Xây dựng nông thôn mới - Sự hiện thực hóa đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
lượt xem 3
download
Bài viết "Xây dựng nông thôn mới - Sự hiện thực hóa đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" sẽ làm rõ nền tảng lý luận cũng như kết quả thực tế xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam trong giai đoạn 2010 - 2020 là một việc làm mang ý nghĩa khoa học và thực tiễn cao. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Xây dựng nông thôn mới - Sự hiện thực hóa đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI - SỰ HIỆN THỰC HÓA ĐẶC TRƯNG CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM Nguyễn Thị Phượng, Đỗ Thị Ngọc Lệ Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Phượng, email: ntphuong@hcmute.edu.vn Tóm tắt: Chủ trương xây dựng nông thôn mới (NTM) của Đảng, gắn liền với Nghị quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn (ban hành ngày 05/8/2008) là một quyết sách đúng đắn, là hiện thân của sự kết hợp lý luận và thực tiễn. Chương trình là sự hiện thực hóa của quan điểm “xóa bỏ khác biệt giữa nông thôn và thành thị” trong tư tưởng Hồ Chí Minh và từng bước xây dựng các đặc trưng của Chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam. Sau 10 năm triển khai, chương trình xây dựng NTM ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện. Bộ mặt nông thôn khởi sắc rõ rệt, hạ tầng kinh tế - xã hội được cải thiện; cơ cấu lại ngành nông nghiệp đã phát huy hiệu quả, kinh tế nông thôn đã có nhiều chuyển biến tích cực góp phần nâng cao thu nhập và đời sống của người dân nông thôn. Tuy nhiên, chương trình cũng phải đối mặt với không ít khó khăn và thách thức xuất phát từ sự đa dạng mang tính đặt trưng của các vùng miền trên cả nước, sự phát triển chưa bền vững, vấn đề môi trường, nước sạch, chuyển đổi số chưa đồng bộ giữa các địa phương,… Từ khóa: nông thôn mới; chủ nghĩa xã hội; rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị. 1. MỞ ĐẦU “Vùng/khu vực nông thôn mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn; được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã” (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2009). Với cách định nghĩa này, NTM vừa bao hàm chức năng lịch sử vốn có của nông thôn truyền thống, vừa có những thuộc tính khác như văn minh, sạch đẹp, bền vững,… NTM đảm nhiệm chức năng rất quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng và sự nghiệp đi lên xây dựng CNXH ở Việt Nam nói chung. Không chỉ có chức năng sinh thái, chức năng bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống, bản sắc của dân tộc Việt Nam, NTM còn mang trọng trách về việc 373
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân - mục tiêu của CNXH. Chính vì vậy, chương trình xây dựng NTM của Đảng là một quyết sách phù hợp về cả lý luận và thực tiễn, mang một ý nghĩa quan trọng. Việc làm rõ nền tảng lý luận cũng như kết quả thực tế xây dựng NTM ở Việt Nam trong giai đoạn 2010 - 2020 là một việc làm mang ý nghĩa khoa học và thực tiễn cao. 2. TỪ LÝ LUẬN “XÓA BỎ KHÁC BIỆT GIỮA NÔNG THÔN VÀ THÀNH THỊ” TRONG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH ĐẾN CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI 2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đặc trưng “xóa bỏ khác biệt giữa nông thôn và thành thị” của CNXH Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về CNXH ở Việt Nam là kết quả của sự kết hợp biện chứng giữa lý luận chung của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội với những đặc điểm của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và hiện thực xã hội Việt Nam. Mặc dù không có những tác phẩm chuyên khảo về CNXH nhưng quan điểm của Hồ Chí Minh về CNXH nói chung và về đặc trưng của CNXH nói riêng thể hiện rõ trong nhiều bài báo, bài phát biểu, bài nói chuyện với cán bộ, đảng viên, với bộ đội, thanh thiếu niên, nhi đồng,… Trong đó, tác phẩm Thường thức chính trị viết năm 1953 là một trong số những tác phẩm đầu tiên thể hiện rõ quan điểm của Người về đặc trưng của CNXH, được xác lập trên cơ sở tình hình thực tế của Liên Xô: 1- Công cụ sản xuất và tư liệu sản xuất đều là của chung. Ở nông thôn thì có nông trường chung. Ngoài nông trường, nông dân vẫn có ít của riêng như: nhà ở, lợn gà, vườn trồng rau, một con bò sữa, nghề phụ,... 2- Tư bản, địa chủ, phú nông không có nữa. Chỉ có công nhân và nông dân. Không ai bóc lột họ; cố nhiên họ cũng không bóc lột ai. Khoa học ngày càng phát triển, máy móc ngày càng nhiều, cho nên công nhân và nông dân ngày càng đỡ khó nhọc. 3- Nguyên tắc sinh hoạt là: “Ai không làm thì không được ăn” và “làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít”. 4- Kinh tế có kế hoạch. Cả nước có một kế hoạch chung. Mỗi ngành theo kế hoạch chung đó mà đặt kế hoạch riêng: sản xuất thứ gì và bao nhiêu. Mục đích là nâng cao đời sống của nhân dân và củng cố quốc phòng của Tổ quốc. Do kinh tế có 374
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” kế hoạch, mà không có nạn khủng hoảng, không có nạn thất nghiệp; mà sức sản xuất thì phát triển mau chóng. 5- Không có sự đối lập giữa thành thị và thôn quê, giữa lao động chân tay và lao động trí óc. Vì thôn quê ngày càng văn minh, công nông ngày càng thông thái” (Hồ, 2011, 290). Có thể thấy, ở đặc trưng thứ năm của CNXH, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến việc không có sự đối lập giữa thành thị và thôn quê, giữa lao động chân tay và lao động trí óc. Vì thôn quê ngày càng văn minh, công nông ngày càng thông thái. Đây là một trong những đặc trưng quan trọng, tạo nên sự khác biệt giữa CNXH và tư bản chủ nghĩa khi một bên là xây dựng một xã hội, một quốc gia hướng tới sự công bằng và phấn đấu giảm khoảng cách phát triển giữa các vùng, và một bên là hướng tới tối đa hóa lợi nhuận của một thiểu số và tiếp tục duy trì khoảng cách giàu - nghèo, một nguyên nhân của bất ổn xã hội. Vấn đề xóa đi “sự đối lập giữa thành thị và thôn quê” được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt chung với việc xóa đi “sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc” vì đây là hai vấn đề có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong CNXH, người lao động không phân biệt lao động trí óc hay lao động chân tay đều được tôn trọng. Do vậy, sự phân biệt giữa hai hình thức lao động này sẽ mất dần trong quá trình xây dựng CNXH. Tất nhiên, sự phân biệt giữa thành thị và nông thôn cũng sẽ bị xóa bỏ dần, bằng cách “thôn quê ngày càng văn minh, công nông ngày càng thông thái”. Bằng việc tăng cường kết nối giữa trí thức với công nông, tôn trọng và phát triển hài hòa lao động trí óc và lao động chân tay, các vùng nông thôn, những vùng sâu, vùng xa của Việt Nam sẽ dần phát triển hơn, văn minh hơn. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng lưu ý rằng: việc xóa bỏ dần sự tách rời giữa lao động trí óc và lao động chân tay, giữa thành thị và nông thôn không phải tự động diễn ra trong CNXH, mà bản thân mỗi người trong CNXH đều phải cố gắng vươn lên xóa bỏ dần sự tách rời này. Vì xây dựng CNXH là sự nghiệp của toàn dân, phải dựa vào sức mạnh của toàn dân. 2.2. Chủ trương của Đảng về Chương trình xây dựng nông thôn mới Trên cơ sở vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về CNXH nói chung và đặc trưng của CNXH nói riêng, cũng như nhằm lãnh đạo đất nước thực hiện thành công công cuộc “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, ngày 5/8/2008, Ban Chấp hành Trung 375
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG ương Đảng (Khóa X) đã thông qua Nghị quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Trong đó, Đảng đề ra mục tiêu: “Xây dựng NTM có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính tị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2008, 126). Đây có thể được coi như tuyên ngôn của Đảng về xây dựng NTM. Triển khai thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương khóa X còn ban hành các kết luận về một số nội dung trong Nghị quyết 26-NQ/TW, bao gồm: Đề án An ninh lương thực quốc gia, Đề án Chương trình xây dựng thí điểm mô hình NTM cấp xã, Đề án về nâng cao vai trò, trách nhiệm của Hội Nông dân Việt Nam trong phát triển nông nghiệp, xây dựng NTM và xây dựng giai cấp nông dân. Ngày 28/10/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP, xác định “Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM”. Nhằm tạo cơ sở rõ ràng cho việc xây dựng NTM, ngày 16/4/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 419/QĐ-TTg về Bộ 19 tiêu chí Quốc gia về NTM (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2019). Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020 gồm 11 nội dung, với Bộ tiêu chí quốc gia gồm 19 tiêu chí. Đại hội XI của Đảng tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng NTM: “Quy hoạch phát triển nông thôn và phát triển đô thị và bố trí các điểm dân cư. Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ môi trường. Triển khai chương trình xây dựng NTM phù hợp với đặc điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn; giữ gìn và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của nông thôn Việt Nam. Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Tạo môi trường thuận lợi để khai thác mọi khả năng đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, nhất là đầu tư của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút nhiều lao động, …” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 197-198). Từ thực tế triển khai Chương trình xây dựng NTM trong những năm đầu cho thấy, có một số tiêu chí không phù hợp với thực tiễn mang tính đặc thù của các vùng, miền (như: Miền núi phía Bắc, 376
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên) hoặc về nội dung, chỉ tiêu đạt chuẩn, khó cho vận dụng trong chỉ đạo thực hiện và cho đánh giá xã đạt chuẩn ở các địa phương. Do đó, ngày 20/02/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 342/QĐ-TTg về việc sửa đổi một số tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc gia về NTM (trong đó điều chỉnh 05/19 tiêu chí NTM). Tại Đại hội XII, Đảng đã xác định: một trong những định hướng lớn để sớm đạt được mục tiêu nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại là phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn gắn với xây dựng NTM. Đảng đã chỉ ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn là “Xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm; nâng cao giá trị gia tăng, đẩy mạnh xuất khẩu” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 92). Trên cơ sở kết quả tổng kết 05 năm thực hiện xây dựng NTM giai đoạn 2011 - 2015 và để triển khai các nội dung của Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2016 - 2020, ngày 17/10/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1980/QĐ-TTg về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM giai đoạn 2016- 2020 (thay thế Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 và Quyết định số 342/QĐ- TTg ngày 20/02/2013). Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM theo Quyết định 1980 gồm 19 tiêu chí, 49 chỉ tiêu (tăng 10 chỉ tiêu so với Bộ tiêu chí theo Quyết định 491), trong đó có 13 chỉ tiêu thuộc 06 tiêu chí (là những chỉ tiêu hạ tầng kinh tế - xã hội có thể cần ở mức độ khác nhau) phân cấp cho cấp tỉnh quy định việc áp dụng cụ thể đối với các nhóm xã để phù hợp với điều kiện đặc thù, nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và khả năng của người dân từng xã, đặc điểm văn hoá của từng dân tộc. Đây là sự điều chỉnh kịp thời và đúng đắn của Đảng và Chính phủ để quá trình xây dựng NTM ở Việt Nam đạt kết quả cao hơn trong thực tế, tôn trọng sự đa dạng đặc trưng của các vùng, miền. Ngoài ra, trong giai đoạn 2016 - 2020, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã ban hành Công văn số 1345/BNN-VPĐP ngày 08/02/2018 hướng dẫn xây dựng và triển khai kế hoạch xét, công nhận xã đạt chuẩn NTM nâng cao giai đoạn 2018-2020. Đồng thời với việc hướng dẫn xây dựng NTM nâng cao, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã phối hợp với các Bộ, ngành Trung ương tham mưu, trình Thủ tướng Chính phủ ban 377
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG hành Quyết định số 691/QĐ-TTg ngày 05/6/2018 về ban hành tiêu chí xã NTM kiểu mẫu giai đoạn 2018 - 2020. Trên cơ sở tổng kết chương trình 10 năm xây dựng NTM (2010-2020), Đại hội Đảng khóa XIII tiếp tục đề ra chủ trương đẩy mạnh xây dựng NTM trong giai đoạn tiếp theo 2021-2025. Một trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 được Đại hội XIII đề ra là: “phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng NTM; ưu tiên nguồn lực phát triển hạ tầng nông thôn miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021). Ngày 28/7/2021, Quốc Hội khóa 15 đã ban hành Nghị quyết số 25/2021/QH15 phê duyệt chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 2021 - 2025. Mục tiêu tổng quát mà Nghị quyết đề ra là: “Tiếp tục triển khai Chương trình gắn với thực hiện có hiệu quả cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, quá trình đô thị hoá, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững; thực hiện xây dựng NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu và NTM cấp thôn, bản. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn, thúc đẩy bình đẳng giới. Xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn đồng bộ và từng bước hiện đại, bảo đảm môi trường, cảnh quan nông thôn sáng, xanh, sạch, đẹp, an toàn, giàu bản sắc văn hoá truyền thống, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững. Phấn đấu đến năm 2025, cả nước có ít nhất 80% số xã đạt chuẩn NTM” (Quốc hội, 2021) cùng nhiều mục tiêu cụ thể khác. Có thể nói, xây dựng NTM giờ đây đã trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá quê hương, đất nước. Với Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, những quyết sách của Chính phủ và sự vào cuộc mạnh mẽ đầy quyết tâm của các địa phương, cán bộ, ban, ngành từ trung ương đến các cấp cơ sở, việc xây dựng NTM đã trở thành một cuộc vận động cách mạng của cả nước. Xây dựng thành công NTM không chỉ góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa như Đảng đã đề ra mà còn là sự hiện thực hóa đặc trưng của CNXH ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh. 3. THỰC TẾ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010 - 2020 3.1. Thành tựu xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam Sau 10 năm (2010 - 2020) thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM, với sự chỉ đạo quyết liệt, sự vào cuộc mạnh mẽ, đồng bộ của cả hệ thống 378
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” chính trị và sự tham gia tích cực của người dân, chương trình đã trở thành một phong trào sôi nổi, rộng khắp trên cả nước và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện. Tính đến hết năm 2020, chương trình đã vượt 12% số xã đạt chuẩn NTM (62%) so với mục tiêu được Đảng và Nhà nước giao là 50%. Sau khi rà soát lại các xã đã sáp nhập theo Nghị quyết của Quốc hội, đến tháng 4/2021, cả nước có 5.248/8.267 xã (63,5%) đạt chuẩn NTM, trong đó, có 305 xã đạt chuẩn NTM nâng cao và đã có 24 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu theo quy định của Thủ tướng Chính phủ, bình quân cả nước đạt 16,7 tiêu chí/xã (Đưa chương trình xây dựng nông thôn mới đi vào chiều sâu, bền vững, 2021). Trong đó, nếu tính theo khu vực, đồng bằng sông Hồng là khu vực có tỷ lệ xã đạt chuẩn NTM cao nhất trên cả nước, với 84,8% (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2019). Chương trình xây dựng NTM của Đảng đã có những tác động tích cực đến sự thay đổi bộ mặt nông thôn, cả về chất và lượng, cụ thể: Bảng 1. Một số chỉ tiêu so sánh giữa nhóm xã đạt Nông thôn mới năm 2018 với nhóm xã chưa đạt 2010 2018 Xã Xã Xã Xã chưa chưa đạt đạt đạt đạt Chung NTM Chung NTM NTM NTM năm năm năm năm 2010 2018 2010 2018 Thu nhập bình quân đầu người 19,0 21,9 16,4 35,0 38,8 31,7 nông thôn (triệu đồng/người/năm) Tỷ lệ thu nhập từ nông nghiệp trong 27,5 25,8 29,3 22,0 20,0 24,1 tổng thu nhập của hộ nông thôn (%) Tỷ lệ nghèo nông thôn (%) 15,7 10,5 20,3 12,1 6,1 17,4 Tỷ lệ hộ hài lòng với cuộc sống (%) 50,4 53,5 47,8 79,3 82,8 76,2 Ghi chú: Tỷ lệ hộ hài lòng với cuộc sống được so giữa năm 2018 với năm 2012. Ba tiêu chí còn lại được so giữa năm 2018 với năm 2010. Nguồn: IPSARD, Viện Khoa học lao động và xã hội, Văn phòng Điều phối NTM Trung ương, 2019. 379
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Thứ nhất, thông qua tăng thu nhập và giảm nghèo nông thôn, sự hài lòng với cuộc sống của cư dân nông thôn đang ngày càng tăng, tạo nền tảng ổn định chính trị - xã hội. Tính đến năm 2020, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn ước đạt khoảng 43 triệu đồng/người/năm, gấp 1,8 lần so với năm 2015 và gấp 3,35 lần so với năm 2010; tỷ lệ hộ nghèo đa chiều khu vực nông thôn còn khoảng 5,6% (Đưa chương trình xây dựng nông thôn mới đi vào chiều sâu, bền vững, 2021). Điều quan trọng là khi so sánh tốc độ giảm nghèo giữa nhóm xã chưa đạt chuẩn và nhóm xã đạt chuẩn NTM, số liệu thống kê cho thấy các xã đạt chuẩn NTM có tốc độ giảm nghèo nhanh hơn hẳn. Khi thu nhập tăng lên và tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống, sự hài lòng của người dân về cuộc sống cũng được cải thiện, thể hiện trong Bảng 1. Thứ hai, diện mạo nông thôn khởi sắc, hạ tầng nông thôn thay đổi rõ rệt, nhận thức về NTM được tăng cường. Nếu như ở giai đoạn đầu (2010 - 2015), cơ sở hạ tầng ở khu vực NTM chỉ ở mức chập chững khởi động thì đến giai đoạn 2 (2016 - 2019), vấn đề về hạ tầng và sinh kế của người dân nông thôn đã được tập trung giải quyết tốt hơn. Ở hầu khắp các vùng quê nông thôn, điều kiện giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc, điều kiện học tập, khám chữa bệnh… đã được tăng cường mạnh mẽ. Đặc biệt, từ khi bắt đầu thực hiện Chương trình xây dựng NTM (năm 2011) đến nay, cả nước đã hoàn thành một khối lượng đường giao thông nông thôn hơn gấp 5 lần của giai đoạn 2001 - 2010, có 99,4% tổng số xã trên cả nước có đường ô tô đến trung tâm xã. Chương trình xây dựng NTM đã huy động được sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và quan trọng nhất là sự đồng lòng, hưởng ứng của người dân. Khảo sát của IPSARD năm 2019 cho thấy 84,8% số hộ nông thôn hài lòng về các công trình hạ tầng trong xây dựng NTM; đặc biệt tại các huyện đạt chuẩn thì tỷ lệ này đạt mức 94-97%. Cùng với quá trình tham gia các hoạt động xây dựng NTM, người dân đã ngày càng nhận thức rõ hơn về vai trò, trách nhiệm của mình. Tâm lý trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước giảm rõ rệt (Ban Chủ nhiệm Chương trình Khoa học Công nghệ phục vụ Nông thôn mới, 2019). Thứ ba, cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tích cực. Công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn đang phát triển nhanh cả về giá trị sản xuất và lĩnh vực, hình thức hoạt động. Công nghiệp nông thôn tăng trưởng bình quân 12,2%/năm trong giai đoạn 2008 - 2017, cao hơn mức tăng trưởng giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp. Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội đã giảm mạnh 380
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” từ 48,2% xuống còn 38,1% trong giai đoạn 2010 - 2018. Việc làm phi nông nghiệp của người dân nông thôn ngày càng phát triển. Theo điều tra của IPSARD năm 2019, thu nhập từ hoạt động NLTS chỉ chiếm 22% tổng thu nhập của hộ nông thôn (Ban Chủ nhiệm Chương trình Khoa học Công nghệ phục vụ Nông thôn mới, 2019). Đây là một tín hiệu đáng mừng, cho thấy cơ cấu kinh tế nông thôn đang tích cực chuyển dịch từ nông - lâm - ngư nghiệp là chính sang tăng dần tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ. Thứ tư, nhiều địa phương đã sáng tạo trong cách làm, trở thành gương điển hình tiêu biểu trong xây dựng NTM. Khi áp dụng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, một số địa phương đã dựa trên đặc thù thổ nhưỡng, khí hậu, dân cư để xây dựng cách làm phù hợp. Có thể kể đến một số địa phương tiêu biểu như: Sơn La - đã mạnh dạn, sáng tạo vượt khó trong chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển trái cây, cây công nghiệp gắn với chế biến, khuyến khích phát triển các hợp tác xã quy mô nhỏ và xây dựng thương hiệu tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao; Ninh Bình khai thác thế mạnh 3 vùng địa hình, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp cùng với phát triển ngành nghề nông thôn và du lịch; Hà Giang và Hòa Bình đã tự xây dựng Quỹ phát triển cộng đồng; Hà Tĩnh với mô hình sáng tạo về khu dân cư kiểu mẫu, vườn kiểu mẫu,… Khi sự sáng tạo là phù hợp, nó giúp cho kinh tế địa phương phát triển, đời sống người dân ổn định hơn, được cải thiện tốt hơn. 3.2. Hạn chế và các vấn đề đặt ra trong triển khai thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025 Những thành tựu của chương trình xây dựng NTM là không nhỏ, tuy nhiên, chương trình cũng không tránh được một số hạn chế nhất định. Cụ thể: Thứ nhất, sự phân hóa nông thôn đang tiến triển mạnh. Chênh lệch thu nhập giữa 20% nhóm hộ giàu nhất và 20% nhóm hộ nghèo nhất trong nông thôn tăng mạnh, từ 7,5 lần năm 2010 lên 8,6 lần năm 2018. Tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn cao gấp 4 lần đô thị. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, tỷ lệ tái nghèo bình quân chiếm 5,1% số hộ thoát nghèo, có nơi trên 50%, tập trung ở các vùng miền núi phía Bắc, Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên. Chênh lệch thu nhập giữa đồng bào dân tộc với người Kinh, giữa vùng miền núi với đồng bằng tăng lên (Ban Chủ nhiệm Chương trình Khoa học Công nghệ phục vụ Nông thôn mới, 2019). Trong đó, sự tăng thu nhập ở 381
