BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRƯƠNG ĐỨC TIÊN ANH

XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính

Hà Nội: 2020

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRƯƠNG ĐỨC TIÊN ANH

XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính

Mã số: 838 01 02 Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Kim Tiên

Hà Nội: 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi.

Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai

công bố trong bất cứ công trình nào.

Tác Giả Luận Văn

Trương Đức Tiên Anh

i

LỜI CẢM ƠN

Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, cho phép tác giả của

luận văn gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới:

Học viện Hành chính Quốc gia, khoa sau đại học, các giảng viên Học

viện Hành chính quốc gia, đã tận tình giảng dạy và tạo mọi điều kiện giúp đỡ

tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Đặc biệt tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến tiến sỹ Đỗ Thị Kim

Tiên, đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, động viên tác giả trong suốt quá trình

nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Mặc dù đã cố gắng rất nhiều, nhưng luận văn không tránh khỏi những

thiếu sót; tác giả rất mong nhận được sự thông cảm, chỉ dẫn và đóng góp ý

kiến của các thầy cô giáo trong Hội đồng khoa học để luận văn Thạc sỹ được

hoàn thiện hơn.

Xin chân thành cảm ơn!

ii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

VNDCCH Việt Nam dân chủ cộng hòa

UBND Uỷ ban nhân dân

HKDD Hàng không dân dụng

HKVN Hàng không Việt Nam

VPHC Vi phạm hành chính

XLVPHC Xử lý vi phạm hành chính

iii

Mục lục

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ........................................................................................ ii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .................................................................. iii

Mục lục .................................................................................................. iv

MỞ ĐẦU................................................................................................ 1

1.Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................... 1

2.Tình hình nghiên cứu đề tài ..................................................................... 3

3.Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 5

4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................ 6

5.Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ....................................... 6

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀXỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH

TRONG LĨNH VỰCHÀNG KHÔNG DÂN DỤNG ................................ 8

1.1 Tổng quan về ngành Hàng không dân dụng .......................................... 8

1.2. Bản chất, khái niệm vi phạm hành chính và vi phạm hành chính trong

lĩnh vực hàng không dân dụng .................................................................... 17

1.3. Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân

dụng ........................................................................................................... 20

1.3.1. Mặt khách quan ....................................................................................... 20

1.3.2. Mặt chủ quan ........................................................................................... 22

1.3.3. Chủ thể .................................................................................................... 23

1.3.4. Khách thể................................................................................................. 24

1.4. Các loại vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng ...... 25

1.4.1.Vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng được phân loại

dựa trên các tiêu chí khác nhau ......................................................................... 25

1.4.2. Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng

........................................................................................................................... 27

iv

1.5. Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng .......... 28

1.5.1. Khái niệm ................................................................................................ 28

1.5.2. Đặc thù của xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân

dụng ................................................................................................................... 31

1.6. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân

dụng ........................................................................................................... 33

1.6.1. Các nguyên tắc chung ............................................................................. 33

1.6.2. Các nguyên tắc kỹ thuật .......................................................................... 34

TIỂU KẾT CHƯƠNG I .......................................................................... 35

CHƯƠNG II:THỰC TRẠNG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNHTRONG

LĨNH VỰC HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG Ở VIỆT NAMGIAI ĐOẠN 2014

– 2019 .................................................................................................... 36

2.1. Thực trạng pháp luật xử lý vi phạm hành trong lĩnh vực hàng không dân

dụng ở Việt Nam ........................................................................................ 36

2.1.1.Pháp luật về lĩnh vực hàng không dân dụng ở Việt Nam ........................ 36

2.1.2. Thực trạng quy định của pháp luật về vi phạm pháp luật hành chính trong

lĩnh vực hàng không dân dụng .......................................................................... 38

2.2. Tình hình xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng

................................................................................................................... 58

2.2.1. Về hình thức xử phạt và mức xử phạt ..................................................... 58

2.2.2.Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính ................................................ 63

2.2.3. Tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng và xử

lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng từ năm 2014 đến

năm 2019 ........................................................................................................... 64

2.3. Đánh giá tình hình xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không

dân dụng ..................................................................................................... 69

2.3.1. Một số thành công ................................................................................... 69

2.3.2. Những hạn chế, bất cập ........................................................................... 69

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế ............................................................ 73

v

TIỂU KẾT CHƯƠNG II ......................................................................... 78

CHƯƠNG III:PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢMXỬ LÝ VI

PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG

Ở VIỆT NAM ......................................................................................... 79

3.1. Phương hướng xử lý vi trong lĩnh vực hàng không dân dụng ở Việt Nam

................................................................................................................... 79

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xử lý vi phạm hành chính trong

lĩnh vực hàng không dân dụng .................................................................... 85

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về xử phạt hành chính lĩnh vực hàng không dân dụng

........................................................................................................................... 85

3.2.2. Nâng cao hiệu quả công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực

hàng không dân dụng ........................................................................................ 86

3.2.3. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, thanh tra viên làm công tác xử lý vi

phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng .................................... 90

3.2.4. Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật về hàng không về xử lý vi phạm

hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng .............................................. 92

3.2.5. Tăng cường sự giám sát của nhân dân, báo chí, của cơ quan nhà nước có

thẩm quyền trong hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hàng

không dân dụng ................................................................................................. 93

3.2.6. Đầu tư phù hợp phương tiện hỗ trợ xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh

vực hàng không dân dụng ................................................................................. 93

3.3. Một số kiến nghị .................................................................................. 94

TIỂU KẾT CHƯƠNG III ........................................................................ 97

KẾT LUẬN ............................................................................................ 98

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 100

vi

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Cách mạng

Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới. Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã

hội, khôi phục kinh tế, đẩy mạnh sản xuất, xây dựng miền Bắc vững về mọi

mặt làm chỗ dựa cho cuộc đấu tranh chống Mỹ thống nhất hai miền Nam Bắc.

Trong bối cảnh đó, việc ra đời một tổ chức chính thức của ngành Hàng không

dân dụng (HKDD) nhằm phục vụ cho việc phát triển kinh tế và bảo vệ tổ quốc

là một yêu cầu cấp thiết.

Với tầm nhìn chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, ngày 15/1/1956 Thủ

tướng Phạm Văn Đồng đã ký ban hành Nghị định số 666/TTg về việc thành

lập Cục HKDD Việt Nam thuộcChính phủ, đặt nền móng cho sự ra đời,

trưởng thành và phát triển bền vững của HKDDViệt Nam.

Nghị định thành lập Cục Hàng không dân dụngthuộc Chính phủ đặt cơ

sở cho việc ra đời một tổ chức vận chuyển hàng không, hội nhập, giao lưu

hàng không với thế giới. Vì vậy, ngày 15/1/1956 được lấy làm ngày truyền

thống của ngành Hàng không dân dụng Việt Nam.

Hàng không dân dụng là ngành kinh tế đặc thù bởi sự khác biệt so với

các ngành kinh tế khác và sự khác biệt giữa các quốc gia về trang thiết bị, tổ

chức khai thác, quy định an ninh về HKDD. Theo Tổ chức HKDD quốc tế

(International Civil Aviation Org-ICAO),các yếu tố cần thiết để tổ chức và

vận hành ngành HKDDcủa một quốc gia thường là: Kiểm soát viên không

lưu, Ðiện tử viễn thông hàng không, Khai thác thông tin hàng không, Thiết bị

phụ trợ hàng không, Dẫn đường bay, Khai thác vận tải hàng không, Vận

chuyển thương mại hàng không, Phi công, Tiếp viên, Cảng hàng không, Kỹ

thuật máy bay...

1

Là một hình thức kinh doanh với mục đích phục vụ nhu cầu giao thông,

đi lại bằng đường hàng không, HKDD Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu

phát triển và phù hợp với xu hướng chung của thời đại, mà còn thể hiện tính

ưu việt, bản chất tốt đẹp của chế độ Xã hội chủ nghĩa. Với chiến lược phát

triển là hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế lấy phát triển là vị trí trung tâm,

vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội, Đảng và

Nhà nước ta đã hết sức quan tâm đến HKDD với tư cách là một ngành kinh tế

mũi nhọn nhằm góp phần đảm bảo ổn định xã hội, thúc đẩy sản xuất kinh

doanh và tăng trưởng kinh tế. Điều này đã được ghi nhận trong Luật hàng

không dân dụng Việt Nam số 66/2006/QH11 ngày 29/6/2006của Quốc hội, có

hiệu lực kể từ ngày 01/01/2007, được sửa đổi, bổ sung tại Luật số

61/2014/QH13 ngày 21/11/2014 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều

của Luật hàng không dân dụng Việt Nam, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015.

Là quốc gia đang phát triển và hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng, nền

kinh tế Việt Nam đang có bước phát triển mạnh mẽ, trong đó HKDDlà lĩnh

vực có đóng góp rất lớn vào công cuộc phát triển đất nước, thúc đẩy giao

thương,du lịch, sử dụng hiệu quả cơ sở hạ tầng và nâng cao chất lượng cuộc

sống cho người dân. Mặt khác, vượt ra ngoài ý nghĩa kinh tế, HKDD còn có

tầm quan trọng đặc biệt bởi mức độ ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng của

một quốc gia. Vì lẽ đó, việc tuân thủ các quy tắc quản lý là yêu cầu trước tiên

cần có đối với ngành HKDD. Những vi phạm trong lĩnh vực HKDD có thể để

lại những hậu quả cho nền kinh tế, an ninh và trật tự an toàn xã hội. Do đó, về

chính sách, Nhà nước Việt Nam đã có quy định pháp luật, nhằm giảm thiểu

các tác hại từ hoạt động HKDD. Song song với đó, Nhà nước có các quy định

về xử lý vi phạm pháp luật đối với hoạt động HKDD nhằm ngăn ngừa và bảo

vệ pháp luật. Các quy định về xử lý vi phạm trong lĩnh vực HKDD không chỉ

tác động đến hoạt động giao thông hàng không, phát triển kinh tế mà còn trực

tiếp bảo vệ an ninh, an toàn tính mạng và tài sản con người bảo vệ tính

nghiêm minh của pháp luật uy tín của nhà nước.

2

Đến nay, sau hơn 63 năm xây dựng và phát triển, ngành HKDDViệt

Nam đã có những đóng góp không nhỏ vào việc thúc đẩy kinh tế, xã hội phát

triển với độ bao phủ rộng khắp không chỉ tới nhiều địa phương trong cả nước

mà còn vươn đến nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ.Tuy vậy, ngành Hàng

không dân dụng Việt Nam đang đứng trước những thách thức rất lớn về: cạnh

tranh và hiệu quả kinh doanh, mức độ an toàn, an ninh hàng không,...Điều này

có mối quan hệ với những bất cập trong xử lý vi phạm hành chính (VPHC)

trong lĩnh vực HKDD. Thực tế cho thấy, có nhiều hành vi VPHC trong lĩnh

vực HKDDđược xử lý chưa nghiêm, hình thức chế tài không tương thích, với

mức phạt còn quá nhẹ. Có không ít vụ việc vi phạm hành chính trong lĩnh vực

HKDD trong thời gian gần đây được xử lý với mức phạt thực tế thấp chưa

tương xứng với mức độ nguy hiểm của việc vi phạm hành chính tạo tâm lý

thiếu tôn trọng pháp luật, chưa đủ sức răn đe đối với người vi phạm. Bên cạnh

đó, còn có tình trạng bỏ sót, không xử lý các hành vi vi phạm,...Những hạn

chế, yếu kém trong xử lý VPHC có nhiều nguyên nhân, trong đó có sự thiếu

phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước, sự chồng chéo văn bản, dẫn tới

khó xác định chức năng của các cơ quan quản lý, đùn đẩy trách nhiệm quản

lý, đồng thời còn là thái độ thiếu tôn trọng pháp luật của người dân, doanh

nghiệp khi tham gia vào quan hệ HKDD.

Từ thực tiễn trên đây, học viênđã lựa chọn vấn đề: “Xử lý vi phạm

hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng ở Việt Nam hiện nay”

làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Luật Hành chính - Hiến

pháp. Luận văn được nghiên cứu nhằm giải quyết những vấn đề lý luận, hệ

thống hóa luật pháp, đánh giá thực trạng xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD

Việt Nam và đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng, bảo đảm việc xử

lý VPHC trong lĩnh vực HKDD ở Việt Nam.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Xử lý vi phạm hành chính nói chung và ở lĩnh vực hàng không dân dụng

nói riêng không phải là vấn đề hoàn toàn mới, mà đã có một số công trình

3

nghiên cứu liên quan đến vấn đề này. Có thể kể tên một số công trình nghiên

cứu tiêu biểu sau đây.

- Nguyễn Thị Thuỷ, Luận văn thạc sỹ luật học “Hoàn thiện chế định

thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính”, Trường Đại học Luật Hà Nội (năm

2001). Trong luận văn này, tác giả đã đi sâu phân tích thực trạng pháp luật về

thẩm quyền và các chủ thể được xử lý vi phạm hành hành chính và nêu ra giải

pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính.

- Kim Long Biên, Luận văn thạc sỹ luật học “Hoàn thiện pháp luật về xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan ở nước ta hiện nay”, Viện

Nhà nước và pháp luật phối hợp đào tạo với Đại học Luật thành phố Hồ Chí

Minh (năm 2007). Luận văn nghiên cứu thực trạng pháp luật xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực hải quan, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn

thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này;

- Phan Thị Tố Uyên, Luận văn thạc sỹ luật học “Pháp luật về xử phạt vi

phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường”,Trường Đại học Luật Hà

Nội (năm 2011). Luận văn nghiên cứu thực trạng pháp luật xử lý vi phạm

hành chính trong lĩnh vực môi trường ở Việt Nam, từ đó đưa ra những giải

pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.

Bên cạnh các công trình trên đây còn có một số bài báo nghiên cứu về

vấn đề xử lý vi phạm hành chính như sau:

Tác giảLê Vương Longvới bài“Một số vấn đề hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính”, đăng trên Tạp chí Luật học thuộcTrường Đại học Luật Hà Nội, tháng 9/2003số Đặc san về xử lý vi phạm hành chínhtrang.35 Tác giảPGS, TS Bùi Thị Đào, với bài: “ Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính” đăng trên Tạp chí Luật học tháng 9/2003, số Đặc san về xử lý vi phạm hành chính. Tác giảPGS.TS Bùi Xuân Đức, với bài: “ Hệ thống chế tài xử phạt vi phạm hành chính - Những bất cập, hạn chế và phương hướng hoàn thiện” đăng trênTạp chí Luật học năm 2009, trang 8 -15.

4

Tác giả TS.Trần Minh Hương với bài : “ Thẩm quyền xử phạt vi phạm

hành chính - Thực trạng quy định, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn

thiện”đăng trênTạp chí Luật học, năm 2008, trang 28 .

Tác giả Kiều Minh với bài: “Những gian nan trong thực hiện thu vi phạm

hành chính” đăngtrên Tạp chí Tài chính năm 2009 số 5A, tr 18 – 22

Những nghiên cứu trên đây chủ yếu đề cập vấn đề xử phạt vi phạm hành

chínhtrên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn. Hầu hết các công trình tập

trung giới thiệu, phân tích, đánh giá pháp luật và thực tiễn hoạt động xử phạt

VPHC nói chung hoặc ở một số lĩnh vực khác mà chưa đề cập đến xử lý

VPHC trong lĩnh vực HKDD, ngoại trừ các báo cáo tổng kết công tác của Bộ

Giao thông vận tải, Cục Hàng không Việt Nam.Do đó, những bất cập trong xử

lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD vẫn đang diễn ra, mà chưa có

phân tích, đánh giá một cách tổng thể, khoa học, xác định nguyên nhân và giải

pháp giải quyết vấn đề. Chính vì vậy, đề tài luận văn "xử lý vi phạm hành

chính trong lĩnh vực Hàng không dân dụng tại Việt Nam" có trách nhiệm

giải quyết những vấn đề mà các công trình nghiên cứu chưa đề cập, góp

phầncung cấp các luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật

và các giải pháp bảo đảm về phạt hành chính trong lĩnh vực Hàng không dân

dụng ở Việt Nam hiện nay.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích nghiên cứu của luận văn: Làm rõcơ sở lý luận về xử lý vi

phạm hành chính trong lĩnh vực Hàng không dân dụng và pháp luật về xử lý

vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hàng không dân dụng ở Việt Nam, thực

trạng xử lý để ra các giải pháp bảo đảm xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh

vực Hàng không dân dụng ở Việt Nam hiện nay.

- Nhiệm vụ:Để đạt được mục đích nói trên, đề tài có nhiệm vụ giải quyết

các vấn đề sau:

5

+ Một là, xác định rõ những vấn đề lý luận về xử lý vi phạm hành chính

trong lĩnh vực HKDD và hệ thống quy định pháp luật Việt Nam về xử lý

VPHC trong lĩnh vực HKDD.

+ Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong

lĩnh vực HKDD Việt Namnhững năm gần đây, làm rõ nguyên nhân dẫn đến

thành công và hạn chế về xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD ở Việt Nam.

+ Ba là, xác địnhvề định hướng và đề xuất giải pháp bảo đảm việc thực hiện

xử lývi phạm hành chính lĩnh vực HKDD ở Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng: Hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hàng

không dân dụng ở Việt Nam

- Phạm vi:

+ Về nội dung:Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD

+ Về không gian:Hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực

HKDD tại Việt Nam.

+ Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu về xử lý vi phạm hành chính

(XLVPHC) trong lĩnh vực HKDD tại Việt Nam từ năm 2014 đến tháng 12/2019

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận:Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận

của lý thuyết hệ thống, chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện

chứng, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về HKDD, VPHC, XLVPHC

trong lĩnh vực HKDD để phân tích, đánh gía tính khả thi của các quy phạm

pháp luật trong thực tiễn thực hiện, định hướng cho các giải pháp nhằm thực

hiện pháp luật về XLVPHC trong lĩnh vực HKDD; tìm hiểu về quá trình hình

thành và phát triển của pháp luật về xử lý VPHC trontg lĩnh vực HKDD.

- Phương pháp nghiên cứu:Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên

cứu mà đề tài đặt ra, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

+ Phương pháp thu thập thông tin

6

+ Phương pháp thống kê: Phương pháp thống kê tổng hợp số liệu để

đánh giá thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD ở Việt Nam

giai đoạn 2014 - 2019;

+ Phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh, đánh giá:Được sử dụng

nhằm làm sáng tỏ các vấn đề về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực

HKDD tại Việt Nam từ năm 2014 đến năm 2019.

+ Phương pháp dự báo về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực

HKDD tại Việt Nam.

6. Những đóng góp của luận văn

- Về lý luận: Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về xử lý vi

phạm hành chính, khái niệm, đặc trưng của vi phạm hành chính trong lĩnh vực

HKDD, tính đặc thù của vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD và xử lý

vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng.

- Về thực tiễn: Đề tài là tài liệu nghiên cứu cho các nhà hoạch định

chính sách, xây dựng pháp luật tham khảo và sửa đổi, bổ sung các quy định

về xử lý vi phạm hành chính trong thời gian tới, đồng thời cũng là tài liệu

tham khảo hữu ích cho các nhà thực thi, xử lý vi phạm hành chính, nhất là

trong lĩnh vực hàng không dân dụng.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn

được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể như sau:

Chương I: Cơ sở lý luận về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực

hàng không dân dụng;

Chương II: Thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng

không dân dụngở Việt Nam giai đoạn 2014 - 2019;

Chương III: Phương hướng và giải pháp bảo đảm xử lý vi phạm hành

chínhtrong lĩnh vực hàng không dân dụngViệt Nam.

CHƯƠNG I

7

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ

XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC

HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG

1.1 Tổng quan về ngành Hàng không dân dụng

Ngành Hàng không dân dụng có công cụ lao động, đối tượng và điều

kiện lao động khác biệt với các ngành kinh tế thông thường. Với mục đích lao

động nhằm tạo ra những giá trị kinh tế bằng vận tải đường hàng không, mamg

tính quốc tế cao do đội ngũ lao động có chuyên môn và kỹ năng đặc biệt thực

hiện, ngành HKDD được coi là ngành kinh tế đặc thù.

Tại Việt Nam, ngành Hàng không dân dụng có quá trình hình thành và

phát triển gắn liền với lịch sử đấu tranh giữ nước và dựng nước của dân tộc

Việt Nam. Ngay từ tháng 6/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo xây dựng

Sân bay Lũng Cò thuộc thôn Đồng Đon, xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương,

tỉnh Tuyên Quang để vận chuyển quân sự của mặt trận Đồng Minh cho Cách

mạng Việt Nam, máy bay L5 của Mỹ vận chuyển đưa đón quân đồng minh,

thuốc men, vũ khí từ Côn Minh sang Tân Trào (sân bay dài 400m, rộng 20m).

Sân bay Lũng Cò có thể coi là sân bay “quốc tế” đầu tiên của Việt Nam. Sự

hình thành sân bay Lũng Cò tạo điều kiện thuận lợi trong quan hệ giữa Việt

Nam và quân Đồng Minh chống kẻ thù chung là phát xít Nhật. Góp phần vào

thắng lợi chung của cách mạng tháng 8 năm 1945. Ngày 9/3/1949 Đại tướng

Võ Nguyên Giáp đã ra quyết định thành lập Ban nguyên cứu không quân

thuộc Bộ Tổng tham mưu; đồng chí Hà Đổng- Trưởng ban. Nhiệm vụ của

Ban là xây dựng cơ sở ban đầu cho không quân nhân dân; tìm hiểu hoạt động

của không quân Pháp và nghiên cứu, đề xuất các biện pháp chiến đấu; chuẩn

bị cở sở vật chất tài liệu, từng bước huấn luyện đội ngũ cán bộ và nhân viên

kỹ thuật, chuẩn bị điều kiện mở rộng hoạt động. Sau cuộc kháng chiến chống

thực dân Pháp thắng lợi; ngày 10 /10 /1954 cùng với việc tiếp quản Thủ đô

Hà Nội, bộ đội đã tiến vào sân bay Gia Lâm tiếp quản các vị trí quan trọng.

8

Đúng 12 giờ đêm ngày 31/12/1954 từ sân bay Gia Lâm, một bức điện đã phát

để báo cho toàn thế giới biết: “Kể từ 0 giờ ngày 01/1/1955, sân bay Gia Lâm

không còn nằm trong khu quản chế của Đông Dương. Tất cả các máy bay

muốn vào, ra miền Bắc Việt Nam, từ vĩ tuyến 17 trở ra, phải xin phép cơ quan

điều phái của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH) đặt tại sân bay

Gia Lâm - Hà Nội”. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu bước phát triển

mớicủa Việt Nam trong phát triển ngành HKDD cũng như thực hiện chủ

quyền về vùng bay do Nhà nước VNDCCH quản lý.

Để chuẩn bị cơ sở ban đầu cho việc xây dựng và phát triển không quân

và Hàng không dân dụng, ngày 3/3/1955, Bộ Quốc phòng ra quyết định số

15/QĐA thành lập Ban nghiên cứu sân bay trực thuộc Tổng tham mưu

trưởng. Ban có nhiệm vụ chỉ huy, quản lý các sân bay hiện có; tổ chức chỉ

huy các chuyến bay hàng ngày; giúp Bộ tổng tham mưu nghiên cứu những

nội dung về tổ chức xây dựng lực lượng không quân phù hợp với kế hoạch

xây dựng quân đội trong giai đoạn mới.

Sau khi hoàn thành kế hoạch xây dựng kinh tế và hàn gắn vết thương

chiến tranh (1955-1959), miền Bắc bước vào thời kỳ cải tạo và thực hiện kế

hoạch 5 năm lần thứ nhất và chi viện cho cho Cách mạng miền Nam.Để tăng

cường công tác quản lý lực lượng của HKDD đồng thời nâng cao vai trò, vị

trí của HKDD Việt Nam trên trường quốc tế; ngày 7/6/1963, Thủ tướng

Chính phủ ra Quyết định số 39/BT thành lập lại Cục HKDD Việt Nam. Trong

tình hình cả nước có chiến tranh, cán bộ, chiến sĩ không quân vận tải vừa làm

nhiệm vụ quân sự, vừa làm nhiệm vụ bay dân dụng. Các tổ lái và máy bay

mang ký hiệu của Hàng không dân dụng Việt Nam (thực chất là lực lượng

quân đội, nằm trong biên chế của Trung đoàn Không quân vận tải 919).

Trung đoàn 919 đã tổ chức hàng ngàn chuyến bay vận tải phục vụ mở đường

Trường Sơn, vận chuyển vũ khí, khí tài phục vụ các đơn vị trong Quân chủng

Phòng không - Không quân và nhiệm vụ bay đột xuất theo yêu cầu của công

tác sẵn sàng chiến đấu. Đặc biệt trong thời gian này, Hàng không Việt Nam

9

cùng với Liên Xô lập cầu Hàng không Liên xô - Việt Nam-Lào để vận chuyển

vũ khí đạn dược, lương thực, quân trang, quân dụng, chuyển quân, bay trinh

sát, liên lạc... làm nhiệm vụ quốc tế với cách mạng Lào.

Sau khi đất nước thống nhất ( từ sau ngày 30 /4/1975), nhu cầu đi lại bằng

đường hàng không trong cả nướcrất lớn, đòi hỏi ngành HKDD phải trở thành

ngành kinh tế kỹ thuật quan trọng của đất nước. Do vậy, Ngày 11/2/1976, Thủ

tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 28/CP về việc thành lập Tổng cục

HKDD trực thuộc Hội đồng Chính phủ nhưng về mặt tổ chức quản lý và chỉ

đạo xây dựng ngành HKDD vẫn trực thuộc Bộ Quốc phòng. Tổng cục HKDD

có các đơn vị sản xuất và phục vụ sản xuất trực thuộc là Đoàn bay 919 hoạt

động trên 11 sân bay: Gia Lâm, Tân Sơn Nhất, Phú Quốc, Rạch Giá, Đà

Nẵng, Đồng Hới, Phú Bài, Liên Khương, Buôn Ma Thuột, Nha Trang, Quy

Nhơn. Lúc này tổng số có 42 chiếc máy bay các loại. Tháng 6/1976, Tổng cục

HKDD ra quyết định về việc thay số đăng ký, sơn cờ và chữ trên các loại máy

bay để thống nhất quản lý nhà nước và chủ quyền quốc gia đối với phương

tiện vận tải hàng không và phù hợp với tập quán quốc tế. Tiến hành mở lại

đường bay A1 (trục Băng Cốc – Hồng Công); thảo luận về việc khôi phục

quyền kiểm soát, quản lý và điều hành Vùng thông báo bay (FIR) Sài Gòn

nay là FIR Hồ Chí Minh. Ngày 29/8/1989, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành

Nghị định số 112/HĐBT quy định chức năng, nhiệm vụ và bộ máy tổ chức

của Tổng cục HKDD Việt Nam, thực hiện chức năng là cơ quan quản lý nhà

nước về HKDD và Quyết định 225/CT về việc thành lập Tổng công ty Hàng

không Việt Nam thực hiện chức năng vận tải hàng không và các dịch vụ đồng

bộ. Nghị định 112/HDBT nêu rõ “Hàng không dân dụng Việt Nam là ngành

kinh tế, kỹ thuật của Nhà nước; Tổng cục Hàng không dân dụng là cơ quan

trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng”. Nghị định 112/HĐBT và Quyết định 225/CT

của Hội đồng Bộ trưởng và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng là một bước ngoặt

lịch sử của ngành HKDD Việt Nam. Từ đó, cơ quan quản lý nhà nước về

HKDD là cơ quan dân sự, các đơn vị hoạt động kinh tế là một tổ chức kinh tế

10

quốc doanh. Ngày 30/7/1992, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số

242/HĐBT, thành lập Cục HKDD Việt Nam( nay là Cục Hàng không Việt

Nam), trực thuộc Bộ Giao thông vận tải và Bưu điện. Cục Hàng không dân

dụng Việt Nam là cơ quan quản lý nhà nước về HKDD, có tư cách pháp nhân,

có con dấu và ngân sách riêng, được mở tài khoản tại Kho Bạc Nhà nước.

