JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br />
Social Sci., 2017, Vol. 62, Iss. 7, pp. 19-25<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
DOI: 10.18173/2354-1067.2017-0057<br />
<br />
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI<br />
Lê Thị Bích Thủy<br />
<br />
Vụ Các trường chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh<br />
Tóm tắt. Trong văn học Ấn Độ cổ đại, hình tượng người phụ nữ với những vẻ đẹp về hình<br />
thức, phẩm chất nhân cách bên trong như đức hạnh, tình yêu thương bao la đối với con<br />
người và cảnh vật, sự thủy chung, sự chịu đựng đáng trân trọng của người phụ nữ trong mối<br />
quan hệ với các vấn đề xã hội (tôn giáo, đẳng cấp, hôn nhân) theo quan niệm của giáo lí<br />
Dharma được dân tộc Ấn Độ ngợi ca, trân trọng. Với tất cả phẩm chất tốt đẹp, những người<br />
phụ nữ ấy xứng đáng được xem là “khuôn vàng thước ngọc” của hình tượng người phụ nữ<br />
Ấn Độ cổ đại, là hình ảnh đặc trưng cho nền văn hóa Ấn Độ.<br />
Từ khóa: Hình tượng người phụ nữ, văn học Ấn Độ cổ đại, sử thi Ramayana, sử thi<br />
Mahabharata, kịch thơ Sơkuntơla.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mở đầu<br />
<br />
Diện mạo văn hóa của mỗi dân tộc được xem là tiêu chí đánh giá sự tiến bộ, là tấm gương<br />
phản ánh rõ nét nhất tâm hồn, tinh thần, tính cách của mỗi mỗi dân tộc và văn học là thành tố quan<br />
trọng của văn hóa để phản ánh trung thực cuộc sống. Với lịch sử hình thành và phát triển, nền văn<br />
hóa Ấn Độ luôn coi trọng đời sống tâm linh, luôn hòa hợp giữa mộng và thực, đạo và đời, ý thức<br />
tôn trọng và lưu giữ truyền thống, phát triển không đứt quãng với “đặc điểm nổi bật là tính nhân<br />
văn của nó” được thể hiện trong các tác phẩm văn học qua những hình tượng nhân vật là “những<br />
phương tiện đặc thù của nghệ thuật để phản ánh hiện thực khách quan” [8; 27].<br />
Ở mỗi thời đại đều có những kiểu mẫu đại diện nhất định để phản ánh đời sống văn hóa xã<br />
hội cũng như tính cách, tâm hồn dân tộc Ấn Độ, trong đó người phụ nữ cũng là một hình tượng<br />
nhân vật điển hình. Ở bài viết này, chúng tôi tập trung tìm hiểu hình tượng người phụ nữ trong văn<br />
học Ấn Độ cổ đại với những vẻ đẹp trở thành “khuôn vàng thước ngọc” được phản ánh trong sử<br />
thi Ramayana, sử thi Mahabharata, kịch thơ Sơkuntơla.<br />
<br />
2.<br />
<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
<br />
Trong kho tàng văn học Ấn Độ cổ đại, sử thi Mahabharata có độ dài 22 vạn câu thơ là sử<br />
thi đích thực (Itihasa) và sử thi Ramayana có độ dài gần 5 vạn câu thơ là sử thi văn chương (Kavya)<br />
được xem là thánh kinh đối với người dân Ấn Độ, là niềm tự hào thiêng liêng, thấm đẫm tinh thần<br />
giáo lí Dharma phản ánh tâm tư, nguyện vọng, tâm lí và tính cách dân tộc Ấn Độ. Trong quan niệm<br />