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG các xã, huyện đạt chuẩn NTM một phần là do sự đầu tư nguồn vốn từ chính phủ, vì vậy sự tăng thu nhập chưa thực sự bền vững. Thứ hai, sự phát triển theo chương trình xây dựng NTM chưa đồng bộ giữa các vùng. Đồng bằng sông Hồng là khu vực có số xã đạt chuẩn NTM cao nhất cả nước khi đạt 84,8% trong khi khu vực trung du miền núi phía bắc, tỷ lệ này chỉ đạt 26,75%. 12 tỉnh có dưới 30% số xã đạt chuẩn NTM, trong đó có 05 tỉnh có dưới 20% số xã đạt chuẩn, tất cả đều thuộc vùng Trung du miền núi phía Bắc (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2019). Thứ ba, nông nghiệp nông thôn vẫn còn nhỏ, dễ bị tổn thương. Đầu tư xã hội cho nông nghiệp thấp, chỉ khoảng 3 tỷ USD/năm, trong đó 50% là ngân sách nhà nước, chỉ có 16,7% là của doanh nghiệp. Tổ chức sản xuất nông nghiệp chưa có sự thay đổi nhiểu. Năng lực, trình độ mọi mặt của nông dân vẫn còn hạn chế, đa số các chủ thể kinh tế hộ chưa vươn tới tầm của sản xuất hàng hóa lớn, có khả năng cạnh tranh cao mà mới chỉ dừng lại ở quy mô hộ nhỏ lẻ. Chúng ta phải thừa nhận một thực trạng rằng cho đến hiện nay, có đến 70% số hộ nông dân Việt Nam là hộ kinh tế tiểu nông, sản xuất đang còn ở quy mô nhỏ (dưới 2 ha), tự phát, có phần bấp bênh trong khi cả nước đang hội nhập và hòa vào nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh quyết liệt. Hoạt động riêng lẻ và thiếu quy hoạch vĩ mô khiến nông nghiệp Việt Nam lâm vào trạng thái bị động trên thị trường cạnh tranh, dễ bị đẩy vào kịch bản “nông dân được mùa thì mất giá” hoặc tắc nghẽn về đầu ra do chính sách xuất - nhập khẩu của nước bạn thay đổi. Thứ tư, xây dựng NTM hiện nay đa số mới chú trọng phát triển hạ tầng, chưa quan tâm đúng mức tới phát triển sản xuất, kinh doanh, xây dựng đời sống văn hóa, nâng cao đời sống của người dân. Khảo sát gần đây cho thấy tỷ lệ hộ gia đình hài lòng với đường giao thông và hệ thống điện, trường học trong xây dựng NTM là trên 80%, thì tỷ lệ này chỉ là dưới 60% đối với hệ thống thủy lợi và chất lượng nhà văn hóa (Ban Chủ nhiệm Chương trình Khoa học Công nghệ phục vụ Nông thôn mới, 2019). Xây dựng NTM là gì? Nó không chỉ là tăng đầu tư vào cơ sở hạ tầng của các địa phương để nâng cấp điện, đường, trường, trạm (dù đây là các tiêu chí trong 19 tiêu chí của xây dựng NTM). Thực tế xây dựng NTM ở một số địa phương đã cho thấy còn những vấn đề đặt ra như chưa có quy hoạch và quản lý hiệu quả về không gian chung nông thôn - đô thị, công nghiệp - nông nghiệp, về hạ tầng nông thôn, nên đã 382
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” dẫn đến không gian nông thôn đang bị phá vỡ tại nhiều nơi, mất đi tính truyền thống, bản sắc văn hóa, mất cân bằng sinh thái, ô nhiễm môi trường gia tăng. Cần hiểu rằng mục tiêu của xây dựng NTM là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người nông dân. Chính vì vậy, nó cần nhiều hơn là việc xây dựng cơ sở hạ tầng một cách ồ ạt. Thiết nghĩ, NTM ở Việt Nam trong thời gian tới cần chú trọng nhiều hơn đến việc đầu tư vào hoạt động sản xuất, quy hoạch hoạt động kinh tế, đem lại những lợi ích thiết thực hơn cho người nông dân, đồng thời, cần đa dạng hóa các hoạt động sinh hoạt văn hóa theo hướng giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc ở địa phương. Thứ năm, tình trạng giá trị truyền thống bị nhạt phai, tính gắn kết cộng đồng giảm, tệ nạn xã hội còn phổ biến ở nông thôn, trong đó ở cả vùng NTM. Hầu hết các thiết chế văn hóa cơ sở như nhà văn hóa, trung tâm thể thao xã ấp rất ít khi hoạt động dù được xây dựng theo tiêu chí NTM. Việc lạm dụng bia rượu và các chất kích thích làm cho các hoạt động kết nối mang tính cộng đồng mất đi ý nghĩa nhân văn vốn có và bị đẩy theo hướng lệch lạc. Các câu lạc bộ, nhóm sở thích trong lĩnh vực văn hóa cũng rất ít, hoặc nếu được thành lập lại mang tính hình thức nhiều hơn. Một thực tế không thể phủ nhận là những tác động từ quá trình đô thị hóa đang làm phai nhạt dần những giá trị cốt lõi của làng - đơn vị cơ bản của tổ chức nông thôn đã được tích tụ và lưu truyền qua bao thế hệ. Tính gắn kết cộng đồng có xu hướng lỏng lẻo. Khảo sát của IPSARD phối hợp với một số tổ chức nghiên cứu cho thấy tỷ lệ hộ nông thôn có bất hòa hoặc xung đột trong gia đình hoặc với hộ khác tăng lên từ 0,4% năm 2010 đến 1% năm 2018; trong đó tỷ lệ này thậm chí còn cao hơn ở các xã đạt chuẩn NTM ở mức 1,9% năm 2018 so với xã chưa đạt NTM ở mức 0,2% (Ban Chủ nhiệm Chương trình Khoa học Công nghệ phục vụ Nông thôn mới, 2019). Không gian văn hóa truyền thống dần bị phá vỡ, nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp bị xói mòn. Văn hóa chưa được chú trọng khai thác để trở thành động lực và nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Thứ sáu, Bộ tiêu chí đánh giá NTM cần tiếp tục hoàn thiện. Nội dung và định mức quy định đạt chuẩn chưa hài hòa giữa các tiêu chí, nên tiêu chí NTM mới chỉ là công cụ đánh giá kết quả thực hiện của từng địa phương, chưa trở thành thước đo đánh giá thực trạng phát triển nông thôn. Thêm nữa, trong Bộ tiêu chí đánh giá NTM chưa có tiêu chí/chỉ tiêu đánh giá yếu tố con người, yếu tố chủ thể của người dân, cộng đồng. Mặc dù đã có tới 19 tiêu chí và 49 chỉ tiêu (theo Quyết định số 1980/QĐ- 383
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TTg về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM giai đoạn 2016 - 2020), nhưng yếu tố con người trong xây dựng NTM vẫn còn mờ nhạt. Yếu tố con người cần được phản ánh trong Bộ tiêu chí ở khía cạnh vai trò chủ thể của người dân, sự tham gia đóng góp của người dân và cộng đồng trong xây dựng NTM, của tổ chức nhỏ nhất là hộ gia đình nông thôn. Việc xác định rõ và chính xác những hạn chế, những thách thức sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách vạch ra những biện pháp phù hợp để thúc đẩy hiệu quả xây dựng NTM trong giai đoạn tới, giai đoạn 2021 - 2025. Trong đó, cần chú ý một số nội dung sau: Thứ nhất, xây dựng NTM cần làm “có chiều sâu” hơn. Xây dựng NTM là hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, cả vật chất và tinh thần chứ không phải là việc đạt được các chỉ tiêu, các con số. Muốn vậy, phải giải quyết vấn đề gốc là kinh tế ở nông thôn. Muốn tiêu thụ nông sản ổn định và bền vững, công tác xúc tiến thương mại, mở rộng và đa dạng hóa thị trường đối với các nông sản là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Đối với sản xuất, phải tính toán được cung – cầu, từ đó có kế hoạch sản xuất phù hợp. Và khi đã có kế hoạch rồi thì cần nghiêm túc thực hiện theo. Đồng thời, thực hiện thêm các biện pháp khác như: giảm bớt sản lượng, cho vay vốn canh tác và thu mua sản phẩm theo giá hợp đồng định trước để đảm bảo nông dân không bị thiệt khi được mùa, có những ràng buộc pháp lý đối với thương lái/công ty xuất nhập khẩu khi mua hàng hóa của nông dân,... Trong bối cảnh thị trường toàn cầu cạnh tranh ngày càng cao, yêu cầu ngày càng cao về chất lượng, hàng nông sản của Việt Nam cần tự mình nâng cao giá trị để tránh bị phụ thuộc vào các thị trường dễ tính nhưng rủi ro cao. Thứ hai, hướng tới xây dựng NTM phát triển mạnh và bền vững. Cần cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với những mô hình nông nghiệp mới, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp thông minh, gắn với chuỗi ngành hàng từ công nghệ sau thu hoạch, phân loại, bảo quản, chế biến và phát triển thị trường. Song song với đó, xây dựng NTM cần gắn với bảo vệ môi trường và bảo vệ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những bản sắc địa phương. Hiện đại hóa nông thôn nhưng không phải là biến nông thôn thành đô thị. Phải làm sao để vừa giữ được hồn cốt dân tộc cả nghìn năm, lại vừa đảm bảo tiện ích cho người dân ở nông thôn để rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và đô thị. 384
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Thứ ba, tiếp tục quán triệt Nghị quyết của Đảng, Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM của Chính phủ tới toàn thể cán bộ, nhân dân từ trung ương đến địa phương, tạo sự đồng lòng, hưởng ứng sâu rộng. Đồng thời, phải tôn trọng và phát huy tính năng động, sáng tạo của các địa phương để đem lại hiệu quả thực tế. Thứ tư, cần chú trọng chủ thể của NTM là nông dân. Người nông dân vừa là động lực, vừa là mục tiêu của chương trình xây dựng NTM. Chính vì vậy, người nông dân phải được tri thức hóa, phải hiểu xây dựng NTM là để làm lợi cho dân, để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân sinh sống ở địa bàn nông thôn. Từ việc hiểu, người dân sẽ tích cực, chủ động tham gia xây dựng NTM. Đồng thời, cần hiểu người dân được đề cập đến ở đây không chỉ là những người dân sống ở địa bàn nông thôn mà là toàn xã hội. Ngoài ra, cần phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong quá trình xây dựng NTM; đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ và khởi nghiệp ở nông thôn; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp; tăng cường dự báo và quy hoạch. Đã đến lúc cần sự mạnh tay, khoa học và tầm nhìn trong quy hoạch, đã đến lúc phải chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp, lấy kinh tế nông thôn làm nền tảng để tạo ra được động lực phát triển nông thôn. Xây dựng thành công NTM, chất lượng cuộc sống của người dân được nâng lên, khoảng cách giữa thành thị và nông thôn dần được rút ngắn là một phần của chặng đường xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, theo lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Ban Chủ nhiệm Chương trình Khoa học Công nghệ phục vụ Nông thôn mới. (2019). Báo cáo nhận diện vấn đề và đề xuất định hướng cho xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam. [2]. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. (2009). Thông tư hướng dẫn thực hiện bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới (54/2009/TT-BNNPTNT). [3]. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. (2019). Báo cáo Rà soát, đánh giá Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020; dự kiến nội dung định hướng xây dựng Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới giai đoạn sau năm 2020. 385
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2008). Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X. Chính trị Quốc gia. [5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Chính trị quốc gia. [6]. Đảng Cộng sản Việt Nam,. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Chính trị Quốc gia. [7]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung- uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xiii/nghi-quyet-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc- lan-thu-xiii-cua-dang-3663 [8]. Đưa chương trình xây dựng nông thôn mới đi vào chiều sâu, bền vững. (2021, May 14). Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. https://daihoi13.dangcongsan.vn/ tin-moi/phong-trao-thi-dua/dua-chuong-trinh-xay-dung-nong-thon-moi-di- vao-chieu-sau-ben-vung-6113 [9]. Hồ, C. M. (2011). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 8). Chính trị quốc gia. [10]. Quốc hội. (2021). Nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025 (25/2021/QH15). [11]. Thủ tướng Chính phủ. (2009). Quyết định về việc ban hành bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới (491/QĐ-TTg). 386
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Vấn đề xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam - Nguyễn Quang Thuấn
0 p | 220 | 50
-
Những vấn đề xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam
0 p | 221 | 23
-
Chương trình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp
9 p | 168 | 22
-
Phát huy vai trò chủ thể của nông dân và giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật và các thể chế tự quản trong xây dựng nông thôn mới
5 p | 135 | 21
-
Xây dựng nông thôn mới gắn với thực trạng văn hóa – Xã hội của người Khmer ở tỉnh Trà Vinh
7 p | 101 | 11
-
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn để xây dựng nông thôn mới ở Thanh Hóa
8 p | 69 | 10
-
Chương trình xây dựng nông thôn mới: một cái nhìn từ lịch sử chính sách
11 p | 82 | 8
-
Đánh giá hiện trạng xây dựng nông thôn mới nâng cao xã Bảo Lý, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên
8 p | 22 | 6
-
Phát huy vai trò của tổ chức hội nông dân cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở các tỉnh Tây Bắc hiện nay
8 p | 13 | 6
-
Định hướng tâm lý, tính cách nông dân đồng bằng Sông Cửu Long trong vai trò chủ thể xây dựng nông thôn mới
4 p | 47 | 4
-
Xây dựng nông thôn mới huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương - Thực trạng và một số vấn đề đặt ra
13 p | 11 | 3
-
Đẩy mạnh thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, giai đoạn từ năm 2021 đến năm 2025: Nghiên cứu trường hợp tỉnh Lai Châu
8 p | 8 | 3
-
Phát huy vai trò chủ thể của nông dân và giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật và các thể chế tự quản trong xây dựng nông thôn mới - Nguyễn Xuân Thắng
5 p | 72 | 3
-
Hoàn thiện bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025
10 p | 6 | 3
-
Một số kết quả đạt được về xây dựng nông thôn mới ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi hiện nay
6 p | 18 | 2
-
Đánh giá sự tham gia của người dân trong xây dựng nông thôn mới tại huyện Cư M'gar, tỉnh Đắk Lắk
6 p | 7 | 1
-
Các lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu về vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong xây dựng nông thôn mới (Nghiên cứu trường hợp ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào)
7 p | 4 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn