intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Xây dựng văn hóa nhà trường trong các cơ sở giáo dục theo phương thức giáo dục hòa nhập

Chia sẻ: ViArtemis2711 ViArtemis2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

93
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở phân tích vai trò và các yếu tố cấu thành văn hóa nhà trường, bài viết đề xuất những nội dung xây dựng văn hóa nhà trường trong các cơ sở giáo dục theo phương thức giáo dục hòa nhập, gồm: Xây dựng quy chế văn hóa nhà trường theo mô hình văn hóa tích cực, tạo phong cách riêng, làm nền tảng định hướng cho mọi hoạt động chung của nhà trường cũng như công tác giáo dục hòa nhập,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Xây dựng văn hóa nhà trường trong các cơ sở giáo dục theo phương thức giáo dục hòa nhập

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0222<br /> Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 8C, pp. 37-44<br /> This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> XÂY DỰNG VĂN HÓA NHÀ TRƯỜNG TRONG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC<br /> THEO PHƯƠNG THỨC GIÁO DỤC HÒA NHẬP<br /> <br /> Trịnh Ngọc Toàn<br /> Trường Trung cấp Chuyên nghiệp Hải Phòng<br /> <br /> Tóm tắt. Trên cơ sở phân tích vai trò và các yếu tố cấu thành văn hóa nhà trường, bài viết<br /> đề xuất những nội dung xây dựng văn hóa nhà trường trong các cơ sở giáo dục theo phương<br /> thức giáo dục hòa nhập, gồm: (1) Xây dựng quy chế văn hóa nhà trường theo mô hình văn<br /> hóa tích cực, tạo phong cách riêng, làm nền tảng định hướng cho mọi hoạt động chung của<br /> nhà trường cũng như công tác giáo dục hòa nhập; (2) Định hình các giá trị cốt lõi của cơ sở<br /> giáo dục theo phương thức giáo dục hòa nhập; (3) nâng cao nhận thức văn hóa nhà trường<br /> đối với đội ngũ nhà giáo, các bậc phụ huynh và học sinh; (4) đầu tư cơ sở vật chất phù<br /> hợp với mô hình văn hóa nhà trường; (5) Xây dựng bầu không khí, môi trường thân thiện;<br /> (6) Lãnh đạo phát triển văn hóa nhà trường của Hiệu trưởng đối với cơ sở giáo dục theo<br /> phương thức giáo dục hòa nhập.<br /> Từ khóa:Văn hóa, văn hóa tổ chức, văn hóa nhà trường, giáo dục hòa nhập.<br /> <br /> 1. Mở đầu<br /> Giáo dục gắn liền với lịch sử loài người. Đối với nhân loại, giáo dục là phương thức bảo tồn<br /> và bảo vệ kho tàng tri thức văn hoá xã hội. Nhân dân Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học và<br /> một nền giáo dục lâu đời, trải qua các thời kì lịch sử, cộng đồng người Việt đã tiếp thu và chọn<br /> lọc, hình thành nên đạo đức, tư tưởng văn hóa Việt Nam. Nền tảng văn hóa ấy đã tạo nên bản sắc<br /> về nhân cách con người Việt Nam [8;15].<br /> Cũng như sự tồn tại của giáo dục, văn hoá xuất hiện từ khi có loài người, có xã hội. Văn hoá<br /> tồn tại khách quan và tác động vào con người sống trong nó. Nếu môi trường tự nhiên là cái nôi<br /> đầu tiên nuôi sống con người, để loài người hình thành và sinh tồn thì văn hóa là cái nôi thứ hai<br /> giúp con người trở thành “Người” theo đúng nghĩa, hoàn thiện con người, hướng con người khát<br /> vọng vươn tới chân - thiện - mỹ [8;15].<br /> Trước hết, văn hóa không phải là một vật. Không có một vật gì chỉ là văn hóa mà không<br /> đồng thời không là cái gì khác nữa. Thứ hai, không có cái gì lại không có cái mặt văn hóa có nó<br /> [5;16]. Trong một tổ chức nói chung cũng như một nhà trường, văn hóa luôn tồn tại trong mọi hoạt<br /> động tổ chức đó. Lí luận và thực tiễn đã cho thấy, văn hóa là một nguồn lực nội sinh của một tổ<br /> chức; đồng thời, dung nạp nguồn lực ngoại sinh để tạo nên sức mạnh tổng hợp, giúp cho một tổ<br /> chức tồn tại bền vững và hoàn thành sứ mệnh của mình. Và hơn bất cứ tổ chức nào hết trong xã<br /> <br /> Ngày nhận bài: 5/7/2015 Ngày nhận đăng: 10/9/2015<br /> Liên hệ: Trịnh Ngọc Toàn, e-mail: trinhtoanhp@gmail.com<br /> <br /> <br /> <br /> 37<br /> Trịnh Ngọc Toàn<br /> <br /> <br /> hội, nhà trường phải là tổ chức có “hàm lượng” văn hoá cao nhất; là nơi hội tụ, kết tinh văn hoá để<br /> tạo ra những chuẩn mực văn hoá cho xã hội [8;15].<br /> Đối với các cơ sở giáo dục theo phương thức giáo dục hòa nhập, văn hóa nhà trường sẽ tạo<br /> ra một môi trường giáo dục tích cực - môi trường tôn trọng và khích lệ sự tự do sáng tạo, phát triển<br /> trí tuệ và lòng nhân ái, xóa bỏ đi những rào cản trong hoạt động giáo dục hòa nhập để các cơ sở<br /> giáo dục theo phương thức giáo dục hòa nhập hoàn thành nhiệm vụ của mình với xã hội.<br /> <br /> 2. Nội dung nghiên cứu<br /> 2.1. Các khái niệm cơ bản<br /> * Văn hóa:<br /> Văn hóa gắn liền với sự ra đời của nhân loại. Bản thân văn hóa rất đa dạng và phức tạp, nó<br /> là một khái niệm có ngoại diên rất rộng. Do đó, khi có những tiếp cận nghiên cứu khác nhau sẽ<br /> dẫn đến có nhiều quan niệm về thuật ngữ văn hóa.<br /> Theo hình thức biểu hiện, văn hóa được phân loại thành văn hóa vật chất và văn hóa tinh<br /> thần, hay nói cách khác là văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Ví như trong không gian văn hóa<br /> cồng chiêng Tây nguyên, văn hóa vật thể mà ta nhìn thấy là: cồng, chiêng, nhà sàn, con người, núi<br /> rừng Tây Nguyên. Nhưng ẩn sau cái vật thể hữu hình đó là cái vô hình (văn hóa phi vật thể) như:<br /> âm hưởng, phong cách, quy tắc chơi nhạc mang đậm bản sắc dân tộc Tây Nguyên, là cái hồn của<br /> thời gian, không gian và giá trị lịch sử. Như vậy, khái niệm văn hóa rất rộng, trong đó có giá trị vật<br /> chất và giá trị tinh thần làm nền tảng định hướng cho lối sống, đạo lí, tâm hồn và hành động của<br /> con người. Từ đó, chúng ta đưa ra khái niệm về văn hóa như sau: “Văn hóa là toàn bộ những giá trị<br /> vật chất và tinh thần mà loài người tạo ra trong quá trình lịch sử” [1;10].<br /> * Văn hóa tổ chức và văn hóa nhà trường:<br /> Văn hóa tổ chức có thể được định nghĩa như một tập hợp các giá trị, niềm tin, hiểu biết,<br /> chuẩn mực cơ bản được các thành viên trong tổ chức cùng chia sẻ [3;63].<br /> Có nhiều loại tổ chức khác nhau, như tổ chức kinh tế, tổ chức y tế, tổ chức giáo dục. . . trong<br /> đó, nhà trường là một dạng tổ chức, do vậy, có thể hiểu văn hóa nhà trường (VHNT) là một dạng<br /> của văn hóa tổ chức. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra khái niệm VHNT như sau: VHNT là một tập<br /> hợp các giá trị, niềm tin, hiểu biết, chuẩn mực cơ bản được các thành viên trong nhà trường cùng<br /> chia sẻ và tạo nên bản sắc của nhà trường đó.<br /> * Giáo dục hòa nhập:<br /> Luật Người khuyết tật đã định nghĩa giáo dục hòa nhập (GDHN) “là phương thức giáo dục<br /> chung người khuyết tật với người không khuyết tật trong cơ sở giáo dục” [6;1].<br /> GDHN xuất phát từ quan điểm xã hội về giáo dục - coi nhà trường như một xã hội thu nhỏ<br /> và phản ảnh tính chất đa dạng của xã hội. GDHN là hỗ trợ mọi học sinh, trong đó có trẻ khuyết tật,<br /> cơ hội bình đẳng tiếp cận dịch vụ giáo dục với những hỗ trợ cần thiết trong các hoạt động học tập,<br /> sinh hoạt, vui chơi và tham gia các hoạt động khác nhằm chuẩn bị cho trẻ trở thành những thành<br /> viên đầy đủ của xã hội. [2;99].<br /> GDHN không chỉ là phương thức giáo dục để “hòa nhập trẻ khuyết tật” mà là hòa nhập lẫn<br /> nhau giữa các trẻ để các em cùng được giáo dục và phát triển về mọi mặt. Bởi thông qua hoạt động<br /> hòa nhập, chính cả những trẻ bình thường đã được trẻ khuyết tật tác động và hình thành nên nhận<br /> thức và kĩ năng xã hội tích cực. Hay nói cách khác, những trẻ bình thường đã được “hòa nhập” bởi<br /> những trẻ khuyết tật trong môi trường GDHN. Như vậy, thông qua hoạt động GDHN mà mọi trẻ<br /> <br /> 38<br /> Xây dựng văn hóa nhà trường trong các cơ sở giáo dục theo phương thức giáo dục hòa nhập<br /> <br /> <br /> em được phát triển toàn diện để sẵn sàng thích nghi với cuộc sống thực tiễn đa dạng.