intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vùng lãnh thổ trên thế giới và Lịch sử 200 quốc gia: Phần 2

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:377

372
lượt xem
182
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu Lịch sử 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới tập hợp những tư liệu lịch sử quý giá trình bày một cách ngắn gọn, súc tích những nét cơ bản về lịch sử hình thành và phát triển cùng những nét văn hóa, phong tục tập quán đặc sắc của 200 quốc gia trên thế giới. Phần 2 của Tài liệu trình bày lịch sử 38 quốc gia và vũng lãnh thổ châu Mỹ, lịch sử 55 quốc gia châu Phi, lịch sử 14 quốc gia châu đại dương. Mời bạn đọc tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vùng lãnh thổ trên thế giới và Lịch sử 200 quốc gia: Phần 2

  1. Phần III I4CH SỞ 38 QUỐC GIA VÀ VÙNG LẢNH THỔ CHẰU MỸ 515
  2. TỔNG QUAN LỊCH SỞ CHẦU MỸ Trước thế kỷ thứ XV, người châu Á, châu Âu chỉ mới biết có ba châu lục trên thế giới, đó là châu Á, châu Âu và châu Phi. Năm 1492 trong một chuyến thám hiểm, Cơristốp Côlômbô đã tìm ra châu lục mới nhưng ông lại nhầm là An Độ. Năm 1503, Amerigô Vetspuxi khẳng định đây là một châu lục mới. Ông đã tiến hành khảo sát, vẽ bản đồ và từ đó châu lục mới mang tên châu Mỹ (America). Châu Mỹ là châu lục lớn thứ ba trên thế giới. Diện tích toàn châu khoảng 42.604.117km2, dân số khoảng 577 triệu người. Châu Mỹ được chia thành ba phần: Bắc Mỹ bao gồm ba quốc gia: Canada, Hoa Kỳ và Mêhicô, diện tích khoảng 21.266.095km2, dân số khoảng 306 triệu người. Như mắt xích nối trong chuỗi xích, bảy nưốc vùng Trung Mỹ nối lục địa Bắc Mỹ với Nam Mỹ. Diện tích bảy nước Trung Mỹ khoảng 523 177km2 vối dân số hơn 27 triệu người. Nam Mỹ có diện tích khoảng 17.832.OOOkm2, dân số khoảng 246 triệu người, trong đó Braxin chiếm một nửa dân số toàn Nam Mỹ. Toàn châu lục có 38 nước. Nhưng căn cứ theo ngôn ngữ người ta thường chia châu Mỹ thành hai khu vực: Bắc Mỹ gồm Canada và Hoa Kỳ chủ yếu dùng Anh ngữ, từ Mêhicô trỏ xuống mũi cực nam sát với 517
  3. eo biển Magienlãng được gọi là khu vực Mỹ Latinh vì sử dụng ngôn ngữ Latinh của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Khu vực Mỹ Latinh có diện tích 21 triệu krrr. dân sô là 271 triệu người. Người ta không thể tìm thấy ở châu Mỹ một dấu vết nào chứng tỏ đây là một trong những cái nôi của loài người. Nhưng có những bằng chứng cho thấy sụ tồn tại của con ngưòi và động vật ỏ đây đã tàn lụi từ hàng nghìn năm nay. Những bằng chứng này không nối liền với nền văn hoá châu Mỹ cho đến thời tiền C.Côlômbô. Cho nên người ta ngã theo giả thuyết cách đây khoảng 2.500 năm cư dân châu Á đã di cư đến sinh sông ở Bắc Mỹ. ở khu vực Mỹ Latinh, cư dân bản địa lâu đời là người Anh điêng (da đỏ) vối nhiều sắc tộc khác nhau, trước khi C.Côlômbô khám phá ra "Tân thế giới", toàn châu lục có khoảng 60 triệu người Anh điêng. Họ có một nền văn hoá lâu đòi. Nhiều thế kỷ trưốc công nguyên công xã nguyên thuỷ của người da đỏ tan rã, ở nhiểu nơi hình thành quốc gia và nhà nước đạt trình độ văn hoá cao, như nhà nưốc của người Maya, Inca, Adơtéchca, Xapôtêca, Misơlêca. Trong các nhà nước đó đã có một bộ máy quyển lực từ trên xuống dưối mang tính chất quân chủ chuyên chê sơ khai hay là cộng hoà quý tộc. Nhà nước của ngưòi Adơtéchca bao gồm toàn bộ Mêhicô. Họ đã xây dựng thành phố Mêhicô là một trong những thành phố lón nhất thòi bấy giò. Vằo thế kỷ thứ X, ngưòi Inca xây dựng một đế chế trải dài từ Côlômbia đến tận Chilê. Người Anh điêng xây dựng được những nển văn hoá rực rỡ ở khu vực Trung Mỹ, khu vực quanh Caribe, khu vực dãy Anđơ. Đó là nển văn hoá 518