Ngày nhận bài: 15/11/2016. Ngày nhận đăng: 20/5/2017<br />
Liên hệ: Lê Thị Bích Thủy, e-mail: lebichthuyhcm@gmail.com<br />
<br />
19<br />
<br />
Lê Thị Bích Thủy<br />
<br />
của người Ấn Độ cổ đại, người phụ nữ lí tưởng phải là người phụ nữ mẫu mực về hình dáng, dung<br />
nhan, phẩm chất, tính cách, đức hạnh và đó là người phụ nữ toàn thiện toàn mĩ.<br />
Sử thi Ramayana kể về tình yêu của hoàng tử Rama và nàng công chúa Xita và những chiến<br />
công hiển hách của hoàng tử Rama. Với nội dung đậm đà tình yêu thương con người, tình yêu thiên<br />
nhiên, sử thi Ramayana trở thành bài thơ ngợi ca giáo lí Dharma, là những lời răn dạy về bổn phận<br />
đạo đức của người phụ nữ lí tưởng trong xã hội Ấn Độ cổ đại. Nhân vật Xita xuất hiện bên cạnh<br />
nhân vật anh hùng Rama, chia sẻ cùng chàng mọi bất hạnh cuộc đời với một tinh thần vị tha và<br />
chung thủy, Xita bổ sung và hoàn thiện cho chủ đề tác phẩm. Công chúa Xita được xây dựng bên<br />
cạnh nhân vật Rama theo nguyên tắc sóng đôi. Sự khiếm khuyết, sơ xuất của nhân vật này là tiền<br />
đề, điều kiện để nhân vật kia bộc lộ phẩm chất, lí tưởng của mình. Xita được tôn thờ như một nữ<br />
anh hùng trong lòng nhân dân Ấn Độ. Cũng như Rama, Xita có nguồn gốc thánh thần nhưng lại<br />
hành xử như một con người trần thế. Nàng là hiện thân của hình tượng người phụ nữ mẫu mực Ấn<br />
Độ cổ xưa “vì nàng mà Rama tiêu diệt không chỉ cả trần thế mà còn tiêu diệt cả vũ trụ thì như thế<br />
chẳng có gì là không phải cả” [2;160].<br />
Vẻ đẹp của Xita trong sử thi Ramayana được miêu tả tỉ mỉ, đặc biệt là qua những lời nhận<br />
xét của các nhân vật khác trong sử thi. Trước hết, Xita mang vẻ đẹp thánh thiện: “khuôn mặt nàng<br />
xinh đẹp như mặt trăng tròn, môi nàng đỏ thắm như quả Bimba, răng nàng láng bóng, mắt nàng<br />
mở rộng như cánh hoa sen”. Và ngay cả quỷ vương Ravana cũng mê mẩn, nghẹt thở, lặng câm hồi<br />
lâu mới thốt lên lời trước sắc đẹp mê hồn của Xita: “Hình như Đấng Hóa công tạo sắc đẹp, một<br />
khi tạo ra nàng rồi thì đã ngừng tay” [2;166].<br />
Để đánh giá vẻ đẹp toàn thiện toàn mĩ của người phụ nữ, ngoài vẻ đẹp hình thức, người<br />
Ấn Độ cổ đại còn coi trọng vẻ đẹp phẩm chất nhân cách bên trong của người phụ nữ. Tính chất lí<br />
tưởng của nhân vật Xita trong Ramayana còn được kết tinh ở một tình yêu trong sáng, thuỷ chung,<br />
một tinh thần dũng cảm, vị tha. Những vẻ đẹp ấy của Xita được phát lộ qua hàng loạt các tình<br />
huống thử thách. Xita đang mải mê với niềm vui sướng thấy Rama được phong vương nhưng ngay<br />
khi nhận được tin phải lưu đày của Rama, nàng đón nhận tin dữ cũng với một tâm trạng bình thản<br />
như chồng. Xita ý thức rất rõ bổn phận của một người vợ và nàng tìm cách thuyết phục Rama cho<br />
nàng cùng đi vào rừng. Mặc dù Rama biện ra đủ mọi lí do, chỉ rõ cho Xita thấy mọi khó khăn,<br />
thiếu thốn và hiểm nguy luôn rình rập để thuyết phục nàng ở lại. Nhưng dường như mọi khó khăn,<br />
hiểm nguy ấy không làm cho Xita hoảng sợ mà từ bỏ ý định vào rừng sống cùng Rama. Xita đã<br />
bác bỏ tất cả với đầy đủ lí do và dựa vào chính những giáo huấn về bổn phận của một người vợ đối<br />
với chồng: “Em sẽ không rời bỏ anh được và anh cũng không thể bằng bất cứ cách nào can ngăn<br />
em được” [1;145]. Lời lẽ của nàng dịu dàng mà kiên quyết, nàng sẵn sàng lấy cái chết của mình để<br />
thuyết phục Rama để có thể được đi cùng chồng. Với tình yêu mãnh liệt và lòng quyết tâm, Xita<br />
khiến Rama không thể từ chối. Dù xuất thân từ nguồn gốc thần thánh, quen sống cuộc sống đầy đủ<br />
trong nhung lụa, nhưng Xita chia sẻ nỗi bất hạnh của cuộc sống lưu đày với chồng một cách vui<br />
vẻ không một lời oán thán. Hành động của nàng càng tôn thêm sự quyết tâm chấp nhận mọi khó<br />
khăn thử thách phía trước để thực hiện nghĩa vụ và làm tròn bổn phận, giữ lời hứa với cha mẹ của<br />
Rama. Khi cùng Rama sống trong khu rừng Đanđaka hùng vĩ, bên cạnh việc chia sẻ những thiếu<br />
thốn, vất vả thì Xita cũng luôn luôn biết lắng nghe và khuyên giải Rama nên hành động phù hợp<br />
với lí tưởng của đẳng cấp Bàlamôn.<br />
Xita không chỉ là một người phụ nữ đức hạnh, có một tình yêu trong sáng, thuỷ chung, nàng<br />
còn là một người phụ nữ giàu bản lĩnh, có lòng dũng cảm dám đấu tranh và biết đấu tranh để bảo<br />
vệ tình yêu, hạnh phúc. Nơi Xita, người Ấn Độ gửi gắm vẻ đẹp cao cả của người phụ nữ, người ta<br />
20<br />
<br />
Hình tượng người phụ nữ trong văn học Ấn Độ cổ đại<br />
<br />
kí thác hình mẫu ước mơ của người phụ nữ Ấn Độ. Đó là sự khoan dung và tình nhân ái cao cả.<br />
Trong tình huống thử thách ở cuối tác phẩm, khi bị Rama nghi ngờ, kết tội, sự nhẫn nại của Xita<br />
được thể hiện cao độ. Xita đã dùng lí lẽ, dẫn chứng chứng minh cho tình yêu trong trắng của mình,<br />
bác bỏ lời kết tội của Rama. Để chứng minh bổn phận vẹn toàn với chồng, nhân vật Xita đã đánh<br />
đổi cả mạng sống của mình. Nàng nói rồi thản nhiên bước vào đống lửa để tự thiêu không chút<br />
sợ hãi và nàng cầu xin Thần Lửa chứng giám cho nàng: “Nếu con trước sau một lòng một dạ với<br />
Rama thì cúi xin thần hãy tìm hết cách bảo vệ con. Rama đã coi một người phụ nữ trinh tiết như<br />
một kẻ gian dối; nhưng nếu con trong trắng, xin thần Anhi phù hộ cho con” [3; 239-240]. Giáo lí<br />
Dharma của người Ấn Độ cổ đại cho rằng, lửa có thể tẩy rửa được những gì uế tạp, nhơ nhuốc,<br />
minh chứng cho sự trong trắng của người phụ nữ. Đối với người phụ nữ đã có chồng, ngoại trừ<br />
chồng mình, sự đụng chạm của kẻ khác giới là điều tối kị và bị sỉ nhục. Thần lửa Anhi đã chứng<br />
giám tấm lòng trong trắng và trái tim chung thuỷ của nàng nên không thiêu cháy nàng mà còn làm<br />
cho nàng đẹp hơn xưa. Tình yêu thủy chung và đức hạnh của Xita còn được thể hiện qua những<br />
lời nhận xét của những nhân vật khác. Không phải ngẫu nhiên mà ngay cả trong tiếng khóc chồng<br />
là quỷ vương Ravana của hoàng hậu Manđôđari cũng là lời ca ngợi Xita. Và Hanuman cũng dành<br />
cho Xita những lời lẽ tôn kính và khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của Xita là điểm tựa để<br />
Rama giành được mọi chiến thắng: “Hỡi phu nhân tôn kính! Tôi xin gửi tới nàng những tin tức vui<br />
mừng đó và xin phép cho tôi nhắc lại là Rama đã đạt tới chiến thắng. Và sở dĩ như vậy, đơn giản là<br />
nhờ có nàng” [3; 232].<br />
Sử thi Mahabharata là bức tranh phong phú và sinh động về đời sống xã hội Ấn Độ cổ đại,<br />
được xem là “bách khoa toàn thư” và thấm đẫm tinh thần nhân văn cao cả. Sử thi Mahabharata kể<br />
về mối thù địch dẫn đến cuộc chiến tranh đẫm máu “cốt nhục tương tàn” giữa hai nhóm anh em<br />
cùng dòng họ Bharat vĩ đại. Không khí trong Mahabharata là không khí chiến trận, gợi lại những<br />
cuộc chiến tranh giữa các bộ tộc, thời kì chế độ huyết thống suy tàn và hình thành các tiểu vương<br />
quốc Ấn Độ. Mahabharata ngợi ca sức mạnh toàn năng của giáo lí Dharma và góp phần làm nổi<br />
bật hình ảnh người phụ nữ với “khuôn vàng thước ngọc” về đạo đức giáo lí Dharma.<br />
Người phụ nữ trong sử thi Mahabharata dù không trực tiếp vào trận mạc nhưng họ có vị trí<br />
rất lớn, thậm chí trong nhiều trường hợp, họ còn thống lĩnh hơn các nam anh hùng và góp phần chi<br />
phối tiến trình của cuộc chiến tranh. Người phụ nữ trong Mahabharata luôn đưa ra các lời khuyên<br />
với các anh hùng và người anh hùng luôn biết lắng nghe, thấu hiểu những khát vọng sâu xa, cơ bản<br />
nhất của cuộc đời. Nhân vật Đraupađi là một người phụ nữ xinh đẹp khiến cho các trang anh hùng<br />
hào kiệt khắp nơi về cung dự thi bắn cung để cầu hôn. Tuy sắc đẹp của nàng không được miêu tả<br />
cụ thể với tính cách rõ nét nhưng vẻ đẹp của nàng công chúa xứ Panchala được khắc họa qua lời<br />
thán phục, trầm trồ của dân chúng: “Trông nàng thật là nuột nà lộng lẫy. . . nàng đem lại sự dịu<br />
dàng duyên dáng tỏa khắp nơi. . . ” và họ “nhìn nàng thán phục nói không nên lời” [6; 107-108].<br />
Khi là vợ năm anh em Atjuna, nàng cũng yên lòng với bổn phận theo lời thề “cái gì cũng là của<br />
chung” của năm anh em Atjuna với mẹ Kunti. Dù xuất thân là công chúa nhưng Đraupađi đã tự<br />
nguyện theo năm người chồng của mình sống 12 năm lưu đày trong rừng sâu. Vượt qua mọi khó<br />
khăn thử thách, đức hạnh thủy chung của Đraupađi vẫn giữ vẹn nguyên và thực hiện những giáo lí<br />