<br /> * Cơ sở giáo dục theo phương thức GDHN:<br /> Trên cơ sở định nghĩa về GDHN là phương thức giáo dục chung người khuyết tật với người<br /> không khuyết tật trong cơ sở giáo dục [6;1], có thể hiểu khái niệm cơ sở giáo dục theo phương<br /> thức GDHN như sau: Cơ sở giáo dục theo phương thức GDHN là cơ sở giáo dục có tổ chức hoạt<br /> động giáo dục chung người khuyết tật với người không khuyết tật trong cơ sở giáo dục đó.<br /> <br /> 2.2. Vai trò của văn hóa nhà trường đối với hoạt động giáo giáo dục hòa nhập<br /> - VHNT có vai trò tạo nên môi trường giáo dục tích cực trong hoạt động GDHN - yếu tố<br /> quan trọng đóng vai trò là nguồn gốc để hình thành và phát triển nhân cách toàn diện của đứa trẻ,<br /> và nó đặc biệt có ý nghĩa đối với trẻ khuyết tật. Bởi lẽ, trẻ khuyết tật rất nhạy cảm với mọi tác động<br /> của môi trường bên ngoài, dù là những ứng xử thiếu sót nhỏ của những người xung quanh cũng có<br /> thể gây ra những chấn thương tâm lí, cô lập trẻ và ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của các em.<br /> Môi trường giáo dục thân thiện được hình thành từ một nền văn hóa tích cực sẽ xóa bỏ đi<br /> những rào cản hòa nhập để trẻ phát triển tiềm năng của mình cả về thể chất và tinh thần. Nó không<br /> những giúp cho trẻ khuyết tật lĩnh hội được kinh nghiệm trong môi trường hòa nhập đó mà còn<br /> giúp cho trẻ bình thường cơ hội học tập và phát triển rất nhiều thông qua việc học hỏi từ các bạn,<br /> trong đó có trẻ khuyết tật. Đơn cử như chỉ là một hành động nhỏ giúp đỡ một bạn khuyết tật trong<br /> lớp gặp khó khăn trong công việc nào đó, điều đó đã giúp trẻ phát triển về mặt tình cảm, sống thân<br /> ái trong quan hệ với cộng đồng, xây dựng lòng nhân hậu và vị tha. Cũng từ hoạt động giúp đỡ các<br /> bạn khuyết tật một cách tự nhiên, trẻ sẽ dần hình thành nên văn hóa biết tôn trọng sự khác biệt,<br /> học cách thích nghi với cuộc sống đa dạng. . . Với quan điểm “nhà trường là một xã hội thu nhỏ”<br /> thì môi trường văn hóa hòa nhập chính là nơi các em thực hành cuộc sống, hướng tới văn hóa tôn<br /> trọng, bình đẳng và bác ái.<br /> VHNT được coi như một mẫu thức cơ bản, giúp cho nhà trường thích nghi với môi trường<br /> bên ngoài, tạo ra sự hoà hợp ở môi trường bên trong. Một tổ chức có nền văn hóa mạnh sẽ hội tụ<br /> được cái tốt, cái đẹp cho xã hội. VHNT sẽ giúp cho nhà trường thực sự trở thành một trung tâm<br /> văn hóa giáo dục, là nơi hội tụ sức mạnh của trí tuệ và lòng nhân ái trong xã hội, góp phần quan<br /> trọng tạo nên sản phẩm giáo dục toàn diện [8;15].<br /> - Đối với trẻ em nói chung cũng như trẻ khuyết tật, văn hóa tạo nên giá trị đạo đức và có vai<br /> trò điều chỉnh hành vi. Một nhà trường có một nền văn hóa tích cực, luôn đề cao giá trị nhân văn,<br /> giáo dục cho các em hiểu về tinh thần tương thân tương ái, tôn trọng sự khác biệt, sống khiêm tốn<br /> và độ lượng. . . là những phẩm chất tốt đẹp con người. Và khi các em hiểu được những giá trị đó<br /> và biết rung cảm trước những hành vi đẹp thì chính các em luôn có nhu cầu được hành động theo<br /> những điều tốt đẹp. Khi nhà trường xác định cho mình một hệ thống giá trị văn hóa chuẩn mực<br /> thì việc điều chỉnh hành vi của cả trẻ khuyết tật và trẻ bình thường đều hướng tới hành vi văn hóa<br /> chuẩn mực, phù hợp với mục tiêu giáo dục đạo đức của nhà trường. Mặt khác, văn hóa còn giúp<br /> trẻ điều chỉnh hành vi phù hợp với hoàn cảnh. Một con người có văn hóa thì trong con người đó<br /> luôn hội tụ đầy đủ những giá trị đạo đức căn bản, đó là đức tính khiêm tốn, lễ độ, thương yêu con<br /> người, sống có trách nhiệm với bản thân và xã hội... Do vậy, khi gặp những tình huống xã hội phát<br /> sinh, dù là những tình huống mà các em chưa từng trải nhưng nhờ vận dụng năng lực văn hóa để<br /> điều tiết hành vi, các em có thể ứng xử một cách hài hòa, hợp lẽ trong những hoàn cảnh khác nhau<br /> [8;16].<br /> - VHNT có vai trò khích lệ sự tự do sáng tạo và phát huy năng lực trí tuệ cá nhân. Điều đó<br /> vô cùng giá trị với mọi đứa trẻ sống trong môi trường giáo dục hòa nhập, giúp các em phát huy<br /> <br /> 39<br /> Trịnh Ngọc Toàn<br /> <br /> <br /> được tối đa khả năng của mình. Trong môi trường GDHN, mỗi đứa trẻ sẽ có những điểm mạnh<br /> riêng dù là trẻ bình thường hay khuyết tật với những khác biệt đa dạng. Theo quan điểm Howard<br /> Gardner về thuyết đa năng lực xuất phát từ quan điểm cho rằng, trí thông minh là một đơn vị có thể<br /> đo được, cho rằng mỗi cá nhân lại sở hữu những loại năng lực khác nhau như toán học, âm nhạc,<br /> thiên nhiên, hướng nội, hướng ngoại, vận động, không gian - hình ảnh, ngôn ngữ [7;58]. Một nhà<br /> trường văn hóa tôn trọng sự khác biệt từng cá nhân trẻ và thừa nhận mọi giá trị cá nhân mang lại,<br /> sẽ tạo động lực lớn cho mọi cá nhân sáng tạo tri thức, phát huy được tối đa khả năng phát triển của<br /> mình. Tất cả các em đều tự hào với những thành quả sáng tạo tri thức của mình và tự tin sống hòa<br /> nhập với cộng đồng để không ngừng có những cống hiến ý nghĩa cho xã hội.<br /> <br /> 2.3. Các yếu tố cấu thành văn hóa nhà trường<br /> Trên thế giới có nhiều nghiên cứu về cấu trúc văn hóa tổ chức nói chung cũng như VHNT,<br /> song trong bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến cách tiếp cận các yếu tố cấu thành văn hóa tổ chức<br /> của Edgar H. Schein bao gồm: (1) Cấu trúc hữu hình; (2) Hệ thống giá trị được tuyên bố; và (3)<br /> Những quan niệm chung [1;260].<br /> * Cấu trúc hữu hình: Bao gồm tất cả những hiện tượng và sự vật mà một người có thể nhìn,<br /> nghe và cảm nhận thấy khi tiếp xúc với một nhà trường như: kiến trúc bài trí, logo, khẩu hiệu,<br /> trang thiết bị giảng dạy, trang phục, hành vi giao tiếp, ứng xử của cán bộ, giáo viên, học sinh nhà<br /> trường. . . Cấu trúc hữu hình có thể dễ dàng nhận thấy ngay khi tiếp xúc bởi tính trực quan của nó,<br /> được biểu hiện ra bên ngoài. Yếu tố văn hóa này có đặc điểm là dễ tác động đến sự cảm nhận của<br /> con người, nhất là trong những tiếp xúc ban đầu.<br /> * Hệ thống giá trị được tuyên bố: Các nội quy, quy định, nguyên tắc, triết lí, chiến lược,<br /> mục tiêu. . . của nhà trường. Hệ thống giá trị được tuyên bố có chức năng hướng dẫn hành vi, mô tả<br /> về các quy phạm của một nhà trường, làm nền tảng định hướng cho mọi hoạt động của nhà trường.<br /> * Những quan niệm chung: Niềm tin, nhận thức, suy nghĩ và tình cảm có tính vô thức mặc<br /> nhiên được công nhận trong nhà trường. Những quan niệm chung là yếu tố văn hóa không thể nhìn<br /> thấy được. Để hình thành được các quan niệm chung thì một cộng đồng văn hóa phải trải qua quá<br /> trình hoạt động lâu dài. Chính vì vậy, khi đã hình thành quan niệm chung sẽ rất khó bị thay đổi.<br /> Các giá trị văn hóa đó đã ăn sâu vào tiềm thức mỗi cá nhân sống trong một tổ chức, họ mặc nhiên<br /> thừa nhận, chia sẻ và hành động theo quan niệm chung đó và sẽ rất khó chấp nhận những hành vi<br /> đi ngược lại giá trị của tổ chức mình [1;263]. Shein cho rằng, bản chất của văn hóa một tổ chức là<br /> nằm ở những quan niệm chung của chúng. Nếu như nhận biết văn hóa ở lớp văn hóa thứ nhất (cấu<br /> trúc hữu hình) và lớp văn hóa thứ hai (hệ thống giá trị được tuyên bố), chúng ta mới tiếp cận nó ở<br /> bề nổi, tức là suy đoán các thành viên của tổ chức đó “nói gì” trong một tình huống nào đó. Chỉ<br /> khi nào nắm được lớp văn hóa thứ ba (những quan niệm chung) thì chúng ta mới có khả năng dự<br /> báo họ sẽ “làm gì” khi vận dụng những giá trị này vào thực tiễn [4;234].<br /> <br /> 2.4. Xây dựng văn hóa nhà trường trong các cơ sở giáo dục theo phương thức<br /> giáo dục hòa nhập<br /> - Xây dựng quy chế VHNT theo mô hình văn hóa tích cực, tạo phong cách riêng, làm nền<br /> tảng định hướng cho mọi hoạt động chung của nhà trường cũng như công tác GDHN.<br /> Kết cấu nội dung quy chế văn hóa nhà trường thường gồm có ba phần cơ bản: (1) Phần sứ<br /> mệnh - mục tiêu: là lời tuyên bố sứ mệnh của nhà trường tồn tại vì mục đích gì và sẽ làm những gì;<br /> (2) Phần hệ thống các giá trị: là phương thức hành động của nhà trường thực hiện mục tiêu bằng<br /> những giá trị nào, gồm các giá trị cốt lõi chuẩn mực mà nhà trường đã xác định, như: các giá trị<br /> <br /> 40<br /> Xây dựng văn hóa nhà trường trong các cơ sở giáo dục theo phương thức giáo dục hòa nhập<br /> <br /> <br /> đạo đức căn bản, phong cách quản lí, các nguyên tắc tổ chức, niềm tin và sự cam kết; (3) Các biện<br /> pháp đảm bảo thực hiện: gồm những quy định hướng dẫn hành vi thực hiện theo chuẩn mực đã<br /> được xác định; các biện pháp khen thưởng và kỉ luật.<br /> Quy chế VHNT thuộc lớp văn hóa thứ hai (hệ thống giá trị được tuyên bố). Nó có chức năng<br /> hướng dẫn hành vi và được coi như một “chất keo” gắn kết giữa lớp văn hóa thứ nhất (cấu trúc hữu<br /> hình) và lớp văn hóa thứ ba (những quan niệm chung) trong tổ chức.<br /> Trong ba phần trên của quy chế VHNT, phần hệ thống các giá trị có ý nghĩa quan trọng và<br /> tác động trực tiếp tới hiệu quả hoạt động GDHN. Bởi những giá trị văn hóa được xác định sẽ có<br /> chức năng điều chỉnh hành vi của trẻ phù hợp với mục tiêu giáo dục trong các cơ sở giáo dục theo<br /> phương thức GDHN. Theo đó, nhà trường phải xác định được giá trị văn hóa cốt lõi mang tính đặc<br /> thù riêng của tổ chức mình làm chuẩn mực chung, định hướng cho mọi hoạt động của tất cả các<br /> thành viên trong nhà trường.<br /> - Định hình các giá trị cốt lõi của cơ sở giáo dục theo phương GDHN.<br /> Khái niệm giá trị ở đây được hiểu là những phẩm chất, năng lực tốt đẹp có tính chuẩn mực<br /> mà cả Thầy và trò cũng như mọi thành viên khác trong một nhà trường cần phấn đấu để đạt được<br /> và bảo vệ, giữ gìn. Các giá trị vừa có tính pháp quy, vừa có tính giáo quy, song tính giáo quy - định<br /> hướng và giáo dục bằng văn hóa có vai trò quan trọng hơn.<br /> Giá trị phổ quát được chấp nhận là những giá trị văn hóa cơ bản: Chân - Thiện - Mĩ. Trên<br /> cơ sở vận dụng cụ thể những giá trị phổ quát đó, mỗi tổ chức lựa chọn để định hình cho mình các<br /> giá trị cốt lõi đặc thù riêng, mà tập hợp các giá trị đó trở thành một triết lí hành động của tổ chức.<br /> Triết lí đó là nền tảng, kim chỉ nam định hướng cho mọi hoạt động của tổ chức.<br /> Khi một tổ chức đã định hình nên các giá trị cốt lõi thì nó sẽ là những giá trị rất khó thay<br /> đổi, phản ánh ý thức của tổ chức đó ở trình độ bản chất. Nó trở thành hệ tư tưởng chung của tổ<br /> chức và là cơ sở để khẳng định phong cách và bản sắc của tổ chức đó.<br /> Đối với một cơ sở giáo dục theo phương thức GDHN, việc xác định những giá trị văn hóa<br /> cốt lõi nào làm chủ đạo là “quyền” lựa chọn mỗi đơn vị, nhưng những giá trị đó không những<br /> phải có giá trị nhân văn cao, luôn hướng tới con người, mà phải có khả năng định hướng hành vi<br /> cá nhân mang tính đặc thù, phù hợp với mục tiêu của hoạt động GDHN. Những giá trị mà cơ sở<br /> giáo dục theo phương thức GDHN nên hướng tới như: tinh thần tương thân tương ái, khiêm tốn, độ<br /> lượng, tôn trọng sự khác biệt, công bằng và sáng tạo đổi mới. . . Và khi những giá trị đó được mọi<br /> đứa trẻ và các thành viên trong nhà trường thừa nhận, cùng hướng tới thực hiện thì khi đó VHNT<br /> đã thực sự trở thành một công cụ hữu hiệu để thực hiện mục tiêu GDHN.<br /> - Nâng cao nhận thức VHNT đối với đội ngũ nhà giáo, các bậc phụ huynh và học sinh.<br /> Để thực hiện được mục tiêu giáo dục bằng những giá trị văn hóa của cơ sở giáo dục theo<br /> phương thức GDHN, đòi hỏi phải có sự thống nhất về quan niệm chung của các lực lượng giáo dục<br /> tác động trực tiếp thường xuyên tới đứa trẻ, đó là đội ngũ cán bộ, giáo viên ở nhà trường và các<br /> bậc phụ huynh. Nhà trường phải chủ động trong việc tổ chức tuyên truyền, nâng cao nhận thức về<br /> VHNT đối với cán bộ, giáo viên và phụ huynh học sinh bằng nhiều hình thức như: học tập quy chế<br /> văn hóa nhà trường, tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề, lồng ghép trong các hoạt động sự kiện,<br /> lễ hội. . .