
Vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Tình hình thực hiện
Thực tiễn những năm qua cho thấy, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là vùng
lãnh thổ phát triển năng động nhất cả nước, góp phần quan trọng vào thành tựu
chung của công cuộc đổi mới. Những thành tựu đã đạt được cho thấy chủ trương
chung của Đảng và Nhà nước ta, của các ngành, các địa phương về phát triển vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam nói chung phản ánh tính chính xác của các quyết sách
ở tầm vĩ mô và thành quả lao động sáng tạo của Đảng bộ, quân dân các địa phương
trong vùng.
1.1. Những kết quả đạt được
So với nhiều vùng khác của cả nước, những kết quả nổi trội của vùng thể hiện ở
những nội dung sau đây:
(1) Dân số và mật độ dân số của vùng
Bảng 1: Dân số và mật độ dân số
2000 2001 2002 2003
Dân số (nghìn người) 8825,2
9052,4
9218,2
9433,5
Mật độ dân số (Người/km2)
697 714,8 727,9 744,6
(2) Các tỉnh, thành phố trong vùng đã duy trì liên tục được tốc độ tăng trưởng
cao, vượt trội so với mức bình quân cả nước.
Thời kỳ 1996 - 2000 tốc độ tăng trưởng bình quân của vùng đạt khoảng
8,68%/năm, thời kỳ 2001 - 2002 đạt 9%. Năm 2002, GDP bình quân đầu người của

vùng kinh t
ế trọng điểm Nam bộ gấp 2,8 lần mức b
ình quân c
ủa cả n
ư
ớc (18,8 triệu
so với 6,7 triệu đồng).
Công nghiệp phát triển nhanh, tốc độ tăng trưởng GDP công nghiệp bình quân
hàng năm cả thời kỳ 1996 - 2000 đạt khoảng 11,63% và giai đoạn 2001 - 2002 đạt
khoảng 11,37%.
Nông nghiệp phát triển đa dạng theo hướng cơ cấu lại cây trồng, mùa vụ, phát
triển mạnh cây công nghiệp có thị trường tiêu thụ, thâm canh, tăng năng suất. Tốc
độ tăng trưởng GDP nông nghiệp bình quân đạt gần 4%/năm.
Các loại hình dịch vụ phát triển đa dạng, thương mại phát triển khá, dịch vụ vận
tải, bưu chính viễn thông, du lịch, khách sạn, nhà hàng; dịch vụ tài chính, tiền tệ,
ngân hàng phát triển sôi động hơn so với các vùng khác. Tốc độ tăng trưởng GDP
các ngành dịch vụ đạt khoảng 6,7% thời kỳ 1996 - 2000 và 7,16% thời kỳ 2001 -
2002...
(3) Cơ cấu kinh tế trong vùng đã có sự chuyển dịch tích cực, góp phần lôi kéo sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế các vùng lân cận: tỷ trọng các ngành công nghiệp, xây
dựng và dịch vụ trong GDP tăng từ 88,55% GDP năm 1995 lên 94% vào năm
2002. Đây là cơ cấu khá tiên tiến, vượt trội so với cơ cấu kinh tế của cả nước.
Điều đó chứng tỏ các ngành sản xuất công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đã có sự
phát triển đáng kể trong những năm gần đây.
Ngoài lĩnh vực công nghiệp phát triển khá nhanh, những khu công nghiệp trong
vùng dần dần được lấp đầy; đã hình thành một số vùng sản xuất hàng hoá quy mô
lớn (như cao su, điều, cà phê, mía, lạc...) có mối liên kết với công nghiệp chế biến,
tăng cường xuất khẩu và có tác dụng rõ rệt đối với quá trình phát triển chung của
vùng.
Xuất khẩu là một trong những lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của vùng. Năm 2002,

t
ổng kim ngạch xuất khẩu của v
ùng kinh t
ế trọng điểm phía Nam đạt khoảng 11 tỷ
USD, mức xuất khẩu bình quân đầu người gấp 5,5 lần mức bình quân cả nước (và
gấp 3,8 lần nếu không kể dầu khí). Chỉ tiêu xuất khẩu bình quân đầu người của
vùng đã tăng lên đáng kể, gấp gần 2,7 lần sau 6 năm (từ 420 USD lên 1.130 USD)
và cao hơn nhiều so với mức bình quân của các vùng khác trong cả nước. Đây là
vùng kinh tế có độ mở lớn nhất cả nước.
(4) Đóng góp ngày càng cao vào thành quả chung về phát triển kinh tế - xã hội
của cả nước:
Mặc dù chỉ chiếm 1/30 diện tích, 1/9 dân số, vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ đã
đóng góp khoảng 1/3 GDP, tăng từ 31% năm 1995 lên 35,6% năm 2002, đóng góp
32% thu ngân sách và chiếm tỷ trọng lớn về giá trị sản xuất công nghiệp và tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước.
Tỷ trọng giá trị công nghiệp của vùng trong tổng giá trị toàn ngành công nghiệp
cả nước tăng từ 48,3% năm 1995 lên 50,9% năm 2000 và 55,3% năm 2002, đã góp
phần nâng tỉ lệ đóng góp vào GDP cả nước của vùng Đông Nam bộ từ 29,5% năm
1995 lên khoảng 34% năm 2002.
Vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ là vùng tập trung nhiều khu công nghiệp nhất
cả nước. Năm 2003 đã có 42 khu công nghiệp, khu chế xuất được thành lập. Nhiều
khu công nghiệp được đánh giá phát huy tốt và có hiệu quả so với các vùng khác
trong cả nước. Các khu công nghiệp trong vùng thu hút 1.197 doanh nghiệp và 617
doanh nghiệp trong nước đầu tư, chiếm 86,1% số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) và 60% số dự án, 75% vốn đầu tư trong nước vào các khu công nghiệp của
cả nước và có tỷ lệ lấp đầy gần 46% so với mức bình quân chung cả nước là 45%.
Năm 2002, tổng doanh thu của các dự án trong các khu công nghiệp của vùng
kinh tế trọng điểm Nam bộ đạt 2,5 tỷ USD, chiếm 86% doanh thu và giá trị xuất