  4. Teotihuacan mà nét tiêu biểu là những kim tự tháp, những thành phố tôn giáo. Khi Teotihuacan suy tàn thì nền văn hoá Toltec thay thế. Người Toltec đả để lại niên lịch và những kí hiệu chữ Mixlôát ghi ngày tháng. Trong vương quốc của họ có những kim tự tháp để thò cúng, còn dưới đáy đặt thi hài của những người quá cố vĩ đại, có sân vận động chơi bóng ném, hẳn họ là một tộc người ham thích thể thao; có những thành phố vối những toà nhà lộng lẫy: có hệ thống sô' đếm hoàn hảo. Khi văn hoá Toltéc suy tàn thì văn hoá Adơtéch thay thê và ngự trị rất lâu dài ở Trung Mỹ. Năm 1325, người Adơtéchca xây dựng lại thành phố Mêhicô to lớn và lộng lẫy nhất so với các thành phố đương thòi. Họ xây dựng được một bộ máy quyền lực mang đặc trưng riêng. Trong vương quốc, nông nghiệp và thương nghiệp đểu phát triển. Đây là một xã hội chiếm hữu nô lệ mà sự phân giai tầng như những bậc thang trong xã hội. Kim tự tháp của họ chồng cao đến mười một tầng với kỹ thuật chạm khắc đá điêu luyện. Vương quốc đã có chữ viết, có lịch đại bằng đá cho thấy quan niệm của- người Adơtéchca về thế giới vũ trụ. Họ thò những vị thần theo quan điểm nhị nguyên luận (đối nhau). Trên bò Đại Tây Dương vịnh Mêhiccô còn tìm thấy dấu vết nển văn hoá Olmec mà biểu trvtng là những pho tượng lốn bằng đá khốĩ vối một trình độ điêu khắc tuyệt vời. Nền văn hoá Tolonac nở rộ từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ XI. Kim tự tháp của họ mang tính dặc sắc có khoét 365 cái hốc ở bốn mặt tượng trưng cho 365 ngày trong một năm. Phía bắc nển văn hoá Tolonac tồn tại nền văn hoá Huaxtec gần gũi vối nển văn hoá Maya với những tượng 519
  5. đá được xử lý như những tượng đắp nổi, đồ gốm bao giờ cũng có quai. Đỉnh cao nhất của văn hoá Anh điêng là nền văn hoá Maya. Một nhà khảo cổ học đã nói đúng rằng Maya là Hy Lạp của "Tân thế giới". Ngày nay Maya còn khoảng 7 triệu người, sử dụng 20 ngôn ngữ. Cách ngày nay khoảng 2000 năm họ đã có lịch sử gắn với lịch sử châu Mỹ. Họ có hệ thống chữ tượng hình phức tạp, có 60% ký hiệu được các nhà khoa học giải mã. Đồ gốm của họ có những nghệ thuật riêng về chiết tự. Họ xây dựng những thành phố làm trung tâm nhà nước của họ như những nhà nước thành bang kiểu Aten, Xpác ở Hy Lạp. Đây không phải là những nhà nước chuyên chế mà giống như nhà nước cộng hoà quý tộc với cấu trúc xã hội được chia thành bốn giai tầng. Số học phát triển và việc tính toán thiên văn học của họ chính xác kỳ lạ. Họ là tác giả của việc phát minh ra số 0, tác giả của lịch tôn giáo Tdônkin-độc lập với lịch đại mặt trời. Nghệ thuật kiến trúc mang tính tôn giáo tuyệt vời nhất của đương thời với kiểu kiến trúc được phân ra khu cung điện và khu nhà thờ tạo nên một kiến trúc tổng thể. Nghệ thuật điêu khắc mang tính hiện thực. Người Maya có quan niệm vũ trụ gồm mười tầng xếp chồng lên nhau. Đối với người Maya có rất nhiều thần tồn tại bên ngoài thế giới con người, vì thế việc thò cúng là vô cừng phức tạp và phải được tuân thủ một cách nghiêm ngặt. Giống như những tộc người Anh điêng khác, người Maya cũng quan niệm nhị nguyên luận về thế giối vũ trụ. Khu vực miền nam Mêhicô còn lại dấu vết của nển văn hoá Dapôtec và Mixtee với biểu trưng chế tạo đồ mỹ nghệ bằng vàng, một thứ hiếm thấy ở nển văn hóa Anh 520