<br /> Đồng thời, bản thân mỗi đứa trẻ trong cơ sở giáo dục theo phương thức GDHN phải được<br /> thực hành các giá trị văn hóa thông qua các hoạt động học tập và sinh hoạt hàng ngày, từ đó hình<br /> thành nên những hành vi văn hóa và tình cảm tích cực. Những tấm gương điển hình thực hiện tốt<br /> những giá trị văn hóa phải được trân trọng, vinh danh để khích lệ cá nhân và tạo sức lan tỏa mạnh<br /> <br /> <br /> 41<br /> Trịnh Ngọc Toàn<br /> <br /> <br /> mẽ tới cộng đồng. Những giá trị được tuyên bố khi đã ăn sâu, bén rễ trong tiềm thức của đội ngũ<br /> nhà giáo, học sinh và các bậc phụ huynh thì nó sẽ trở thành những giá trị chung và là nền tảng<br /> vững chắc cho văn hóa nhà trường.<br /> - Đầu tư cơ sở vật chất phù hợp với mô hình VHNT.<br /> Mặc dù cơ sở vật chất là yếu tố thuộc về lớp bề nổi của văn hóa tổ chức (lớp văn hóa thứ<br /> nhất - cấu trúc hữu hình), nhưng nó không kém phần quan trọng trong việc hình thành nên VHNT.<br /> Yếu tố vật chất và ý thức trong mỗi con người luôn tác động qua lại và hỗ trợ cho nhau, hay nói<br /> cách khác là chính yếu tố vật chất cũng góp phần tạo nên ý thức con người, như chế độ lương<br /> thưởng, trang phục, trang thiết bị dạy - học, khu vui chơi... sẽ giúp con người dễ cảm nhận vì tính<br /> hữu hình của nó, khiến họ tin tưởng và gắn bó hơn với tổ chức. Mặt khác, việc đầu tư cơ sở vật<br /> chất của một nhà trường cho một không gian thân thiện với những nét riêng, độc đáo, tạo nên một<br /> biểu tượng văn hóa, sẽ nâng cao niềm tự hào của mọi người về nhà trường.<br /> Ngoài ra, cần phải hiểu việc đầu tư cơ sở vật chất là để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành<br /> viên trong nhà trường thực hiện hành vi văn hóa. Ví dụ như một nhà trường quy định việc sắp xếp<br /> tài liệu làm việc phải gọn gàng trong khi không bố trí đầy đủ tủ đựng tài liệu thì rất khó thực hiện<br /> được quy định đó; hay một cơ sở giáo dục theo phương thức GDHN luôn đề cao giá trị văn hóa về<br /> sự tôn trọng và bình đẳng trong khi trẻ khuyết tật lại khó khăn trong việc tiếp cận với những hoạt<br /> động nào đó của nhà trường như: thể thao, thư viện, công nghệ thông tin. . . thì chắc chắn những<br /> giá trị văn hóa đó không thể trở thành niềm tin của những trẻ khuyết tật đó và càng không thể trở<br /> thành những quan niệm chung của một tập thể nhà trường.<br /> Như vậy, việc đầu tư cơ sở vật chất của cơ sở giáo dục theo phương thức GDHN phải tạo<br /> điều kiện thuận lợi cho trẻ khuyết tật tiếp cận với mọi hoạt động của nhà trường. Tùy vào loại và<br /> mức độ khuyết tật của trẻ mà nhà trường cần có những đầu tư, bố trí điều kiện hỗ trợ phù hợp cho<br /> các em. Điều đó không những giúp các em học tập và sinh hoạt tốt hơn mà còn giúp các em cảm<br /> thấy sự bình đẳng khi tham gia các hoạt động hòa nhập với các bạn và thực sự tin tưởng vào những<br /> giá trị văn hóa của nhà trường.<br /> - Xây dựng bầu không khí, môi trường thân thiện.<br /> Bầu không khí làm việc và học tập thân thiện, cởi mở trong một cơ sở giáo dục theo phương<br /> thức GDHN sẽ là môi trường lí tưởng nuôi dưỡng và phát triển VHNT. Nó tạo ra một đời sống tinh<br /> thần tích cực, thoải mái đối với tập thể cán bộ, giáo viên và học sinh nhà trường. Không khí cởi<br /> mở, chân thành làm cho con người gần gũi, yêu thương nhau hơn, trở thành một tập thể đoàn kết,<br /> gắn bó trong tổ chức. Tất cả mọi người đều cảm thấy hạnh phúc khi được làm việc và học tập trong<br /> môi trường giáo dục đó, họ tự hào và trân trọng những giá trị văn hóa của tổ chức mình và mong<br /> muốn được cống hiến tất cả sức lực, trí tuệ của mình cho mục tiêu chung của nhà trường.<br /> Trong hoạt động GDHN, bầu không khí và môi trường thân thiện của nhà trường không<br /> những tạo ra một đời sống tinh thần làm việc và học tập tích cực cho thầy và trò, mà nó còn là nền<br /> tảng cho sự sáng tạo và đổi mới - yếu tố quan trọng để phát huy tối đa năng lực cá nhân, đặc biệt<br /> là phát triển năng lực cá nhân giữa các trẻ trong môi trường hòa nhập. Các em tự tin, tích cực tham<br /> gia các hoạt động của nhà trường, tăng cường tính hòa nhập trong hoạt động giáo dục.<br /> Để xây dựng được bầu không khí và môi trường thân thiện trong cơ sở giáo dục theo phương<br /> thức GDHN, trước hết phải xác định phong cách thể hiện của người lãnh đạo, bởi phong cách tích<br /> cực của người lãnh đạo có ảnh hưởng rất lớn tới mọi thành viên trong trường. Vì vậy, người lãnh<br /> đạo phải xây dựng cho mình một phong cách cởi mở, thân thiện, tăng cường tiếp xúc giữa nhà lãnh<br /> đạo với cán bộ, giáo viên và học sinh nhà trường, tạo không khí vui vẻ, gần gũi để mọi người cảm<br /> thấy thoải mái chia sẻ một cách chân thành.<br /> <br /> 42<br /> Xây dựng văn hóa nhà trường trong các cơ sở giáo dục theo phương thức giáo dục hòa nhập<br /> <br /> <br /> Cùng với việc xây dựng phong cách cởi mở, thận thiện của bản thân người lãnh đạo, nhà<br /> trường cần ưu tiên đầu tư cho một nhóm người đóng vai trò là “nhóm người tiên phong” của phong<br /> trào xây dựng văn hóa nhà trường, điều đó sẽ tạo nên sức cộng hưởng rất lớn của một bầu không<br /> khí thân thiện, ấm áp trong nhà trường.<br /> Bên cạnh đó, nhà trường cần tổ chức các buổi lễ hội, lễ kỉ niệm, buổi gặp mặt phù hợp với<br /> các chủ đề giáo dục với sự tham gia của lãnh đạo, cán bộ, giáo viên, học sinh và phụ huynh. Ngoài<br /> mục đích truyền đạt các giá trị văn hóa, thông qua các hoạt động tổ chức sự kiện đó, sẽ giúp mọi<br /> thành viên trong và ngoài trường tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, xây dựng mối quan hệ tình cảm<br /> tốt đẹp và bầu không khí cởi mở, chia sẻ. Từ đó, tạo ra sợi dây vô hình gắn kết các thành viên phụ<br /> thuộc lẫn nhau trên cơ sở tinh thần đoàn kết, thương yêu để cùng nhau xây dựng nhà trường với<br /> một truyền thống văn hóa tốt đẹp.<br /> - Lãnh đạo phát triển văn hóa nhà trường của Hiệu trưởng đối với cơ sở giáo dục theo<br /> phương thức giáo dục hòa nhập.<br /> Trách nhiệm của người Hiệu trưởng trong việc lãnh đạo phát triển văn VHNT đối với cơ sở<br /> giáo dục theo phương thức GDHN thể hiện ở những vai trò sau:<br /> Thứ nhất, Hiệu trưởng phải là người xác định hệ thống giá trị văn hóa cốt lõi nhà trường; là<br /> người ghi dấu ấn đậm nét nhất tạo nên nét văn hóa đặc thù nhà trường. Đây là yếu tố tiền đề quan<br /> trọng quyết định hình thành nên cả một nền văn hóa của nhà trường. Hệ thống giá trị văn hóa được<br /> xác định phải phù hợp với chiến lược phát triển và mục tiêu GDHN của nhà trường. Với vai trò<br /> này, người Hiệu trưởng phải thể hiện được bản lĩnh, kinh nghiệm và tài năng của mình để khẳng<br /> định con đường mà mình lựa chọn là đúng đắn và sáng suốt để đưa đơn vị mình đi đến thành công.<br /> Thứ hai, người Hiệu trưởng phải thực hiện vai trò điều khiển, dẫn dắt mọi thành viên trong<br /> nhà trường tin tưởng đi theo con đường đã lựa chọn, thực hiện các mục tiêu, chiến lược đã đề ra<br /> bằng triết lí riêng của tổ chức mình. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, người Hiệu trưởng phải có kế<br /> hoạch rõ ràng cho từng giai đoạn phát triển văn hóa, chứng minh được việc phát triển những giá<br /> trị văn hóa đó gắn liền với lợi ích thiết thực của mọi thành viên, bao gồm cả những giá trị vật chất<br /> và giá trị tinh thần, trong đó, giá trị tinh thần cần được coi là mục tiêu cao hơn bởi nó kiến tạo nên<br /> quan niệm chung làm nền tảng cơ bản của văn hóa nhà trường.<br /> Trải qua các giai đoạn thực hiện thành công các mục tiêu trong kế hoạch hành động, người<br /> Hiệu trưởng cũng chứng minh cho mọi thành viên thấy được, chính VHNT đã góp phần quan trọng<br /> vào việc xây dựng tầm nhìn chiến lược cho sự lớn mạnh chung của tổ chức.