intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Xác định độ bền chống cắt của đất phong hóa granite Hong Kong dưới ảnh hưởng của mưa

Chia sẻ: ViEdison2711 ViEdison2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

19
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết trình bày kết quả thí nghiệm trong phòng đối với các mẫu đất nguyên dạng granite phong hóa hoàn toàn (CDG) tại Hong Kong, các sơ đồ thí nghiệm được thực hiện với mục đích phân tích các cơ chế phá hoại của mái dốc dưới tác dụng của mưa dưới các sơ đồ ứng suất khác nhau.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Xác định độ bền chống cắt của đất phong hóa granite Hong Kong dưới ảnh hưởng của mưa

Xác định độ bền chống cắt của đất phong hóa<br /> granite Hong Kong dưới ảnh hưởng của mưa<br /> Determination of shear strength of completely decomposed granite (CDG) in Hong Kong subjected<br /> to rainfall infiltration<br /> Bùi Đức Tùng(1), Zhou Chao(2), Charles W. W. Ng(3)<br /> <br /> <br /> <br /> Tóm tắt Tổng quan<br /> <br /> Bài báo trình bày kết quả thí nghiệm trong phòng đối với các mẫu đất Hiện tượng trượt đất hay sạt lở mái dốc do ảnh hưởng<br /> của mưa là sự cố phổ biến trên thế giới thuộc lĩnh vực địa<br /> nguyên dạng granite phong hóa hoàn toàn (CDG) tại Hong Kong, các sơ<br /> kỹ thuật, chủ đề này đã và đang được nghiên cứu nhiều<br /> đồ thí nghiệm được thực hiện với mục đích phân tích các cơ chế phá hoại<br /> trong vài thập kỷ gần đây. Đặc biệt là đối với các quốc gia<br /> của mái dốc dưới tác dụng của mưa dưới các sơ đồ ứng suất khác nhau.<br /> có lượng mưa hàng năm rất cao nằm trong khu vực cận<br /> Các sơ đồ thí nghiệm sau được thực hiện: (1) Thí nghiệm cắt 3 trục cố kết nhiệt đới như Hong Kong, Brazil, một số vùng của nước Ý<br /> không đẳng hướng - không thoát nước (thí nghiệm CU) và (2) thí nghiệm và các nước nhiệt đới như Singapore, Malaisia, Việt Nam.<br /> 3 trục cố kết không đẳng hướng - thoát nước với ứng suất lệch (q) không Hàng năm tại các quốc gia này đều có một số lượng lớn<br /> thay đổi (thí nghiệm CQD). Kết quả cho thấy sự đối lập trong ứng xử của các vụ sạt lở xảy ra trong mùa mưa [1]. Phần lớn là các vụ<br /> đất là do tính dị hướng, gây ra bởi sự khác nhau về đường ứng suất và trượt nông xảy ra ngay trong thời điểm các đợt mưa diễn<br /> lịch sử ứng suất trong quá trình cố kết không đẳng hướng. Ngoài ra, mặt ra và nguyên nhân chính là do sự hình thành tạm thời mực<br /> bao phá hoại của mẫu đất nguyên dạng CDG cũng chịu ảnh hưởng rõ rệt nước ngầm hay vùng bão hòa phía trên mặt nước ngầm<br /> bởi lộ trình đường ứng suất. Dưới sơ đồ nén, lực dính (biểu kiến) và góc hiện hữu (wetting front). Theo lý thuyết “cơ học đất không<br /> ma sát huy động là 14 kPa và 34°. Trong khi đó đối với các mẫu đất thí bão hòa” thì tại vùng này do lực dính (suction) của đất bị<br /> nghiệm dưới sơ đồ kéo, hai thông số nêu trên lần lượt là 10 kPa và 42°. mất đi bởi nước mặt ngấm vào mái dốc, dẫn đến làm giảm<br /> Hai mặt bao phá hoại tương ứng với hai cơ chế (kéo và nén) khác nhau cường độ chịu cắt của lớp đất nông [2]. Hiện tượng trượt<br /> cho thấy việc chỉ sử dụng các thông số cường độ từ thí nghiệm nén CQD nông này về bản chất không có mối liên hệ đến việc dâng<br /> trong thiết kế có thể nằm trong vùng không an toàn khi tính toán các cao mực nước ngầm ban đầu. Trong khi đó thì hiện tượng<br /> tình huống sạt lở nông, khi mà ảnh hưởng của lực dính (biểu kiến) chi trượt sâu thường xảy ra sau khi kết thúc một đợt mưa bão,<br /> phối ứng xử đối với loại sạt lở này. có thể vài ngày sau đó, chủ yếu là do từ việc nước mưa có<br /> đủ thời gian ngấm vào mái dốc đến độ sâu lớn hơn và kết<br /> Từ khóa: Sạt lở, trượt mái dốc, mưa, mái dốc tự nhiên, đất phong hóa granite, thí<br /> quả là làm dâng cao mực nước ngầm hiện hữu.