intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều từ câu 499 đến câu 524 trong “truyện Kiều” (Nguyễn Du) - từ góc nhìn văn hóa

Chia sẻ: ViKakashi2711 ViKakashi2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

84
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết tập trung đi vào tìm hiểu vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều từ góc nhìn văn hóa (cụ thể là văn hóa ứng xử giữa Thúy Kiều và Kim Trọng) trong đoạn thơ từ câu 499 đến câu 524 của “Truyện Kiều” – Nguyễn Du.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều từ câu 499 đến câu 524 trong “truyện Kiều” (Nguyễn Du) - từ góc nhìn văn hóa

v VĂN HÓA - VĂN HỌC<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> VẺ ĐẸP CỦA NHÂN VẬT THÚY KIỀU TỪ<br /> CÂU 499 ĐẾN CÂU 524 TRONG “TRUYỆN KIỀU”<br /> (NGUYỄN DU) - TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA<br /> ThS. TRẦN THỊ THU HIỀN1<br /> 1<br /> Học viện Khoa học Quân sự ✉ qkieutuan@gmail.com<br /> Ngày nhận: 29/12/2016; Ngày hoàn thiện: 20/01/2017; Ngày duyệt đăng: 26/01/2017<br /> Phản biện khoa học: PGS.TS. CẦM TÚ TÀI<br /> <br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Miêu tả chân dung nhân vật là một trong những bút pháp nghệ thuật chủ yếu của thể loại truyện<br /> Nôm. “Truyện Kiều” là một truyện Nôm tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam. Trong “Truyện<br /> Kiều” có nhiều chân dung nhân vật, được chia thành nhân vật chính diện, nhân vật phản diện và<br /> thậm chí cả nhân vật trung gian (Hoạn Thư). Có thể nói, “Truyện Kiều” đi theo khuynh hướng nghệ<br /> thuật chính thống nên ở đây xuất hiện bút pháp phác họa và ngôn ngữ ít nhiều có tính chất ước<br /> lệ, công thức, có sử dụng điển tích, điển cố,… khi miêu tả chân dung nhân vật. Nhưng ở một số<br /> phương diện, Nguyễn Du đã vượt lên trên khuôn mẫu cổ điển để tạo nên những chân dung nhân<br /> vật sinh động, đa dạng. Trong đó, nhân vật Thúy Kiều là một minh chứng tiêu biểu. Khi khắc họa<br /> chân dung Thúy Kiều, “Truyện Kiều” của Nguyễn Du đã thể hiện khuynh hướng tâm lí hóa ngoại<br /> hình và hơn thế nữa là khuynh hướng thân phận hóa phẩm cách nhân vật. Trong khuôn khổ bài<br /> viết này, chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều từ góc nhìn văn hóa (cụ thể là<br /> văn hóa ứng xử giữa Thúy Kiều và Kim Trọng) trong đoạn thơ từ câu 499 đến câu 524 của “Truyện<br /> Kiều” – Nguyễn Du.<br /> Từ khóa: góc nhìn, nhân vật, Truyện Kiều, văn hóa, vẻ đẹp.<br /> <br /> <br /> 1. MỞ ĐẦU nét độc đáo của văn hóa dân tộc Việt Nam trong đó.<br /> Có như vậy, tác phẩm văn học nói chung và nhân vật<br /> Việc nghiên cứu tính văn hóa trong tác phẩm văn xuất hiện trong tác phẩm ấy nói riêng mới hiện lên<br /> học là rất cần thiết. Bởi, tính văn hóa của tác phẩm với vẻ đẹp toàn diện của nó.