  6. điêng kể cả văn hoá cao và phong phú của ngưồi Maya. Ngoài ra biểu trưng văn hoá của họ còn phải kể đến những tượng vũ công đắp nổi, các tấm bia viết chữ tượng hình; các toà nhà lớn xây theo hình bậc thang hùng vĩ. Nển văn hóa này tồn tại ở châu Mỹ sáu thế kỷ đầu công nguyên. Miền tây Mêhicô còn có các nền văn hoá Colima, Taraxca nổi tiếng với nghệ thuật luyện kim và tinh tế trong nghệ thuật trang trí gốm. Nển văn hoá quanh khu vực Caribê có niên đại 2130 năm trưốc công nguyên và có tới bốn nền văn hoá kế tục nhau tồn tại: văn hóa Cônle, Vecgua, Chiriqui và Bañen. Hiện vật còn lại của các nền văn hoá này còn lại phong phú gồm đồ gốm, đá, vàng, đá quý, đồ trang trí bằng xương, bằng đá quý có dát vàng nhiều màu sắc rực rd. Nển văn hoá ở quần đảo Ảngti thì phát triển nhất ỏ Puéctôricô và ở Haiti mà chủ nhân là tộc người Tano. Họ là những nghệ nhân điêu khắc tài giỏi. Gọ khắc đồ gỗ và đồ đá dễ dàng như nhau, những chuỗi vòng đá mỗi viên có ba mũi rất độc đáo. Các điệu múa nghi lễ trong cưới xin, trong ma chay rất uyển chuyển, hay những trò chơi bóng đểu rất phổ biến ỏ các làng của người Tano. ở bờ biển vùng Caribê khoảng 3000 năm trước công nguyên, người Anh điêng đã định cư với nền kinh tế trồng trọt và chăn nuôi. Đồ gốm ở đây có niên đại lâu đời và phong phú. Gốm của nển văn hoá Vênêxuêla mang màu đỏ trên nển trắng có niên đại 1000 năm trước công nguyên. Khu vực núi Ảngđơ thuộc Pêru và Bôlivia là văn hoá của người Inca. Người Inca có một hệ thống tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp hoàn hảo. Vào thế kỷ thứ VI, 521
  7. các tộc người ở Pêru đã có được những phương tiện để phát triển một cách hoàn thiện, họ có một* nền kiến trúc đồ sộ. • • • • các nghề dệt. gôm. luyện kim đã có tay nghề cao vê kỹ thuật và các loại hình trang trí đẹp. phong phú. Ngưòi Inca không chỉ biết dệt vải mà còn biết dệt thảm trang trí hình người, chim, cá và hoa lá. Năm 1925 ở nghĩa địa Caracat người ta đã tìm thấy ngôi mộ có 420 xác ướp cùng vói rìu đá. xương thú vật, đậu. ngô. bông, lạc. vải quấn xác ướp dài tới 30m, có cả áo mặc kiểu chăn choàng. Người ta tìm thấy thành phố Tiahuanacô đạt đỉnh cao của nển vãn minh Pêru, là một trung tâm tôn giáo của người Anh điêng. Cũng tìm thấy cánh cửa mặt trời nổi tiếng. Người Inca xây dựng được một đế chế, một cơ cấu chính quyển chặt chẽ từ trung ương đến địa phương, một xã hội phân chia ra ba giai tầng: quý tộc, nhân dân và nô lệ. Chế độ một vỢ một chồng được thi hành nghiêm ngặt và đã có sự trao đổi hàng hoá. Người Inca theo tôn giáo đa thần nhưng trong đó có một thần khai hoá tối cao thần Huiracôcha cũng là thần Mặt trời. Từ đó người Inca có rất nhiều lễ hội quanh năm. ở Côlômbia có nền văn hoá cự thạch thuộc thế kỷ thứ VI trước công nguyên, những đển thờ xây bằng những khối đá ỉớn vói những bức tường đá khổng ỉồ mà chủ nhân là người Chibcha. Họ còn có nghề dệt vải và kim hoàn. Tôn giáo có nhiều nghi lễ trong đó có nghi ỉễ dùng người làm vật hiến sinh tế thần. Các nền vồn hoá lớn ở Trung Mỹ đã lan toả và tạo nên nền văn hoá ở tây-tây nam châu Mỹ như văn hoá ở các vùng Achentina, Chilê. Tiếp đến nển văn hoá Amadôn tràn ngập những đồ gốm đặc sắc được 522
  8. trang trí bằng khắc, rạch, khảm hay tô màu vối hình dạng vô cùng phong phú. Như vậy. thời cổ trung dại. ở châu Mỹ đã tồn tại nhiều nến văn hoá của người Anh điêng với chữ viết tượng hình, vối những phong tục tập quán dược sử dụng như pháp luật của các vương quỗc, xã hội phân ra giai cấp tầng lớp, thiết chê chính trị quân chủ hoặc có thể là cộng hoà quý tộc. tôn giáo theo quan niệm nhị nguyên luận và đa thần giáo, nhiều bộ tộc của người Anh điêng đã tiến những bước dài trên con đường vào xã hội văn minh. Họ đã để lại một nền văn hoá vật thể phi vật thể phong phú đa dạng, tài năng đáng kinh ngạc. Các nền văn hoá trên mảnh đất này thay thế. kê thừa, ảnh hưởng nhau. Rất nhiều nền văn hoá đã mất đi. ngược lại có một số nền văn hoá đang phát triển cho đến khi người châu Âu tối. Sự sụp đổ của các nền văn hoố này thật là kỳ lạ vì nó diễn ra quá nhanh chống, vì con số những kẻ châu Âu tới chinh phục không đông. Để dập tắt được truyền thống đã có từ hàng nghìn năm chỉ cần vài chục năm và một số ít kẻ xâm lược. Đó là điểu kỳ • • • V bí nhất của lịch sử các dân tộc Anh điêng. Ngày 3-8-1492, Cơristốp Côlômbô dẫn đầu một đoàn ba chiếc tàu Caraven cùng 90 thuỷ thủ rời Tây Ban Nha đi vào Đại Tây Dương. Ngày 12-10-1492, C.Côlômbô tới được vùng biển Caribê và đến Cu Ba nhưng ồng lại nhầm vùng đất này là Tây Ân Độ, người địa phương ở đây được ông gọi là Indian (này An Độ). C.Côlômbô còn tiếp tục thám hiểm ba lần châu lục mới vào các năm 1493, 1498, 1502 và phát hiện thêm nhiểu lãnh thổ khác. Năm 1506, ông chết trong cảnh nghèo túng ôm nỗi băn khoăn không 523
  9. rõ về vùng đất mà ông đặt chân tới. Gần như cùng thời gian với C.Côlômbô nhà hàng hải Vetspuxi Amergô đã bốn lần thám hiểm vùng đất này vào các năm 1497, 1499, 1501, 1503 và ông đi đến kết luận đây là châu lục mới. V. Amerigô công bố một cuốn sách và bản đồ vùng đất mới. Từ đó châu lục mới mang tên châu Mỹ (America). Sau chuyến đi của C.Côlômbô và của V. Amerigô, các nước châu Âu bắt đầu cuộc xâm lược và cướp bóc châu lục này mà đi tiên phong là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Cu Ba là nơi đầu tiên bị Tây Ban Nha chiếm làm thuộc địa. Từ căn cứ này, Tây Ban Nha tiến hành chiến tranh chiếm hầu hết các khu vực Trung Mỹ, Nam Mỹ. Bồ Đào Nha chiếm nước rộng lốn nhất Nam Mỹ là Braxin. Cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc kéo dài 50 năm. Trong chiến tranh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha đã gây ra những tội ác khủng khiếp, giết hại hàng chục triệu dân bản xứ người Anh điêng, tàn phá nền văn hoá, cướp bóc của cải vàng bạc. Tây Ban Nha giết hại một triệu ngưòi Anh điêng ỏ vùng biển Caribê, phá trụi thành phố Mêhicô cổ kính, những kim tự tháp thể tích không kém những kim tự tháp Ai Cập bị san bằng chỉ còn nền móng. Khi C.Côlômbô đặt chân tối châu Mỹ, có khoảng 60 triệu người Anh điêng sống trên lãnh thổ này. Vậy mà, chỉ trong thòi gian ngắn phần lớn cư dân đã bị giết hại trong chiến tranh, số còn lại bị cưỡng bức lao động kiểu nô lệ trong các đồn điền, hầm mỏ và chết dần chết mòn, số ít còn lại bị dồn lên núi rừng hoang vu để thực dân châu Âu cướp ruộng đất phì nhiêu của họ. Từ 60 triệu người suốt 500 năm sau con số ấy không gia tăng mà chỉ còn 40 triệu người trên khắp châu 524
  10. lục. Con số trên cho thấy người Anh điêng bị tiêu diệt một cách khủng khiếp như thế nào. Vùng Bắc Mỹ ngày nay thuộc Canada bị Anh và Pháp cùng xâm lược, cuối cùng Anh làm chủ toàn bộ vùng đất này. Năm 1603, Anh đặt chân lên vùng Viẽcghima, đến năm 1675 thành lập ở đây 13 bang thuộc địa Bắc Mỹ và thiết lập ở đây chế độ phong kiến để thống trị bóc lột. Vào cuôi thế kỷ thứ XVIII, Tây Ban Nha đã chiếm xong khu vực Mỹ Latinh (trừ Braxin là thuộc địa của Bồ Đào Nha). Tây Ban Nha chia thuộc địa thành bốn vùng gọi là bốn Phó vương quốc: Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha bao gồm Mêhicô và một phần Trung Mỹ; Phó vương quốc Tân Granada gồm Côlômbia, Panama, Vênêxuêla và Êcuađo; Phó vương quốc Lapla ta gồm Áchentina, Urugoay, Paragoay và Bôlivia. Phó vương quốc Pêru gồm Pêru và Chilê. Trên khắp lục địa, thực dân Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha thiết lập chế độ phong kiến để áp bức. Chúng kết hợp kiểu bóc lột phong kiến, tư bản với nô lệ để bóc lột một cách tàn bạo. Chúng cưốp đoạt ruộng đất để lập những đồn điển trồng cà phê, ca cao, mía, chuối và biến người da đỏ thành nô lệ, buộc lao động cưỡng bức cho đến chết trong các đồn điển hầm mỏ. Khi nô lệ da đỏ chết dần, thực dân châu Âu phát minh ra cái nghề buôn nô lệ da đen từ châu Phi sang thay thế. Nghề buôn này kéo dài suốt từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ thứ XIX, vì lãi một chuyến buôn lên đến 1000%. Suốt ba thế kỷ thực dân châu Âu đưa được 20 triệu người da đen từ châu Phi sang châu Mỹ sau khi đã giết chết 40 triệu người trong khi săn bắt và đưa họ vượt Đại Tây Dương. 525
  11. Cùng trong những thê ký đó, người châu Âu da trắng vì những lý do chính trị, kinh tế nghèo khổ. lý do tôn giáo lần lượt di cư sang "Tân thê giới" nhiều đợt hàng chục triệu người qua nhiều thê kỷ. Cho nên trên từng quốc gia ỏ châu Mỹ hay trên toàn lục địa là nơi hội tụ những chủng tộc lớn và những nền văn hoá của các chủng tộc. Sống lâu với nhau, các chủng tộc hoà huyết với nhau, các nền văn hoá đan xen hoà hợp nhau. Châu Mỹ dần dần hình thành một châu lục đa sắc tộc. những quốc gia đa sắc tộc, một nền văn hoá đa dạng do kết hợp các yếu tố văn hoá người Âu, người Phi và người Anh điêng. Các ngôn ngữ châu Âu được sử dụng rộng rãi ở châu Mỹ. Tiếng Anh. tiếng Pháp được dùng rộng rãi ở Bắc Mỹ (Canađa, Hoa Kỳ). Tiếng Tây Ban Nha được sử dụng từ Mêhicô trở xuống cực nam, Braxin sử dụng tiếng Bồ Đào Nha thuộc ngữ hệ Latinh nên được gọi là khu vực Mỹ Latinh. Thiên chúa giáo và đạo Tin Lành cũng được du nhập vào châu Mỹ theo vết chân của người châu Âu. Ngoài bị bóc lột, người dân châu Mỹ còn phải làm lao dịch, nộp nhiều thứ thuế phi lý. Bên cạnh viên toàn quyền là một bộ máy đàn áp khổng lồ như quân đội, nhà tù, cảnh sát, bọn chủ đồn điển, chủ mỏ, cai ký đốc công tạo nên một chế độ độc tài đè nặng lên đầu người dân lương thiện. Tất cả quyển lực chính trị, quản lý nằm trong tay bọn thực dân chính quấ:. Toàn thể nhân dân kể cả người Criôlô (người da trắng sinh trưởng ở thuộc địa) cũng không được tham gia vào bộ máy nhà nước. Nạn phân biệt chủng tộc, nòi giống đối vối người da đen, ngưòi Anh điêng rất trầm trọng. Nhà thò Kitô giáo là công cụ nô dịch tinh thần đối 526
  12. với nhân dân châu Mỹ. Châu Mỹ hình thành và tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa các dân tộc và bọn ngoại bang thống trị; mâu thuẫn giữa toàn dân với chê độ phong kiến thuộc địa. Đế giải quyết những mâu thuẫn trên, châu Mỹ phải tiến hành hai cuộc cách mạng: cách mạng dân tộc và cách mạng dân chủ tư sản. Mặc dù chính quốc ra sức kìm hãm sự phát triển kinh tê tư bản tư nhân của thuộc địa, nhằm biến thuộc địa thành nơi tiêu thụ hàng hoá cung cấp nguyên liệu, nhân công rẻ mạt cho chính quốc, nhưng kinh tê tư bản và quan hệ sản xuất tư bản ở thuộc địa vẫn phát triển. Trên cơ sỏ đó giai cấp tư sản thuộc địa ra đời và họ sẽ là giai cấp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và cuộc cách mạng tư sản lật đổ chê độ phong kiến trong tương lai. Thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ là nơi đi tiên phong mở đầu cho cơn bão táp cách mạng ở châu Mỹ. Năm 1773, dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản Mỹ đứng đầu là Gioócgiơ Oasintơn, nhân dân Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc. Năm 1783, chiến tranh kết thúc vối sự thắng lợi của nhân dân Mỹ. Nước Anh thất bại phải thừa nhận Mỹ là quốc gia độc lập. Hợp chúng quốc Hoa Kỳ ra đời đánh dấu thời kỳ sụp đổ của hệ thống thuộc địa ở châu lục. Cách mạng Mỹ thắng lợi vói bản Tuyên ngôn độc lập khẳng định những quyển cơ bản của con ngưòi, quyền của dân tộc đã tác động to lớn đến cuộc đấu tranh trong khu vực Mỹ Latinh. Từ năm 1524 đến năm 1801, người da đen và người Anh điêng ở Mêhicô đã liên tục bạo động chống chính quyền. Ỏ Braxin năm 1630, nô lệ liên tục khởi nghĩa và thành lập 527
  13. nước Cộng hoà Pamarét tồn tại tói năm 1697 mới bị đàn áp thất bại. Năm 1870, người Anh điêng ở Pêru khởi nghĩa nhằm phục hồi đế chế Inca. Khởi nghĩa kéo dài hai năm mới bị dập tắt. Tám vạn quân khởi nghĩa bị Tây Ban Nha hành quyết. Năm 1781, khởi nghĩa ỏ Tân Tây Ban Nha, năm 1787 khởi nghĩa ở Vênêxuêla. Năm 1790, người da đen ỏ Haiti khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Tuxanh Luvectua giành được thắng lợi vào năm 1803, lật đổ ách thống trị của Tây Ban Nha, thành lập nước cộng hoà độc lập đầu tiên ở khu vực Mỹ Latinh. Haiti trở thành căn cứ địa cho cuộc đấu tranh của toàn khu vực Mỹ Latinh sau này. Năm 1810, khi quân đội Pháp dưới thời Hoàng đế Napôlêông I tiến hành chiến tranh xâm lược châu Âu và chiếm đóng Tây Ban Nha đã ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Mỹ Latinh. Cách mạng trỏ thành một cao trào rộng lớn suốt từ Mêhicô đến Kitô, Bôgôt, Áchentina, Vênêxuêla, Paragoay, Urugoay... Chính quyển thuộc địa bị lật đổ, nhiều nước cộng hoà được thành lập như nền Cộng hoà Vênêxuêla năm 1811. Nhưng cuộc giao chiến lần này của Mỹ Latinh bị thất bại. Sau khi Napôlêông I sụp đổ năm 1814, chính quốc Tây Ban Nha thoát khỏi sự chiếm đóng của quân Pháp, Tây Ban Nha rảnh tay phản công đàn áp cách mạng ở thuộc địa và dìm phong trào Mỹ Latinh trong biển máu. Những lãnh tụ ưu tú của phong trào như Misenhi Đangô, Khôsê Môrêlôxơ hy sinh, Ximôn Bôliva phải chạy ra nước ngoài. Tuy thất bại nhưng cuộc tấn công rộng lớn kéo dài từ năm 1810 đến năm 1814 của nhân dân Mỹ Latinh làm cho chế độ thông trị của Tây Ban Nha lung lay tận gốc rễ. Bản thân chính 528
  14. quốc Tây Ban Nha cũng đang trên con đường suy yếu trưốc làn sóng cách mạng tư sản đang dâng lên trong nưốc mạnh mẽ và ở các thuộc địa • 9 • Bắt đầu từ năm 1816 một cao trào cách mạng mới dâng lên bắt đầu từ thắng lợi của cách mạng Áchentina. Cũng trong năm đó, Ximôn Bôliva từ Haiti đem quân đổ bộ giải phóng Vênêxuêla, Bôliva, Êcuađo. Năm 1819, Ximôn Bôliva thành lập Cộng hoà Colombia. Năm 1822, ông đem quân đánh bại quân đội Tây Ban Nha và giải phóng toàn bộ Colombia. Năm 1826, Ximôn Bôliva đánh bại quân Tây Ban Nha ỏ thượng Pêru, giải phóng thượng Pêru, thành lập nước cộng hoà mang tên Bôlivia. Năm 1821, Mêhicô giành được độc lập. Năm 1818, dưới sự lãnh đạo của Xan Máctin, Chilê được giải phóng và thành lập nước cộng hoà. ở Braxin dưới sức mạnh đấu tranh của nhân dân, năm 1822 Prêđô hoàng tủ của Bồ Đào Nha nhiếp chính ở Braxin tuyên bố thuộc địa độc lập khỏi chính quốc. Năm 1823, quân đội Bồ Đào Nha rút khỏi Braxin. Sau mười năm đấu tranh liên tục (1816-1826), khu vực Mỹ Latinh giành được độc lập, hàng loạt quốc gia mới ra đời, chỉ trừ có Cu Ba và Puéctôricô. Như vậy trong lịch sử nhân loại, sau Hà Lan ở châu Âu, châu Mỹ cũng là nơi đi tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc, đập tan ách nô dịch thực dân, giành độc lập dân tộc. Sau khi giành được độc lập, Hoa Kỳ còn phải tiến hành cuộc nội chiến từ năm 1861 đến năm 1865 để chống lại các bang ly khai miền nam, xóa bỏ chế độ nô lệ đồn điền giải phóng nô lệ, tạo điểu kiện cho chủ nghĩa tư bản Mỹ phát triển hơn nữa. Nội chiến kết thúc với sự thắng lợi của tư 529
  15. sản công nghiệp miền bắc tạo tiền đề chính trị cho chủ nghĩa tư bản Mỹ phát triển mạnh mẽ. Lý do chính trị cùng với yếu tố tận dụng được những thành tựu công nghệ cuối thế kỷ thứ XVIII và của thế kỷ thứ XIX, tận dụng được nhân lực, trí tuệ toàn thế giới và sự giàu có của đất Mỹ, cuối thế kỷ thứ XIX, Mỹ đã vươn lên thành cường quốc số một vể kinh tế. Mỹ bắt đầu mở rộng bành trưống lãnh thổ. Từ 13 bang khi vừa độc lập lãnh thổ Mỹ đã lên 50 bang. Chủ nghĩa tư bản Mỹ tiến lên đế quốc chủ nghĩa bắt đầu bành trướng xâm lược khắp thế giới, trong đó trước hết Mỹ nhòm ngó khu vực Mỹ Latinh giàu có gần kể vói Mỹ. Cùng với Mỹ, các cường quốc tư bản Tây Âu như Anh và Đức cũng bắt đầu xâm nhập vào Mỹ Latinh. Vào giữa thế kỷ thứ XIX, Anh đầu tư mạnh vào các nước Nam Mỹ. Từ đó cho đến hết Chiến tranh thế giới thứ nhất Anh chiếm ưu thế tuyệt đốỉ đầu tư bóc lột khu vực Mỹ Latinh. Pháp và Mỹ chỉ có ảnh hưởng ở một số nước. Thế lực của Đức ở khu vực đứng sô' hai sau Anh, trội hơn Mỹ. Đức công khai nói lên sự cần thiết phải chiếm lấy khu vực Mỹ La tinh. Trước tình hình đó, Mỹ thực hiện chính sách bành trướng xâm lược vào Mỹ Latinh bằng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hơn. Mỹ đưa ra chủ nghĩa Mơnru vói khẩu hiệu “châu Mỹ của người Mỹ” để gạt bỏ các đối thủ châu Âu, độc chiếm khu vực. Năm 1825, Mỹ chiếm Puéctôricô của Tây Ban Nha. Năm 1846, Mỹ buộc Panama nhượng cho nhiều quyền lợi ỏ kênh đào. Năm 1845, Mỹ chiếm một nửa lãnh thổ Mêhicô. Năm 1898, Mỹ gây chiến tranh với Tây Ban Nha để chiếm thuộc địa của quốc gia phong kiến già yếu này. Chiến tranh kết thúc với sự thống lợi của Mỹ. Mỹ chiếm Cu Ba thuộc 530
  16. địa của Tây Ban Nha, chìa khoá để xâm nhập vào Trung- Nam Mỹ. Với thủ đoạn sức mạnh quân sự kết hợp vối sức mạnh kinh tế, văn hoá, Mỹ đã thực hiện chủ nghĩa thực dân mới lập nên những chính phủ thân Mỹ, thông qua các chính phủ này để thống trị bóc lột nhân dân Mỹ Latinh nà không cần xâm lược trắng trỢn. Vào cuối thế kỷ thứ XIX đầu thế kỷ thứ XX, các nước Mỹ Latinh vẫn tồn tại tàn dư phong kiến, nô lệ, nông dân nghèo nàn lại bị trại chủ và địa chủ chiếm đoạt ruộng đất. Nông dân chiếm 70% dân số khu vực Mỹ Latinh nhưng 75% số hộ không có ruộng đất. Bọn đại địa chủ và các công ty lũng đoạn chiếm 0,3% dân số nhưng chiếm tới 65% đất đai cày cấy. Nhà thờ cũng chiếm một lượng đất đai không nhỏ. Công thương nghiệp phát triển chậm chạp, không đồng đều giữa các quốc gia và phụ thuộc vào chủ nghĩa tư bản Mỹ. Công nhân, nông dân bị bóc lột nặng nề, vô cùng cực khổ, viên chức, công chức đòi sống điêu đứng. Trong khi đó tài nguyên Mỹ La tinh rất giàu có, có thể nuôi sống hàng tỷ người thì 200 triệu dân nơi giàu có ấy vẫn trong nghèo khổ về vật chất, bị áp bức về tinh thần, về chính trị. Công nhân Mỹ latinh bao gồm nhiều dân tộc: ngưòi châu Âu, ngưòi da đen, người Anh điêng, người lai. Đầu thế kỷ thứ XX, công nhân đã lập các tổ chức nghiệp đoàn và các hội tương tế. Chủ nghĩa Mác được truyền bá vào phong trào công nhân Mỹ Latinh. Họ sử dụng phương pháp đấu tranh đình công, bãi công và tổng đình công đòi tăng lương, giảm giò làm, cải thiện điểu kiện lao động, đòi bảo hiểm xã hội. Phong trào nông dân đã phối hợp với 531
  17. phong trào công nhân. Từ năm 1902 đến năm 1916 nổ ra cuộc chiến tranh nông dân ở Braxin nhưng bị đàn áp. nông dân Mỹ Latinh lập ra những tổ chức của mình như Hội nông dân Áchentina thành lập năm 1912. ở Mêhicô bùng nổ cuộc cách mạng tư sản năm 1910-1917 lật đổ chê độ độc tài Điát, làm lung lay địa vị thống trị của bọn địa chủ và tư bản độc quyển. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào đấu tranh của nhân dân Mỹ Latinh lan rộng hầu khắp châu lục, diễn ra dưới nhiều hình thức. Bãi công của công nhân Chilê tháng 7-1955 có tới 1.200.000 người tham gia. Nông dân nổi dậy vũ trang khỏi nghĩa đòi ruộng đất. Tháng 3- 1947, nông dân bạo động ở Panama, Pêru, Vênêxuêla. Họ còn tiến hành đấu tranh nghị trường, thông qua tuyển cử đưa các lực lượng dân chủ lên nắm chính quyền nhằm thực hiện những chính sách có lợi cho nhân dân lao động, như ở Chilê năm 1970 liên minh cánh tả thắng lợi trong tuyển cử quốc hội, Agienđê lên làm tổng thống, ở Cu Ba kết hợp đấu tranh chính trị rộng lớn ở đô thị với đấu tranh vũ trang ở nông thôn lật đổ chế độ độc tài thân Mỹ Batista năm 1959. Cách mạng Cu Ba thành công đã giáng một đòn chí mạng vào chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ. Vì thế cùng với Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ỏ Việt Nam, Cách mạng Cu Ba là một trong ba cuộc cách mạng điển hình thời kỳ hiện đại. Các quốc gia Mỹ latinh là một khối thống nhất, chung một hệ ngôn ngữ Latinh, các chủng tộc giống nhau, tương đồng vể văn hoá, phong tục tập quán. Tất cả tạo nên một 532
  18. truyền thống liên kết, có quan hệ mật thiết trong cuộc đấu tranh củng như trong đối mặt với những vấn đề lịch sử. Lịch sử châu Mỹ từ thê kỷ thứ XVI đến nay là lịch sử đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Châu Mỹ đã góp phần xứng đáng làm thay đổi của bộ mặt thế giới, góp phần vào bước đi lên trong tiến trình lịch sử nhân loại. 533
  19. ÁCHENTINA Cộng hoà Áchentina REPUBLIC OF ARGENTINA Cộng hoà Áchentina nằm ở phía đông nam châu Mỹ. giáp Đại Tây Dương, Bôlivia, Braxin, giữa Chilê và Ưrugoay. Diện tích 2.766.000km2, dân sô' khoảng 37.200.000 người trong đó người da trắng gốc chầu Âu chiếm 85% dân số, còn lại là người lai và người Anh điêng (da đỏ). Ngôn ngữ chính là tiếng Tầy Ban Nha. 93% cư dân theo Thiên chúa giáo. Dân số thành thị chiếm 86,2% dân cư, dân số nông thôn chiếm 13,8%. Thủ đô là Buênốtairét có khoảng 10.900.000 người. Áchentina là nước có nển kinh tế phát triển. Đất nước có nhiều khoáng sản. Nông nghiệp, sản xuất rượu nho là những ngành trụ cột của nển kinh tế quốc dân. Tổng sản phẩm quốc dân GDP đạt 285.473 triệu USD. Tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người là 7.724 USD. Đồng Pêxô là đơn vị tiền tệ của nước Cộng hoà Áchentina. Ngưòi dân bản địa và sống lâu đòi trên lãnh thổ Áchentina là ngưòi da đỏ-Anh điêng Inca. Trước thế kỷ thứ XV, công xã thị tộc tan rã và nhà nước đã hình thành để vào thế kỷ thứ XV Áchentina đã là một bộ phận của đế chế Inca. Đế chế Inca đã hình thành vào thế kỷ thứ 534.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2