Xã hội học số 2 (54), 1996 79<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Về thực trạng tâm tư - nguyện vọng<br />
của công nhân lao động Hà Nội<br />
<br />
TRẦN VIỆT TIẾN<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Trong những năm đầu, sau khi Thành phố được giải phóng (1954) công nghiệp Hà Nội hầu như không có gì.<br />
Trải qua 40 năm xây dựng và trưởng thành, đến nay công nghiệp Thủ đô đã đứng vào loại hàng đầu của cả<br />
nước, góp phần to lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nội. Toàn thành phố hiện có 560 doanh<br />
nghiệp quốc doanh và hàng ngàn doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trên địa bàn thành phố đã hình thành được 5<br />
ngành công nghiệp then chốt: có kim khí chiếm 10,78%, dệt - da - may chiếm 14,98%, chế biến thực phẩm<br />
chiếm 34,76%, công nghiệp điện tử: 12,28%, công nghiệp hóa chất: 11% so với GDP của toàn ngành công<br />
nghiệp mở rộng Hà Nội.<br />
<br />
Từ năm 1992 công nghiệp Hà Nội đã vượt qua được thời kỳ khó khăn và có mức tăng trưởng khá. Tốc độ<br />
tăng giá trị sản lượng công nghiệp bình quân năm thời kỳ 1991- 1994 đạt 13,4%, cao hơn mục tiêu của đại hội<br />
Đảng bộ thành phố lần thứ XI đề ra (Mục tiêu đại hội Đảng bộ thành phố đề ra: tăng 5 - 6%/năm). Các ngành<br />
công nghiệp Hà Nội đang từng bước chuyển đôi theo hướng đa dạng hoá sản phẩm, đầu tư chiều sâu, đôi mới<br />
công nghệ, tạo nhiều sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, giá cả hợp lý được thị trường trong và ngoài<br />
nước chấp nhận.<br />
<br />
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, đang hình thành và phát triển đã<br />
tác động mạnh mẽ và trực tiếp vào công nghiệp Thủ đô, tạo ra những chuyển dịch lớn về cơ cấu kinh tế, cơ cấu<br />
lao động xã hội - cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ đã hình thành một số ngành nghề mới bên cạnh<br />
những ngành nghề truyền thống như: công nghiệp thực phẩm - vi sinh, công nghiệp điện tử, bưu chính viễn<br />
thông...<br />
<br />
Cùng với sự phát triển của công nghiệp đội ngũ công nhân thủ đô không ngừng phát triển, trưởng thành.<br />
Hiện có 310.000 người hoạt động trong các ngành: công nghiệp, xây dựng cơ bản, giao thông vận tải, bưu điện<br />
và một số ngành sản xuất, dịch vụ công nghiệp khác. Đội ngũ công nhân công nghiệp chiếm tỷ lệ 44% trong<br />
tổng số công nhân viên chức, bằng 26,2% tổng số lao động xã hội của Hà Nội, nắm giữ những cơ sở sản xuất<br />
vật chất kỹ thuật then chốt, làm ra giá trị tổng sản lượng năm 1994 là: 1731 tỷ đồng, tăng 18% so với năm 1993.<br />
Cùng với sự ra đời của một số ngành nghề mới, đã hình thành một bộ phận công nhân trẻ có trình độ học vấn và<br />
tay nghề, có năng lực tiếp thu sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao. Hiện<br />
nay số công nhân có trình độ văn hóa từ phổ thông cơ sở đến đại học chiếm tỷ lệ 90%, toàn thành phố có<br />
174.808 công nhân kỹ thuật.<br />
<br />
Tuy vậy, trong lớp công nhân trẻ còn một bộ phận ngại học tập, rèn luyện nâng cao bản chất giai cấp, ý thức<br />
tổ chức kỷ luật còn lỏng lẻo, thiếu gắn bó với công việc, chạy theo lối sống thực dụng, chỉ biết lo lợi ích cho bản<br />
thân, thiếu quan tâm đến cộng đồng, đến sự phát triển chung của xã hội.<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
80 Về thực trạng tâm tư nguyện vọng của công nhân lao động Hà Nội<br />
<br />
<br />
Lớp công nhân lớn tuổi, có trình độ giác ngộ giai cấp cao, vững vàng trong khó khăn thứ thách, có kinh<br />
nghiệm nghề nghiệp nhưng trình độ văn hóa thấp, việc tiếp thu khoa học kỹ thuật, công nghệ mới chậm, ngại có<br />
sự thay đổi quy trình công nghệ, ngại sắp xếp lại sản xuất - năng suất lao động thấp.<br />
Để tiếp cận nhanh chóng với công nghệ mới, thích ứng với cơ chế thị trường, đội ngũ công nhân trong các xí<br />
nghiệp quốc doanh đã và đang được sắp xếp, sàng lọc lại. Một bộ phận công nhân đã phải chuyển sang những<br />
công việc khác, sang các thành phần kinh tế khác. Vì vậy đội ngũ công nhân Hà Nội ngày nay không chỉ ở trong<br />
khu vực kinh tế quốc doanh, mà còn bao gồm cả lực lượng đông đảo trong các thành phần kinh tế, từ đó dẫn đến<br />
sự hình thành những yếu tố tâm lý mới. Nội bộ giai cấp công nhân cũng phát sinh những vấn đề mới: sự phân<br />
hoá giàu nghèo trong đội ngũ giai cấp công nhân, quan hệ giữa chủ và thợ trong các doanh nghiệp, sự cạnh tranh<br />
về lợi ích do thu nhập chênh lệch giữa các khu vực sản xuất, giữa các đơn vị, giữa các bộ phận trong cùng một<br />
doanh nghiệp, giữa cá nhân với nhau...Đồng thời cũng xuất hiên những nhu cầu mới: liên kết ngành nghề, bảo<br />
vệ sản xuất hàng nội địa, cạnh tranh với hàng nước ngoài, nhu cầu đào tạo lại, đào tạo mới và thông tin giới<br />
thiệu việc làm. Người công nhân ngày nay đã có đầu óc thực tế hơn, tự tin, tự lập hơn, thực sự quan tâm đến<br />
năng suất, chất lượng sán phẩm, hiệu quả kinh tế...<br />
Tháng 10 - 1995, Liên đoàn Lao động thành phố tổ chức khảo sát ở 30 đơn vị thuộc các ngành nghề khu vực<br />
sản xuất khác nhau. Trong số 28,9% công nhân lao động được phỏng vấn thì trên 90% có nguyện vọng hàng đầu<br />
là: có việc làm ổn định, lâu dài - bền vững, và con cái họ có việc làm khi đến tuổi lao động.<br />
Cần lưu ý là: ở một số cuộc khảo sát trước đây, khi được hỏi người công nhân thường đưa nguyện vọng<br />
muốn có thu nhập cao, đời sống khá giả, ổn định lên hàng đầu thì bây giờ, qua mấy năm thực hiện cơ chế quản<br />
lý mới, người công nhân đã nhận thức được sâu sắc hơn cơ chế thị trường - trách nhiệm và quyền lợi của người<br />
lao động. Việc làm là vấn đề sống còn của người công nhân và gia đình họ, vì vậy để giữ được chỗ làm việc,<br />
người công nhân cũng phải tự điều chỉnh mình trên mọi phương diện để có năng suất lao động cao, đáp ứng<br />
được với đòi hỏi của doanh nghiệp và thu nhập của bản thân.<br />
Từ năm 1993 đến nay, các doanh nghiệp quốc doanh sản xuất dần ổn định và phát triển, đã thu hút và bố trí,<br />
sắp xếp trở lại những công nhân phải nghỉ việc và thiếu việc trước dây tuyển thêm lao động mới. Số lao động<br />
thất nghiệp từ l5.364 năm 1993 giảm xuống còn 6027 năm 1994; số lao động xã hội được tuyên dụng vào làm<br />
tại Các Xí nghiệp năm 1993 là 5000 người, năm 1994 đã tăng lên 11.500 người. Xong ở một số doanh nghiệp<br />
quốc doanh hiện lượng công nhân phải nghỉ chờ việc, lao động dôi dư so với yêu cầu vẫn còn.<br />
Cuộc điều tra tháng 2 năm 1995 của Ban Kiểm tra Chính sách xã hội Liên đoàn Lao động Hà Nội cho thấy:<br />
Trong số 335 cơ sở quốc doanh được sắp xếp lại sản xuất từ năm 1993 đến nay có: 86% cơ sở ổn định và<br />
tương đối ổn định, 14% cơ sở gặp khó khăn.<br />