<br /> văn học là một thuộc tính không thể tách rời của tác<br /> phẩm văn chương, là một yếu tố quan trọng làm nên 2. NỘI DUNG<br /> giá trị trường tồn của tác phẩm. Tính văn hóa của tác<br /> phẩm văn học thể hiện trước hết qua cách nhìn nghệ 2.1. Quan niệm về tính văn hóa trong tác phẩm văn học<br /> thuật về con người và cuộc đời, qua quan niệm ứng<br /> xử thẩm mĩ mang đặc trưng và phù hợp với chuẩn Thuật ngữ “văn hóa” (culture) được hiểu theo nhiều<br /> mực đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam. nghĩa. Theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả, từ<br /> Ngoài ra, nó còn được thể hiện ở cách thức xây dựng những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng,<br /> nhân vật, cốt truyện, cách sử dụng ngôn từ, thi pháp, phong tục, lối sống, lao động,… Và ngay cả với cách<br /> cấu trúc,… Do đó, việc giảng dạy tác phẩm văn học hiểu rộng này, trên thế giới cũng có hàng trăm định<br /> nói chung và “Truyện Kiều” của Nguyễn Du nói riêng nghĩa khác nhau về văn hóa. Có thể đưa ra một cách<br /> không chỉ dừng lại ở cách cảm thụ cái hay, cái đẹp của hiểu chung nhất về văn hóa như sau: Văn hóa là một<br /> hình tượng nghệ thuật nhân vật mà còn hiểu được hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 58 Số 05 - 01/2017<br /> VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br /> <br /> <br /> <br /> con người sáng tạo ra và tích lũy qua quá trình hoạt của ước mơ, lí tưởng; thế giới mà con người cần phải<br /> động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với vươn tới” (Lê Nguyên Cẩn, 2015, tr. 23).<br /> môi trường tự nhiên và xã hội.<br /> Chắc chắn trong thời kì đầu dựng nước và giữ nước,<br /> Còn tính văn hóa của tác phẩm văn học lại có tính chất dân tộc Việt Nam cũng có một nền văn hóa riêng,<br /> đặc thù, nó cho thấy tác phẩm văn học không chỉ toát nhưng trong quá trình phát triển lịch sử của mình,<br /> lên vẻ đẹp ngôn từ mà còn hiện lên qua vẻ đẹp tâm việc tiếp thu ảnh hưởng của các nền văn hóa khác là<br /> hồn của nhân vật, qua cách ứng xử và tiếp nhận, xử lí điều không thể tránh khỏi. Đó là văn hóa Phật giáo<br /> những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống của một dân (Ấn Độ), tư tưởng Nho giáo, các yếu tố của tư tưởng<br /> tộc hay một cộng đồng người nhất định. Nó không Lão Trang cũng đi vào Việt Nam. Người Việt Nam đã<br /> chỉ là quan niệm của tác giả về con người mà còn hòa trộn cả ba thành tố Nho – Phật – Lão tạo thành<br /> bao gồm cả chuẩn mực ứng xử của một cộng đồng, một hệ thống phục vụ cho đời sống tư tưởng và tâm<br /> một dân tộc trong một giai đoạn lịch sử nhất định. linh của người Việt. Ở “Truyện Kiều”, ta nhận thấy có<br /> sự hòa trộn đó: Bên cạnh các Nho gia như Vương Ông,<br /> Tiếp cận tác phẩm văn học từ góc độ giá trị văn hóa Vương Quan và sau này là Kim Trọng còn có các đại<br /> này sẽ góp phần làm rõ thêm đóng góp của mỗi tác diện của Phật giáo như sư Vãi Giác Duyên, Tam Hợp<br /> phẩm văn chương vào tổng thể giá trị tinh thần của Đạo Cô, v.v...<br /> một dân tộc. Hơn nữa, bản thân tác phẩm văn học là<br /> sản phẩm tinh thần của một thời đại lịch sử cụ thể, Ngoài ra, độc giả còn có thể nhận thấy, trong “Truyện<br /> thể hiện cách cảm thụ thế giới để từ đó đưa đến các Kiều” còn tồn tại quan niệm về mô hình ba thế giới:<br /> chuẩn mực sống của một cộng đồng, một dân tộc. Trời – thể hiện thế giới của cái thiện, được quan niệm<br /> Xét ở góc độ này, tác phẩm văn học đã trở thành thế là “vị trọng tài” đánh giá và kết án cái ác trong xã<br /> giới khác (so với thế giới chúng ta đang sống) – thế hội như dân gian vẫn thường nói (Trời có mắt), như<br /> giới của lí tưởng, thế giới của CHÂN – THIỆN – MĨ, từ là thế giới của cái đẹp, ước mơ, là cõi vĩnh hằng (Về<br /> đó tạo ra niềm tin hướng thiện cho con người. Tác trời, Chầu trời); Con người – thế giới của hành vi đạo<br /> phẩm văn học mang tính văn hóa cao sẽ trở thành tài lí thông thường, của các quan hệ cụ thể trong xã hội;<br /> sản chung của cả dân tộc. Ma quỷ – thế giới của cái xấu, cái ác, của cái chưa hoàn<br /> thiện. Con người thường bị lôi cuốn vào thế giới thứ<br /> Như vậy, có thể coi Nguyễn Du là một trong những ba này nên Nguyễn Du đã khái quát thành một dạng<br /> đại diện văn hóa đầu tiên của Việt Nam được giới thành ngữ đặc sắc: “Ma đưa lối, quỷ dẫn đường/Chỉ<br /> thiệu với thế giới. Và cũng qua tác phẩm của ông, thế tìm những chốn đoạn trường mà đi” vừa mang tính<br /> giới biết đến và hiểu rõ hơn bộ mặt tinh thần của dân răn đe, vừa mang tính thuyết phục giúp con người tìm<br /> tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử thời trung về cõi thiện. Mô hình ba thế giới này có điểm khác so<br /> đại. Trong đó, tác phẩm “Truyện Kiều” của ông đã làm với mô hình văn hóa về thế giới của Trung Hoa (Thiên<br /> rạng danh dân tộc, điểm tô cho diện mạo văn hóa của – Địa – Nhân), tức là con người bị ràng buộc, bị quy<br /> đất nước Việt Nam. định bởi yếu tố Thiên và Địa. Còn các nhân vật trong<br /> “Truyện Kiều” đều được đặt trong mối quan hệ giữa<br /> 2.2. Tính văn hóa thể hiện trong tác phẩm “Truyện hiện thực và tâm linh (Trời). Mọi hành động của các<br /> Kiều” của Nguyễn Du nhân vật đều xuất phát từ mối quan hệ giữa hai thế<br /> giới, hoặc nghiêng về hiện thực, hoặc nghiêng về tâm<br /> Khi đến với tác phẩm “Truyện Kiều”, độc giả dễ dàng linh và từ đó, bản chất nhân vật có dịp được bộc lộ rõ<br /> nhận thấy có hai biểu hiện của tính văn hóa được thể hơn bao giờ hết. Nhân vật Thúy Kiều là ví dụ tiêu biểu<br /> hiện rõ nét đó là văn hóa tâm linh và văn hóa ứng cho điều đó. Trước khi khoác áo tu hành hai lần do<br /> xử. Nếu lấy nhân vật Thúy Kiều làm trung tâm thì tùy hoàn cảnh, Kiều luôn mang trong mình niềm tin tuyệt<br /> theo từng chặng đường khác nhau trong cuộc đời cô đối vào cái thiện, tuân thủ nghiêm ngặt những quy<br /> Kiều mà khi thì nét văn hóa tâm linh chiếm ưu thế, khi định ràng buộc của lễ nghi Nho giáo. Điều này là cơ sở<br /> thì nét văn hóa ứng xử bao trùm. cho Kiều ứng xử ở chốn “mây trôi bèo nổi”, ở đó Kiều<br /> luôn nghĩ đến người khác (kể cả người đó là Tú Bà)…<br /> Trước hết, hãy nói về nét văn hóa tâm linh. Nói như<br /> nhà nghiên cứu Lê Nguyên Cẩn thì: “Văn hóa tâm linh Khẳng định như vậy để thấy rằng, mặc dù Nguyễn Du<br /> là tổng thể phức hợp các niềm tin tín ngưỡng, niềm vay mượn đề tài, cốt truyện, nhân vật từ một tác phẩm<br /> tin tôn giáo; là sự xác nhận niềm tin của con người của nền văn học Trung Quốc nhưng bằng tài năng,<br /> vào một thế giới thứ hai tốt đẹp hơn, như là thế giới tâm huyết, vốn văn hóa và vốn sống phong phú, ông<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 05 - 01/2017 59<br /> v VĂN HÓA - VĂN HỌC<br /> <br /> <br /> đã làm hiện lên bức tranh đời sống tinh thần dân tộc, Dẽ cho thưa hết một lời đã nao!<br /> xác định lại bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam một thời. Vẻ chi một đóa yêu đào,<br /> Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh.<br /> Thứ hai, là văn hóa ứng xử trong “Truyện Kiều”. Ở đây Đã cho vào bậc bố kinh,<br /> là văn hóa ứng xử giữa con người với con người, tức là Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.<br /> giữa các mối quan hệ xã hội. Nguyễn Du đã kết thúc Ra tuồng trên bộc trong dâu,<br /> “Truyện Kiều” bằng một cặp lục bát: “Thiện căn ở tại Thì con người ấy ai cầu làm chi!<br /> lòng ta/Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Đây phải Phải điều ăn xổi ở thì,<br /> chăng là đáp số cho bài toán về “Chữ tài chữ mệnh Tiết trăm năm nỡ bỏ đi một ngày!<br /> khéo là ghét nhau” mà ông đã đặt ra ở đầu tác phẩm. Ngẫm duyên kì ngộ xưa nay,<br /> Lấy gốc Thiện (Thiện căn) trong mỗi con người, Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi – Trương.<br /> Nguyễn Du đã xác lập bản chất con người theo quan Mây mưa đánh đổ đá vàng,<br /> niệm “Nhân chi sơ, tính bản thiện” để xây dựng tâm Quá chiều nên đã chán chường yến anh.<br /> đức, để củng cố và hoàn thiện cái Tâm, nói rộng ra là Trong khi chắp cánh liền cành,<br /> hoàn thiện thế giới nội tâm con người để tạo ra cách Mà lòng rẻ rúng đã đành một bên.<br /> ứng xử có văn hóa nhằm hướng tới một cuộc sống Mái tây để lạnh hương nguyền,<br /> tốt đẹp hơn. Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng.<br /> Gieo thoi trước chẳng giữ giàng,<br /> Văn hóa ứng xử ấy trước hết thể hiện ở truyền thống Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?<br /> tôn thờ cha mẹ, ý thức sâu sắc về nghĩa vụ làm con. Vội chi liễu ép hoa nài,<br /> Điều đó đã trở thành đặc điểm quan trọng trong tâm Còn thân ắt lại đền bồi có khi!”<br /> thức người dân Việt Nam, dù cho ở khía cạnh này Thấy lời đoan chính dễ nghe,<br /> hay khía cạnh khác nó có chịu ảnh hưởng văn hóa Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân.<br /> từ bên ngoài (mà cụ thể là Nho giáo của Trung Hoa).<br /> Nhưng trong quá trình tiếp thu, người Việt đã thay (Theo bản của Nguyễn Thạch Giang, Truyện<br /> đổi nó cho phù hợp với đời sống văn hóa của mình. Kiều, NXB Hà Nội, 1999, tr. 57 - 60)<br /> Đó là: “làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Chính<br /> sự suy nghĩ này đã dẫn đến hành động quan trọng Thúy Kiều là con gái đầu của gia đình Vương Viên<br /> trong cuộc đời của Kiều là bán mình chuộc cha. Ở ngoại. Vào ngày tết Thanh minh, cả ba chị em Thúy<br /> đây, không phải là cha mẹ bán con mà là con cái tự Kiều (Thúy Kiều, Thúy Vân, Vương Quan) đi chơi xuân.<br /> nguyện bán mình chuộc cha. Đây được xem là sự hi Trên đường trở về, Thúy Kiều gặp mộ Đạm Tiên –<br /> sinh rất lớn đồng thời cũng là sự đảm nhiệm của Kiều một người con gái đẹp nhưng có số phận hẩm hiu,<br /> với tư cách là người chị cả trong gia đình. Để cứu cha, Thúy Kiều đã rỏ nước mắt khóc thương cho người<br /> cứu em, cứu gia đình trong cơn hoạn nạn, Kiều đã có nằm dưới mộ. Điều đó chứng tỏ, Thúy Kiều là một cô<br /> một ứng xử thẩm mĩ đầy ấn tượng góp vào đạo lí dân gái đa sầu, đa cảm. Sau đó, họ tình cờ gặp Kim Trọng<br /> tộc Việt Nam và cách ứng xử này cũng chẳng thua – bạn học của Vương Quan: “Hài văn lần bước dặm<br /> kém gì các đấng mày râu. Thứ hai, là quan hệ ứng xử xanh/ Một vùng như thể cây quỳnh cành giao”. Nhác<br /> theo kiểu “tình làng nghĩa xóm”, “tối lửa tắt đèn có thấy Thúy Kiều, Kim Trọng đã cảm mến: “Người quốc<br /> nhau”. Người ta đối xử với nhau bằng tình thương và sắc, kẻ thiên tài/ Tình trong như đã, mặt ngoài còn e”.<br /> trách nhiệm, trong đó yếu tố trách nhiệm là cơ bản. Sau buổi gặp gỡ đó, Kiều vừa thương thầm nhớ trộm<br /> Từ đó dẫn đến sức mạnh cố kết bền vững trong cộng chàng Kim, vừa mang trong mình một dự cảm không<br /> đồng làng xã của người Việt Nam. Thứ ba, là ở cách lành: “Người đâu gặp gỡ làm chi/ Trăm năm biết có<br /> đối xử giữa từng con người với nhau – xoay quanh duyên gì hay không?”. Vì lưu luyến, nhớ thương người<br /> cuộc đời nhân vật chính (đó có thể là mối quan hệ trong mộng nên Kim Trọng đã tìm nhà trọ học gần<br /> giữa Thúy Kiều và Thúy Vân, Thúy Kiều với Kim Trọng, nhà Vương Viên ngoại. Cùng với thời gian, tình cảm<br /> Thúy Kiều với Tú Bà, Thúy Kiều với Thúc Sinh, Thúy ấy tiến triển đến mức hai người cùng thề nguyền, ước<br /> Kiều với Hoạn Thư, Thúy Kiều với Từ Hải,…). hẹn với nhau:<br /> <br /> 2.3. Vẻ đẹp trong văn hóa ứng xử giữa Thúy Kiều và Vầng trăng vằng vặc giữa trời,<br /> Kim Trọng trong đoạn trích (từ câu 499 đến câu 524) Đinh ninh hai miệng một lời song song.<br /> <br /> Sóng tình dường đã xiêu xiêu, Đoạn thơ trích dẫn nói về cách ứng xử của Thúy Kiều<br /> Xem trong âu yếm có chiều lả lơi. đối với Kim Trọng trong đêm tình tự. Đọc kĩ đoạn thơ,<br /> Thưa rằng: “Đừng lấy làm chơi, độc giả sẽ thấy thêm một khía cạnh nữa ở cô Kiều rất<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 60 Số 05 - 01/2017<br /> VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br /> <br /> <br /> <br /> đáng nể trọng. Đó là, cho dù rất yêu quý Kim Trọng, người tuấn tú, hòa nhã đến chơi chùa Phổ Cứu, gặp<br /> nhưng Kiều luôn luôn ý thức được “đạo tòng phu” lúc Thôi phu nhân và con gái là Thôi Oanh Oanh cùng<br /> của người phụ nữ xưa. Điều này, có thể xuất phát đến xin trọ ít ngày để đi Trường An. Đôi trai tài, gái<br /> từ việc cả hai đều là con nhà gia giáo nên tình cảm sắc đã gặp nhau và đi lại ân ái với nhau