<br /> nghiệm ba trục kéo<br /> Cần phải hiểu được rằng, lộ trình ứng suất dẫn đến<br /> sạt lở mái dốc do quá trình thấm nước mưa là khác với<br /> Abstract đường ứng suất thực hiện theo các thí nghiệm nén ba trục<br /> This paper presents the results from two series of laboratory tests on intact truyền thống (xem Hình 1 (a)) [3] [4]. Đất là loại vật liệu<br /> completely decomposed granite (CDG) with reference to slope engineering: (1) mà ứng xử của nó phụ thuộc rất lớn vào lịch sử ứng suất.<br /> anisotropically consolidated undrained shear (CU) tests; and (2) drained constant Đối với với thí nghiệm nén ba trục truyền thống thì áp lực<br /> deviator stress shear (CQD) tests. It is found from CU tests that the opposite trends buồng luôn được giữ không đổi đồng thời với quá trình<br /> tăng ứng suất lệch. Trong khi đó, theo Brand [5], đường<br /> under compression and extension are likely attributed to stress path and stress-<br /> ứng suất tác dụng lên phân tố đất mô phỏng hiện tượng<br /> induced anisotropy. On the other hand, the failure envelope of the intact CDG<br /> nước mưa thấm vào mái dốc phải đươc mô phỏng theo thí<br /> is found strongly affected by the stress path. Under compression, the mobilized<br /> nghiệm cắt cố kết – thoát nước trong điều kiện ứng suất<br /> friction angle and apparent cohesion are 34° and 14 kPa, respectively. Under lệch không đổi (thí nghiệm CQD). Lộ trình ứng suất này<br /> extension, these two strength parameters change to 42° and 10 kPa. The failure được thực hiện trong phòng thí nghiệm theo quy cách như<br /> envelopes suggest that the use of strength parameters from compression CQD sau: ứng suất lệch được giữ cố định trong khi điều chỉnh<br /> tests only may be less conservative for analyzing the stability of shallow slope, giảm ứng suất hữu hiệu đẳng hướng (p’).<br /> where effects of cohesion are likely dominant.<br /> Cho đến nay, ứng xử của đất dưới sơ đồ thí nghiệm<br /> Keywords: failure; landslide; rainfall; natural slope; decomposed granite, CQD nói trên đã được thực hiện bởi nhiều nhà nghiên cứu<br /> extension trên thế giới [3] [6] [7]. Hầu hết các nghiên cứu này chỉ tiến<br /> hành các thí nghiệm dưới cơ chế trạng thái ứng suất ba<br /> trục nén, tức là ứng suất chính thẳng đứng dọc trục luôn<br /> (1) Ths, Cựu nghiên cứu sinh, khoa Xây dựng, ĐH Khoa học và Công lớn hơn ứng suất chính ngang. Tuy nhiên, thực tế có thể<br /> nghệ Hong Kong; nhận thấy rằng hướng của các ứng suất chính thay đổi<br /> Kỹ sư địa kỹ thuật, Phòng Địa kỹ thuật, Viện nền móng và công trình dọc theo mặt trượt như được minh họa trong Hình 1 (b)<br /> ngầm, FECON [8]. Do đó thí nghiệm nén ba trục truyền thống không thể<br /> (2) Tiến sỹ, Trợ lý nghiên cứu Giáo sư, khoa Xây dựng, ĐH Khoa học và minh họa đầy đủ được các trạng thái của phân tố đất dọc<br /> Công nghệ Hong Kong theo mặt trượt. Dẫn đến việc chỉ sử dụng duy nhất các<br /> (3) Giáo sư, Tiến sỹ, khoa Xây dựng, ĐH Khoa học và Công nghệ Hong thông số cường độ xác định từ thí nghiệm theo cơ chế<br /> Kong ba trục nén nêu trên có thể dẫn đến việc tính toán hệ số<br /> <br /> <br /> S¬ 28 - 2017 83<br /> KHOA H“C & C«NG NGHª<br /> <br /> <br /> an toàn theo hướng bất lợi<br /> đối với tình huống trượt mái<br /> dốc do mưa [9]. Để nghiên<br /> cứu về ảnh hưởng của tỷ số<br /> ứng suất (q/p’) và sự thay<br /> đổi hướng ứng suất chính<br /> lên ứng xử của dất, nhóm<br /> các nhà nghiên cứu [10] đã<br /> tiến hành các thí nghiệm<br /> CQD trên mẫu cát Toyoura<br /> cho cả hai cơ chế ứng suất<br /> ba trục kéo và nén. Kết quả<br /> thí nghiệm của họ cho thấy<br /> Hình 1. (a) So sánh giữa các lộ trình ứng suất khác nhau và<br /> rằng, mẫu thí nghiệm bị mất<br /> (b) Minh họa quá trình thay đổi hướng ứng suất chính dọc theo mặt trượt giả định<br /> ổn định và xuất hiện biến<br /> dạng dẻo lớn trước khi trạng<br /> Bảng 1. Tổng hợp kế hoạch thí nghiệm<br /> thái ứng suất của mẫu đạt tới miền phá hoại Mohr-Coulomb.<br /> Trạng thái của mẫu<br /> Kế hoạch thí nghiệm và thiết bị thí nghiệm sau khi cố kết Hệ số<br /> Hai nhóm thí nghiệm chính đã được thực hiện trong bài Nhóm Số hiệu<br /> Ứng suất rỗng<br /> báo này để nghiên cứu ảnh hưởng của tỷ số ứng suất (q/p’) thí mẫu thí<br /> hữu hiệu Tỷ số Hệ số cuối<br /> và lộ trình/ đường ứng suất đến ứng xử phá hoại của các nghiệm nghiệm<br /> đẳng ứng suất rỗng cùng<br /> mẫu đất nguyên dạng nhằm làm cơ sở khi lựa chọn các hướng<br /> thông số cường độ cho việc phân tích và thiết kế ổn định<br /> mái dốc tự nhiên. Nhóm thí nghiệm thứ nhất bao gồm 10 thí C80/08 0.8 0.59 0.69<br /> nghiệm CQD. Như đã phân tích ở trên, nhóm thí nghiệm này E80/08 -0.8 0.58 0.64<br /> được sử dụng với mục đích mô phỏng chính xác lộ trình ứng 80<br /> C80/06 0.6 0.59 0.76<br /> suất thực tế tại hiện trường dưới cơ chế thấm của nước mưa<br /> vào mái dốc, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc áp lực E80/06 -0.6 0.57 0.64<br /> nước lỗ rỗng tăng cao. Để làm rõ được ảnh hưởng của tỷ số C60/08 0.8 0.61 0.74<br /> ứng suất và lộ trình ứng suất lên ứng xử của đất CDG, cả CQD<br /> E60/08* -0.8 0.57 0.58<br /> hai cơ chế ứng suất nén (ứng suất thẳng đứng lớn hơn ứng 60<br /> suất ngang) và cơ chế ứng suất kéo (ứng suất thẳng đứng C60/06 0.6 0.60 0.80<br /> nhỏ hơn ứng suất ngang) đã được thực hiện. Tỷ số ứng suất E60/06* -0.6 0.60 0.61<br /> (q/p’) được hiểu là tỷ số giữa ứng suất lệch q (bằng hiệu của C45/08 0.8 0.59 0.79<br /> ứng suất thẳng đứng và ứng suất ngang) và ứng suất hữu 45<br /> hiệu đẳng hướng (p’). Do vậy, tỷ số ứng suất có giá trị dương E45/08* -0.8 0.58 0.59<br /> và âm tương ứng với cơ chế ứng suất nén và kéo. ACU80 80 0.8 0.59 0.59<br /> Nhóm thí nghiệm thứ hai bao gồm việc thực hiện bốn thí Thí ACU60 60 0.8 0.61 0.61<br /> nghiệm cắt cố kết không đẳng hướng – không thoát nước nghiệm<br /> CU ECU80 80 -0.8 0.60 0.60<br /> (thí nghiệm CU). Tương tự như nhóm thí nghiệm thứ nhất,<br /> cả hai cơ chế ứng suất kéo và nén đều được xem xét. Nhóm ECU60 60 -0.8 0.62 0.62<br /> thí nghiệm này chủ yếu với mục đích so sánh với nhóm đầu Ghi chú: * Các mẫu không bị phá hoại tại thời điểm kết<br /> tiên kể trên. Ảnh hưởng của lộ trình ứng suất lên ứng xử của thúc thí nghiệm<br /> mẫu đất thí nghiệm được xác định thông qua việc so sánh CQD: thí nghiệm cố kết không đẳng hướng – cắt thoát<br /> kết quả thí nghiệm của hai nhóm thí nghiệm này. Chi tiết về nước với ứng suất lệch không thay đổi.<br /> kế hoạch thí nghiệm được tổng hợp trong bảng 1 dưới đây.<br /> CU: thí nghiệm cố kết không đẳng hướng – cắt không<br /> Hệ thống thiết bị thí nghiệm ba trục tự động tại phòng thí thoát nước.<br /> nghiệm Địa kỹ thuật của trường Đại học Khoa học và kỹ thuật<br /> Đối với nhóm thí nghiệm thứ nhất CQD, các mẫu thí<br /> Hồng Kong (HKUST) được sử dụng cho mục đích nghiên<br /> nghiệm được cố kết không đẳng hướng đến giá trị ứng suất<br /> cứu. Chi tiết về thiết bị đã được báo cáo bởi nhóm nghiên<br /> hữu hiệu đẳng hướng (p’) và tỷ số ứng suất (q/p’) theo lộ<br /> cứu Giáo sư Li X. S tại HKUST [11].<br /> trình thiết kế. Theo minh họa trong Hình 2, quá trình cố kết<br /> Mẫu đất thí nghiệm và quy trình thí nghiệm đẳng hướng được thực hiện bằng việc điều chỉnh tăng áp lực<br /> Đất được sử dụng trong nghiên cứu này là mẫu đất buồng từ từ theo từng bước đến giá trị mong muốn. Sau đó,<br /> nguyên dạng granite phong hóa hoàn toàn (CDG tại Hong ứng suất lệch được kiểm soát tăng hoặc giảm để đạt được<br /> Kong). Tất cả các mẫu thí nghiệm được chuẩn bị với kích các tỷ số ứng suất dương hoặc âm tương ứng. Tốc độ gia tải<br /> thước có đường kính 70 mm và cao 140 mm bằng phương là ±3 kPa/ giờ được lựa chọn cho các giai đoạn nói trên. Sau<br /> pháp cắt thủ công từ khối đất hình vuông vận chuyển về từ kết thúc giai đoạn cố kết (áp lực nước lỗ rỗng thặng dư đã<br /> hiện trường. Quá trình chuẩn bị mẫu đất được tiến hành cẩn hoàn toàn được tiêu tán), giai đoạn cắt CQD được bắt đầu<br /> thận tối đa nhằm giảm thiểu sự xáo động, tránh việc ảnh bằng việc tăng từ từ áp lực nước lỗ rỗng với tốc độ gia tăng<br /> hưởng của sự xáo động này đến cấu trúc tự nhiên của đất áp suất không đổi, trong khi vẫn giữ nguyên giá trị của áp lực<br /> cũng như sự liên kết (dính) hóa học (nếu có) giữa các hạt đất buồng. Thí nghiệm được kết thúc khi mẫu đất đạt tới biến<br /> (cementation) của mẫu đất nguyên dạng. dạng dẻo lớn (tương ứng với biến dạng dọc trục khoảng 20<br /> %) hoặc áp suất ngang (hay thẳng đứng) hữu hiệu (σ1’ hoặc<br /> <br /> <br /> 84 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG<br /> Hình 2. Lộ trình ứng suất của thí nghiệm cắt với ứng Hình 3. Lộ trình ứng suất của thí nghiệm cố kết không<br /> suất lệch không đổi (CQD) đẳng hướng – không thoát nước (thí nghiệm CU)<br /> <br /> <br /> <br /> σ3’) giảm về giá trị 0 kPa. giá trị ứng suất hữu hiệu đẳng hướng trong miền e – logp’)<br /> Hình 3 minh họa lộ trình ứng suất của thí nghiệm cắt cố sẽ giảm. Tương ứng với giá trị hệ số trạng thái nhỏ hơn,<br /> kết không đẳng hướng – không thoát nước (CU). Toàn bộ mẫu đất sẽ có xu hướng giãn nở thể tích lớn hơn. Mặt khác,<br /> bốn mẫu thí nghiệm của nhóm này được tiến hành cố kết theo mối quan hệ ứng suất biến dạng trong Hình 4 (c), cả hai<br /> không đẳng hướng tương tự như nhóm CQD. Khi kết thúc mẫu ACU 60 và ACU80 đều thể hiện ứng xử tái bền (strain-<br /> giai đoạn cố kết, giai đoạn cắt không thoát nước được tiến hardening).<br /> hành với việc kiểm soát tốc độ biến dạng ±0.05% / phút. So sánh giữa ứng xử cắt không thoát nước giữa hai cơ chế<br /> nén và kéo (ACU và ECU)<br /> Phân tích kết quả thí nghiệm<br /> Trong quá trình cắt không thoát nước, các mẫu đất dưới<br /> Thí nghiệm nén ba trục không thoát nước (ACU) cơ chế kéo ứng xử rất khác biệt so với các mẫu dưới cơ chế<br /> Hình 4 thể hiện ứng xử của mẫu đất nguyên dạng CDG ứng suất nén. Không như các thí nghiệm nén, ứng xử của<br /> khi cắt không thoát nước dưới hai cơ chế nén và kéo, gồm mẫu đất CDG nguyên dạng khi cắt không thoát nước dưới<br /> mối quan hệ giữa ứng suất lệch (q) và biến dạng dọc trục cơ chế kéo lại thể hiện xu hướng giãn nở thể tích nhẹ tại<br /> (ɛa), lộ trình ứng suất (p’ – q) và mối quan hệ giữa áp lực giai đoạn đầu của quá trình cắt, minh họa bằng việc tăng lên<br /> nước lỗ rỗng thặng dự với biến dạng dọc trục (∆u - ɛa). Chi của ứng suất hữu hiệu đẳng hướng (xem hình 4 (a)), đồng<br /> tiết theo hình 4 (a), mẫu đất khi cắt không thoát nước dưới thời phát sinh áp lực nước lỗ rỗng thặng dư âm (xem hình 4<br /> cơ chế ba trục nén (ACU60 và ACU80) ban đầu ứng xử theo (b) và quá trình mềm hóa (biến dạng) (xem hình 4 (c)). Sau<br /> xu hướng nén lại, sau đó là theo xu hướng nở thể tích mạnh khi biến dạng dọc trục đạt giá trị 3 %, xu hướng nén thể tích<br /> mẽ sau khi đạt tới trạng thái “chuyển pha”. Ứng suất lệch sau bắt đầu quan sát thấy cùng với quá trình giảm ứng suất hữu<br /> đó tiếp tục tăng cho đến khi đạt được trạng thái ứng suất tới hiệu đẳng hướng, cùng với sự gia tăng áp lực nước lỗ rỗng<br /> hạn. Đường trạng thái tới hạn (CSL) do đó được xác định và suy giảm được độ chống cắt (hóa mềm/ strain-softening).<br /> bằng việc nối các điểm trạng thái tới hạn từ các thí nghiệm Ứng xử khác biệt này (ban đầu có xu hướng giãn nở sau đó<br /> ACU60 và ACU80 và gốc tọa độ (0,0) trong không gian lộ là xu hướng nén thể tích) cũng được báo cáo trong nghiên<br /> trình ứng suất (p’-q). Từ hình vẽ ta xác định được tỷ số ứng cứu của Wang and Yan [14] thí nghiệm đối với cùng loại đất<br /> suất tới hạn là 1.56, tương ứng với góc ma sát tới hạn là 38o. nguyên dạng CDG dưới sơ đồ nén ba trục. Bản chất của ứng<br /> Giá trị góc ma sát này khá đồng nhất với kết quả tương tự xử này có thể được cho là do vai trò quan trọng của các hạt<br /> với mẫu đất đầm nén lại CDG được báo cáo theo tài liệu [12]. đất mịn và thô đối với ứng xử của đất nguyên dạng CDG. Do<br /> Sự đồng nhất này cho rằng cấu trúc ban đầu của mẫu đất sự tương tác giữa hai nhóm hạt này nên ứng xử của mẫu đất<br /> nguyên dạng CDG sẽ bị phá hủy hoàn toàn khi cắt mẫu đến khi cắt không thoát nước có thể bị kiểm soát bởi khung cấu<br /> giá trị biến dạng lớn, cụ thể là khi đạt được trạng thái tới hạn. trúc của hạt mịn (ứng xử nén thể tích đối với đất quá cố kết)<br /> Quá trình thay đổi áp lực nước lỗ rỗng được thể hiện ở và khung cấu trúc hạt thô (ứng xử giãn nở thể tích đối với bộ<br /> hình 4 (b), áp lực nước lỗ rỗng thặng dư của mẫu ACU60 và khung có cấu trúc rời rạc) tương ứng [14].<br /> ACU80 tăng tại giai đoạn đầu (thể hiện xu hướng mẫu nén Ứng xử khác biệt của mẫu đất nguyên dạng CDG dưới<br /> thể tích) và sau đó giảm (thể hiện xu hướng nở thể tích). Có cơ chế nén và kéo liên quan chủ yếu đến xu hướng đối lập<br /> thể thấy khi so sánh kết quả của hai mẫu đất này thì mẫu của sự thay đổi áp lực nước lỗ rỗng khi cắt. Như thể hiện<br /> ACU60 thể hiện xu hướng nén thể tích khiêm tốn hơn tại giai trong hình 4 (a), lộ trình ứng suất của mẫu ECU60 và ECU80<br /> đoạn đầu nhưng có xu hướng nở mạnh hơn ở giai đoạn sau có chiều hướng tăng lên đến giá trị đỉnh trước khi chuyển<br /> so với mẫu còn lại. Hiện tượng này minh chứng rõ ràng rằng sang trái rồi đi xuống đến trạng thái tới hạn. Trong khi đó đối<br /> sự giãn nở thể tích của mẫu nguyên dạng CDG không thể với mẫu ACU60 và ACU80, ứng suất hữu hiệu đẳng hướng<br /> chỉ mô phỏng bằng tỷ số ứng suất. Theo lý thuyết mô hình có chiều hướng giảm nhẹ ban đầu sau đó tăng cho đến khi<br /> phụ thuộc vào trạng thái của Li and Dafalias [13], khi ứng đạt được trạng thái tới hạn. Sự khác biệt giữa hai cơ chế này<br /> suất hữu hiệu đẳng hướng nhỏ hơn, hệ số trạng thái Ψ (là cho thấy quá trình tương tác giữa nhóm hạt thô và mịn cũng<br /> hiệu của hệ số rỗng hiện tại với hệ số rỗng tới hạn ở cùng bị ảnh hưởng bởi quá trình cố kết không đẳng hướng, do quá<br /> <br /> <br /> S¬ 28 - 2017 85<br /> KHOA H“C & C«NG NGHª<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 4. Ứng xử của đất khi cắt không thoát nước<br /> dưới cơ chế ba trục nén và kéo: (a) Lộ trình ứng<br /> suất; (b) Áp lực nước lỗ rỗng dư (∆u) và (c) Mối<br /> quan hệ ứng suất biến dạng<br /> <br /> Hình 5. Biến dạng dọc trục trong thí nghiệm CQD<br /> <br /> <br /> <br /> trình này có thể làm thay đổi (khung) cấu trúc của mẫu đất suất bị tăng dần lên xuất phát từ việc giảm dần giá trị của<br /> nguyên dạng CDG. p’, dẫn đến hiệu ứng cắt lên mẫu thí nghiệm. Khi tỷ số ứng<br /> Mặt khác, khi mẫu bị cắt dưới cơ chế kéo, thì trạng thái suất đạt giá trị ngưỡng giới hạn, trạng thái chảy xuất hiện do<br /> ứng suất tới hạn của tất cả các mẫu thí nghiệm đều nằm hiệu ứng cắt này gây lên. Do quá trình gia tải vẫn tiếp tục,<br /> trên một đường thẳng duy nhất với độ dốc (Me) là 1.0 trong mẫu thí nghiệm nhanh chóng đạt tới trạng thái phá hoại. Tuy<br /> mặt phẳng ứng suất p’-q. Tỷ số ứng suất trên đường dốc nhiên trong số các thí nghiệm đã thực hiện, có một số mẫu<br /> này tương ứng với góc ma sát là 38o, tương đồng với giá trị (E60/08, E60/06 và E45/08) không bị phá hoại bất kể ứng<br /> góc ma sát tới hạn xác định theo nhóm thí nghiệm cắt dưới suất hữu hiệu giảm tới giá trị không và biến dạng thẳng đứng<br /> cơ chế nén. Quan sát này minh chứng rằng góc ma sát huy tích lũy là không đáng kể. Hiện tượng này cho thấy mẫu đất<br /> động tại trạng thái tới hạn không phụ thuộc vào tỷ số ứng nguyên dạng CDG có khả năng chịu kéo (thực) hay cường<br /> suất ban đầu cũng như cơ chế ứng suất (nén hay kéo), đó là độ kháng nở hông tự do ở một mức độ nào đó, mặc dù có<br /> do ảnh hưởng của lộ trình ứng suất lên (khung) cấu trúc của thể là do các rễ cây được tìm thấy trong mẫu đất trong quá<br /> đất không còn tác dụng khi biến dạng tích lũy đạt tới giá trị trình thí nghiệm. Hơn nữa, khi so sánh ứng xử của đất dưới<br /> lớn ở trạng thái tới hạn. cơ chế ba trục kéo và nén thì thấy rằng ảnh hưởng của rễ<br /> cây còn sót lại trong mẫu lên cường độ của đất là rõ ràng<br /> Biến dạng tích lũy trong quá trình cắt với ứng suất lệch<br /> hơn trong trường hợp thí nghiệm ba trục kéo, đặc biệt ở cấp<br /> không đối (thí nghiệm CQD)<br /> áp lực thấp.<br /> Hình 5 thể hiện kết quả của 10 thí nghiệm cắt với ứng<br /> Hình 6 (a) thể hiện biến dạng thể tích từ các thí nghiệm<br /> suất lệch không đổi CQD dưới hai miền kéo và nén, tương<br /> CQD dưới cơ chế ba trục nén. Có thể thấy rằng tất cả các<br /> ứng với tỷ số ứng suất âm và dương. Như quan sát trong<br /> mẫu thí nghiệm đều có biến dạng thể tích âm (nở thể tích)<br /> hình, đường quan hệ giữa biến dạng dọc trục và ứng suất<br /> khi ứng suất trung bình đẳng hướng hữu hiệu giảm dần đến<br /> hữu hiệu đẳng hướng có xu hướng tương tự đối với tất các<br /> giá trị giới hạn. Ứng xử này khác biệt với quá trình cắt không<br /> trường hợp có ứng suất hữu hiệu đẳng hướng và tỷ số ứng<br /> thoát nước khi mà thể tích mẫu có xu hướng nén trước khi<br /> suất ban đầu khác nhau. Trong giai đoạn đầu khi giảm ứng<br /> đến giai đoạn giãn nở (xem hình 3). Điều này là cơ sở cho<br /> suất hữu hiệu đẳng hướng p’, biến dạng dọc trục (ɛa) là rất<br /> việc lý giải sự giãn nở thể tích của đất là phụ thuộc vào lộ<br /> nhỏ không đáng kể, thể hiện của ứng xử đàn hồi trong giai<br /> trình ứng suất mà phân tố đất trải qua. Như vậy có thể khẳng<br /> đoạn này. Khi p’ giảm đến giá trị giới hạn, thì ứng suất dọc<br /> định là việc chỉ sử dụng thông số trạng thái ứng suất hiện tại<br /> trục tăng mạnh đột ngột. kết quả này là do việc tỷ số ứng<br /> <br /> <br /> 86 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG<br /> là không đủ để mô phỏng chính xác ứng xử giãn nở thể tích của<br /> đất.<br /> Hình 6 (b) thể hiện biến dạng thể tích trong quá trình cắt CQD<br /> tương ứng với các mẫu có tỷ số ứng suất âm ban đầu. Kết quả<br /> cho thấy giống với trường hợp dưới cơ chế nén ba trục, tất cả các<br /> mẫu thí nghiệm dưới cơ chế ba trục kéo này đều giãn nở về thể<br /> tích, tức là có biến dạng thể tích âm. Tuy nhiên về mặt định lượng<br /> thì sự giãn nở thể tích trong trường hợp là nhỏ hơn so với cơ các<br /> thí nghiệm CQD dưới cơ chế nén ba trục.<br /> Ảnh hưởng của lộ trình ứng suất lên mặt phá hoại<br /> Trạng thái ứng suất (giới hạn) của các mẫu đất, mà tại đó tốc<br /> độ biến dạng tích lũy tăng đột biến trong nhóm thí nghiệm CQD,<br /> được tổng hợp trong hình 7. Đường ứng suất tới hạn (CSL) xác<br /> định từ các thí nghiệm cố kết đẳng hướng – không thoát nước<br /> (ACU và ECU) cũng được thể hiện trong hình để so sánh kết quả<br /> giữa hai nhóm thí nghiệm này. Sự khác biệt giữa các mặt phá hoại<br /> của thí nghiệm CQD và CU được giải thích là do cấu trúc vi mô và<br /> ứng xử của đất đều bị ảnh hưởng bởi lộ trình ứng suất, kết luận<br /> này tương đồng với kết quả mô phỏng phần tử rời rạc bởi nhóm<br /> nghiên cứu của Perez [15].<br /> Từ kết quả của các thí nghiệm CQD dưới cơ chế nén ba trục,<br /> đường bao phá hoại (FLc) được hình thành khá rõ ràng. Khi trạng<br /> thái của mẫu đất chạm vào mặt phá hoại, thì biến dạng lớn bắt<br /> đầu xuất hiện nếu ứng suất trung bình đẳng hướng hữu hiệu (p’)<br /> tiếp tục giảm. Sự phân tán về số liệu quan sát thấy từ các thí<br /> nghiệm CQD trong miền cơ chế ba trục nén này là không đáng<br /> kể và khá đồng nhất. Lực dính biểu kiến và góc ma sát hữu hiệu<br /> tương ứng xác định từ đường bao phá hoại là 14 kPa và 34°.<br /> Như đã đề cập ở phần trên, 03 thí nghiệm CQD dưới cơ chế ba<br /> trục kéo không bị phá hoại tại thời điểm kết thúc thí nghiệm, như<br /> minh họa trong hình 5. Thông số cường độ lực dính biểu kiến và<br /> góc mà sát hữu hiệu thu được từ kết quả thí nghiệm lần lượt là Hình 6. Mối quan hệ biến dạng dọc trục - Ứng<br /> 10 kPa và 42°. suất đẳng hướng hữu hiệu trong thí nghiệm<br /> Hai đường bao phá hoại (FLc và FLe) là mặt bao cường độ CQD: (a) dưới cơ chế nén và (b) dưới cơ chế kéo<br /> giới hạn của đất tại thời điểm bắt đầu phát triển biến dạng dẻo<br /> lớn. Như đã trình bày ở trên thì có thể thấy lộ trình ứng suất có<br /> ảnh hưởng rõ ràng lên lực dính biểu kiến và góc ma sát. Lực dính<br /> biểu kiến dưới cơ chế nén ba trục cao hơn 4 kPa so với trường<br /> hợp cơ chế kéo ba trục, tuy nhiên góc ma sát huy động lại nhỏ<br /> hơn khi mẫu đất thí nghiệm CQD dưới cơ chế nén. Điều này có<br /> thể dẫn đến không an toàn (do hệ số an toàn tính toán có thể cao<br /> hơn) khi phân tích ổn định mái dốc do ảnh hưởng của mưa nếu<br /> chỉ sử dụng các thông số cường độ xác định từ thí nghiệm CQD<br /> dưới cơ chế nén được sử dụng. Đó là do lực dính biểu kiến đóng<br /> vai trò chi phối khi phân tích ổn định của các khối sạt trượt nông,<br /> khi mà đối với các khối trượt nông này thì ứng suất hữu hiệu và<br /> ảnh hưởng của nó đến cường độ chịu cắt là nhỏ [16]. Ngược lại<br /> thì đối với các khối trượt sâu thì vai trò của góc ma sát là quan<br /> trọng hơn, thì việc sử dụng các thông số cường độ từ thí nghiệm<br /> cơ chế nén CQD lại thiên về an toàn. Ngoài ra, bằng việc so sánh Hình 7. Các mặt bao phá hoại tương ứng với các<br /> giữa hai đường bao phá hoại này (xác định từ thí nghiệm CQD) và lộ trình ứng suất khác nhau<br /> đường bao phá hoại CSL thì chỉ sử dụng góc ma sát tới hạn trong<br /> phân tích ổn định của mái dốc tự nhiên với địa chất ganite sẽ là an<br /> toàn hơn cả, tuy nhiên cần lưu ý rằng điều này có thể không đúng<br /> khi áp dụng với các mái dốc đắp (đặc biệt là có độ chặt thấp) [4].<br /> <br /> Kết luận<br /> Các kết quả thí nghiệm minh chứng rằng ứng xử cắt không<br /> thoát nước của đất nguyên dạng CDG chịu ảnh hưởng mạnh mẽ<br /> bởi lịch sử ứng suất và quá trình cố kết không đẳng hướng có thể<br /> thay đổi kết cấu (khung) của đất nguyên dạng CDG một cách rõ<br /> rệt.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> S¬ 28 - 2017 87<br /> KHOA H“C & C«NG NGHª<br /> <br /> <br /> Dưới cả hai sơ đồ ba trục nén và kéo (thí nghiệm CU), sự nghiệm CQD dưới cơ chế nén cho toàn bộ mặt trượt tiềm<br /> thay đổi của áp lực nước lỗ rỗng thặng dư không chỉ chịu ảnh năng có thể dẫn đến không an toàn khi phân tích ổn định của<br /> hưởng của tỷ số ứng suất (q/p’) mà cả giá trị ứng suất trung các khối sạt trượt nông, khi mà ảnh hưởng của lực dính (biểu<br /> bình đẳng hướng hữu hiệu (p’). Kết luận này có thể được giải kiến) chi phối đối với loại sạt lở này. Tuy nhiên sẽ là thiên về<br /> thích bằng lý thuyết “sự giãn nở thể tích phụ thuộc vào trạng an toàn hơn đối với trường hợp phân tích ổn định của khối<br /> thái của đất” (state-dependent dilatancy). Mặt khác, trạng thái trượt sâu khi mà sức kháng trượt của khối trượt sâu chủ yếu<br /> “chuyển pha” cũng xuất hiện trong cả hai trường hợp ba trục huy động từ lực ma sát./.<br /> kéo và nén trong quá trình cắt không thoát nước (thí nghiệm<br /> CU). Không giống với cát, góc ma sát huy động tại thời điểm<br /> Lời cám ơn<br /> chuyển pha của đất nguyên dạng CDG trong nghiên cứu này<br /> là khác nhau giữa hai cơ chế ba trục kéo và nén. Các tác giả xin chân thành cám ơn Hội đồng quỹ nghiên<br /> cứu (RGC) của Hồng Kong về việc cung cấp các hỗ trợ về<br /> Mặt bao phá hoại xác định từ thí nghiệm cắt với ứng suất<br /> chi phí đối với dự án này thông qua các quỹ nghiên cứu số<br /> lệch không đổi CQD cũng chịu ảnh hưởng rõ rệt bởi lộ trình<br /> 16216116 và T22-603/15N.<br /> ứng suất. Việc chỉ sử dụng các thông số cường độ từ thí<br /> <br /> <br /> Tài liệu tham khảo Strength reduction of till under dynamic pore pressure condition.<br /> Geotechnique Letters, 6, 83-88.<br /> 1. Zhang, L.L., Zhang, J., Zhang, L.M. & Tang, W.H. 2011. Stability<br /> analysis of rainfall-induced slope failure: a review. Proceedings of 9. Uthayakumar, M. & Vaid, Y.P. 1998. Static liquefaction of sands<br /> the ICE-Geotechnical Engineering, 164, 299. under multiaxial loading. Canadian Geotechnical Journal, 35,<br /> 273-283.<br /> 2. Ng, C.W.W., Zhan, L.T., Bao, C.G., Fredlund, D.G. & Gong,<br /> B.W. 2003. Performance of an unsaturated expansive soil slope 10. Dong, Q., Xu, C.J., Cai, Y.Q., Juang, H., Wang, J., Yang, Z.X.<br /> subjected to artificial rainfall infiltration. Geotechnique, 53, 143- & Gu, C. 2015. Drained instability in loose granular material.<br /> 157. International Journal of Geomechanics, 16, 04015043.<br /> 3. Anderson, S.A. & Riemer, M.F. 1995. Collapse of saturated 11. Li, X.S., Chan, C.K. & Shen, C.K. 1988. An automated triaxial<br /> soil due to reduction in confinement. Journal of Geotechnical testing system. Advanced triaxial testing of soil and rock. ASTM<br /> Engineering, 121, 216-220. International.<br /> 4. Chu, J., Leroueil, S. & Leong, W.K. 2003. Unstable behaviour 12. Ng, C.W.W. & Chiu, A.C.F. 2003. Laboratory study of loose<br /> of sand and its implication for slope instability. Canadian saturated and unsaturated decomposed granitic soil. Journal of<br /> Geotechnical Journal, 40, 873-885. Geotechnical and Geoenvironmental Engineering, 129, 550-559.<br /> 5. Brand, E.W. 1981. Some thoughts on rain-induced slope failures. 13. Li, X.S. & Dafalias, Y.F. 2000. Dilatancy for cohesionless soils.<br /> Proceedings of the 10th International Conference on Soil Geotechnique, 50, 449-460.<br /> Mechanics and Foundation Engineering, Stockholm, 373-376. 14. Wang, Y.H. & Yan, W.M. 2006. Laboratory studies of two common<br /> 6. Dai, F.C., Lee, C.F. & Wang, S.J. 1999. Analysis of rainstorm- saprolitic soils in Hong Kong. Journal of Geotechnical and<br /> induced slide-debris flows on natural terrain of Lantau Island, Geoenvironmental Engineering, 132, 923-930.<br /> Hong Kong. Engineering Geology, 51, 279-290. 15. Perez, J.C.L., Kwok, C.Y., O’Sullivan, C., Huang, X. & Hanley,<br /> 7. Zhao, H.F. & Zhang, L.M. 2014. Instability of saturated and K.J. 2016. Exploring the micro-mechanics of triaxial instability in<br /> unsaturated coarse granular soils. Journal of Geotechnical and granular materials. Geotechnique, 66, 725-740.<br /> Geoenvironmental Engineering, 140, 25-35. 16. Zhu, J. H. & Anderson, S. A. (1998). Determination of shear<br /> 8. Harley, R., Sivakumar, V., Hughes, D. & Donohue, S. 2016. strength of Hawaiian residual soil subjected to rainfall-induced<br /> landslides. Géotechnique 48, No. 1, 73–82.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 88 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2