Ngành Hàng không Việt Nam chính thức chuyển từ hoạch toán tập trung toàn

ngành sang cơ chế hoạch toán độc lập.

Ngày 26/3/1993, Văn phòng Chính phủ đã có công văn 86/TB thông

báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ về phương hướng phát triển của

Ngành Hàng không Việt Nam trong thời gian từ 1993 - 2000 phải tập trung

xây dựng và phát triển Ngành Hàng khôngViệt Nam thành một nền kinh tế kỹ

thuật quan trọng, đủ sức phục vụ các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong

nước cũng như tranh thủ mọi khả năng mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với

nước ngoài; đồng thời đảm bảo các yêu cầu phát triển văn hóa – xã hội, an

ninh quốc phòng của đất nước. Cục Hàng không Việt Nam là cơ quan quản lý

nhà nước đối với mọi doanh nghiệp hàng không. Vì thế cần tách chức năng

quản lý nhà nước của Cục Hàng không Việt Nam với các hoạt động sản xuất

kinh doanh của các doanh nghiệp hàng không khác. Từ tháng 5/1993, Ngành

Hàng không dân dụng Việt Nam đã chính thức hoạt động theo cơ chế mới.

Theo Nghị định 242/HĐBT và Quyết định 36/TTg của Thủ tướng Chính phủ,

toàn ngành sắp xếp và tổ chức theo hướng tách khối quản lý nhà nước ra khỏi

khối sản xuất kinh doanh. Theo đó, Cục Hàng không Việt Nam là cơ quan

quản lý nhà nước về chuyên ngành HKDD Việt Nam trong cả nước. Các đơn

vị sản xuất kinh doanh có 13 doanh nghiệp; trong đó hãng Hàng không Quốc

gia Việt Nam (Vietnam Airlines) là doanh nghiệp lớn nhất.

Có thể nói, do chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước về Hàng

không dân dụng để phục vụ xây dựng, phát triển kinh tế và bảo vệ đất nước,

ngành HKDD Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc trong những năm qua.

Hiện nay ở Việt Nam có 22 sân bay có hoạt động bay dân sự (trong đó có 11

11

sân bay quốc tế), số lượng máy bay đăng ký quốc tịch Việt Nam lên đến 161

chiếc, có 46 hãng hàng không từ 24 quốc gia, lãnh thổ có đường bay đến Việt

Nam.

Theo thống kê của ngành Hàng không Việt Nam, tính đến tháng 12/2019

toàn ngành Hàng không Việt Nam có hơn 44.000 người.Trong đó cơ cấu theo

lĩnh vực, gồm:

- Khối hành chính, sự nghiệp: 796 người = 1,8%

- Khối cơ quan Cục Hàng không Việt Nam: 187 người = 0,59%

- 03 Cảng vụ hàng không miền Bắc, Trung Nam: 435 người = 0,4%

- Trung tâm Y tế Hàng không: 40 người = 0,14%

- Học viện Hàng không Việt Nam: 134 người = 0,61%

- Khối các doanh nghiệp hàng không: 37.367 người = 84,7%

- Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hàng không và phi hàng khôngkhác:

5.983 người = 13,5%.

Những lĩnh vực hoạt động chủ yếu của Hàng không dân dụng bao gồm:

- Vận tải hàng không: Vận chuyển hành khách, hàng hóa, hàng không

chung do các nhà vận chuyển/hãng hàng không thực hiện.

- Kết cấu hạ tầng hàng không: Các cảng hàng không, các sân bay, dịch

vụ không lưu…

- Công nghiệp hàng không: Sản xuất, bảo dưỡng tàu bay, động cơ, thân,

càng, các cấu kiện thiết bị điện tử… trên tàu bay.

- Các dịch vụ kỹ thuật, thương mại hàng không: Các dịch vụ thương

mại kỹ thuật mặt đất, cung ứng xăng dầu, cung ứng vật tư phụ tùng máy bay,

huấn luyện, đào tạo, ăn uống, giải trí…

- Quản lý nhà nước chuyên ngành Hàng không dân dụng phối hợp với

các cơ quan có liên quan như hải quan, cửa khẩu, kiểm dịch y tế…

Đặc trưng của hoạt động Hàng không dân dung là ngành kinh tế đặc

biệt và mang tính toàn cầu, đòi hỏi trình độ quản lý cao, hiện đại. Với chức

năng điều hành, cung ứng dịch vụ không lưu và các dịch vụ phụ trợ khác

12

nhằm đảm bảo an toàn, điều hòa và có hiệu quả cho tất cả các máy bay dân

dụng hoạt động tại các cảng hàng không. An toàn hàng không là tiêu chuẩn về

việc đảm bảo không có những nguy cơ nào có thể gây tổn hại cho con người,

máy bay và những vật dụng có liên quan. Hoạt động chủ yếu trên không lưu,

an toàn hàng không được đánh giá là vô cùng quan trọng vì chỉ cần sai một

chi tiết nhỏ thì mức độ rủi ro rất lớn, có thể gây ra nhiều thiệt hại đến tính

mạng và tài sản.

Bên cạnh an toàn hàng không, lĩnh vực Hàng không dân dụng còn bao

gồm việc sử dụng, khai thác cơ sở hạ tầng như: Cảng hàng không, Sân bay.

Đây không chỉ là cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng cơ bản của ngành hàng

không mà còn là nút giao thông quan trọng, đưa đón hành khách, hàng hoá từ

nơi này đến nơi khác. Sân bay cũng là trung tâm kinh tế, thương mại, du lịch,

văn hoá. Sân bay bao gồm nhiều Cảng hàng không, có các tuyến bay đa

hướng, các công trình giao thông hội tụ ở cả mặt đất, trên cao và dưới ngầm,

có thể có các đường bộ, sắt, thuỷ kết nối nội địa hoặc liên vận quốc tế.

Do tính chất đặc thù, cho nên các hoạt động trong lĩnh vực Hàng không

dân dụng đòi hỏi phải đảm bảo an ninh, an toàn và buộc phải hoạt động đồng

bộ trong một quy trình chặt chẽ. Các quy định hoạt động trong lĩnh vực Hàng

không dân dụng vì thế cần có sự kiểm soát, quản lý nghiêm ngặt từ phía Nhà

nước về tiêu chuẩn đủ điều kiện bay; bảo dưỡng, sửa chữa tàu bay và khai

thác tàu bay; quốc tịch tàu bay, quản lý và khai thác cảng hàng không, sân

bay; cung cấp dịch vụ tại cảng hàng không, sân bay; vấn đề đi lại, điều khiển,

vận hành phương tiện, thiết bị hoạt động trong cảng hàng không, sân bay; vấn

đề phòng, chống thiên tai và khẩn nguy sân bay, bảo trì công trình hàng

không; vấn đề xử lý về bảo vệ môi trường trong khai thác tàu bay, bảo vệ môi

trường tại cảng hàng không, sân bay; vấn đề nhân viên hàng không, đào tạo,

huấn luyện nghiệp vụ, sử dụng nhân viên hàng không và giám định sức khỏe

cho nhân viên hàng không; vấn đề hoạt động bay, vận chuyển hàng không và

hoạt động hàng không chung; vấn đề an ninh, an toàn hàng không,...

13

Để thực hiện nhiệm vụ quản lý, Nhà nước thường tiến hành các công

việc sau đây:

- Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, định mức

kinh tế - kỹ thuật, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, quy chế, quy trình về hàng

không dân dụng.

- Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính

sách phát triển ngành HKDD theo quy định của pháp luật.

- Quản lý về hoạt động bay dân dụng trong lãnh thổ của nước mình và

ở vùng thông báo bay do nhà nước quản lý; quản lý việc đầu tư xây dựng cơ

sở cung cấp dịch vụ, hệ thống kỹ thuật, trang bị, thiết bị bảo đảm hoạt động

bay.

- Quy hoạch, quản lý việc đầu tư xây dựng, tổ chức khai thác cảng hàng

không, sân bay; quản lý việc sử dụng đất tại cảng hàng không, sân bay.

- Quản lý hoạt động vận chuyển hàng không; kiểm tra, giám sát hoạt

động của các doanh nghiệp vận chuyển hàng không, doanh nghiệp kinh doanh

dịch vụ hàng không.

- Đăng ký tàu bay và đăng ký các quyền đối với tàu bay.

- Quản lý việc thiết kế, sản xuất, khai thác, sửa chữa, bảo dưỡng, xuất

khẩu, nhập khẩu tàu bay, động cơ tàu bay, cánh quạt tàu bay, trang bị, thiết bị

của tàu bay và các trang bị, thiết bị, vật tư khác phục vụ hoạt động hàng

không dân dụng.

- Cấp, công nhận chứng chỉ, giấy phép, giấy chứng nhận và các giấy tờ,

tài liệu khác liên quan đến hoạt động HKDD.

- Quản lý việc bảo đảm an ninh, an toàn cho hoạt động hàng không dân

dụng; tổ chức và bảo đảm an ninh, an toàn chuyến bay chuyên cơ, chuyến bay

đặc biệt.

- Quản lý hoạt động tìm kiếm, cứu nạn và điều tra sự cố, tai nạn tàu

bay.

- Hợp tác quốc tế về hàng không dân dụng.

14

- Quản lý việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của ngành hàng

không dân dụng, giám định sức khỏe nhân viên hàng không.

- Quản lý hoạt động khoa học, công nghệ trong lĩnh vực Hàng không

dân dụng; bảo vệ môi trường, phòng, tránh thiên tai, ứng phó với biến đổi khí

hậu trong hoạt động HKDD.

- Quản lý giá, phí và lệ phí trong hoạt động Hàng không dân dụng.

- Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong

hoạt động HKDD.

Tại Việt Nam, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về Hàng không

dân dụng. Bộ Giao thông vận tải chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện

quản lý nhà nước về hàng không dân dụng. Cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản

lý nhà nước chuyên ngành HKDD là Cục Hàng không Việt Nam(thuộc Bộ

Giao thông vận tải) là Nhà chức trách hàng không.

Nhà chức trách hàng không có nhiệm vụ và quyền hạn trong việc ban

hành chỉ thị, huấn lệnh; thực hiện các biện pháp khẩn cấp bao gồm cả việc

đình chỉ chuyến bay và hoạt động của phương tiện, thiết bị, nhân viên hàng

không để bảo đảm an toàn hàng không, an ninh hàng không và duy trì hoạt

động đồng bộ của dây chuyền vận chuyển hàng không. Đồng thời, giám sát

việc khai thác, bảo dưỡng tàu bay, kết cấu hạ tầng hàng không, bảo đảm hoạt

động bay, khai thác vận chuyển hàng không, cung cấp dịch vụ hàng không,

dịch vụ phi hàng không;cấp, phê chuẩn, công nhận giấy phép, giấy chứng

nhận, năng định, tài liệu khai thác chuyên ngành hàng không dân dụng; Tổ

chức, vận hành và chỉ đạo hệ thống giám sát, quản lý an ninhhàng không, an

toàn hàng không, tìm kiếm cứu nạn hàng không, khẩn nguy sân bay; tổ chức,

chỉ đạo xử lý, điều tra, xác minh các tình huống uy hiếp an toàn hàng không,

an ninh hàng không, sự cố, tai nạn hàng không, thực hiện chuyến bay chuyên

cơ; Bổ nhiệm giám sát viên trong lĩnh vực bảo đảm an toàn hàng không, an

ninh hàng không, chất lượng dịch vụ hàng không theo tiêu chuẩn do Bộ

trưởng Giao thông vận tải quy định; Tổng hợp, phân tích và đánh giá báo cáo

15

sự cố, tai nạn tàu bay; kiểm tra, giám sát việc khắc phụcsự cố, tai nạn tàu bay

và thực hiện biện pháp phòng ngừa sự cố, tai nạn tàu bay; điều tra sự cố, tai

nạn tàu bay; Ban hành hoặc công nhận áp dụng quy trình, tiêu chuẩn cơ sở

chuyên ngành hàng không dân dụng; Công bố, phát hành trong nước và quốc

tế thông tin, thông báo liên quan đến hoạt động HKDD; Thực hiện thanh tra

chuyên ngành HKDD.

Bộ Quốc phòng có trách nhiệm quản lý và bảo vệ vùng trời Việt Nam;

giám sát hoạt động bay dân dụng; phối hợp với Bộ Giao thông vận tải trong

việc tổ chức và sử dụng vùng trời phục vụ hoạt động HKDD.

Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có

trách nhiệm phối hợp với Bộ Giao thông vận tải thực hiện quản lý nhà nước

về HKDD theo quy định của Chính phủ.

Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình

thực hiện quản lý nhà nước về HKDD tại địa phương.

Ngoài ra, các cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước chuyên

ngành Hàng không dân dụng thực hiện thanh tra chuyên ngành HKDD và có

nhiệm vụ, quyền hạn:

- Thanh tra việc chấp hành quy định của pháp luật về Hàng không dân

dụng; điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành

viên; quy tắc, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, quy chế, quy trình khai thác

chuyên ngành HKDD

- Đình chỉ hoạt động của tổ chức, cá nhân và phương tiện vi phạm quy

định về an toàn hàng không, an ninh hàng không hoặc không đáp ứng tiêu

chuẩn, điều kiện kỹ thuật an toàn hàng không, an ninh hàng không;

- Xử phạt vi phạm hành chính (VPHC) trong lĩnh vực Hàng không dân

dụng theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính;

- Tạm giữ tàu bay;

16

- Phối hợp với Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính

phủ và các cơ quan hữu quan ở địa phương trong việc phát hiện, ngăn chặn,

xử lý hành vi vi phạm pháp luật về HKDD;

- Kiến nghị áp dụng biện pháp xử lý và khắc phục những vi phạm trong

hoạt động HKDD và thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định

của pháp luật.

1.2. Bản chất, khái niệm vi phạm hành chính và vi phạm hành

chínhtrong lĩnh vực hàng không dân dụng

Để hoạt động Hàng không dân dụng được an toàn và hiệu quả, các quy

định của Nhà nước về lĩnh vực HKDD phải có tính khả thi, phát huy tác dụng

thực tế, tạo sự răn đe, có tính tuân thủ thực hiện cao. Điều đó không chỉ đòi

hỏi các quy định về điều kiện hoạt động HKDD bao quát đầy đủ các nội dung

cần thiết mà cần phải tạo tiền đề cho các cơ quan quản lý nhà nước có căn cứ

xử lý nghiêm minh các hànhvi phạm, trong đó các quy định phải chỉ ra những

hành vi nào là vi phạm pháp luật, mức độ vi phạm pháp luật hành chính, dân

sự, hình sự cụ thể. Vi phạm hành chính trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng đều có

dấu hiệu chung là hành vi trái quy định pháp luật hành chính diễn ra trong

thực tế và gây nguyên hiểm cho xã hội, nhưng ở mức độ thấp, chưa đến mức

truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời đó phải là hành vi có lỗi của chủ thể

xác định.

Vi phạm hành chínhlà một loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ biến

trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy mức độ nguy hiểm thấp hơn

tội phạm nhưng VPHC cũng là hành vi gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại

cho lợi ích của nhà nước, tập thể, lợi ích cá nhân cũng như lợi ích của cộng

đồng. Nếu không được ngăn chặn, xử lý kịp thời thì VPHC sẽ là nguyên nhân

dẫn tới tình trạng phạm tội nảy sinh và tạo ra nhiều hệ lụy xã hội khác. Khi

định xác định đúng về hành vivi phạm hành chính sẽ cho phép xác định được

các vi phạm cụ thể trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Xác định được đúng

hành vi vi phạm hành chính (tức là xác định đúng cơ sở xử phạt), thì việc thực

17

hiện xử phạt hành chính mới đúng đắn, mới đảm bảo được quyền và lợi ích

hợp pháp của nhà nước, của tổ chức và cá nhân, phát huy được hiệu quả và

mục đích của việc xử phạt VPHC là nhằm lập lại trật tự quản lý nhà nước bị

xâm hại, góp phần giáo dục người vi phạm và cảnh báo, phòng ngừa vi phạm

trong tương lai, tránh được sự tuỳ tiện trong xử phạt hành chính.

Vi phạm hành chính, về bản chất là hành vi vi phạm pháp luật. Trong Từ

điển pháp luật, vi phạm pháp luật được hiểu theo nghĩa rộng, là các việc sai,

trái pháp luật nói chung. Theo nghĩa hẹp, vi phạm hành chính là hoạt động

làm việc sai, trái pháp luật, nhưng chưa cấu thành tội phạm.

Trong thực tiễn thi hành và áp dụng pháp luật hiện nay, vi phạm hành

chính thường được hiểu một cách chung nhất là hành vi vi phạm các quy tắc

quản lý của nhà nước nhưng không phải tội phạm và bị xử lý theo thủ tục

hành chính mà không viện đến Toà án và các thủ tục tư pháp.

Trên thế giới, nhiều nước cũng có quan niệm rằng, VPHC là các hành

vi vi phạm pháp luật mà không phải là tội phạm và bị xử phạt bằng các chế tài

hành chính.

Trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, vi phạm hành chính là vấn đề

được đề cập chính thức lần đầu tiên tại Pháp lệnh Xử phạt VPHC ngày

30/11/1989. Theo đó, “ vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức

thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm quy tắc quản lý Nhà nước mà

không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt

hành chính” (Điều 1). Cách quy định như vậy cho thấy, các dấu hiệu pháp lý

cơ bản của VPHC là: hành vi, tính trái pháp luật của hành vi, lỗi, và bị xử

phạt hành chính. Ngoài mặt khách quan và mặt chủ quan thể hiện qua các dấu

hiệu trên, quy định này cũng đề cập đến yếu tố chủ thể của cấu thành pháp lý

của VPHC. Sau 5 năm triển khai Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính

(1986) đã thể hiện những bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung, do đó nó được

thay thế bằng Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính (1995), tiếp theo là Pháp

lệnh về Xử lý vi phạm hành chính (2002). Về cơ bản, nội dung của Pháp lệnh

18

Xử lý vi phạm hành chính năm 1995 và năm 2002 đều có quy định và xác

định: Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ

chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý

nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị

xử phạt hành chính.

Năm 2012, vấn đề xử lý vi phạm hành chính đã được quy định trong

một đạo luật. Tại Khoản 1 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính (2012) xác

định: "vi phạm hành chínhlà hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi

phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm

và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính".

Như vậy, vi phạm hành chính có những dấu hiệu cơ bản như sau:

- Là hành vi vi phạm quy định pháp luật hành chính: Điều đó có nghĩa,

vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDDlà hành vi trái pháp luật, vi phạm

các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực HKDD; có tác

hại (tính nguy hiểm) do hành vi vi phạm của chủ thể gây ra, nhưng ở mức độ

thấp, chưa hoặc khôngcấu thành tội phạmhình sự và hành vi đó được quy định

trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.