ở mái tây chùa<br /> Kim-Kiều vừa sâu sắc, vừa mặn mà song không hề lả Phổ Cứu. Ít lâu sau, Trương Sinh đi Trường An dự thi,<br /> lơi, ong bướm. Hoặc cũng có thể vì cách ứng xử khéo rồi ở lại kinh và quyết tuyệt tình với Thôi Oanh Oanh,<br /> léo của Thúy Kiều đối với Kim Trọng mà cả hai vẫn lấy cớ là tài đức mình kém; trong khi Oanh Oanh vẫn<br /> giữ được sự tôn trọng, dù sau này họ có gặp lại nhau mong nhớ chàng, ý tình rất thắm thiết. Sở dĩ, mối tình<br /> trong những cảnh huống rất khác biệt. đẹp như mơ, được người đời ngưỡng mộ ấy ấy bị tan<br /> vỡ cũng chỉ bởi vì:<br /> Trong đêm khuya tình tự, sau khi Kiều chơi đàn cho<br /> Kim Trọng nghe, chàng Kim đã ngắm nhìn nàng say Mây mưa đánh đổ đá vàng,<br /> đắm. Chuyện gì đến ắt cũng là điều dễ hiểu. Song, Quá chiều nên đã chán chường yến anh.<br /> khi Kiều cảm nhận được sự quá giới hạn của người Trong khi chắp cánh liền cành,<br /> yêu: “Sóng tình dường đã xiêu xiêu/Xem trong âu Mà lòng rẻ rúng đã đành một bên.<br /> yếm có chiều lả lơi”, nàng đã hết sức nhẹ nhàng, tế<br /> nhị trong lời lẽ giãi bày tâm sự. Nàng cho rằng, đó là để rồi đến nỗi:<br /> “trò chơi” không lấy gì làm quan trọng, chẳng đáng<br /> quan tâm, vả lại chúng mình còn bao điều muốn nói Mái tây để lạnh hương nguyền,<br /> mà chưa nói được. Hơn nữa, hai người dẫu sao cũng Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng.<br /> đã hẹn ước trăm năm ghi tạc, chuyện đó đợi đến khi<br /> hai người thành vợ chồng diễn ra cũng chưa muộn. Với lời lẽ ngọt ngào, Thúy Kiều nói tiếp với Kim Trọng:<br /> <br /> Như vậy, chữ “tòng phu” xuất hiện trong câu thơ: Gieo thoi trước chẳng giữ giàng,<br /> “Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu” được hiểu là Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?<br /> theo chồng. Đây là một trong ba điều mà người phụ<br /> nữ phải tuân theo của Nho giáo: “Phụ nhân hữu tam Thúy Kiều đã kể toàn bộ câu chuyện xảy ra với Thôi<br /> tòng chi nghĩa, vô chuyên dụng chi đạo, cố vị giá Oanh Oanh và lấy đó làm bài học cho bản thân mình.<br /> tòng phụ, kí giá tòng phu, phu tử tòng tử” (Người đàn Đồng thời, nàng cũng hi vọng, Kim Trọng cũng hiểu<br /> bà có cái nghĩa phải theo ba điều mà không có cái lẽ thêm cho nỗi lòng của Kiều. Trong đoạn thơ, Thúy<br /> (đạo) làm theo ý mình, cho nên khi chưa lấy chồng Kiều không ở vào cái hoàn cảnh của Thôi Oanh Oanh,<br /> thì phải theo cha, khi đã lấy chồng thì theo chồng, chuyện phụ bạc, ruồng rẫy và hổ thẹn chưa xảy ra,<br /> và khi chồng chết thì theo con). Ở đây, nói “đạo tòng chuyện “giữ giàng” (giữ gìn, phòng bị cẩn thận) đang<br /> phu” tức là nói đạo làm vợ. Vì luôn ý thức được điều còn ở hiện tại nên cái việc “gieo thoi” (ném con thoi,<br /> này, nên Kiều luôn lấy các tấm gương của các “bậc chỉ việc người con gái biết giữ mình để bảo toàn tiết<br /> bố kinh” để giữ gìn bản thân, không sống buông thả, hạnh) cũng ở thời “tương lai”. Thật là ổn thỏa. Câu thơ<br /> giữ được cái trinh tiết của một đời người. Còn làm thật là ý nhị. Bút pháp của nhà thơ Nguyễn Du thật là<br /> theo thói tà dâm của trai gái “Ra tuồng trên bộc trong tuyệt diệu! Thúy Kiều mượn ngay lời của Oanh Oanh<br /> dâu” thì kể làm gì! Chính vì điều này, cho nên sau này để kết luận về Thôi Oanh Oanh, mà khỏi phải nói về<br /> khi “phẩm tiên đã bén tay phàm” Mã Giám Sinh thì mình nữa, vì cái gương đã rõ lắm rồi, đã đủ hùng hồn<br /> Kiều có phần ân hận: “Nhị đào thà bẻ cho người tình để vạch cho hai người cái đường sáng sủa nên theo,<br /> chung”. Qua đó, ta có thể thấy “Đạo tòng phu” mang không cần phải nói: “Thiếp sẽ hết sức cự tuyệt…” mà<br /> dấu ấn của văn hóa Nho giáo. Tuy nhiên, đến “Truyện thực ra là cự tuyệt một cách chắc chắn và khôn khéo<br /> Kiều” của Nguyễn Du, nó đã được Việt hóa và là cơ cở, – cái khôn khéo của một con người “Thông minh vốn<br /> nền tảng để đảm bảo gạt bỏ mọi mối nghi ngờ, gắn sẵn tính trời”.<br /> kết tình cảm vợ chồng sâu đậm.<br /> Một lần nữa, ta hãy đọc lại toàn bộ đoạn thơ thì thấy<br /> Để tăng thêm sức thuyết phục cho lời nói của mình, trong suốt ngần ấy câu, Thúy Kiều không hề trực tiếp<br /> Kiều đã đưa ra câu chuyện về mối tình của Trương cự tuyệt Kim Trọng mà chỉ dẫn điển tích cũ để cho<br /> Quân Thụy và Thôi Oanh Oanh: “Ngẫm duyên kì ngộ Kim Trọng hiểu cái “đạo” phải theo là của chung cho<br /> xưa nay/ Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi – Trương”. Câu thơ tất cả mọi người chứ không chỉ của riêng Thúy Kiều.<br /> có sử dụng điển tích “Thôi – Trương”. Theo Hội chân Không chống cự, mà trái lại, Kiều còn vuốt ve và hứa<br /> kí, vào năm Trinh Nguyên nhà Đường, có Trương Sinh hẹn với Kim Trọng những điều thật là dễ thương:<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 05 - 01/2017 61<br /> v VĂN HÓA - VĂN HỌC<br /> <br /> <br /> - Vẻ chi một đóa yêu đào, 3. Trần Công Đường (2011), Truyện Kiều kể lại, NXB<br /> Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh. Văn học, Hà Nội.<br /> - Vội chi liễu ép hoa nài,<br /> 4. Nguyễn Thạch Giang (1999), Truyện Kiều, NXB Hà Nội.<br /> Còn thân ắt lại đền bồi có khi!”<br /> <br /> Thật là một lời hứa hẹn chan chứa tình âu yếm, dịu 5. Lê Bá Hán (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc<br /> dàng, đầy rẫy sự vuốt ve an ủi, nhưng thực là vẫn Phi (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục,<br /> “đoan chính” mà cũng vẫn “dễ nghe” như chính Hà Nội.<br /> chàng Kim phải công nhận:<br /> 6. Đặng Thanh Lê (1999), Truyện Kiều và thể loại truyện<br /> Thấy lời đoan chính dễ nghe,<br /> Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân. Nôm, NXB Giáo dục, Hà Nội.<br /> <br /> Như vậy, có thể thấy, Thúy Kiều không chỉ được miêu 7. Nguyễn Văn Thiệu, Đào Duy Đạt (Biên dịch) (1996),<br /> tả là người con gái có nhan sắc rực rỡ: “Một hai nghiêng Từ điển điển cố Trung Hoa, NXB Văn hóa – Thông tin.<br /> nước nghiêng thành/Sắc đành đòi một, tài đành họa<br /> hai” mà nhan sắc ấy cũng góp phần làm nổi bật vẻ đẹp THUY KIEU’S BEAUTY IN THE TALE<br /> trong tâm hồn, phẩm cách của nàng. Đoạn thơ trên đã OF KIEU FROM LINE 499 TO LINE 524:<br /> phần nào cho người đọc thấy sự thánh thiện, vẻ đẹp<br /> AN ANALYSIS FROM THE CULTURAL<br /> tinh khiết, phẩm cách trong sáng, cách ứng xử khéo<br /> PERSPECTIVE<br /> léo, thông minh của Kiều đối với người yêu để vừa<br /> bảo toàn được tiết hạnh của người con gái vừa không TRAN THI THU HIEN<br /> làm tổn hại lòng tự trọng của người đàn ông. <br /> Abstract: Description of character portrait<br /> 3. KẾT LUẬN<br /> is one of the major artistic style of the genre<br /> Nom. “Truyen Kieu” is a Nom typical story in<br /> Đã có rất nhiều cách tìm hiểu khác nhau về vẻ đẹp của<br /> nhân vật Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Vietnamese medieval literature. In “Truyen<br /> Du. Bài viết của chúng tôi chỉ là một gợi ý nhỏ trong Kieu” there are many portraits of characters,<br /> việc tiếp cận vẻ đẹp ấy để góp phần làm hoàn thiện divided into protagonists, villains and even<br /> thêm thế giới tâm hồn nhân vật Thúy Kiều. Thực ra, intermediary characters (Hoan Thu). It can<br /> cách tiếp cận vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều từ góc be said, “Truyen Kieu”has a tendency to<br /> nhìn văn hóa không phải là quá mới lạ, tuy nhiên cái followorthodox art trends so here appears<br /> mới ở đây là chúng tôi đã mạnh dạn đi sâu vào phân sketch style and the language is more or less<br /> tích, tìm hiểu vẻ đẹp của nhân vật ở một đoạn thơ conventional, formulated with the use of<br /> tiêu biểu cho việc giữ gìn tiết hạnh của người phụ classic and historical references, etc. when<br /> nữ theo quan niệm xưa. Có ở trong hoàn cảnh của depicting characterportrait. But in some<br /> nhân vật Thúy Kiều, người đọc mới thấy hết được sự respects, Nguyen Du surpasses most classic<br /> khéo léo, tài tình của Kiều trong việc sử dụng ngôn molds to create vivid and variouscharacter<br /> từ, viện dẫn các điển tích, điển cố văn học,… để làm portraitsamong which the character of Kieu<br /> “vừa lòng” người yêu đồng thời không làm tổn hại is a typicaltestament. As portraying Thuy<br /> đến nhân phẩm của mình. Đó phải chăng cũng là cái Kieu, Nguyen Du showeda tendency todepict<br /> “tài” của đại thi hào Nguyễn Du?./. mentality through appearance and even more<br /> than that he inclined. In the scale of this article,<br /> Tài liệu tham khảo: we are only going to figure out the beauty of<br /> the character Kieu - only from the cultural<br /> 1. Lê Nguyên Cẩn (2015), Tiếp cận Truyện Kiều từ góc perspective (in the verse from line 499 to line<br /> nhìn văn hóa, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội. 524) of “Truyen Kieu”.<br /> 2. Trịnh Bá Đĩnh (chủ biên), Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Keywords: perspective, character, Truyen Kieu,<br /> Thanh (1999), Nguyễn Du – về tác gia và tác phẩm, cultural, beauty.<br /> NXB Giáo dục, Hà Nội.<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 62 Số 05 - 01/2017<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0