<br /> Thứ ba, người Hiệu trưởng phải thực hiện xuất sắc vai trò là tấm gương tiêu biểu, điển hình<br /> trong việc thực hiện VHNT để toàn thể cán bộ, giáo viên và học sinh nhà trường noi theo. Bởi hình<br /> ảnh của người Hiệu trưởng sẽ tác động trực tiếp tới tư tưởng, tình cảm và hành động của các thành<br /> viên nhà trường. Vì vậy, người Hiệu trưởng phải luôn đi đầu trong việc thực hiện những mục tiêu<br /> đã đề ra để tạo nên niềm tin và là động lực gắn kết các thành viên trong nhà trường cùng đi theo<br /> một lí tưởng chung. Đó chính là cơ sở cho một nền văn hóa vững chắc của nhà trường.<br /> <br /> 3. Kết luận<br /> Văn hóa nhà trường đóng vai trò quan trọng trong hoạt động giáo dục hòa nhập, giúp nhà<br /> trường trở thành một biểu tượng văn hóa đặc trưng mang phong cách riêng, tạo ra môi trường giáo<br /> dục hòa nhập thân thiện, đầy tính nhân văn. Môi trường giáo dục mà ở đó, cả trẻ khuyết tật và trẻ<br /> bình thường đều được bình đẳng phát huy hết năng lực trí tuệ cá nhân, các em có cơ hội để thể<br /> hiện lòng nhân ái, được thực hành những kĩ năng sống cần thiết để thích nghi với cuộc sống thực<br /> <br /> <br /> 43<br /> Trịnh Ngọc Toàn<br /> <br /> <br /> tiễn phong phú, đa dạng. Vì vậy, văn hóa nhà trường đã xóa bỏ đi những rào cản hòa nhập, giúp xã<br /> hội thay đổi nhận thức và hiểu đúng bản chất hoạt động giáo dục hòa nhập.<br /> Mỗi cơ sở giáo dục theo phương thức GDHN cần xác định được tầm quan trọng của văn<br /> hóa nhà trường, xây dựng cho mình một nền văn hóa nhà trường tích cực, phù hợp với chiến lược,<br /> mục tiêu phát triển của nhà trường nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục hòa nhập của đơn<br /> vị mình.<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> <br /> [1] Dương Thị Liễu, 2008. Bài giảng văn hóa kinh doanh. Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà<br /> Nội.<br /> [2] Đỗ Thị Thanh Thủy, 2015. Kì thị đối với người khuyết tật - rào cản trong thực hiện giáo dục<br /> hòa nhập. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 60 (6BC), tr.97-101.<br /> [3] Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, 2010. Đại cương Khoa học quản lí. Nxb Đại học<br /> Quốc gia Hà Nội.<br /> [4] Nguyễn Viết Lộc, 2009. Văn hóa tổ chức Đại học Quốc gia Hà Nội trong bối cảnh đổi mới và<br /> hội nhập. Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, số 25, tr.230-238.<br /> [5] Phan Ngọc, 2001. Bản sắc văn hóa Việt Nam. Nxb Văn học, Hà Nội.<br /> [6] Quốc hội, 2010. Luật Người khuyết tật. Hà Nội.<br /> [7] Trần Thị Bích Ngọc, 2015. Tìm hiểu một số vấn đề về dạy học phân hóa nhằm đáp ứng sự khác<br /> biệt và đa dạng của học sinh trong lớp học hòa nhập của Hoa Kỳ. Tạp chí Khoa học, Trường<br /> Đại học Sư phạm Hà Nội, số 60 (6BC), tr.56-63.<br /> [8] Trịnh Ngọc Toàn, 2012. Văn hóa nhà trường trong bối cảnh hiện nay. Bản tin Tâm lí giáo dục<br /> học ứng dụng - Sở Thông tin truyền thông Hải Phòng, số 02, tr.15-17.<br /> <br /> ABSTRACT<br /> the contents of school culture building in the educational institutions<br /> Based on an analysis of role and school culture components, the author proposes school<br /> culture building in educational institutions according to the mode of integration education,<br /> including: (1) building school culture regulations which will lead to a positive culture and<br /> particular manner, acting as the orienting foundation for the school’s common activities as well<br /> as the implementation of integrated education; (2) determining the key values of educational<br /> institutions as per the mode of integration education; (3) promoting awareness of school culture<br /> among teachers, parents and students; (4) investing in facilities so that they will conform with<br /> the mode of school culture; (5) establishing a friendly atmosphere and environment and (6) the<br /> Principal’s leadership that will develop school culture in educational institutions according to the<br /> mode of integration education.<br /> Keywords: Culture, organizational culture, school culture, integration education.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 44<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
16=>1