98. Tạ Thị Hồng Nhung (2008), Đọc lại công trình Mấy vấn đề văn học sử Việt

Nam của giáo sư Trương Tửu, Khóa luận tốt nghiệp khoa Văn học - Trường

Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.

163

99. Phan Ngọc (2008), Một vài điều ít được nhắc lại về nhà phê bình Trương Tửu, Hội

thảo về Trương Tửu, khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức.

100. Phan Ngọc (1993), Vấn đề văn hóa và cách tiếp cận, NXB Văn hóa, Hà Nội.

101. Lê Hoài Nguyên (2013), Trương Tửu trong những năm 1955 -1958, Hội thảo

“Những thí nghiệm của ngòi bút tôi” - Kỷ niệm 100 năm sinh nhà văn - nhà

nghiên cứu văn học Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa (1913 - 1999), Hội Nhà

văn Hà Nội tổ chức.

102. Phạm Xuân Nguyên (2013), Trương Tửu là bách khoa, Hội thảo “Những thí

nghiệm của ngòi bút tôi” - Kỷ niệm 100 năm sinh nhà văn - nhà nghiên cứu văn

học Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa (1913 - 1999), Hội Nhà văn Hà Nội tổ chức.

103. Pêtơrốp X. M. (1986), Chủ nghĩa hiện thực phê phán, (Nguyễn Đức Nam, Phan

Văn Trọng, Anh Đào dịch), NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

104. Pospelov G. N (1985), Dẫn luận ngôn ngữ văn học, (Trần Đình Sử, Lại Nguyên

Ân, Lê Ngọc Trà dịch), (tập I, II), NXB Giáo dục, Hà Nội.

105. Hoàng Ngọc Phách (1941), Thời thế với văn chương, Nhà in Cộng Lực, Hà Nội.

106. Hoàng Ngọc Phách (1925), Tố Tâm, NXB Chân Phương, Hà Nội.

107. Vũ Ngọc Phan (2005), Nhà văn hiện đại, (tập II), (tái bản), NXB Văn học, Hà Nội.

108. Hoàng Phê (Chủ biên) (2000), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.

109. Vũ Đức Phúc (1964), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945, NXB Văn

học, Hà Nội.

110. Vũ Đức Phúc (1971), Bàn về những cuộc đấu tranh tư tưởng trong lịch sử văn

học Việt Nam hiện đại 1930-1945, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

111. Vũ Đức Phúc (2003), Bàn về phương pháp nghiên cứu văn học, NXB

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

112. Vũ Trọng Phụng (1993), Lời giới thiệu Tắt đèn của Ngô Tất Tố, In lại trong

Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, NXB Văn học, Hà Nội.

113. Nguyễn Hằng Phương (2012), Hình tượng người khổng lồ trong văn học dân

gian các dân tộc thiểu số vùng Đông bắc và Tây bắc Việt Nam, NXB Đại học

Thái Nguyên, Thái Nguyên.

164

114. Kiều Thanh Quế (1938), Làm đĩ, Thanh niên S.O.S, Người đàn bà trần

truồng và quan niệm tình dục trong văn chương Việt Nam, Báo Mai, Sài

Gòn, số 108.

115. Kiều Thanh Quế (1968), Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam, Hoa Tiên, Sài Gòn.

116. Kiều Mai Sơn (2008), Giáo sư Trương Tửu: Người đào tạo số mệnh của chính

mình, Hội thảo về Trương Tửu, khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà

Nội tổ chức.

117. Kiều Mai Sơn (2013), Nhà xuất bản Hàn Thuyên - một hiện tượng độc đáo,

Hội thảo “Những thí nghiệm của ngòi bút tôi” - Kỷ niệm 100 năm sinh nhà

văn - nhà nghiên cứu văn học Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa (1913 -

1999), Hội Nhà văn Hà Nội tổ chức.

118. Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vương, Trần Nho

Thìn, Đoàn Thu Vân (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt

Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.

119. Nguyễn Hữu Sơn, Trịnh Bá Đĩnh (Biên soạn) (2007), Trương Tửu - Tuyển tập

nghiên cứu, phê bình, NXB Lao động, Hà Nội.

120. Nguyễn Hữu Sơn (Sưu tầm và biên soạn) (2009), Trương Tửu - Tuyển tập văn

xuôi, NXB Lao động, Hà Nội.

121. Nguyễn Hữu Sơn (2012), Luận bình văn chương, NXB Văn học, Hà Nội.

122. Nguyễn Hữu Sơn (2013), “Nhà văn trương Tửu và những trang khảo cứu văn

hóa trước 1945”, Tạp chí Kiến thức ngày nay, (837), TP. Hồ Chí Minh. tr. 18 –

21.

123. Nguyễn Hữu Sơn (2013), Nhà văn Trương Tửu với nền văn nghệ cách mạng,

Hội thảo “Những thí nghiệm của ngòi bút tôi” - Kỷ niệm 100 năm sinh nhà

văn - nhà nghiên cứu văn học Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa (1913 -

1999), Hội Nhà văn Hà Nội tổ chức.

124. Nguyễn Hữu Sơn (Sưu tầm và biên soạn) (2013), Trương Tửu - Tuyển tập

nghiên cứu văn hóa, NXB Văn học, Hà Nội.

165

125. Mộng Bình Sơn, Đào Đức Chương (1996), Nhà văn phê bình - Khảo cứu văn

học Việt Nam 1932 - 1945, NXB Văn học, Hà Nội.

126. Lê Văn Siêu (1974), “Về nhóm Hàn Thuyên và Nguyễn Đức Quỳnh” Bách

khoa, (411), Sài Gòn. Tr. 71 – 73.

127. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

128. Trần Đình Sử (2004), Văn học và thời gian, NXB Giáo dục, Hà Nội.

129. Trần Đình Sử (2005), Tuyển tập, (tập I), NXB Giáo dục, Hà Nội.

130. Trần Đình Sử (Chủ biên) (2005), Giáo trình lý luận văn học – Tác phẩm và

thể loại văn học, (tập II), NXB Đại học sư phạm, Hà Nội.

131. Trần Đình Sử (2013), Nghĩ về phương pháp phê bình văn học của nhà văn

Trương Tửu, Hội thảo “Những thí nghiệm của ngòi bút tôi” - Kỷ niệm 100

năm sinh nhà văn - nhà nghiên cứu văn học Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa

(1913 - 1999), Hội Nhà văn Hà Nội tổ chức.

132. Trần Đăng Suyền (2003), Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo,

NXB Văn học, Hà Nội.

133. Trần Đăng Suyền, Nguyễn Văn Long (Chủ biên) (2007), Giáo trình văn học

Việt Nam hiện đại, (Tập1), NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.

134. Trần Hữu Tá, (1992), Vũ Trọng Phụng – Hôm qua và hôm nay, NXB TP Hồ Chí Minh.

135. Văn Tâm, (2004), Trương Tửu, trong sách Từ điển văn học (bộ mới), NXB

Thế giới, Hà Nội.

136. Trần Mạnh Tiến (2013), Lý luận phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

137. Bùi Đức Tịnh (2002), Những bước đầu của báo chí, truyện ngắn, tiểu thuyết

và thơ mới (1865 - 1932), NXB Thành phố Hồ Chí Minh.

138. Trương Tửu (1937), Thanh niên S.O.S, NXB Minh Phương, Hà Nội.

139. Trương Tửu (1938), Một chiến sĩ, NXB Minh Phương, Hà Nội.

140. Trương Tửu (1939), Khi chiếc yếm rơi xuống, NXB Minh Phương, Hà Nội.

141. Trương Tửu (1940), Trái tim nổi loạn, NXB Văn Thanh, Hà Nội.

166

142. Trương Tửu (1940), Một cổ đôi ba tròng, NXB Tân Việt, Hà Nội.

143. Trương Tửu (1940), Tôi nguyền rủa mãi người cha ấy, in trong tập Một cổ đôi

ba tròng, NXB Tân Việt, Hà Nội.

144. Trương Tửu (1940), Khi người ta đói, in trên Phổ thông bán nguyệt san, (59),

Hà Nội.

145. Trương Tửu (1940), Đục nước béo cò, NXB Minh Phương, Hà Nội.

146. Trương Tửu (1940), Thằng Hóm, in trên Tin Mới Văn Chương, Hà Nội.

147. Trương Tửu (1941), Một kiếp đoạ đày, NXB Hàn Thuyên, Hà Nội.

148. Trương Tửu (1941), Cái tôi của ai, in trong tập Một kiếp đọa đày, NXB Hàn

Thuyên, Hà Nội.

149. Trương Tửu (1942), Tráng sĩ Bồ Đề, NXB Hàn Thuyên, Hà Nội.

150. Trương Tửu (1942), Năm chàng hiệp sĩ, NXB Hàn Thuyên, Hà Nội.

151. Trương Tửu (1958), Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam, NXB Xây dựng, Hà Nội.

152. Phùng Văn Tửu (1990), Tiểu thuyết Pháp hiện đại, những tìm tòi đổi mới, NXB

Khoa học Xã hội và NXB Mũi Cà Mau.

153. Hoàng Tiến Tựu (1998), Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

154. Trần Đăng Thao (2008), Đặc sắc văn chương Vũ Trọng Phụng, NXB Thanh Niên,

Hà Nội.

155. Hoài Thanh (1943), “Một vài ý kiến về quyển “Nguyễn Du và Truyện Kiều” của

ông Nguyễn Bách Khoa”, Vì Chúa nguyệt san, số 238.

156. Hoài Thanh (1958), “Thực chất tư tưởng Trương Tửu”, Báo Văn nghệ, (11),

Hà Nội.

157. Hoài Thanh, Hoài Chân (1999), Thi nhân Việt Nam, (Tái bản), NXB Văn học,

Hà Nội.

158. Nguyễn Thành (2013), Đặc điểm phê bình của Trương Tửu, Hội thảo

“Những thí nghiệm của ngòi bút Kỷ niệm 100 năm sinh nhà văn - nhà

nghiên cứu văn học Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa (1913 - 1999), Hội

Nhà văn Hà Nội tổ chức.

167

159. Hà Nhật Thăng (Tổng Chủ biên kiêm Chủ biên) (2011), Giáo dục công dân

lớp 8, (Tái bản lần thứ bảy), NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

160. Lưu Khánh Thơ (Tuyển chọn và giới thiệu)(1999), Xuân Diệu tác phẩm văn

chương và lao động nghệ thuật, NXB Giáo dục, Hà Nội.

161. Nguyễn Đình Thi (1964), Công việc của người viết tiểu thuyết, NXB Văn học,

Hà Nội.

162. Nguyễn Ngọc Thiện (Tuyển chọn và giới thiệu)(2000), Vũ Trọng Phụng - về

tác giả và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội.

163. Nguyễn Ngọc Thiện (Chủ biên) (2000), Nhìn lại cuộc tranh luận nghệ thuật

1935 - 1939, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

164. Phan Ngọc Thu (2003), Xuân Diệu nhà nghiên cứu phê bình văn học, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

165. Đỗ Lai Thuý (Chủ biên) (2001), Nghệ thuật như là thủ pháp, NXB Hội Nhà văn,

Hà Nội.

166. Nguyễn Huy Thông (2006), Bản lĩnh nhà phê bình và thực tiễn sáng tác,

NXB Thanh niên, Hà Nội.

167. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận văn học, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh.

168. Võ Quang Trọng (1997), Vai trò của văn học dân gian trong văn xuôi hiện đại

Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

169. Trần Thị Việt Trung (1992), Về các nhân vật dị dạng trong sáng tác của Nam Cao

in trong tập: Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Giáo dục, Hà Nội.

170. Nguyễn Văn Trung (1968), Lược khảo văn học, NXB Nam Sơn, Sài Gòn.

171. Võ Văn Trực (1996), Những thi sĩ dân gian, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

172. Lê Thị Vân (2005), Nhân vật trong tiểu thuyết hiện thực từ đầu thế kỷ XX đến

năm 1945, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

173. Trần Ngọc Vương (1999), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung, NXB

Đại học Quốc gia Hà Nội.

174. Nguyễn Vỹ (1994), Văn thi sĩ tiền chiến, (tái bản), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

168

175. Lê Trí Viễn (1987), Đặc điểm lịch sử văn học Việt Nam, NXB Đại học và

trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

176. Lê Trí Viễn (1999), Quy luật phát triển lịch sử văn học Việt Nam, NXB Giáo

dục, Hà Nội.

177. Nguyễn Thế Vinh (1998), Nam Cao những mạch nguồn, NXB Văn hóa -

thông tin, Hà Nội.

II. Tài liệu tham khảo tiếng Anh

178. Cuddon J. A. (1992), Dictionary of literary terms and literary theory,

Penguin Books, England.

179. Hawthorn J. (1997), Studying the novel - an introduction, Arnold, a member of

the Hodder Headline Group, New York.

180. Lockhart G. (1996), “First person narratives from the 1930 s”, The light of the

Capital: Three modern Vietnamese classies, Oxford University Press.

169

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Nguyễn Thị Thanh Vân (2014), "Cảm hứng sáng tác của nhà văn Trương Tửu", Tạp

chí Văn hóa nghệ thuật, số 359, tr. 86 - 91.

2. Nguyễn Thị Thanh Vân (2013), "Tiểu thuyết viết về lịch sử của Trương Tửu", Tạp

chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số 218, tr. 17- 22.

3. Nguyễn Thị Thanh Vân (2013), "Hệ thống vật trong văn xuôi Trương Tửu", Tạp chí

Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số 224, tr. 23 - 27.

4. Nguyễn Thị Thanh Vân (2013), "Đề tài tình yêu trong văn xuôi Trương Tửu", Tạp

chí Nhà văn, số 3, tr. 112 - 116.

5. Nguyễn Thị Thanh Vân (2013), Tiếp cận “Giá trị cơ bản chi phối đời sống

nhân vật trong văn xuôi Trương Tửu” (Văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn

1930 - 1945), Tạp chí Giáo dục và Xã hội, số 30, tr. 21 - 23.

6. Nguyễn Thị Thanh Vân (2013), Một vài suy nghĩ về “Tệ nạn xã hội trong văn

xuôi Trương Tửu những năm trước 1945” (Văn học hiện thực Việt Nam giai

đoạn 1930 - 1945), Tạp chí Giáo dục và Xã hội, số 32, tr. 24 - 26.

7. Nguyễn Thị Thanh Vân (2011), "Đời và văn Trương Tửu", Báo Người Hà Nội,

số 12, ngày 18/3/2011, tr. 15.

8. Nguyễn Thị Thanh Vân (2010), "Nhà văn Trương Tửu trong tiến trình văn học

Việt Nam đầu thế kỷ XX", Báo Yên Bái, ngày 27/9/2010, tr. 6-7.

.9. Nguyễn Thị Thanh Vân (2013), Trương Tửu với những cống hiến không thể phủ

nhận trong lĩnh vực văn xuôi hiện đại đầu thế kỷ XX, Lễ Kỷ niệm 100 năm sinh

nhà văn Trương Tửu, Hội Nhà văn Việt Nam.

10. Nguyễn Thị Thanh Vân (2013), Quan điểm và cảm hứng sáng tác văn xuôi của

nhà văn Trương Tửu, Hội thảo “Những thí nghiệm của ngòi bút tôi” - Kỷ niệm

100 năm sinh nhà văn - Nhà nghiên cứu văn học Trương Tửu - Nguyễn Bách

Khoa (1913 - 1999), Hội nhà văn Hà Nội.