Dharma về bổn phận đạo đức của người phụ nữ.<br />
Cùng với Đraupađi, hình ảnh hai người mẹ vĩ đại là mẹ Kunti – mẹ của năm anh em Atjuna<br />
và mẹ Ganđhari – mẹ của 100 anh em Kuru cùng dòng họ Bharat. Đây là những người phụ nữ<br />
xinh đẹp với “nhan sắc và phẩm hạnh nổi tiếng khắp nơi” [4; 72]. Dù với sức vóc mảnh mai nhưng<br />
họ là những người phụ nữ có khả năng thôi thúc nhiệt tình hành động, khát vọng anh hùng bằng<br />
chính sự cao thượng và những tình cảm nhân bản sâu sắc của mình. Họ là niềm an ủi, chỗ dựa<br />
21<br />
<br />
Lê Thị Bích Thủy<br />
<br />
tinh thần vững chắc cho các con và luôn làm tròn bổn phận làm mẹ của mình. Họ đưa ra những lời<br />
nhắc nhủ, khuyên răn các con của mình về trách nhiệm hoàn thành bổn phận của người chiến binh<br />
thuộc đẳng cấp Kshatrya, về bổn phận người anh hùng theo giáo lí Dharma. Hai người mẹ Kunti<br />
và Ganđhari được xem là tấm gương toàn bích về những người phụ nữ hết lòng vì con cái, làm tròn<br />
bổn phận, trách nhiệm của người mẹ theo giáo lí Dharma.<br />
Trong nền văn học viết Ấn Độ, nhà viết kịch thơ Kaliđasa được xem như vì sao sáng trên<br />
bầu trời, là “kì công thứ nhất” và vở kịch thơ Sơkuntơla của ông là đỉnh cao của nghệ thuật sân<br />
khấu cổ điển, là tiếng đồng vọng sâu sắc giữa tư tưởng nhân văn cao cả của ông với ước mơ của<br />
nhân dân Ấn Độ. Trong Sơkuntơla, Kaliđasa đã tập trung ngòi bút của mình để ngợi ca tình yêu<br />
trong sáng, chân thực, tâm hồn trong trắng cùng với những khát vọng chính đáng của con người<br />
trong cuộc sống là tình yêu và phê phán những giáo lí đã bóp nghẹt trái tim rung động của con<br />
người. Trong tác phẩm, Kaliđasa đã để các nhân vật của mình hành động và bộc lộ tính cách trong<br />
các mối quan hệ đó để đề cập tới vấn đề tình yêu và đẳng cấp. Chính điều này đã làm nên sự thành<br />
công của vở kịch Sơkuntơla và nâng tầm tư tưởng của Kaliđasa vượt lên hẳn các tác giả đương thời<br />
và các thế kỉ sau.<br />
Sơkuntơla là nhân vật chính trong vở kịch cùng tên của Kaliđasa. Trong khung cảnh thiên<br />
nhiên trữ tình với nhiều sắc màu, âm thanh, nàng hiện ra như một biểu tượng của cái đẹp “bên<br />
những ẩn sĩ già, nàng như nụ tươi thắm giữa lá vàng khô” và tình yêu trong sáng, thủy chung<br />
với một tâm hồn thánh thiện. Nàng nguyên là con của vị thánh sư Visvamitra và tiên nữ apsara<br />
Mênaka. Sự ra đời của nàng chính là một minh chứng cho sự chiến thắng của tình yêu trước chủ<br />
nghĩa khổ hạnh. Nhưng do tục trời, lễ đạo đã bắt mẹ nàng về trời và để nàng lại nơi trần thế và<br />
được đạo sĩ Kanwa đón nàng về nuôi trong vườn tu. Sơkuntơla lớn lên trong vườn tu linh thiêng<br />
bên những ẩn sĩ già đang tu luyện khổ hạnh nhưng tâm hồn nàng luôn tràn đầy đầy sức sống, cháy<br />
bỏng khát vọng yêu đương. Nàng đẹp mê hồn nên trang phục vỏ cây thô ráp của cuộc sống ẩn sĩ tu<br />
hành không giam nổi sức xuân phơi phới như “nụ hoa xinh cuộn kín trong đài, chưa muốn nở tròn<br />
khoe sắc”. Kaliđasa đã dùng vẻ đẹp của thiên nhiên so sánh với vẻ đẹp của con người và làm nền<br />
cho dáng hình của người con gái đẹp:<br />
“Môi nàng đỏ tranh sắc thắm với nụ hoa đang nở<br />
Cánh tay nàng xinh như cành cây uốn khúc<br />
Và cả thân hình nàng rạng rỡ<br />
Mùa xuân xanh đẹp đẽ tưng bừng<br />
Như cây cỏ đang kì nở rộ”<br />
Vẻ đẹp của nàng cũng khiến cho cô bạn gái Priamvađa phải thốt lên: “Trông dáng chị xinh<br />
xắn cúi bên gốc cây kasa, em tưởng như một cành leo đẹp âu yếm vấn quanh” [5; 143]. Vẻ đẹp<br />
ấy khiến cho vua Đusơnta đi qua am thất của cha nuôi nàng, gặp nàng trong thoáng chốc đã đem<br />
lòng yêu ngay. Vẻ đẹp của nàng như một bức tranh hoàn hảo mà thượng đế đã dày công sáng tạo<br />
và Đusơnta coi là “của đáng yêu nhất trên đời”, là bông hoa thơm ngát “mà hương thơm không lúc<br />
nào phai”, như giọt nước vô ngần “trong suốt như lòng sông lấp lánh”.<br />
Bên cạnh vẻ đẹp ngoại hình, Sơkuntơla còn có một tâm hồn trong sáng, trái tim nhân hậu<br />
và tình yêu thương bao la rộng mở đối với con người và cảnh vật. Nàng luôn biết quan tâm đến<br />
mọi người như những người thân yêu, tận tâm chăm sóc chim muông, cây cỏ xung quanh mình.<br />
Khi gặp vua Đusơnta trong vườn tu nàng cũng cảm động xao xuyến ngay từ phút đầu bởi đó là một<br />
ông vua sùng đạo nhưng cũng là chàng trai trẻ đẹp đẽ, yêu đời. Những cử chỉ nhẹ nhàng, những<br />
lời nói hờn dỗi của nàng chứng tỏ nàng đang yêu đương say đắm và bỏ qua những luật lệ khắt khe<br />
của lễ giáo, đẳng cấp để đi theo tiếng gọi của tình yêu. Dành trọn vẹn tình cảm cho người mình<br />
22<br />
<br />
Hình tượng người phụ nữ trong văn học Ấn Độ cổ đại<br />
<br />
yêu, nàng quên hết những lời thề nguyền trước thần thánh và quên hết những thành quả của những<br />
tháng ngày tu luyện khổ hạnh. Thiên nhiên và con người như đồng tình với cảm xúc, ủng hộ cho<br />
tình yêu của nàng chiến thắng khổ hạnh “Tình yêu hồn nhiên, sáng chói đó được thiên nhiên ấp ủ,<br />
được lòng người che chở, đã sưởi ấm cái không khí lạnh lẽo, âm u trong cái vườn tu này” [5].<br />
Khi Sơkuntơla chìm đắm trong tình yêu với Đusơnta mà quên đi bổn phận người con gái<br />
nhà tu hành phải tiếp đón chu đáo đạo sĩ Đuvasa khi ghé am tu. Vì vậy, đạo sĩ Đuvasa rất tức giận<br />
khi Sơkuntơla không đón tiếp mình:<br />
“Đồ khốn nạn! Con bé kia sao dám khinh mạt cả vị khách như ta<br />
Ta có nên đứng đây nữa không?<br />
Đến như ta, một nhà tu chân chính<br />
Dày công khổ hạnh đáng kính đủ điều<br />
Mà vẫn không được chào đón<br />
Điều thánh dạy là điều dung khách” [5;77-78]<br />
Với tình yêu nồng nhiệt, chân thành, nỗi nhớ nhung Đusơnta ngập tràn trong lòng khiến cho<br />
nàng quên cả bổn phận mà nàng bị chịu lời nguyền sẽ bị người yêu ruồng rẫy trong niềm uất hận<br />
đắng cay nếu không có vật làm tin. Vì thế khi đôi tình nhân lưu luyến tạm biệt nhau, nhà vua quay<br />
trở về cung và nàng quay lại am thất với lời hẹn sẽ đón nàng vào cung. Nhưng sau một thời gian<br />
khi không thấy nhà vua đến đón Sơkuntơla thì hiền sĩ Kanwa cũng lo sợ định kiến xã hội không<br />
cho phép con gái khi đi lấy chồng lại ở lại nhà bố mẹ đẻ nên đã cho người đưa Sơkuntơla đến kinh<br />
thành gặp vua mặc dù ông yêu thương, chăm sóc Sơkuntơla như con gái nhưng vẫn tin theo khuôn<br />
phép, đạo lí từ ngàn đời nay cho rằng:<br />
“Con gái là của nợ, là viên ngọc quý<br />
Mà cha mẹ vay của nhà chồng<br />
Đến khi chồng đòi là phải trả” [5; 99]<br />
Nhưng trên dọc đường đi qua sông Hằng nàng sơ ý lỡ đánh rơi vật làm tin là chiếc nhẫn của<br />
vua tặng làm kỷ niệm ngày chia tay và lời nguyền xưa đã ứng ngiệm khiến nhà vua hoàn toàn quên<br />
Sơkuntơla. Sự kiện mất chiếc nhẫn là vật làm tin chính là để thử thách và đề cao lòng chung thủy<br />
của người phụ nữ.<br />
Khi nhà vua ruồng rẫy và không chịu chấp nhận Sơkuntơla nhưng nàng không cam chịu số<br />
phận như vậy mà đã tỏ thái độ bất bình dẫu chỉ là phút lóe sáng rồi lại vụt tối ngay. Sơkuntơla đã<br />
dũng cảm đứng lên bóc trần lớp sơn son thiếp vàng giả dối để bảo vệ phẩm tiết của mình khi nhà<br />
vua một mực không nhận nàng và cho rằng những lời nàng nói là bịa đặt: “Con người vô liêm sỉ!<br />
Suy bụng ta ra bụng người. Thật không gì nham hiểm bằng, cứ đứng trơ trơ như con ong núp trong<br />
áo đạo đức và tôn giáo để đánh lừa thiên hạ, như cái miệng hầm sâu há hốc che đậy bằng những<br />
chum hoa tươi chum chím” [5; 115-116]. Những lời lẽ đó đã làm tăng thêm sức tố cáo những giáo<br />
lí của chế độ đẳng cấp đã trói buộc thân phận người phụ nữ trong vòng khổ đau. Và dù có quyết<br />
liệt, mạnh mẽ đến đâu thì nàng cũng vẫn trở về với thân phận phận một người phụ nữ phục tùng lễ<br />
giáo và nàng tin rằng đó là định mệnh không thể thay đổi được mà phải chấp nhận “vì kiếp trước<br />
em đây ăn ở chẳng lành nên bây giờ mới bị nghiệp chướng”. Ngay cả khi các tu sĩ cũng đấu tranh<br />
quyết liệt để giúp nàng đòi lại công lí nhưng cuối cùng vẫn bỏ đi, mặc nàng ở lại trong nỗi thất<br />
vọng bởi trong họ vẫn có một niềm tin sâu sắc vào thần thánh và tôn giáo. Rõ ràng giáo lí Bàlamôn<br />
như một thứ thuốc mê đã ru ngủ và trói buộc con người trong những bổn phận đạo đức cao cả,<br />
thiêng liêng mà dù muốn hay không thì tất cả đều phải thừa hưởng và chấp nhận.<br />
Luật lệ hôn nhân như sợi dây oan nghiệt ràng buộc người phụ nữ Ấn Độ bao đời và<br />
23<br />
<br />