intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển dưới con mắt triết học

Chia sẻ: Thanh Thảo | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:0

382
lượt xem
53
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường Thêm vào đó là thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc, làm cho hệ thống phân công lao động quốc tế theo lối áp đặt trực tiếp phải sụp đổ và thay thế bằng hệ thống phân công mới...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển dưới con mắt triết học

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển dưới con mắt triết học
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT LỜI MỞ ĐẦU Kể từ sau cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ ba (1913 – 1950), s ự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ đã thúc đẩy sự phát tri ển nhanh chóng của lực lượng sản xuất vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia, mở rộng trên phạm vi toàn thế giới theo cả chiều rộng và chiều sâu. Do đó, tất c ả các qu ốc gia không phân biệt trình độ đã và đang hình thành mối quan hệ gắn bó lẫn nhau. Đường biên giới quốc gia và khoảng cách địa lý trở nên m ờ nh ạt, các t ổ ch ức kinh tế khu vực và toàn cầu nối tiếp nhau ra đời. Sự ra đời của các t ổ ch ức l ớn nh ư WTO, APEC, NAFTA và gần đây là sự ra đời của các khu v ực đồng ti ền chung Euro đã là ví dụ điển hình trong thiên niên k ỉ m ới này, cu ộc cách m ạng công ngh ệ tiếp tục đi sâu, mở rộng ứng dụng công nghệ tin h ọc sẽ là động l ực chính thúc đẩy hơn nữa quá trình hội nhập kinh tế, toàn cầu hoá. Trước bối cảnh toàn cầu như vậy, công cuộc phát triển kinh t ế c ủa n ước ta không thể đứng ngoài xu thế toàn cầu hoá. Nhận thấy được tình hình kinh t ế c ủa đất nước đang gặp khó khăn, tháng 12/1986 Đảng và Nhà n ước quy ết đ ịnh chuy ển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế th ị trường theo đ ịnh hướng xã hội chủ nghĩa. Trong chiến lược phát triển kinh tế, vấn đề hội nhập nền kinh tế thế giới, tăng cường hợp tác kinh tế các nước và các t ổ ch ức quốc t ế đang là vấn đề được quan tâm. Với phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ” và “là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Việt Nam đã thiết lập quan h ệ ngoại giao v ới h ơn 160 nước và hầu hết các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng. Với việc gia nh ập PECC (01/1995), ASEAN (07/1995), ký kết hiệp định chung về h ợp tác kinh t ế v ới EU (7/1995), tham gia APEC (11/1998), và đang chuẩn b ị tích c ực cho các cu ộc đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Việt Nam từng bước vững chắc hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Ngày
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT 27/11/2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị Quyết về hội nhập kinh tế quốc tế nhằm cụ thể hoá một chủ trương lớn được nêu ra tại Đại hội lần thứ IX của Đảng là: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa n ội l ực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và đ ịnh h ướng xã h ội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc, bảo v ệ môi trường”. Những vấn đề nêu trên là những vấn đề mà em rất tâm huy ết, r ất quan tâm và đó cũng là lí do, là sự thôi thúc em ch ọn đề tài: “ Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển dưới con mắt triết học”. Và em hi vọng đề tài này sẽ giải đáp được phần nào thắc mắc về vấn đề hội nhập và toàn cầu hoá ở nước ta hiện nay.
  4. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT PHẦN 1 CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI CƠ SỞ LÝ LUẬN I. 1. Lý luận triết học Phép biện chứng đã khẳng định: các sự vật, các hiện tượng, các quá trình khác nhau của thế giới có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, và cũng đồng thời khẳng định tính thống nhất vật chất c ủa th ế gi ới là c ơ s ở c ủa các mối liên hệ đó. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa d ạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của m ột th ế giới duy nhất, thống nhất – thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nh ất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong s ự tác động qua l ại, chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng, mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới. Do đó mọi mối liên h ệ đều mang tính khách quan, là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan, mà còn mang tính ph ổ bi ến. Bởi lẽ, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện t ượng khác. Không có sự vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong thời đại ngày nay không một quốc gia nào không có quan hệ, không có liên h ệ v ới các qu ốc gia khác về mọi mặt của đời sống xã hội. Chính vì thế mà hiện nay trên thế giới đã và đang xuất hiện xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá mọi mặt của đời sống xã h ội. Nhiều vấn đề đã và đang trở thành vấn đề toàn cầu như : đói nghèo, bệnh hiểm nghèo, môi trường sinh thái, dân số và kế hoạch hoá gia đình, chiến tranh và hoà bình…Ngoài ra, mối liên hệ được biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ
  5. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT thể theo điều kiện nhất định Song, dù dưới hình thức nào, chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất. Mặt khác, mối liên hệ là phạm trù triết h ọc dùng đ ể ch ỉ s ự quy đ ịnh, s ự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt của sự vật hiện tượng, mà sự vật hiện tượng luôn tồn tại và vận đ ộng không ngừng theo nhiều cách thức khác nhau. Do đó mà mối liên h ệ còn mang tính đa dạng. Và trong mỗi sự vật hiện tượng có thể bao gồm rất nhi ều lo ại mối liên h ệ, chứ không phải chỉ có một cặp mối liên hệ xác định. 2. Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan của các nước trong giai đoạn hiện nay “Toàn cầu hoá” là một xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại, mà trước hết là tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sôi động. Cách đây hơn 150 năm, Các Mác đã dự báo xu hướng này và ngày nay đã trở thành hiện thực. Theo ông, toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế mới của quá trình phát tri ển kinh t ế thị trường, phản ánh trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất xã h ội mà ở đó, phân công lao động quốc tế và quốc tế hoá sản xuất trở thành phổ biến. Trong lịch sử, trước khi phương thức sản xuất TBCN ra đời, do trình đ ộ l ực lượng sản xuất thấp kém, giao thông chưa phát triển, việc sản xuất và trao đổi hàng hoá còn bị giới hạn trong các cơ sở sản xuất quy mô nh ỏ, năng su ất th ấp nên chưa có thị trường thế giới theo nghĩa hiện đại. Từ khi ph ương th ức s ản xu ất TBCN ra đời, đặc biệt là từ khi diễn ra cuộc cách mạng công nghi ệp, đ ời s ống kinh tế các nước có sự thay đổi căn bản. Tình trạng t ự c ấp, t ự túc và b ế quan to ả cảng của các địa phương, các dân tộc trước kia được thay thế bằng sự sản xuất và tiêu dùng mang tính quốc tế. Tuy nhiên, cho đến trước Th ế chi ến th ứ 2, hình th ức quốc tế hóa chủ yếu vẫn là phân công áp đ ặt trực ti ếp, t ức là các n ước phát tri ển áp dụng chiến tranh xâm lược và bạo lực để thống trị các nước lạc hậu, bóc lột, vơ vét tài nguyên và tiêu thụ hàng hoá. Trong đó, mỗi nước đế quốc có một h ệ
  6. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT thống thuộc địa riêng, phân công lao động và quốc tế hoá còn mang tính chất cát cứ, làm cho các nước lạc hậu không thoát khỏi tình trạng khó khăn trì trệ. Từ sau Thế chiến 2, do tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa h ọc – k ỹ thuật, lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển h ết s ức nhanh chóng. Thêm vào đó là thắng lợi của phong trào giải phóng dân t ộc, làm cho h ệ thống phân công lao động quốc tế theo lối áp đặt trực tiếp phải sụp đổ và thay th ế bằng hệ thống phân công mới gọi là toàn cầu hoá kinh t ế. Toàn c ầu hoá kinh t ế là quá trình phát triển mới của phân công lao động và h ợp tác s ản xu ất v ượt ra kh ỏi biên giới một quốc gia vươn tới qui mô toàn thế giới, đạt trình độ chất lượng mới. Như vậy, toàn cầu hóa kinh tế là kết quả tất yếu của quá trình xã h ội hoá sản xuất, của tốc độ phát triển nhanh của lực lượng sản xuất, bắt nguồn t ừ sự thúc đẩy của khoa học, kỹ thuật và công ngh ệ hiện đại, nó là k ết qu ả t ất y ếu c ủa sự phát triển sâu rộng nền kinh tế thị trường trên phạm vi toàn th ế gi ới, s ự gia tăng phân công lao động quốc tế, sự mở rộng hơn nữa trong không gian và th ời gian các mối quan hệ giao lưu phổ biến của loài người và sự hiện di ện nóng b ỏng của những vấn đề toàn cầu cấp bách. Nói cách khác, nó là kết quả của các quá trình tích luỹ về số lượng đã tạo ra một khối lượng tới h ạn đ ể s ố lượng bi ến thành chất mới; xu hướng quốc tế hóa, khu vực hoá đã chuy ển thành xu h ướng toàn cầu hoá trong thời đại ngày nay. Nó là một trong nh ững xu th ế l ịch s ử t ất y ếu do quy luật phát triển của lực lượng sản xuất chi phối. Và trong đó đặc trưng nổi bật của toàn cầu hoá kinh tế là nền kinh t ế th ế giới tồn tại và phát triển như một chỉnh thế, trong đó mỗi quốc gia là một b ộ phận, có quan hệ tương tác lẫn nhau, phát triển với nhiều hình th ức phong phú. Tham gia toàn cầu hoá kinh tế, các quốc gia vẫn hoàn toàn độc l ập v ề chính tr ị, xã hội, vẫn là các chủ thế tự quyết định ý thức h ệ, vận m ệnh và con đ ường phát triển của mình. Toàn cầu hoá kinh tế làm cho các quốc gia ngày càng ph ụ thu ộc vào nhau về vốn, kỹ thuật, công nghệ, nguyên liệu và thị trường. Đến nay toàn
  7. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT cầu hoá kinh tế đã cuốn hút nhiều quốc gia ở khắp các châu l ục, đã có 27 t ổ ch ức kinh tế khu vực và toàn cầu ra đời và hoạt động [ Thẩm Kỳ Nh ư – Trung Qu ốc không làm bất tiên sinh…Viện TTKH, Học viện CTQG HCM, H1999, tr358-359 ] Đây là sự phát triển mới chưa từng có. Lịch sử đã chứng tỏ không một quốc gia nào, dù lớn và giàu đến đâu, cũng không thể sản xuất được tất cả các sản ph ẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế. Chúng ta không quên 100 năm về trước Trung Quốc đóng cửa nền kinh tế để rồi phải chịu sự thụt lùi về mọi mặt. Thành tựu có đ ược nh ư ngày nay là nhờ vào mở cửa kinh tế.Như vậy rõ ràng xu thế này là xu th ế phát triển tất yếu của thời đại không thể khác được. Chỉ có những quốc gia nào nắm bắt nhịp xu thế này, biết tận dụng cơ hội, vượt qua thách th ức m ới đ ứng v ững và phát triển. Cự tuyệt hay khước từ toàn cầu hoá kinh tế t ức là t ự g ạt mình ra ngoài lề của sự phát triển.
  8. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT CƠ SỞ THỰC TẾ : II. 1. Tình hình quốc tế và khu vực làm nảy sinh và phát tri ển quá trình h ội nhập. Đại hội VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ “mở rộng quan hệ kinh t ế đ ối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu v ực, c ủng c ố và nâng cao v ị thế nước ta trên trường quốc tế”. Đại hội lần thứ IX khẳng định chủ trương “phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững”.[Trích văn ki ện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX – trang 89] Chủ trương hội nhập kinh t ế quốc tế được đề ra trong bối cảnh tình hình th ế giới và khu v ực di ễn ra nhanh chóng, phức tạp, khó lường trước được, với những đặc điểm sau: Trong hơn thập kỉ qua, kinh tế thế giới nhìn chung phát tri ển không đ ồng đều. Trên thế giới đã xảy ra mấy cuộc khủng hoảng lớn, sâu rộng h ơn c ả là cu ộc khủng hoảng kinh tế – tài chính nổ ra năm 1997. Vị thế các nước và các khu vực thay đổi theo hướng: kinh tế Mỹ phát triển nhanh và ổn định liên tục trong nhiều năm và đến 2002 bắt đầu suy giảm; kinh tế Tây Âu hiện không còn phát tri ển nhanh như các thập kỉ trước; kinh tế Nhật suy thoái chưa có lối ra; các nước thu ộc Liên Xô trước đây và nước Đông Âu rơi vào tình trạng suy thoái kéo dài, vài năm gần đây tăng trưởng tương đối khá; kinh tế Trung Quốc phát triển ngoạn m ục; Đông Nam á và Đông á phát triển nhanh vào bậc nhất thế giới trong những thập kỷ trước, tuy nhiên vừa qua đã rơi và suy thoái và nay đang h ồi ph ục; Nam Á và Châu Phi vẫn chưa thoát khỏi tình trạng trì trệ kéo dài; kinh t ế Mỹ latinh có khá h ơn song cũng không ổn định. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên th ế giới phát tri ển nh ư vũ bão. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay đang tác động đến tất c ả các nước trên thế giới với những mức độ khác nhau, đưa lại nh ững thành qu ả c ực kỳ to lớn cho nhân loại và những hậu quả xã hội hết sức sâu sắc. Công nghệ thông tin đang là nhân lõi của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nó phản ánh
  9. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT giai đoạn mới về chất của sản xuất, trong đó hàm lượng trí tu ệ là thành ph ần ch ủ yếu trong sản phẩm. Công nghệ sinh học là bước đột phá vào th ế gi ới đ ầy bí hiểm của sự sống, tạo ra một tiềm năng to lớn cho việc sản xuất các vật ph ẩm phục vụ cho nhu cầu của con người như lương thực, thực phẩm, thuốc chữa b ệnh và các vật liệu công nghiệp thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người. Công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng mới, công nghệ hàng không vũ trụ … mở ra một tiềm năng mới cho loài người chinh phục tự nhiên, chinh phục vũ trụ. Tự động hoá trong sản xuất ngày càng giải phóng con người khỏi những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ xã hội. Xu thế toàn cầu hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ, ảnh hưởng đến cuộc sống của tất cả các dân tộc trên thế giới. Ngày nay các nền kinh tế của các quốc gia gắn bó hữu cơ và tuỳ thuộc vào nhau. Tính thẩm thấu lẫn nhau của các nền kinh tế gia tăng. Nền sản xuất thế giới mang tính toàn cầu. Phân công lao đ ộng qu ốc t ế đạt tới trình độ ngày càng cao. Phương châm kinh doanh lấy th ế gi ới làm nhà máy của mình, lấy các nước làm phân xưởng của mình, qua đó phân công lao đ ộng quốc tế có thể lợi dụng ưu thế kỹ thuật, tiền vốn, sức lao đ ộng và th ị tr ường c ủa các nước, thúc đẩy quá trình quốc tế hoá sản xuất phát triển nhanh chóng. Trong quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá, nổi lên xu hướng liên kết kinh tế dẫn tới sự ra đời, rồi hợp nhất của nhiều tổ chức kinh tế và thương mại, tài chính quốc tế và khu vực, như Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Liên minh Châu âu (EU), khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ (AFTA)… Hiện nay, các nước lớn, nhỏ đều giành ưu tiên cho phát triển kinh tế, theo đuổi chính sách kinh tế mở. Nay những nước có tiềm năng và thị trường lớn nh ư Trung Quốc, Nga, ấn Độ, Mỹ…và cả một số nước vốn khép kín, theo mô hình t ự cung tự cấp cũng dần dần mở cửa, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
  10. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT Mặt khác cộng đồng thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quy ết nếu không có s ự h ợp tác đa phương như: bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ dân số, đẩy lùi dịch bệnh hiểm nghèo, chống tội phạm quốc tế… Tuy nhiên trong xu thế đó, các nước công nghiệp phát tri ển, đ ứng đầu là Mỹ, do có ưu thế về thị trường, nắm được tiến bộ khoa học- công nghệ, có nền kinh tế phát triển cao, đã ra sức thao túng, chi phối thị trường th ế giới, áp đ ặt đi ều kiện với những nước chậm phát triển hơn, thậm chí dùng nhiều biện pháp thô bạo như bao vây cấm vận, trừng phạt, làm thiệt hại lợi ích của các n ước đang phát triển và chậm phát triển. Trước tình hình đó các nước đang phát triển đã từng bước tập hợp nhau lại, đấu tranh chống chính sách tăng cường quyền áp đặt của Mỹ để bảo vệ lợi ích của mình vì một trật tự kinh tế bình đẳng, công bằng. ở khu vực Đông Nam áđã diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc. Mặc dù tr ải qua cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính trầm trọng trong thời gian 1997 -1998, song vẫn là khu vực có nhiều tiềm năng do vị trí địa lý chính trị và đ ịa lý kinh t ế c ủa mình, dung lượng thị trường lớn, tài nguyên phong phú, lao động dồi dào, được đào tạo tốt, có quan hệ quốc tế rộng rãi. Toàn bộ tình hình trên đem lại nhiều thuận lợi to lớn, đ ồng th ời cũng đ ặt ra nhiều thách thức gay gắt đối với nước ta trong quá trình phát tri ển đ ất n ước nói chung và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng. 2. Hội nhập kinh tế với các nước đang phát triển Thế giới ở vào thời điểm chuyển giao giữa hai thế kỷ đang chứng kiến những đổi thay sâu sắc trên tất cả mọi lĩnh vực, từ sản xuất vật chất đến đời sống tinh thần xã hội. Toàn cầu hoá nổi lên như một trong nh ững xu h ướng ch ủ đ ạo chi phối hệ thống quan hệ quốc tế hiện đại. Xét trên ph ương di ện s ản xu ất v ật ch ất xã hội, một giai đoạn mới của lịch sử nhân loại đang từng b ước quá đ ộ t ừ x ẫ h ội
  11. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT gắn với nền văn minh công nghiệp lên nấc thang phát tri ển cao h ơn. N ấc thang phát triển này được đặc trưng bởi công nghệ và cơ cấu kinh tế mới – kinh tế tri thức, trên cơ sở áp dụng rộng rãi các thành tựu khoa h ọc – công ngh ệ tiên ti ến, các phương tiện truyền tin hiện đại và máy tính. Nhìn một cách tổng quát, toàn cầu hoá kinh tế là quá trình ph ổ bi ến theo hướng nhất thể hoá trên phạm vi toàn cầu những giá trị, tri thức, những hoạt động, những mô hình – cấu trúc trong lĩnh vực kinh tế và cả khoa học, kỹ thuật. Trong đó các nước đang phát triển tham gia với động lực cơ bản là nh ằm mở rộng th ị trường xuất khẩu, tạo mối liên kết thương mại giữa các quốc gia, các khu vực với nhiều hình thức phong phú, hoạt động có hiệu quả. Và cho đến nay, một s ố các quốc gia đang phát triển đã đạt được những tiến bộ vượt bậc ví như : ở khu vực Đông Nam á có Thái Lan, Malayxia, Singapo đã chuyển mạnh sang kinh tế hướng về xuất khẩu và thu được những thành quả tốt. Xét về việc mở rộng và đa dạng các mối liên kết th ương m ại thì chính sách tỷ giá, chính sách giảm thuế xuất nhập khẩu, bãi bỏ hàng rào thuế quan, phi thu ế quan đã làm cho hoạt động thương mại tại các nước mở rộng thị trường và tăng khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu. Hơn nữa, trong quá trình hội nhập kinh tế,điều chúng ta thấy rõ là th ị trường vốn có mối liên kết chặt chẽ hơn nhiều. Các nước đang phát triển có cơ hội hội nhập với thị trường tài chính toàn cầu. Nhờ vậy mà loại bỏ việc kiểm soát đối với đồng vốn chảy vào, đồng thời cũng bãi bỏ dần nh ững hạn ch ế trong thanh toán và giao dịch thông qua tài khoản. Hiện nay, nhiều nước đã chấp nhận thả nổi đồng tiền, đã làm cho đồng vốn đổ vào các nước này tăng nhanh. Mặt khác, hội nhập kinh tế trong thời gian qua có tác động tích cực đến việc ổn định kinh tế vĩ mô. Nhiều quốc gia đang phát triển đã mở cửa thị trường thu hút vốn, một mặt thúc đẩy công nghiệp hoá, một mặt tăng tích luỹ t ừ đó c ải thi ện mức thâm hụt ngân sách. Chính sự ổn định kinh tế vĩ mô này đã tạo niềm tin cho
  12. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT các chương trình phát triển hỗ trợ cho những quốc gia thành công trong cải cách kinh tế và mở cửa. Ngoài ra, hội nhập kinh tế tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và nâng cao mức thu nhập tương đối của các tầng lớp dân cư. Chính những mặt thuận lợi này mà hội nh ập kinh t ế qu ốc t ế có s ức m ạnh to lớn. Nó kéo tất cả các quốc gia dù lớn, dù nhỏ, dù giàu hay nghèo đều bị cuốn vào. Tuy nhiên điều đáng nói ở đây là chủ nghĩa tư bản hiện đại với ưu th ế v ề vốn và công nghệ đang ráo riết thực hiện ý đồ chiến lược bi ến quá trình toàn c ầu hoá nói chung và toàn cầu hoá kinh tế nói riêng thành quá trình t ự do hoá kinh t ế và áp đặt chính trị theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Bởi vậy, tất cả các n ước, nh ất là các nước đang phát triển, đều phải tìm kiếm các đối sách để thích ứng v ới quá trình toàn cầu hoá đa bình diện và đầy nghịch lý. Sau hàng thế kỷ đấu tranh kiên cường, anh dũng, các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc đã thoát khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành được độc lập dân tộc và chủ quyền. Mặc dù vậy, bức tranh kinh tế – xã h ội c ủa các nước chậm phát triển và đang phát triển vẫn đang ngày càng có nhiều biểu hiện đáng lo ngại về sự tụt hậu so với trình độ của các nước phát triển. Khoảng cách ấy không những không được khắc phục, rút ngắn mà còn thực sự trở thành nguy cơ chia cắt thế giới làm hai nửa khác biệt: vài chục quốc gia tiên ti ến đã v ượt h ơn 100 quốc gia thuộc “thế giới thứ ba” hàng vài thập niên phát triển hoặc gấp trăm lần chênh lệch về thu nhập bình quân GDP tính theo đầu người. Các nước này tuy đã giành được độc lập, đó là m ột thành qu ả vô cùng quan trọng, song các nước này hầu hết lại là các nước nghèo, còn l ạc h ậu. Cho nên, h ọ vẫn bị phụ thuộc vào hệ thống kinh tế của chủ nghĩa tư bản : từ khai thác – s ử dụng tài nguyên, quy trình sản xuất, vốn, kỹ thuật – công ngh ệ đ ến th ị tr ường tiêu thụ cũng như phân công lao động quốc tế… Các nước đang phát triển đang ph ải đối diện trước thách thức của nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh tế. Bởi một
  13. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT cơ cấu kinh tế còn nhiều bất hợp lý, trong đó tỷ trọng công nghiệp nhỏ bé trong tổng giá trị thu nhập quốc dân, cộng thêm với trình độ th ấp kém v ề năng su ất lao động, cho nên tốc độ phát triển kinh tế của đa số các nước đang phát tri ển th ấp và bấp bênh. Trong thập niên 60, các nước đang phát triển đạt mức tăng trưởng 5,7%, thập niên 70 đạt 5,3% thì đến thập niên 80 là 2% và nh ững năm v ừa qua c ủa th ập niên 90 tuy tình hình có được cải thiện, song cũng ch ỉ đ ạt m ức trên 4% trong khi t ỉ lệ tăng dân số vẫn còn ở mức trên 2%/năm. Không những thế vấn đề nợ nước ngoài cũng trở thành gánh nặng đối với các nước đang phát triển. Số liệu thống kê của Liên hợp quốc cho thấy, nợ nước ngoài của các nước này đã tăng hơn 300 lần trong 4 th ập niên qua : t ừ 6 t ỉ năm 1995 lên trên 2000 tỉ đầu năm 2000. Trong đó, có những nước mà tổng s ố nợ đã vượt xa so với tổng thu nhập quốc dân. Những bi kịch về nợ nước ngoài của các nước đang phát triển không chỉ được biểu hiện ở tổng số nợ khổng lồ mà còn là tình trạng nhiều nước không có khả năng thanh toán dù chỉ là lãi suất hằng năm, trong khi dó tốc độ của các khoản vay vẫn gia tăng và không h ề có d ấu hi ệu gi ảm bớt. Cùng với nợ nần là tình trạng bất bình đẳng trong trao đổi mậu d ịch – thương mại giữa các nước đang phát triển và phát triển. Chỉ tính riêng qua trao đ ổi không ngang giá, các nước phát triển mỗi năm thu về món lợi hàng chục tỉ USD. Mặt khác, vẫn tiếp tục diễn ra sự phân biệt đối xử với hàng hóa – sản phẩm của các nước đang phát triển khi thâm nhập thị trường các nước phát triển. Qua con đường đầu tư, chuyển giao kỹ thuật – công ngh ệ, các cường quốc t ư b ản không chỉ thu lợi do bán các thiết bị công nghệ lạc hậu và gây ô nhi ễm mà còn khống chế nhiều huyết mạch kinh tế quan trọng của các nước đang phát tri ển. Còn các nước đang phát triển, do áp lực bức bách của nhu c ầu c ải thi ện đ ời s ống kinh tế, đã dễ dàng chấp nhận “chào đón” bất kỳ sự cải ti ến k ỹ thu ật – công ngh ệ nào, bất kỳ nguồn vốn tư bản nào. Sự đơn giản dễ dãi này, mặc dù trước m ắt có
  14. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, song rất có th ể ph ải trả giá đ ắt bởi các h ậu qu ả kinh tế xã hội khó lường. Do vậy, lựa chọn kỹ thuật – công ngh ệ, c ơ c ấu kinh t ế, mô hình kinh tế – xã hội đang đặt ra những tiêu chuẩn ph ức t ạp h ơn đ ể có th ể t ận dụng mọi cơ hội phát triển cho cả ngày mai, không chỉ vì nh ững cái lợi t ức th ời trước mắt. Đó là những vấn đề trên con đường hợp tác giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển, vậy còn hợp tác giữa các nước đang phát triển với nhau thì sao? Con đường này cũng gặp nhiều trở ngại bởi lẽ các nước này đều có sự tương đồng về trình độ phát triển cũng như các lợi thế về nguồn tài nguyên, nhân l ực và thị trường…trong khi tất cả đều thiếu vốn, kỹ thuật – công ngh ệ và tri th ức qu ản lý hiện đại. Hơn nữa, những lợi thế nêu trên dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ và toàn cầu hoá hiện nay không còn có vai trò, ý nghĩa nổi bật như các thập niên trước đây. Điều đó cho thấy, các nước đang phát triển cần thiết phải có cách tiếp cận mới trong hợp tác cùng nhau. Ch ỉ có nh ư v ậy, khuôn khổ và cơ chế hợp tác mới thực sự trở nên hữu ích và thi ết th ực đối v ới các n ước đang phát triển. Đồng thời, nó đóng góp và việc phối hợp các nỗ lực chung của các nước đang phát triển nhằm từng bước khắc phục và hạn ch ế nh ững h ậu quả tiêu cực của toàn cầu hoá cũng như trong quá trình xúc tiến quan h ệ với các n ước phát triển. Hội nhập kinh tế là một vấn đề cấp bách và mang tính thời đại, nh ưng đó cũng là một bài toán hóc búa, đang thách đố các quốc gia, dân tộc đang phát triển, thôi thúc họ tìm lời giải tối ưu. Giữ vững độc lập dân t ộc, phát huy n ội l ực và k ết hợp với chủ động mở rộng hội nhập quốc tế, trở thành một trong những điều kiện tiên quyết – chìa khoá hữu hiệu để giải mã bài toán này trong k ỷ nguyên toàn c ầu hoá hiện nay.
  15. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT 3. Sự hình thành tất yếu của chủ trương hội nhập kinh t ế qu ốc t ế ở n ước ta Thật ra, chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế để phát tri ển đ ất nước không phải là một điều gì hoàn toàn mới đối với Đảng và Nhà nước ta. Nó là sự kế thừa, phát triển và vận động sáng tạo vào hoàn cảnh hiện nay của đất nước, những luận điểm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vừa mới ra đời sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong bài trả lời phỏng vấn của các nhà báo ngày 23 tháng 10 năm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “chúng ta hoan nghênh những người Pháp muốn đem tư b ản vào x ứ ta khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác…Chúng ta sẽ mời nh ững nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu, đến đây giúp vi ệc cho chúng ta trong công cuộc kiến thiết quốc gia” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, T4, NXB Chính trị quốc gia, HN 1995, tr74) Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, ngay từ giữa những năm 70 của th ế kỷ trước, nước ta đã gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), tích cực tham gia Phong trào không liên kết, Liên hợp quốc mà một trong nh ững nội dung c ơ b ản là đấu tranh cho một trật tự kinh tế thế giới công bằng. Bên cạnh mối quan hệ với các nước trong cộng đồng XHCN, nước ta đã ra sức thúc đẩy quan hệ h ợp tác bình đẳng cùng có lợi với các nước tư bản chủ nghĩa mặc dầu lúc đó các th ế lực thù địch thực hiện chính sách bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị đối với nước ta. Trong thời kì đổi mới, chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế càng được thể hiện rõ nét và được thực hiện tích cực hơn. Đại hội lần thứ VI của Đảng họp tháng 12 – 1986 đã chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nhằm đưa nước tar a khỏi cuộc khủng hoảng về kinh t ế – xã h ội. Vi ệc tri ển khai Nghị Quyết Đại hội lại diễn ra trong bối cảnh tình hình Liên Xô, Đông Âu xấu đi nhanh chóng và tới đầu những năm 90 thì chế độ XHCN đã bị xoá b ỏ t ại các nước này, Liên bang Xô Viết tan rã, Hội đồng tương trợ kinh tế giải th ể. Để
  16. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT phục vụ cho việc thực hiện đường lối đổi mới, Đại h ội và các h ội ngh ị Trung ương tiếp theo, nhất là các Nghị quyết 13/5/1988 của bộ chính trị, Ngh ị quy ết c ủa Hội nghị Trung ương VIII tháng 3/1990, đã phân tích sâu s ắc tình hình th ế gi ới, đ ề ra các chủ trương và giải pháp ứng phó với những tiêu cực của tình hình với nội dung chủ yếu là đẩy lùi chính sách bao vây kinh tế, cô l ập v ề chính tr ị đ ối v ới nước ta, mở rộng quan hệ quốc tế. Cũng theo tinh thần đó, năm 1987 nước ta đã thông qua Luật đầu tư với nước ngoài với những quy định khá thông thoáng. Đại hội lần thứ VII họp vào tháng 6/1991 mở ra bước đột phá mới: thông qua Cương lĩnh của Đảng và Chiến lược ổn định và phát tri ển kinh t ế – xã h ội 10 năm, đồng thời đưa ra những đường lối đối ngoại mở rộng với khẩu hiệu: “V ới chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, đ ộc l ập phát triển”. Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khoá VII đã ra Nghị quyết về chính sách đối ngoại, trong đó nêu ra tư tưởng chỉ đạo là “giữ vững nguyên tắc độc lập, th ống nhất và CNXH, đồng thời phải rất sáng tạo. Năng động, linh ho ạt, phù h ợp v ới v ị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng nước ta có quan h ệ”. Đ ồng th ời nghị quyết cũng nêu ra bốn phương châm: bảo đảm lợi ích dân tộc, trong đó kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ đối ngoại; nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; ưu tiên hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước. Đại hội lần thứ VIII họp tháng 6/1996 đã kh ẳng định ch ủ trương “xây d ựng một nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu v ực và th ế gi ới”. Hội nghị Trung ương 4 khoá VIII nêu nhiệm vụ “tích cực ch ủ động thâm nh ập và mở rộng thị trường quốc tế”, “tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán
  17. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT Hiệp định thương mại với Mỹ”, “gia nhập APEC và WTO, có kế hoạch c ụ th ể đ ể chủ động thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA”. 4. Nhận định về những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế. Những cơ hội mà Việt Nam có được khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế 4.1. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình “mở cửa” nền kinh t ế, đ ưa các doanh nghiệp trong nước tham gia tích cực vào cạnh tranh, quốc tế. Hội nh ập kinh t ế quốc tế chúng ta có cơ hội tích luỹ được những tiền đề, những đi ều ki ện cho m ột trình độ phát triển mới. Trước hết chúng ta có cơ hội thu hút vốn, khoa h ọc, k ỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý kinh tế từ bên ngoài và mở rộng thị trường để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đ ưa đ ất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển. Tiếp đó hội nhập kinh tế tạo kh ả năng m ở r ộng th ị trường ra nước ngoài trên cơ sở các hiệp định thương mại đã ký kết với các n ước, trong khu vực và toàn cầu. Tạo cơ hội giao lưu các ngu ồn l ực c ủa n ước ta v ới các nước, bởi chúng ta có nguồn nhân lực dồi dào, nhưng nếu không hội nh ập thì vi ệc sử dụng trong nước sẽ bị lãng phí, kém hiệu quả. Thông qua h ội nhập ta có th ể xuất khẩu lao động qua hợp đồng gia công hàng xuất kh ẩu. Đồng th ời t ạo c ơ h ội để nhập khẩu lao động kỹ thuật cao, các công nghệ mới, các phát minh sáng chế mà ta chưa có. Mặt khác, mở cửa và hội nh ập quốc t ế s ẽ giúp chúng ta đ ẩy m ạnh hơn nữa quá trình cải cách, đổi mới xã hội, nh ất là nh ững c ải cách v ề ph ương thức hoạt động của hệ thống chính trị, về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều chỉnh cơ cấu sản xuất trong nước, tăng sức c ạnh tranh cho nền kinh tế để tham gia ngày càng nhiều hơn vào phân công lao động quốc tế và mở rộng quá trình dân chủ hoá xã hội. Với một nền kinh tế yếu kém, nếu không tranh thủ được những cơ hội do toàn cầu hoá mang lại – dù là toàn cầu hoá đang do chủ nghĩa tư bản chi phối – thì chúng ta không thể xây dựng chủ nghĩa xã h ội
  18. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT được. Chỉ riêng vấn đề “học hỏi” chủ nghĩa tư bản chứ chưa nói đến tranh th ủ những nguồn lực, phương tiện vật chất cần thiết, đã là một tất yếu khách quan, một yêu cầu bắt buộc đối với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước ch ậm phát triển và đang phát triển nói chung và ở nước ta nói riêng. B ởi vì nh ư Lênin đã nói : “chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã h ội nào khác h ơn là ch ủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở những bài học mà nền văn minh l ớn c ủa ch ủ nghĩa t ư bản thu được” ( V.I Lênin, Toàn tập, NXB Tiến bộ, M, 1977, tr334). Những thách thức mà chúng ta gặp phải trên con đường hội nhập 4.2. Tuy nhiên, toàn cầu hoá là một quá trình vừa h ợp tác v ừa đ ấu tranh vô cùng phức tạp. Nó không chỉ đem đến cho chúng ta những cơ hội thuận lợi mà còn có cả những thách thức và khó khăn mới nảy sinh. Thách thức lớn nhất với nước ta là tình trạng th ấp kém c ủa n ền kinh t ế, khoảng cách về trình độ phát triển giữa ta với các nước trong khu vực và trên th ế giới còn rất xa. Học thuyết tự do mới về toàn cầu hóa đòi hỏi các quốc gia ph ải mở toang cửa nền kinh tế đất nước, phải thực hiện triệt để tự do hoá thị trường bên trong và bên ngoài, phải thả nổi tiền tệ, phải tư nhân hoá, phải giảm mạnh vai trò kiểm soát của Nhà nước theo hướng: “Nhà nước tối thiểu, thị trường tối đa”. Vì vậy các doanh nghiệp trong nước phải chấp nhận tư cách thành viên cạnh tranh ngang bằng các nước khác. Mà xu hướng tự do hoá th ương mại quốc t ế càng phát triển thì cạnh tranh quốc tế ngày càng khốc liệt. Điểm đặc biệt là ta ph ải c ạnh tranh ngay từ đầu, trên tất cả các mặt trận, với nh ững thế lực m ạnh h ơn nhi ều v ề thực lực và trình độ. Tại diễn đàn Kỳ họp thứ 6, Quốc h ội khoá XI, Th ủ t ướng Phan Văn Khải cũng nhiều lần nhấn mạnh : “Sức cạnh tranh c ủa các doanh nghiệp Việt Nam và nền kinh tế thua kém nhiều nước xung quanh là đi ều bất lợi lớn nhất khi hội nhập kinh tế quốc tế” Hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đứng trước yêu cầu phải chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đầu t ư theo chi ều sâu đ ể n ền kinh
  19. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT tế đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, chúng ta đứng trước khó khăn rất lớn trong việc điều chỉnh hệ thống pháp luật, cơ ch ế, chính sách làm sao vừa bảo đảm cho đổi mới thành công, nền kinh tế phát triển bền v ững; v ừa phù hợp với cam kết quốc tế; lại có khả năng khắc phục nh ững tiêu c ực, rủi ro do hội nhập đem lại. Nhìn chung, nếu không vượt qua được nh ững thách th ức này, chúng ta không thể có chủ nghĩa xã hội trong thực t ế. Mặt khác, toàn c ầu hoá đang bị chủ nghĩa tư bản chi phối trên các lĩnh vực : thị trường, khoa học – công nghệ và vốn. Các nước tư bản đang mưu toan ding nh ững lợi th ế này đ ể gây s ức ép đ ối với chúng ta. Thực tế này đe doạ tấn công vào chủ quy ền quốc gia, là xói mòn các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, đe doạ sự ổn định về kinh tế và xã hội của đất nước. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần tỉnh táo trong từng bước hội nh ập, cần phân tích tính hai mặt của toàn cầu hoá để nhận thức đ ược nh ững m ặt, nh ững xu hướng, những tác động, những quy luật vận động của nó. Trên cơ sở đó chủ động tìm ra con đường, cách thức biện pháp phù hợp trong từng bước h ội nh ập đ ể tiếp tục con đường phát triển theo định hướng xã hội ch ủ nghĩa trong b ối c ảnh mới.
  20. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT 5. Những quan điểm chỉ đạo trong quá trình hội nhập kinh t ế qu ốc tế ở nước ta : Từ những điều nói trên, chúng ta có thể khái quát và nh ấn mạnh m ột s ố quan điểm chủ yếu cần quán triệt trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc t ế của nước ta như sau : Thứ nhất chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập t ự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân t ộc, an ninh qu ốc gia, gi ữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường” (Trích Văn ki ện Đ ại h ội đ ại biểu toàn quốc lần thứ IX – trang 120) Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; trong quá trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực các thành ph ần kinh t ế của toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thứ ba, hội nhập kinh tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và c ạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách th ức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể; đồng thời vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ, thụ động, vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng. Thứ tư, cần nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất n ước, vừa đáp ứng các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia; tranh thủ những ưu đãi giành cho các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường. Cuối cùng, cần kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc t ế v ới yêu cầu giữ vững ổn định chính trị, an ninh, quốc phòng; thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhằm củng cố chủ quy ền và an ninh đ ất
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0