kh
ẩu của doanh nghiệp trong các khu công nghiệp của cả n
ư
ớc. Đồng thời tạo việc
làm cho gần 29 vạn lao động trực tiếp (chiếm 81% tổng số lao động trong các khu
công nghiệp của cả nước) và cũng khoảng chừng ấy lao động gián tiếp.
(5) Kết cấu hạ tầng được cải thiện đáng kể
Trong 5 năm 1996 - 2000, tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội huy động cho đầu
tư phát triển của vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ đạt khoảng trên 210 nghìn tỷ
đồng, chiếm 41- 42% tổng vốn đầu tư xã hội của cả nước. Trong đó, vốn đầu tư từ
ngân sách chiếm 10 -11%; vốn của doanh nghiệp nhà nước chiếm 21 - 22%. Vốn
FDI đã thực hiện tương đương khoảng 85 - 86 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 40 -
41% tổng vốn đầu tư xã hội của vùng và chiếm 57 - 58% vốn FDI của cả nước.
Hai năm 2001 - 2002, vốn đầu tư xã hội đã thực hiện tăng khoảng 14% mỗi
năm, trong đó vốn đầu tư cho kết cấu hạ tầng cũng tăng đáng kể chiếm khoảng trên
50% tổng vốn đầu tư xã hội của toàn vùng. Vốn đầu tư tập trung lớn nhất vào lĩnh
vực công nghiệp và giao thông (chiếm tới 58 - 59% tổng số vốn đầu tư). Nhiều
công trình kết cấu hạ tầng quan trọng đã được hoàn thành (xa lộ Nguyễn Đức
Cảnh, cầu Bình Triệu, quốc lộ 51C, quốc lộ 22, nâng cấp sân bay Tân Sơn Nhất,
nhà thi đấu thể thao ở Vũng Tàu...).
Thành tích về đầu tư cải thiện kết cấu hạ tầng góp phần rất quan trọng vào thành
tựu phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Hệ thống giao thông vận tải, hệ thống cung
cấp điện nước đã được nâng cấp, góp phần tăng cường sức cạnh tranh của các sản
phẩm chủ lực trong vùng. Mạng lưới bưu chính viễn thông đã phát triển nhanh,
rộng khắp đến hầu hết các xã với công nghệ kỹ thuật số hiện đại, đáp ứng nhu cầu
thông tin, phục vụ các ngành kinh tế phát triển. Năm 2003, mật độ điện thoại bình
quân đạt 12,8 máy/100 dân, riêng thành phố Hồ Chí Minh đạt 20 máy/100 dân.
(6) Các mặt xã hội đều có bước phát triển: văn hoá, y tế, giáo dục đều có bước

ph
át tri
ển, tỷ lệ hộ ngh
èo và t
ỷ lệ thất nghiệp tiếp tục giảm; an ninh trật tự x
ã h
ội
và quản lý đô thị có nhiều tiến bộ, thực hiện tốt các chương trình phát triển xã hội
(chương trình 3 giảm: ma tuý, mại dâm, tội phạm; chương trình giải quyết việc làm
và giới thiệu việc làm). Đời sống nhân dân trong vùng được cải thiện. Riêng năm
2000 toàn vùng có trên 79,8 vạn lao động có bằng cấp chuyên môn kỹ thuật, chiếm
17,7% số lao động có bằng cấp chuyên môn kỹ thuật của cả nước, trong đó thành
phố Hồ Chí Minh có 58,2 vạn người, Đồng Nai có 10 vạn người, Bà Rịa - Vũng
Tàu có 6 vạn người, Bình Dương có 5,6 vạn người
1.2. Những thành tựu nổi bật từ năm 2000 đến 2003
Bảng2: Một số chỉ tiêu cơ bản đạt được từ năm 2000 đến 2003 (Đơn vị: Tỷ
đồng)
2000 2001 2002 2003
Tổng sản
phẩm của
vùng
( giá thực tế)
137518,3 153615,8 171779,9 203991,5
Tổng sản
phẩm của
vùng (giá so
sánh 1994)
89511,2 99021,8 110055,6 122430,1
Giá trị sản
xuất công 182348 213865,4 262521,6 323243,4