intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vitamin D và cảm cúm

Chia sẻ: Cao Thi Nhu Kieu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

76
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Vitamin D và cảm cúm Vitamin D: Còn có các tên là antirachitic factor, calcitriol... Đây là một nhóm hóa chất trong đó về phương diện dinh dưỡng có 2 chất quan trọng là ecgocanxiferon (vitamin D2) và colecanxiferon (vitamin D3). Trong thực vật ecgosterol, dưới tác dụng của ánh nắng sẽ cho ecgocanxiferon. Trong động vật và người có 7-dehydro-cholesterol, dưới tác dụng cửa ánh nắng sẽ cho colecanxiferon. Vai trò:  Hình thành hệ xương: vitamin này tham gia vào quá trình hấp thụ canxi và photpho ở ruột non, nó còn tham gia vào củng cố, tu sửa xương.  Cốt hóa răng: tham...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vitamin D và cảm cúm

  1. Vitamin D và cảm cúm Vitamin D: Còn có các tên là antirachitic factor, calcitriol... Đây là một nhóm hóa chất trong đó về phương diện dinh dưỡng có 2 chất quan trọng là ecgocanxiferon (vitamin D2) và colecanxiferon (vitamin D3). Trong th ực vật ecgosterol, dưới tác dụng của ánh nắng sẽ cho ecgocanxiferon. Trong động vật và người có 7-dehydro-cholesterol, dưới tác dụng cửa ánh nắng sẽ cho colecanxiferon.
  2. Vai trò: Hình thành hệ xương: vitamin này tham gia vào quá trình hấp thụ canxi và  photpho ở ruột non, nó còn tham gia vào củng cố, tu sửa xương. Cốt hóa răng: tham gia vào việc tạo ra độ chắc cho răng của con người.  Chức năng khác: vitamin D còn tham gia vào điều hoà chức năng một số  gen. Ngoài ra, còn tham gia một số chức năng bài tiết của insulin, hormon cận giáp, hệ miễn dịch, phát triển hệ sinh sản và da ở nữ giới. Một nghiên cứu về mối liên hệ giữa vitamin D và cảm cúm mới công bố trên tập san Archives of Internal Medicine cho thấy vài sự thật hết sức thú vị, và theo tôi, cũng rất quan trọng. Trong nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu Mĩ đo lường nồng độ vitamin D (25D) ở 18,883 đối tượng (nam và nữ) tuổi từ 12 trở lên. Sau đó, họ hỏi mỗi tình nguyện viên trong nghiên cứu câu sau đây: “In the past few days, have you had a cough, cold, or other acute illness?” (Trong vài ngày qua, bạn có bị ho, cảm lạnh, hay một bệnh cấp tính nào khác”). Kết quả cho thấy trong số 18883 người, có 19% (95% CI: 18-20) bị cảm cúm. Không có khác biệt n ào đáng kể giữa nam (18%) hay nữ (20%). Cũng chẳng có khác biệt nào đáng kể giữa người béo phì hay không béo
  3. phì. Như kì vọng, tỉ lệ bệnh cảm cúm cao trong mùa đông (26%) so với mùa xuân (18%), thu (21%), và mùa hè (13%). Chúng ta biết rằng mùa hè là mùa mà nồng độ vitamin D trong máu tăng cao. Cho nên các nhà nghiên cứu phân tích mối liên hệ giữa tỉ lệ cảm cúm và nồng độ vitamin D. kết quả phân tích (bảng sau đây) cho thấy khi nồng độ vitamin D trong máu giảm, nguy cơ mắc bệnh cảm cúm tăng. Người có nồng độ vitamin D trong máu 30+ ng/mL trở lên có tỉ lệ bị cảm cúm thấp nhất (17%) so với người có nồng độ dưới 10 ng/mL (24%). Ref:Ginde AA, et al. Association between serum 25-hydroxyvitamin D level and upper respiratory tract infection in the Third National Health and Nutrition Examination Survey. Arch Int Med 2009; 169:384-390. “Câu chuyện” về vitamin D và bệnh truyền nhiễm đang trở thành một đề tài nóng trong y khoa, ít ra là trong ngành nội tiết. Ai cũng biết ảnh h ưởng “cổ điển” của vitamin D là điều phối chuyển hóa của calcium, và do đó tác động trực tiếp đến xương. Từ thế kỉ 19, người ta thấy trẻ em thiếu vitamin D bị chứng còi xương. Khi các bệnh nhân còi xương được cho phới nắng, họ dứt bệnh. Liệu pháp điều trị trời cho!