Trong số 69.668 người được hỏi có:<br />
- Việc làm ổn định: 62.595 người, chiếm tỷ lệ 89,84%<br />
- Việc làm không ổn định: 4.238 người, chiếm tỷ lệ 6,10%<br />
- Nghỉ việc dài ngày: 2.036 người, chiếm tỷ lệ 2,92%<br />
- Dôi dư so với yêu cầu: 779 người, chiếm tỷ lệ 1,14%<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Trần Việt Tiến 81<br />
<br />
<br />
Vấn đề việc làm vẫn đang là nỗi lo lắng, trăn trở của người công nhân trong các xí nghiệp. Đặc biệt là số<br />
công nhân tuổi đã cao (từ 45 tuổi trở lên), họ nhận thức được sự tất yếu phải đổi mới công nghệ, nhưng cũng lo<br />
mất việc làm vì không đủ sức thích ứng với yêu cầu mới (trên 50% không muốn thay đổi lại quy trình công nghệ<br />
- sắp xếp lại sản xuất).<br />
Chính sách tiền lương cũng đang là nỗi băn khoăn, trăn trở của người lao động. Sau 2 năm thực hiện cơ chế<br />
lương mới, đến nay tiền lương tối thiểu trên thực tế chỉ còn bằng 70% so với năm 1993. Ở các cơ sở sản xuất ổn<br />
định và đang có chiều hướng phát triển, thu nhập của công nhân cao hơn nhiều so với lương cấp bậc. Lương<br />
bình quân bậc thợ chỉ đạt 230.000đ/tháng, nhưng thu nhập bình quân tính theo đầu người lại đạt từ 300.000đ<br />
đến 500.000đ/tháng.<br />
Ở những cơ sở sản xuất không ổn định, thu nhập của công nhân dưới 300.000đ/tháng (còn chiếm tới 43,5%)<br />
gặp không ít khó khăn trong đời sống hàng ngày. Cộng thêm với bao nhiêu khoản: lệ phí, quan hệ phí, học phí...<br />
cho bản thân và con cái họ, vấn đề tiền lương đang trở thành nỗi day dứt - nhức nhối trong công nhân lao động.<br />
Theo số liệu thống kê của Ban Kinh tế Chính sách xã hội Liên đoàn Lao động thành phố, tháng 2-1995,<br />
trong số 60.503 công nhân của gần 300 doanh nghiệp có mức thu nhập là: Thu nhập 120.000đ/tháng: 1.954<br />
người bằng 3,3%<br />
- Thu nhập từ 121.000đ đến 300.000đ/tháng: 24.298 người bằng 40,2%<br />
- Thu nhập từ 301.000đ đến 500.000đ/tháng: 25.471 người bằng 42,1%<br />
- Thu nhập từ 501.000đ đến 700.000đ/tháng: 7.890 người bằng 13,2%<br />
- Thu nhập từ 701.000đ/tháng trở lên: 500 người bằng 0,9%<br />
- Bình quân thu nhập 6 tháng cuối năm 1994 là: 343.000đ đến 360.000đ/người/tháng.<br />
Theo số liệu điều tra mức sống của gia đình công nhân trực tiếp sản xuất, của cục thống kê Hà Nội, cho<br />
thấy: mức chi tối thiểu cho đời sống của người lao động một tháng là 257.600đ/người. Vậy trong số 43,5% công<br />
nhân lao động có thức thu nhập dưới 300.000đ/tháng, họ phải tự điều chỉnh để có thể nuôi được con cái, cha mẹ<br />
già và trang trải các nhu cầu sinh hoạt khác.<br />
Trên thực tế, để giải quyết khó khăn cho công nhân lao động, một số doanh nghiệp đã phải “xé rào”, lấy<br />
mức lương tối thiểu là 240.000đ làm cơ sở để tính thu nhập cho công nhân (tuy rằng không công bố).<br />
Chính sách tiền lương không còn là một yếu tố để tạo động lực thúc đẩy sản xuất, và người công nhân cũng<br />
không còn thiết tha với việc thi tay nghề nâng bậc thợ như trước. Lương cấp bậc chỉ còn ý nghĩa để tính chế độ<br />
bảo hiểm xã hội và chế độ hưu trí. Phải chăng đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng tỷ<br />
lệ thợ bậc cao giảm so với những năm trước.<br />
Theo thống kê của ngành công nghiệp Hà Nội tháng 3 năm 1995:<br />
Năm 1990 Năm 1995<br />
- Bậc thợ bình quân: 3,2 2,8<br />
- Thợ bậc 5/7 chiếm tỷ lệ: 9,93% 2,43%<br />
- Thợ bậc 6/7 chiếm tỷ lệ: 4,62% 0,75%<br />
- Thợ bậc 7/7 chiếm tỷ lệ: 0,44% 0,33%<br />
Để đáp ứng được với yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước chúng ta cần: “Xây dựng đội ngũ công<br />
nhân Thủ đô phát triển cả về số lượng và chất lượng..: có trình độ văn hóa phổ cập cấp III, tay nghề đạt 40% bậc<br />
cao...” (Nghị quyết 18 của thành uỷ Hà Nội về xây dựng đội ngũ<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
82 Về thực trạng tâm tư - nguyện vọng của công nhân lao động Hà Nội<br />
<br />
<br />
công nhân Thủ đô đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2000). Nhưng với chính sách tiền<br />
lương như hiện nay, không những không kích thích được việc học tập - nâng cao tay nghề cho công nhân mà<br />
còn “đẩy” một số thợ bậc cao, thợ lành nghề có sức khoẻ tốt ra khỏi các doanh nghiệp nhà nước. Họ “Tìm -<br />
kiếm” những nơi có thu nhập cao hơn, nhất là ở các ngành: xây dựng, cơ kim khí, dệt - da - may. Ở công ty giày<br />
da Hà Nội, hàng năm có khoảng trên dưới 200 công nhân đã có tay nghề tương đối khá rời khỏi dây chuyền sản<br />
xuất. Ở Công ty Dệt 8-3, chỉ riêng năm 1995 đã có 211 công nhân công nghệ rời khỏi công ty..<br />
Vì vậy để có được một đội ngũ công nhân lành nghề, đáp ứng được nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hóa<br />
đất nước. Để tiền lương thực sự là một yếu tố tạo nên động lực phát triển sản xuất cần có một chính sách tiền<br />
lương phù hợp, xuất phát từ lợi ích của cả ba khu vực: Nhà nước - Tập thể - Người lao động.<br />
Từ tháng 1 năm 1995 luật lao động được triển khai, thực hiện. Điều 3 luật lao động quy định: người lao<br />
động làm việc 8 giờ một ngày, một tuần không quá 48 giờ, nhưng thực tế hiện nay ở nhiều doanh nghiệp sán<br />
xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu hầu hết công nhân phải chạy theo hợp đồng, theo định mức, phải làm từ 10<br />
đến 14 giờ một ngày mới đảm bảo thu nhập từ 300.000đ đến 500.000đ/tháng. Nếu chỉ làm 8 giờ một ngày thì<br />
thu nhập sẽ thấp, không đủ sống. Vì vậy dù là tự nguyện hay không tự nguyện thì thực tế người công nhân vẫn<br />
phải lao động với cường độ và thời gian lớn mới có thu nhập tạm đủ để trang trải cho cuộc sống của bản thân và<br />
gia đình họ. Cũng vì vậy mà mối quan tâm của họ đến việc học tập, vui chơi giải trí và các vấn đề chính trị xã<br />
hội đều rất hạn chế. Theo số liệu điều tra: ngoài giờ làm việc chỉ có 1,7% số công nhân học bổ túc vãn hoá;<br />
1,6% theo học đại học và cao đẳng; 7,7% học ngoại ngữ. Ngay cả điều kiện tiếp thu thông tin đại chúng của<br />
công nhân cũng rất hạn chế. Theo điều tra của ban Tuyên giáo Thành uỷ tháng 10/1994 về điều kiện tiếp thu<br />
thông tin đại chúng của công nhân, có kết quả như sau:<br />
- 42,5% công nhân có thời gian và có các phương tiện để theo dõi như đài - báo - tivi.<br />
- 14,53% công nhân có thời gian nhưng khó khăn về các phương tiện thông tin.<br />
- 38,1% công nhân có phương tiện thông tin nhưng không có thời gian để theo dõi.<br />
- 4,9% công nhân không có cả thời gian lẫn phương tiện thông tin để theo dõi.<br />
Một số chính sách xã hội cũng đang là nỗi băn khoăn, trăn trở của công nhân lao động.<br />
Nghị định 46/CP của nhà nước về bảo hiểm xã hội, quy định nam phải đủ 60 tuổi, nữ 55 tuổi mới được nghỉ<br />
hưu (với điều kiện phải đủ năm công tác: nam 30 năm, nữ 25 năm). Dù đủ năm công tác nhưng chưa đủ tuổi vẫn<br />
không được về hưu.<br />
Trong thực tế, ở nhiều ngành nghề, người công nhân không thể đủ sức lực, trí tuệ để làm tới khi đủ tuổi theo<br />
quy định cửa nhà nước. Công nhân may trên các dây chuyền may công nghiệp ở độ tuổi 45 trở lên khó có thể<br />
đảm bảo được định mức lao động (lúc này họ đã có từ 25 đến 28 năm công tác). Công nhân ngành dệt đứng máy<br />
sợi, máy dệt, mỗi ca máy phải đi bộ từ 25 đến 30 kilômét, không thể đủ sức khoẻ để làm việc cho đến tuổi về<br />
hưu (hàng năm có 8% công nhân ngành dệt, sợi phải ra khỏi dây chuyền sản xuất vì không đủ sức khoẻ)...<br />
Trong khi đó sự bố trí, sắp xếp lao động trong các doanh nghiệp, dù cố gắng cũng chỉ giải quyết được một<br />
số rất ít người chuyển sang làm việc khác phù hợp với sức khoẻ. Vì vậy nhiều người đã phải xin nghỉ hưu trước<br />
tuổi (mặc dù đã đủ năm công tác), chịu thiệt thòi trừ 2% lương cho mỗi năm nghỉ trước tuổi. Một công nhân khi<br />
đủ năm công tác - đủ tuổi về hưu chỉ được tối đa 75% lương, khi về hưu trước 10 năm thì chỉ còn 55% lương.<br />
Với số lương hưu như vậy không làm sao đủ sống, lại phải tiếp tục bươn chải, kiếm sống bằng đủ các loại công<br />
việc khác nhau: từ bơm<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Trần Việt Tiến 83<br />
<br />
<br />
xe, rửa bát đến giữ trẻ, bán hàng rong... và các việc tạp vụ khác để có thêm thu nhập trang trải cuộc sống hàng<br />
ngày.<br />
Đi làm thì không đủ sức - về hưu thì không đủ sống. Đây là nỗi lo lắng day dứt trăn trở của lớp công nhân<br />
lớn tuổi, sau một chặng đường dài lao động.<br />
Về điều kiện lao động, hiện nay số đông công nhân đang phải làm việc trong nhà xưởng, thiết bị máy móc<br />
cũ kỹ, hư hỏng có nguy cơ gây ra nhiều sự cố nguy hiểm và tai nạn lao động.<br />
Môi trường lao động bị ô nhiễm nghiêm trọng, các yếu tố độc hại: bụi, hơi khí độc, nóng ồn, rung, bức xạ...<br />
đều vượt giới hạn cho phép. Sức khỏe công nhân bị suy giảm tai nạn lao động ở mức nghiêm trọng còn xảy ra.<br />
Những yếu tố trên gây ra trạng thái lao động bị ức chế, tình trạng không thoải thái, căng thẳng, gò bó trong lúc<br />
làm việc ảnh hưởng không ít đến nhiệt tình lao động, năng suất và chất lượng lao động.<br />
Tóm lại, về đời sống, mức sống và cả điều kiện lao động của đội ngũ công nhân Hà Nội còn thấp kém so với<br />
yêu cầu. Trong khi đó, các chính sách có liên quan đến quyền lợi của người lao động lại thiếu đồng bộ, không<br />
hoàn chỉnh, còn nhiều khiếm khuyết đã tác động trực tiếp đến tâm tư, suy nghĩ của công nhân lao động, không<br />
có tác dụng tạo động lực thúc đẩy sản xuất.<br />
Những phân tích trên đây chỉ đề cập đến những nét chính, phần nào phản ánh được thục trạng tâm tư tình<br />
cảm, nhu cầu và nguyện vọng của đội ngũ công nhân lao động Hà Nội.<br />
Việc nghiên cứu mối quan hệ của công nhân trong các xí nghiệp cần được tiếp tục, trên quy mô và bình diện<br />
rộng hơn, để có cơ sở khoa học kiến nghị với Đảng nhà nước có những chính sách kinh tế - xã hội thực sự tạo<br />
động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, cùng với việc xây dựng đội ngũ công nhân Thủ đô ngày càng lớn mạnh cả<br />
về số lượng và chất lượng đáp ứng với sự đòi hỏi của công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />