intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

VIÊM GAN C (HEPATITIS C) - Phần 4

Chia sẻ: Nguyễn Thắng | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

71
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Viêm Gan A Viêm gan A là loại virut viêm gan ít nghiêm trọng nhất trong các loại virut viêm gan phổ biến. Nó chỉ có một dạng cấp tính (ngắn hạn) mà có thể kéo dài vài tuần đến 6 tháng. Nó không có dạng mãn tính. Đa số những người mắc bệnh viêm gan A được hồi phục hoàn toàn. Sau khi bệnh nhân hồi phục, họ được miễn dịch đối với virut viêm gan A. Trong những trường hợp hiếm thấy, viêm gan A có thể gây ra chứng suy gan (suy gan đột ngột) nhưng...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: VIÊM GAN C (HEPATITIS C) - Phần 4

  1. VIÊM GAN C (HEPATITIS C) Phần 4 DỰ ĐOÁN BỆNH Viêm Gan A Viêm gan A là loại virut viêm gan ít nghiêm trọng nhất trong các loại virut viêm gan phổ biến. Nó chỉ có một dạng cấp tính (ngắn hạn) mà có thể kéo dài vài tuần đến 6 tháng. Nó không có dạng mãn tính. Đa số những người mắc bệnh viêm gan A được hồi phục hoàn toàn. Sau khi bệnh nhân hồi phục, họ được miễn dịch đối với virut viêm gan A. Trong những trường hợp hiếm thấy, viêm gan A có thể gây ra chứng suy gan (suy gan đột ngột) nhưng tình trạng này thường xảy ra ở những người mắc các chứng bệnh gan mãn tính, như viêm gan B và C.
  2. Viêm Gan B Viêm gan B có thể có 2 dạng, cấp tính hoặc mãn tính. Phần lớn (95%) những người bị nhiễm bệnh viêm gan B hồi phục trong vòng 6 tháng và tạo ra miễn dịch đối với virut này. Những người đã được miễn dịch thì sẽ không bị nhiễm bệnh và không thể lây truyền virut sang người khác. Tuy nhiên, các ngân hàng máu sẽ không chấp nhận máu hiến từ những người được kiểm tra dương tính kháng thể HBV. Khoảng 5% số bệnh nhân phát triển dạng viêm gan B mãn tính. Những người mắc bệnh viêm gan B mãn tính dễ lây nhiễm và được xem là người mang bệnh, mặc dù họ không có bất kỳ triệu chứng nào. Nhiễm bệnh viêm gan B mãn tính làm gia tăng đáng kể nguy cơ bị tổn thương gan, bao gồm xơ gan và ung thư gan. Thật vậy, viêm gan B là nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh ung thư gan trên toàn thế giới. Bệnh gan, đặc biệt là ung thư gan, là nguyên nhân chính gây tử vong ở những người bị viêm gan B mãn tính. Những bệnh nhân bị viêm gan B và cũng bị nhiễm bệnh viêm gan D có thể phát triển thành một dạng nhiễm bệnh cấp tính nghiêm trọng hơn những người chỉ mắc bệnh viêm gan B. Cùng bị nhiễm viêm gan B và D sẽ làm gia tăng nguy cơ phát triển chứng suy gan cấp tính. Những bệnh nhân bị viêm gan B mãn tính và viêm gan D mãn tính cũng sẽ có nhiều nguy cơ bị chứng xơ gan. Viêm gan D chỉ xảy ra ở những người đang bị nhiễm bệnh viêm gan B.
  3. Viêm Gan C Viêm gan C có 2 dạng, cấp tính và mãn tính, nhưng đa số (75 – 85%) bệnh nhân nhiễm virut này phát triển thành viêm gan C mãn tính. Viêm gan C mãn tính gây ra nguy cơ bị sơ gan, ung thư gan, hoặc cả hai. • Khoảng 60 - 70% số bệnh mắc bệnh viêm gan C sau này sẽ phát triển thành bệnh gan mãn tính. • Khoảng 5 – 20 % số bệnh nhân mặc bệnh viêm gan C sẽ laphát triển thành xơ gan trong khoảng từ 20 – 30 năm. Thời gian nhiễm bệnh này càng lâu, thì nguy cơ càng cao. Những bệnh nhân đã bị viêm gan C hơn 60 năm thì sẽ có 70% cơ hội phát triển thành bệnh xơ gan. • Trong số các bệnh nhân này, khoảng 4% sau đó sẽ phát triển thành ung thư gan. (Ung thư gan hiếm khi hình thành nếu không có sự hiện diện của chứng xơ gan.) • Khoảng từ 1 – 5% những người nhiễm bệnh viêm gan C sau đó sẽ bị tử vong vì chứng xơ gan hay ung thư gan. Những bệnh nhân nhiễm viêm gan C cũng có thể có nhiều nguy cơ bị những rối loạn không liên quan đến gan, bao gồm:
  4. • Chứng cryoglobulin huyết (một rối loạn trong đó các protein kết dính lại trong máu). Điều này có thể gây ngứa và loét da, các bệnh về thận, thấp khớp, và nhạy cảm (như đau nhói dây thần kinh hoặc đau nhức) ở tay và chân. Những người có những triệu chứng như vậy có thể gặp phải khó khăn khi sử dụng thuốc interferon, thuốc này sẽ có những tác dụng phụ tương tự. • Chứng PCT (một rối loạn gây ra sự thay đổi về màu da và kết cấu da và bị nhạy cảm với ánh sáng) • Bệnh tiểu đường loại 2, đặc biệt là ở những người trẻ tuổi mắc bệnh viêm gan C và bị thừa cân • Viêm thận tiểu cầu, một chứng bệnh về thận gây ra bởi tình trạng sưng thận. • Một số loại u lym phô (những dạng ung th ư hệ bạch huyết), như chứng u lym phô giống bệnh Hodgkin CÁC TRIỆU CHỨNG Các triệu chứng của bệnh viêm gan A Các triệu chứng thường là nhẹ, đặc biệt ở trẻ em, và thường xuất hiện trong khoảng từ 2 – 6 tuần sau khi tiếp xúc với virut này. Những bệnh nhân ở tuổi trưởng thành có nhiều khả bị sốt, vàng da, buồn nôn, mệt mỏi và ngứa mà có thể
  5. kéo dài đến vài tháng. Phân của người bệnh có thể xuất hiện màu xám nhạt và nước tiểu có màu đậm. Các Triệu Chứng của Bệnh Viêm Gan B Viêm Gan B Cấp Tính. Nhiều người bị viêm gan B cấp tính sẽ có một vài hoặc không có triệu chứng nào. Nếu có các triệu chứng xuất hiện, chúng có xu hướng xảy ra 6 tuần tới 6 tháng (thông th ường nhất là 3 tháng) sau khi tiếp xúc với virut và thường là nhẹ và có triệu chứng giống như cảm cúm. Các triệu chứng có thể bao gồm sốt nhẹ, buồn nôn, nôn mửa, không cảm thấy ngon miệng, mệt mỏi, hoặc đau cơ hoặc khớp. Một số bệnh nhân có nước tiểu có màu đậm và bị vàng da. Các triệu chứng của viêm gan B cấp tính có thể kéo dài từ một vài tuần đến 6 tháng. Ngay cả khi những người bị nhiễm bệnh viêm gan B không có triệu chứng nào, họ vẫn có thể lây truyền virut này. Viêm Gan B Mãn Tính. Trong khi một vài người bị bệnh viêm gan B có những triệu chứng tương tự như những triệu chứng của dạng bệnh viêm gan B cấp tính, nhiều người có thể bị viêm gan B mãn tính hàng chục năm và không xuất hiện triệu chứng nào. Tổn thương gan có thể sau đó được phát hiện khi thực hiện xét nghiệm máu để kiểm tra chức năng của gan (xem phần Chẩn Đoán). Các Triệu Chứng của Bệnh Viêm Gan C
  6. Đa số các bệnh nhân mắc bệnh viêm gan C không cảm thấy có các triệu chứng. Viêm gan C mãn tính có thể xuất hiện trong vòng từ 10 đến 30 năm, và thỉnh thoảng có thể phát triển thành bệnh xơ gan hoặc suy gan trước khi bệnh nhân nhận thấy bất kỳ triệu chứng rõ ràng nào. Những dấu hiệu của gan bị tổn thương có thể được phát hiện trước tiên khi thực hiện xét nghiệm máu để kiểm tra chức năng của gan. Nếu những triệu chứng đầu tiên thực sự xảy ra, chúng có xu h ướng rất nhẹ và tương tự như cảm cúm với những triệu chứng mệt mỏi, buồn nôn, mất đi sự ngon miệng, sốt, nhức đầu, và đau bụng. Những người có những triệu chứng này thường có xu hướng cảm nhận được chúng khoảng 6 – 7 tuần sau khi tiếp xúc với virut. Có một số người không bị những triệu chứng n ày cho đến 6 tháng sau khi tiếp xúc. Những người bị viêm gan C vẫn có thể lây truyền virut cho những người khác ngay cả khi họ không có triệu chứng nào. CHẨN ĐOÁN Các bác sĩ chẩn đoán bệnh viêm gan dựa trên việc khám sức khỏe và các kết quả xét nghiệm máu. Bên cạnh những xét nghiệm đặc biệt về kháng thể viêm gan, các bác sĩ sẽ yêu cầu những xét nghiệm máu khác để đánh giá chức năng của gan.
  7. Những Xét Nghiệm Đặc Biệt Cho Bệnh Viêm Gan A Bác sĩ dùng xét nghiệm máu để xác định các loại kháng thể kháng viêm gan A IgM, là những chất mà cơ thể sản sinh để chống lại sự nhiễm bệnh viêm gan A. Những Xét Nghiệm Đặc Biệt Cho Viêm Gan B Có nhiều loại xét nghiệm khác nhau để phát hiện virut viêm gan B. Các xét nghiệm thông thường bao gồm: • Kháng nguyên bề mặt viêm gan B (HBsAg). Kết quả dương tính cho thấy nhiễm virut hoạt tính, có thể là cấp tính hay mãn tính. • Kháng thể đối với kháng nguyên lõi viêm gan B (Anti-HBc). Kết quả dương tính cho thấy có thể mới bị nhiễm virut gần đây hoặc đã từng bị nhiễm. • Kháng thể đối với HBsAg (Anti-HBs). Kết quả dương tính cho thấy miễn dịch đối với viêm gan B có thể là do đã bị nhiễm virut này trong quá khứ hoặc đã được tiêm chủng. • Kháng nguyên bề mặt viêm gan E (HBeAg) cho thấy rằng bệnh nhân bị nhiễm bệnh mãn tính có thể truyền nhiễm cho người khác.
  8. Các Xét Nghiệm Đặc Biệt Cho Viêm Gan C Các Xét Nghiệm Xác Định Virut. Xét nghiệm thông thường đầu tiên để chẩn đoán bệnh viêm gan C được gọi là ELISA (enzyme-linked immunosorbent assay), được dùng để xét nghiệm kháng thể viêm gan C. Xét nghiệm ELISA thường có thể phát hiện ra các loại kháng thể từ 4 đến 10 tuần sau khi bị nhiễm. Các Xét Nghiệm Xác Định Các Kiểu Gen và Mật Độ Virut Trong Máu. Còn có thể những xét nghiệm được gọi là xét nghiệm axit ribonucleic (RNA) virut viêm gan C có thể được thực hiện để xác thực sự chẩn đoán. Các xét nghiệm này sử dụng phản ứng chuỗi polymer (PCR) để phát hiện RNA (chất liệu di truyền) của virut. Những xét nghiệm thế này sẽ được sử dụng nếu các kết quả xét nghiệm ELISA cho thấy kháng thể virut viêm gan C dương tính và có thể được thực hiện nếu có sự nghi ngờ trong việc chẩn đoán nhưng bác sĩ vẫn xác nhận sự hiện diện của virut. RNA của virut viêm gan C có thể được phát hiện thông qua các xét nghiệm máu trong khoảng từ 2 đến 3 tuần ngay sau khi bị nhiễm. Các xét nghiệm RNA viêm gan C cũng xác định mức độ virut (gọi là mật độ virut trong máu). Những mức độ như thế không phản ánh mức độ nghiêm trọng của căn bệnh hoặc tốc độ phát triển của nó, khác với các virut khác nh ư HIV (những mức độ như thế thực sự cho thấy mức độ nghiêm trọng và tốc độ phát triển của căn bệnh). Tuy nhiên, mật độ virut trong máu cao có thể cho thấy hiệu quả kém h ơn
  9. khi sử dụng các loại thuốc interferon (được dùng để “can thiệp” vào sự tái tạo bản sao của virut trong các tế bào chủ). Những bệnh nhân với mật độ virut trong máu dễ nhận biết nên được xét nghiệm kiểu gen viêm gan C. Biết được kiểu gen cụ thể của loại virut này giúp ích cho việc xác định phương pháp tiếp cận điều trị. Có 6 loại kiểu gen viêm gan C chính và hơn 50 kiểu gen phụ. Chúng xem ra không ảnh hưởng đến tỉ lệ tăng trưởng của bản thân căn bệnh, nhưng chúng có thể có những ảnh hưởng hoàn toàn khác nhau trong việc điều trị. Những kiểu gen cụ thể có tỉ lệ hiện hành khác nhau trên khắp thế giới. Kiểu gen 1 thì khó điều trị nhất và là nguyên nhân của khoảng 75% các trường hợp bệnh ở Hoa Kỳ. Những kiểu gen phổ biến khác ở Hoa Kỳ l à kiểu gen 2 (15%) và kiểu gen 3 (7%) dễ điều trị hơn kiểu gen 1. Những người bị viêm gan C cần được xét nghiệm kiểu gen của virut họ mắc phải để các bác sĩ có thể đ ưa ra các đề xuất trị liệu hợp lý. Các nhà nghiên cứu đang xem xét việc phát minh ra một loại xét nghiệm di truyền để xác định những bệnh nhân bị viêm gan C mãn tính mà có nhiều nguy cơ nhất phát triển thành bệnh xơ gan. Các nhà nghiên cứu hy vọng rằng xét nghiệm đang được thử nghiệm này có thể giúp các bác sĩ quyết định bệnh nhân nào nên được trị liệu sớm bằng alpha-interferon (một loại protein được cơ thể tạo ra để chống lại sự lây nhiễm) và thuốc Ribavirin (có tác dụng ngăn chặn virut gây ra viêm gan C lan truyền trong cơ thể).
  10. Sinh Thiết Gan. Sinh thiết gan có thể giúp cho cả việc chẩn đoán và xác định những đề xuất trị liệu. Chỉ có sinh thiết gan mới có thể xác định đ ược mức độ tổn thương trong gan. Một số bác sĩ đề xuất phương pháp sinh thiết chỉ cho những bệnh nhân không mắc phải kiểu gen 2 hoặc 3 (vì những kiểu gen này dễ điều trị). Sinh thiết gan ở những bệnh nhân mắc phải những kiểu gen khác có thể giúp làm rõ nguy cơ phát triển bệnh và cho phép các bác sĩ đưa ra cách điều trị cho những bệnh nhân bị chai gan (chứng xơ hóa) tương đối nặng. Thậm chí đối với những bệnh nhân có men gan alanine aminotrasferase (ALT) ở mức b ình thường, xét nghiệm sinh thiết cũng có thể phát hiện ra sự tổn thương nghiêm trọng. Các Xét Nghiệm Kiểm Tra Chức Năng Gan Đối với những người bị nghi ngờ mắc phải hoặc mang bệnh viêm gan do virut gây ra, các bác sĩ sẽ đo lường một số hợp chất trong máu. • Bilirubin. Bilirubin là một trong những yếu tố quan trọng nhất cho thấy mắc bệnh viêm gan. Nó là một loại sắc tố màu vàng đỏ mà thường được chuyển hóa trong gan và được bài thải theo đường tiểu. Đối với những bệnh nhân mắc bệnh viêm gan, gan không thể chuyển hóa bilirubin, và vì thế hàm lượng chất này trong máu gia tăng. (Hàm lượng cao chất bilirubin gây ra chứng vàng da).
  11. • Men Gan (Aminotransferases). Các chất men được gọi là aminotranserases, bao gồm aspartate (AST) và alanine (ALT), được tiết ra khi gan bị tổn thương. Việc đo lường các men gan này, đặc biệt là ALT, là những xét nghiệm ít tốn kém và ít tạo ra vết mổ nhất để xác định mức độ nghi êm trọng của bệnh gan tiềm ẩn và để theo dõi tính hiệu quả của cách điều trị. Tuy nhiên, hàm lượng men thay đổi và phải luôn luôn là dấu hiệu của bệnh. (Ví dụ, các men gan này không giúp ích cho việc phát hiện tiến trình phát triển thành bệnh xơ gan.) • Photphataza kiềm (ALP). Hàm lượng cao men ALP có thể cho thấy đường dẫn mật bị tắt nghẽn. • Mật độ albumin huyết thanh. Albumin huyết thanh đo hàm lượng protein trong máu (hàm lượng thấp cho thấy chức năng gan kém). • Xét nghiệm tính giờ prothrombin (PT). Xét nghiệm PT đo lường thời gian (theo đơn vị giây) máu đông hình thành (máu đông càng lâu thì nguy cơ bị xuất huyết càng lớn). Sinh Thiết Gan Sinh thiết gan có thể được thực hiện để xét nghiệm bệnh viêm gan cấp tính do virut gây ra ở giai đoạn cuối hoặc những trường hợp nghiêm trọng của bệnh viêm
  12. gan mãn tính. Sinh thiết giúp xác định các khả năng điều trị, mức độ tổn th ương, và dự phòng dài hạn. Khi thực hiện sinh thiết, bác sĩ cho một cây kim nhỏ dùng trong sinh thiết, cây kim này được hướng dẫn bởi sóng siêu âm, để lấy ra một mẩu nhỏ mô gan. Gây mê cục bộ được thực hiện để làm tê khu vực được sinh thiết. Bệnh nhân có thể có cảm giác bị đè nặng hoặc bị đau nhức nhẹ. Tiến trình này được thực hiện trong khoảng 20 phút.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2