  4. Nhưng mấy năm gần đây, người ta phát hiện rằng thụ thể vitamin D (tức VDR) hiện diện khắp các mô và tế bào trong cơ thể. Vitamin D đóng vai trò kiểm soát và điều phối gần 1000 gien trong cơ thể chúng ta. Đây là một loại hormone bận rộn nhất. Một phát hiện có lẽ “sensational” nhất là vitamin D đóng vai trò quan trọng trong hệ miễn dịch nội tại (tức là innate immunity), nhất là mối liên hệ giữa vitamin D và peptide chống siêu vi khuẩn cathelicidin. Trẻ em bị còi xương thường thiếu cathelicidin và hay bị cảm cúm. Có ít nhất 200 virút là thủ phạm gây cảm cúm, sổ mũi, và ho. Do đó, giả thuyết đặt ra là vitamin D có liên quan đến cảm cúm. Kết quả nghiên cứu trên đây cho thấy giả thuyết đó có cơ sở thực tế. Hiện nay, vài đồng nghiệp trong nước và tôi đang chuẩn bị tiến hành một nghiên cứu về vitamin D và một số bệnh nhiễm trùng hay gặp ở nước ta. Hi vọng rằng qua những nghiên cứu mới nhất, chúng ta sẽ có một biện pháp phòng chống cảm cúm và các bệnh truyền nhiễm hữu hiệu mà lại rẻ tiền. Nhưng thuyết phục bà con, nhất là nữ, phơi nắng ở nước ta không phải là chuyện đơn giản. Phân tích dịch tễ học, nghiên cứu này là một cơ hội để thử xem các tác giả phân tích có đúng chưa. Dựa vào số liệu trong bảng trên, chúng ta có thể làm thử phân
  5. tích odds ratio của họ xem có đúng không? Nếu tính bằng risk ratio có thể kết quả sẽ khác. Làm sao để tính risk ratio? Khoa học đã chứng minh rằng vitamin D không chỉ là một loại thuốc bổ đơn thuần; người ta có bệnh khi thiếu chất này, và cũng bị ảnh hưởng sức khoẻ nghiêm trọng khi thừa nó. Thừa hay thiếu vitamin nếu phát hiện muộn đều có thể gây trọng bệnh suốt đời. Hiện người ta thường dùng 2 loại vitamin D, là vitamin D2 (dùng dưới dạng uống) và vitamin D3 (có trong dầu gan cá thu, thường dùng dưới dạng tiêm bắp). Tuy nhiên, cả hai loại này đều được dùng để bổ sung vitamin D cho trẻ còi xương. Khi có những biểu hiện khác vì thừa và cả thiếu vitamin D, chỉ có thể phòng bằng ăn uống và rèn luyện thân thể. Thiếu vitamin D Thường có 2 biểu hiện là còi xương và loãng xương. Còi xương
  6. Còi xương thường thấy ở trẻ em, nhất là những trẻ ít tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, hoạt chất chống còi xương thu được do chiếu tia tử ngoại (có trong ánh nắng mặt trời) kém, chất caxi được hấp thu quá ít. Trẻ còi xương có các biểu hiện như hay đổ mồ hôi (nhất là đổ mồ hôi trộm), ngủ hay giật mình, mọc răng chậm, răng hay bị sâu, trẻ chậm lớn, chậm biết lẫy, biết đi. Càng về sau trẻ có thể bị co giật, gù lưng, vẹo cột sống. Phòng bệnh còi xương: - Hiện có một số bà mẹ quá cẩn thận chỉ quấy bột bằng nước ninh xương, hớt bỏ mọi chất để lấy nước trong, dẫn đến tình trạng thiếu vitamin D cho trẻ. Các chuyên gia dinh dưỡng khuyên không kiêng khem quá mức trong việc ăn uống cho trẻ. Với những trẻ đã bước vào tuổi ăn dặm, nên cho ăn thêm nhiều thức ăn giàu vitamin D như gan động vật (gan lợn, bò, gà...), trứng, dầu ăn, bơ... - Cho trẻ tắm nắng, nhất là ánh nắng buổi sáng sớm. Thời gian đầu cho trẻ tắm nắng 15 phút/ngày, sau tăng lên nửa giờ. Chú ý che mặt và mắt cho trẻ khi tắm nắng. Loãng xương
  7. Đây là bệnh của người già, hay gặp ở phụ nữ tuổi mãn kinh. Khi mắc bệnh, xương trở nên dễ gãy vì lượng canxi đưa vào không đủ bù lượng canxi của cơ thể mất đi hàng ngày. Chỉ sau một tai nạn ngã nhẹ mà cũng gãy xương, người ta mới biết mình bị loãng xương. Ngay từ khi bước vào tuổi trên 30, mỗi người cần có ý thức bù lượng canxi cho cơ thể bằng cách ăn uống, vì lượng vitamin D thích hợp đưa vào cơ thể đóng vai trò chủ yếu trong phòng bệnh loãng xương. Vitamin D và caxi có trong các loại thịt, hoa quả, trứng, đặc biệt có trong một số loại sữa bột béo và không béo chứa hàm lượng canxi cao. Với người có tuổi, việc cung cấp đầy đủ lượng canxi kết hợp việc tập thể dục, rèn luyện thân thể sẽ giúp cho xương rắn chắc suốt đời. Thừa vitamin D Nếu dùng vitamin D quá cao (liều dùng lớn hơn 1.000.000 đơn vị quốc tế trong vòng 7 ngày) thì có thể gây chứng thừa vitamin D với các dấu hiệu kém ăn, nhức đầu, buồn nôn, ỉa chảy, có albumin trong nước tiểu, sỏi thận, sỏi bàng quang, cao
  8. huyết áp... Đặc biệt là các biểu hiện ở mắt với 2 triệu chứng, cần đến ngay thầy thuốc chuyên khoa để xử lý: - Tại kết mạc (là lớp màng mỏng che trước lòng trắng của mắt) có những nốt nhỏ, trắng nhạt, sắp xếp thành hàng ngang hay cong queo rồi đổ vào vùng rìa của lòng đen (giác mạc). - Tại giác mạc có hiện tượng viêm giác mạc hình dải băng, gặp chủ yếu ở trẻ em.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1