- Là hành vi vi phạm đã diễn ra trong thực tế: Đó phải là một hành vi

khách quan đã được thực hiện (hành động hoặc không hành động), phải là

một việc thực, chứ không phải chỉ tồn tại trong ý thức hoặc mới chỉ là dự

định, đây có thể coi là dấu hiệu “vật chất” (material) của vi phạm.

- Chủ thể vi phạm có thể xác định: hành vi đó do một cá nhân hoặc

pháp nhân (tổ chức) thực hiện.

- Là hành vi có lỗi: Hành vi đó được tiến hành bởi người vi phạm nhận

thức được vi phạm của mình, hình thức lỗi có thể là cố ý, nếu người vi phạm

nhận thức được tính chất trái pháp luật trong hành vi của mình, thấy trước hậu

quả của vi phạm và mong muốn hậu quả đó xảy ra hoặc ý thức được hậu quả

và để mặc cho hậu quả xảy ra. Hình thức lỗi còn có thể là vô ý trong trường

hợp người vi phạm thấy trước được hậu quả của hành vi nhưng chủ quan cho

19

rằng mình có thể ngăn chặn được hậu quả hoặc không thấy trước hậu quả sẽ

xảy ra dù phải thấy trước và có thể thấy trước được hậu quả của vi phạm. Đây

có thể coi là dấu hiệu “tinh thần” của vi phạm.

Dựa vào tính chất, phạm vi của các hành vi vi phạm hành chính trong

lĩnh vực HKDD, có thể định nghĩa về VPHC trong lĩnh vực HKDD như sau:

Vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hàng không dân dụng là hành vi do

cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại

đến những quan hệ về hàng không dân dụng phát sinh trong quá trình thực

hiện các quy định của ngành Hàng không dân dụng mà theo quy định của

pháp luật phải bị xử lý vi phạm hành chính.

1.3. Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng

không dân dụng

Cũng như các loại vi phạm pháp luật, VPHC nói chung, vi phạm hành

chính trong lĩnh vực HKDD nói riêng đều được cấu thành bởi các yếu tố:

khách quan, chủ quan, chủ thể và khách thể.

1.3.1. Mặt khách quan

Mặt khách quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hàng không

dân dụng bao gồm các dấu hiệu: hành vi, tính trái pháp luật của hành vi, hậu

quả gây thiệt hại mà hành vi gây ra cho xã hội, quan hệ nhân quả, thời gian,

địa điểm, phương tiện vi phạm...

Vi phạm hành chính có hình thức biểu hiện là hành vi. Không có hành

vi thì không có vi phạm pháp luật nói chung và VPHC nói riêng. Hành vi vi

phạm hành chính trong lĩnh vực HKDDcũng biểu hiện dưới dạng hành vi, có

thể dưới hình thức hành động hoặc không hành động.

Vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hàng không dân dụng là hành vi có

tính chất trái pháp luật, thể hiện ở chỗ hành vi đó được thực hiện ngược với

yêu cầu của quy phạm pháp luật. Nói cách khác, đó là những hành vi xâm

phạm quy định pháp luật về lĩnh vực HKDD, được chế định trách nhiệm hành

chính bảo vệ. Cụ thể hơn, đó là hành động bị pháp luật hành chính cấm, hoặc

20

không thực hiện hay thực hiện không đúng hành động mà pháp luật hành

chính buộc phải thực hiện.

Khi vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD đã xảy ra hậu quả, cần

xem xét mối liên hệ nhân quả giữa hành vi VPHC và hậu quả của hành vi.

Khi xem xét mặt khách quan của VPHC trong những vụ việc cụ thể cần tính

đến một số yếu tố như thời gian, địa điểm, hoàn cảnh, phương tiện vi phạm.

Cũng như các hành vi vi phạm hành chính ở các lĩnh vực khác, mặt

khách quan của hành vi VPHC trong lĩnh vực HKDD trước hết là các hành vi

vi phạm và hậu quả cho xã hội mà hành vi vi phạm gây ra hoặc đe doạ gây ra.

Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD tương đối đa dạng, tuy

nhiên có thể chia thành hai nhóm như sau:

- Thứ nhất, nhóm hành vi vi phạm trực tiếp các quy định làm nảy sinh

sự kiện

Nhóm hành vi vi phạm trực tiếp các quy định pháp luật hành chính

trong lĩnh vực HKDD làm nảy sinh sự kiện bao gồm các hành vi vi phạm trực

tiếp quy định về HKDD. Các hành vi vi phạm quy định của ngành HKDD

như: Không nộp lệ phí khi tham gia giao thông với hình thức máy bay, đóng

không đủ số người thuộc diện phải đóng phí bắt buộc. Nhóm hành vi này gây

thiệt hại trước hết là thiệt hại về tài chính cho ngành hàng không, nguy hiểm

hơn, nhóm hành vi này xâm hại đến quyền được hưởng các chế độ HKDD của

người tham gia giao thông bằng phương tiện tàu bay cả ở hiện tại và trong

tương lai.

- Thứ hai, nhóm các hành vi vi phạm liên quan đến tổ chức, hoạt động

HKDD

Nhóm vi phạm này có những hành vi sau:

+ Một là, hành vi của người quản lý trong ngành HKDD cố ý chiếm

đoạt hoặc để người khác chiếm đoạt tiền của khách hàng;

21

+ Hai là, hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trong ngành HKDD,

hệ thống y tế, hệ thống cơ quan lao động cố ý giải quyết sai hoặc lạm dụng

chính sách của Nhà nước liên quan đến ngành HKDD để trục lợi;

+ Ba là, hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trong ngành HKDD,

cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý và đầu tư.

Xét về hậu quả, hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD đều

xâm hại đến quan hệHKDD, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước. Về hình

thức, hậu quả của những hành vi này có thể thể hiện dưới dạng là thiệt hại

trực tiếp về vật chất cho ngành HKDD và thiệt hại gián tiếp cho người tham

gia và cho xã hội. Đối với ngành hàng không, thiệt hại vật chất được thể hiện

dưới dạng bị chiếm đoạt, bị thất thu (không thu được hoặc thu không đủ) hay

bị đe doạ gây ra đối với lợi ích trước mắt như các quyền được hưởng chế độ

ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp.

1.3.2. Mặt chủ quan

Mặt chủ quan của vi phạm hành chínhtrong lĩnh vực Hàng không dân

dụngthể hiện ở yếu tố lỗi của người vi phạm. Lỗi là dấu hiệu pháp lý bắt buộc

của VPHC. Cần phân biệt hành vi trái pháp luật với vi phạm pháp luật, nếu

chưa xác định yếu tố chủ quan: Thái độ, động cơ, ý chí của người vi phạm đối

với hành vi của họ và đối với hậu quả của hành vi. Có hai hình thức là lỗi cố ý

và lỗi vô ý. Lỗi cố ý thể hiện ở việc người có hành vi VPHC nhận thức được

tính chất nguy hại cho xã hội của hành vi nhưng vẫn thực hiện hoặc để mặc

cho hậu quả hành vi đó xảy ra. Lỗi vô ý thể hiện ở việc người có hành

viVPHC không biết hoặc không nhận thức được hành vi trái pháp luật mặc dù

cần phải biết và nhận thức được, hoặc nhận thức được nhưng cho rằng có thể

ngăn ngừa được hậu quả.

Trong mặt chủ quan của nhiều vi phạm hành chính, yếu tố động cơ,

mục đích vi phạm cũng được tính đến khi xem xét để quyết định các hình

thức và mức xử phạt cụ thể. Khi xem xét, đánh giá một hành vi trái pháp luật

có phải là VPHC hay không, cần xem xét đẩy đủ các dấu hiệu, yếu tố cấu

22

thành pháp lý của vi phạm, từ đó có thể xác định là vi phạm gì để chọn chế tài

đúng.

Trong lĩnh vực Hàng không dân dụng, dấu hiệu nhận biết về mặt chủ

quan của hành vi VPHC là yếu tố lỗi gồm lỗi cố ý và lỗi vô ý của chủ thể vi

phạm. Lỗi cố ý trong hành viVPHC lĩnh vực HKDD thể hiện ở sự cố tình vi

phạm khi nhận biết được hành vi mình đang thực hiện là hành vi trái với quy

định của pháp luật HKDD. Tuy nhiên, các chủ thể (doanh nghiệp và cá

nhân)này lại cố tình vi phạm. Hoặc là lỗi vô ý không biết rằng hành vimình

đang thực hiện là trái quy định của pháp luật.

Ngoài dấu hiệu bắt buộc là lỗi, ở một số trường hợp cụ thể, pháp luật

còn xác định dấu hiệu bắt buộc của một số loại hành vi trong VPHC trong

lĩnh vực HKDD. Chẳng hạn, các hành vi vi phạm hành chính theo quy định

của Nghị định số 147/2013/NĐ-CP ngày 30/10/2013 về xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực HKDD, theo đó đối tượng bị xử lý VPHC là: “Cá nhân,

tổ chức Việt Nam và cá nhân, tổ chức nước ngoài có hành vi VPHC trong lĩnh

vực HKDD trong lãnh thổ Việt Nam, trên tàu bay đăng ký quốc tịch Việt

Nam, ở vùng thông báo bay do Việt Nam quản lý ”.

1.3.3. Chủ thể

Chủ thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD là các nhân hay

tổ chức có năng lực trách nhiệm hành chính đã thực hiện hành vi VPHC. Pháp

luật hành chính quy định chỉ truy cứu trách nhiệm hành chính đối với những

cá nhân có năng lực hành vi pháp luật hành chính. Người có năng lực hành vi

pháp luật hành chính là người có khả năng nhận được tính chất nguy hại cho

xã hội của hành vi, hậu quả của hành vi và điều khiển được hành vi đó.

Những người hành động trong tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng và sự

kiện bất ngờ, hoặc không có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của mình

thì không phải chịu trách nhiệm hành chính, nghĩa là không bị xử phạt VPHC.

Các chủ thể phải chịu trách nhiệm hành chính gồm: Cá nhân và tổ chức theo

quy định tại Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Chủ thể thực hiện hành vivi

23

phạm hành chínhtrong lĩnh vực HKDD có thể là cá nhân, tổ chức có năng lực,

chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật hành chính và pháp

luật về HKDD. Có thể chia thành hai nhóm chủ thể là cá nhân và chủ thể là

pháp nhân.

Nhóm chủ thể là cá nhân: Theo quy định của Luật Hàng không dân

dụng thuộc về nhóm này bao gồm công dân Việt Nam có hành vi vi phạm cụ

thể trong lĩnh vực HKDD. Những hành vi vi phạm hành chính mà cá nhân

thực hiện trong lĩnh vực HKDD chủ yếu bao gồm: Các hành vi vi phạm quy

định của ngành HKDD và các hành vi vi phạm liên quan đến tổ chức, hoạt

động về HKDD.

Thứ hai, nhóm chủ thể là pháp nhân: Thuộc đối tượng tham gia HKDD

gồm: Cơ quan Nhà nước; đơn vị sự nghiệp; đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức

chính trị; tổ chức chính trị - xã hội; tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp; tổ

chức xã hội – nghề nghiệp; tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài,

tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp. hợp tác xã,

tổ hợp tác, tổ chức khác... các cơ quan, tổ chức khác. Hành vi vi phạm hành

chính mà nhóm này thực hiện chủ yếu là hành vi vi phạm các quy định về

HKDD khi tham gia giao thông bằng đường hàng không.

1.3.4. Khách thể

Khách thể của vi phạm pháp luật là cái mà hành vi vi phạm đó xâm hại.

Khách thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD là những quan hệ xã

hội được các quy phạm pháp luật hành chính bảo vệ. Khách thể là yếu tố quan

trọng quy định tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật. Khách

thể của vi phạm hành chính rất đa dạng. Đó là trật tự quản lý hành chính Nhà

nước, quyền sở hữu, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân... Như vậy,

khách thể của VPHC không chỉ là trật tự quản lý nếu hiểu theo nghĩa hẹp của

các khái niệm đó. Mặt khác, không phải toàn bộ các quan hệ quản lý nhà

nước là khách thể của VPHC, mà chỉ những quan hệ được bảo vệ bởi trách

nhiệm hành chính trong số đó mà thôi.

24

Dấu hiệu khách thể để nhận biết về vi phạm hành chính trong lĩnh vực

HKDD là hành vi vi phạm đã xâm hại đến quan hệ kinh tế, xã hội trong lĩnh

vực HKDD, được pháp luật hành chính và pháp luật vềHKDD bảo vệ. Nói

cách khác, vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD là hành vi trái với các

quy định của pháp luật về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực HKDD, được quy

định phải bị xử phạt hành chính trong các văn bản pháp luật, cụ thể là Nghị

định của Chính phủ về xử phạt VPHC trong lĩnh vực HKDD hoặc các văn bản

quy phạm pháp luật khác có liên quan.

1.4. Các loại vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân

dụng

1.4.1. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụngđược

phân loại dựa trên các tiêu chí khác nhau

- Căn cứ vào các quan hệ trong lĩnh vực HKDD và phương thức thực

hiện của ngành HKDD, có thể chia VPHC thành ba loại như sau:

+ Hành vi vi phạm về nghĩa vụ mua phí chuyên chở theo định của

ngành HKDD;

+ Hành vi vi phạm về nghĩa vụ chi trả cho hành khách;

+ Hành vi vi phạm về quản lý các hoạt động HKDD.

- Căn cứ vào nội dung quy định của pháp luật và của ngành HKDD, có

thể phân loại vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD thành các loại sau:

+ Vi phạm các quy định về tàu bay, với các vi phạm cụ thể như: về

quốc tịch tàu bay; tiêu chuẩn đủ điều kiện bay; bảo dưỡng, sửa chữa tàu bay;

khai thác tàu bay;

+ Vi phạm quy định về cảng hàng không, sân bay, cụ thể như:quản lý

và khai thác cảng hàng không, sân bay; cung cấp dịch vụ tại cảng hàng không,

sân bay; đi lại, điều khiển, vận hành phương tiện, thiết bị hoạt động trong

cảng hàng không, sân bay; phòng, chống thiên tai và khẩn nguy sân bay; bảo

trì công trình hàng không.

25

+ Vi phạm quy định về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực HKDD, như:

Vi phạm quy định về bảo vệ môi trường trong khai thác tàu bay; Vi phạm quy

định về bảo vệ môi trường tại cảng hàng không, sân bay.

+ Vi phạm quy định về nhân viên hàng không, đào tạo, huấn luyện

nghiệp vụ, sử dụng nhân viên hàng không và giám định sức khỏe cho nhân

viên hàng không, gồm: Vi phạm quy định về nhân viên hàng không và thực

hiện công việc theo tài liệu, quy trình, yêu cầu công việc, quy trình phối hợp

hoạt động; Vi phạm quy định về bố trí, sử dụng, giám sát nhân viên hàng

không và thực hiện công việc theo tài liệu, quy trình, yêu cầu công việc, quy

trình phối hợp hoạt động; Vi phạm quy định về đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện

chuyên môn, nghiệp vụ cho nhân viên hàng không và đánh giá trình độ tiếng

Anh; Vi phạm quy định về giám định sức khỏe cho nhân viên hàng không.

+ Vi phạm quy định về hoạt động bay: Vi phạm quy định về cung cấp

dịch vụ bảo đảm hoạt động bay; Vi phạm quy định về quản lý hoạt động bay;

+ Vi phạm quy định về hoạt động vận chuyển hàng không và hoạt động

hàng không chung, cụ thể như:Vi phạm quy định về thành lập doanh nghiệp

vận chuyển hàng không và hoạt động hàng không chung; Vi phạm quy định

về khaithác vận chuyển hàng không và hoạt động hàng không chung; Vi

phạm quy định về hoạt động vận chuyển hàng không và hoạt động hàng

không chung.

+ Vi phạm quy định về an ninh hàng không, cụ thể như: Vi phạm quy

định về quản lý, sử dụng thẻ và giấy phép kiểm soát an ninh hàng không; Vi

phạm quy định về an ninh hàng không tại cảng hàng không, sân bay; trên

chuyến bay; tạinơi có công trình, trang bị, thiết bị hàng không; Vi phạm quy

định về tổ chức bảo đảm an ninh hàng không.

+ Vi phạm quy định về phòng chống cháy nổ tại cảng hàng không, sân

bay và cơ sở cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay, gồm: Vi phạm quy

định về phòng, chống cháy nổ tại cảng hàng không, sân bay và cơ sở cung cấp

dịch vụ bảo đảm hoạt động bay;

26

+ Vi phạm quy định về an toàn hàng không, như: Vi phạm về hệ thống

quản lý an toàn hàng không (SMS) và bảo đảm chất lượng; Vi phạm quy định

về điều tra sự cố, tai nạn hàng không.

- Căn cứ vào địa vị pháp lý của chủ thể vi phạm hành chính trong lĩnh

vực HKDD thành các loại sau:

+ Hành vi vi phạm do người có trách nhiệmchuyên chở thực hiện;

+ Hành vi vi phạm do hành khách và người tham gia quan hệ của

ngành HKDD thực hiện;

+ Hành vi vi phạm do tổ chức HKDD và các tổ chức khác vi phạm.

- Căn cứ chủ thể thực hiện vi phạm, có thể phân loại vi phạm hành

chính trong lĩnh vực HKDD thành hai loại là:

+ Hành vi vi phạm do cá nhân thực hiện;

+ Hành vi vi phạm do pháp nhân thực hiện.

1.4.2. Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không

dân dụng

Vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hàng không dân dụng vừa có những

nét đặc trưng chung của VPHC, vừa mang những nét đặc thù, thể hiện ở

những mặt sau đây:

Thứ nhất, Vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD là những vi phạm

chủ yếu liên quan đến các quy định an toàn bay của pháp luật và của ngành

HKDD.

Người tham gia vào quan hệ của ngành HKDD phải tuân thủ các quy định

về an toàn của chuyến bay, bắt buộc phải nghiêm túc thực hiện trên nguyên

tắc vì sự an toàn của chuyến bay. Khi một người xác định phương pháp di

chuyển bằng phương tiện tàu bay nghĩa là kể từ khi đăng ký, lấy vé đã tham

gia quan hệ của pháp luật của ngành HKDD để được hưởng quyền được tham

gia bay và nghĩa vụ phải tuân thủ nghiêm túc các quy định của phápluật và

của ngành HKDD về bảo đảm an ninh trật tự tại cảng hàng không, an toàn về

hàng hóa mang theo người cho đến việc không được làm bất cứ điều gì ảnh

27

hưởng đến sự an toàn trong suốt chuyến bay. Khi có những rủi ro xảy ra trước

hoặc trong chuyến bay mặc dù lỗi cố ý hay vô ý, ngành HKDD sẽ thực hiện

việc xử phạt VPHC đối với người đó theo mức độ, hậu quả do lỗi của người

đó gây ra.

Thứ hai, chủ thể của các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực

HKDD là những đối tượng tham gia quan hệ của ngành HKDD được hưởng

quyền từ quy định của ngành HKDD và phải thực hiện các nghĩa vụ theo quy

định của pháp luật. Vì những đặc thù từ hoạt động của ngành HKDD do vậy,

phần lớncác hành vi VPHC về HKDD đều do các chủ thể tham gia quan hệ

HKDD thực hiện, bao gồm hành khách và những người đưa, đón hành khách.

Thứ ba, thiệt hại mà hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD

gây ra là sự mất ổn định đến hoạt động của hàng không, ảnh hưởng đến việc

bảo đảm an toàn tuyệt đối tại cảng hàng không cũng như các chuyến bay, làm

giảm lòng tin của khách hàng về sự an toàn của họ khi tham gia quan hệ

HKDD.

1.5. Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng

1.5.1. Khái niệm

Vi phạm hành chínhlà hành vi vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng tiêu cực

đến đời sống kinh tế, xã hội. Do đó, các hành vi vi phạm pháp luật, bao gồm

VPHC trong lĩnh vực HKDD cần được xác định rõ và xử lý nghiêm minh.

Trong hoạt động quản lý của Nhà nước, bên cạnh hành vi VPHC, còn có khái

niệm xử phạt VPHC và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác. Xét về

bản chất, hoạt động xử lý VPHC là áp dụng một số biện pháp cưỡng chế hành

chính. Chủ thể thực hiện các biện pháp cưỡng chế hành chính là cá nhân hoặc

cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, theo quy định của pháp luật. Đối

tượng cưỡng chế là cá nhân có hành vi VPHC. Mục đích cưỡng chế là nhằm

ngăn chặn, phòng ngừa hoặc thực hiện công vụ vì lí do an ninh, quốc phòng

và vì lợi ích quốc gia. Việc thực hiện cưỡng chế của cơ quan quản lý nhà

28

nước đối với các đối tượng cưỡng chế phải theo trình tự, thủ tục hành chính

quy định. Thực chất, xử lý VPHC, xử phạt VPHC, áp dụng các biện pháp xử

lý hành chính khác đều thuộc phạm trù xử lý VPHC, bởi lẽ, đều phản ánh việc

áp dụng các biện pháp chế tài mang tính cưỡng chế hành chính của Nhà nước

đối với chủ thể có hành vi VPHC.

Xử lý vi phạm hành chính là khái niệm được đề cập lần đầu tiên trong

Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995. Mặc dù, trong một số văn bản

pháp luật trước đó có sử dụng cụm từ “xử lý hành chính”, nhưng dừng lại ở

hàm ý chỉ các biện pháp xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính. Pháp lệnh xử

phạt vi phạm hành chính năm 1989 có sử dụng khái niệm “xử phạt vi phạm

hành chính” là để chỉ các biện pháp xử phạt thông dụng như cảnh cáo, phạt

tiền, tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành

chính năm 1995 đưa ra quy định về “xử lý vi phạm hành chính” có ý nghĩa

chung bao hàm cả các chế tài xử phạt hành chính theo Pháp lệnh năm 1989 và

các biện pháp xử lý hành chính khác, mới được đưa vào Pháp lệnh năm 1995.

Trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (2002) Điều 1 quy định:"Xử lý vi

phạm hành chính bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý

hành chính khác và xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá

nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của

pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định

của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.Các biện pháp xử lý hành chính

khácbao gồm: giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng,

đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính”

Với quy định như vậy, xử lý vi phạm hành chính là khái niệm rộng hơn

xử phạt VPHC, có ý nghĩa bao trùm cả việc xử phạt VPHC và việc áp dụng

các biện pháp hành chính khác.

Từ điển pháp luật giải thích, xử lý VPHC là hành vi của cơ quan nhà

nước, nhà chức trách có thẩm quyền áp dụng chế tài hành chính để xử lý đối

với các hành vi vi phạm pháp luật không thuộc phạm vi các tội hình sự đã

29

được quy định trong Bộ luật hình sự, và do các cá nhân, cơ quan hay tổ chức

thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý.

Các cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính gồm có Ủy ban nhân dân

(UBND) các cấp, cơ quan cảnh sát, bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm,

thuế vụ, quản lý thị trường. Những cá nhân có quyền ra quyết định xử phạt

hành chính là thủ trưởng các cơ quan nói trên và cán bộ, chiến sĩ cảnh sát

nhân dân, bộ đội biên phòng, nhân viên hải quan, kiểm lâm, thuế vụ, thanh tra

viên thực hiện chức năng thanh tra nhà nước chuyên ngành đang thi hành

công vụ theo các hình thức xử phạt hành chính do luật định.

Hoạt động xử lý vi phạm hành chính chủ yếu do các cơ quan quản lý nhà

nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp dụng theo thủ tục hành

chính do các quy phạm thủ tục hành chính quy định. Vì vi phạm hành chính là

những vi phạm nhỏ và phổ biến nên việc xử phạt VPHC không theo thủ tục tư

pháp như đối với truy cứu trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự, mà theo

thủ tục hành chính và chủ yếu do các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm

quyền thực hiện. Tuy nhiên, không phải bất kỳ cơ quan quản lý nhà nước nào

cũng có thẩm quyền xử lý VPHC mà chỉ có một số cơ quan nhất định trong số

đó được nhà nước trao quyền hạn này. Hoạt động xử phạt VPHC, cũng như

việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính (bao gồm: các hình thức xử

lý VPHC, các biện pháp khắc phục hậu quả, các biện pháp ngăn chặn vi phạm

và đảm bảo việc xử lý VPHC...), nằm ngoài hoạt động xét xử của Toà án.

Như vậy, hoạt động xử lý vi phạm hành chính chỉ có thể diễn ra khi có

VPHC và đây là một hoạt động cưỡng chế mang tính quyền lực nhà nước.

Hoạt động này là việc áp dụng các hình thức xử phạt và các biện pháp cưỡng

chế hành chính đối với cá nhân, tổ chức VPHC. Nói cách khác, thực chất của

xử phạt VPHC là việc áp dụng các chế tài xử phạt hành chính và các biện

pháp cưỡng chế hành chính khác do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền

tiến hành đối với cá nhân, tổ chức VPHCtheo quy định của pháp luật.

30

Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa xử lý VPHC trong lĩnh vực

HKDD là việc các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền áp dụng những

biện pháp cưỡng chế hành chính (gồm các hình thức xử phạt VPHC; các biện

pháp khắc phục hậu quả; các biện pháp ngăn chặn VPHC và đảm bảo việc xử

phạt VPHC) đối với những cá nhân, tổ chức thực hiện VPHC nhằm đảm bảo

trật tự và kỷ luật trong quản lý nhà nước về HKDD theo thủ tục do pháp luật

quy định.

Ở phạm vi hẹp hơn xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDDbao gồm các chế

tài hành chính thông thường, áp dụng đối với chủ thể là cá nhân, tổ chức có

hành vi VPHC, với hình thức xử phạt chính như cảnh cáo, phạt tiền và hình

thức phạt bổ sung (tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, tịch

thu tang vật,...) và các biện pháp khắc phục hậu quả VPHC gây ra nhằm mục

đích lập lại trật tự quản lý lĩnh vực HKDD bị xâm hại.

1.5.2. Đặc thù của xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng

không dân dụng

Ngoài những đặc điểm chung giống như xử lý VPHC trong các lĩnh vực khác

là:

- Được thực hiện trên cơ sở có VPHC xảy ra;

- Do các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật thực hiện;

- Nội dung cơ bản của hoạt động xử lý VPHC là xem xét, đánh giá tính

chất mức độ vi phạm và quyết định hình thức, mức độ xử phạt;

- Được thực hiện theo trình tự, thủ tục được pháp luật quy định.

Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD có những đặc thù gắn

liền với những đặc thù của loại hành vi vi phạm này như đã phân tích ở phần

trên, cụ thể:

Một là, do hành vi vi phạm hành chính là những vi phạm liên quan chủ

yếu đến các quan hệ làm phát sinh sự kiện rủi cho hoạt động của ngành

HKDD. Vì vậy, cơ sở để xử phạt VPHC lĩnh vực HKDD chủ yếu là những

hành vi vi phạm quy định về chuyên chở hành khách, chuyên chở hàng hóa,

31

bảo đảm an toàn cảng hàng không. Bao gồm hệ thống các mức xử phạt đối

với các hành vi không tuân thủ các quy định của ngành HKDD hoặc gian lận

(sửa chữa, tẩy xoá, làm giả một phần hoặc toàn bộ hóa đơn vận chuyển hàng

hóa…).

Hai là, đối tượng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD là cá

nhân, tổ chức tham gia vào quan hệ HKDD. Do hành vi VPHC trong lĩnh vực

này là những cá nhân, tổ chức có tham gia quan hệ vận chuyển người, hàng

hóa, quy định về cảng hàng không, sân bay hoặc tham gia vào quan hệ quản

lý của ngành HKDD (cá nhân, đơn vị thuộc hệ thống cơ quan HKDD, thanh

tra lao động, Hội đồng giám định y khoa...) theo quy định của pháp luật về

HKDD.

Ba là, thẩm quyền xử lý VPHC lĩnh vực HKDD là các chủ thể đại diện

cho cơ quan quản lý nhà nước, theo quy định của pháp luật. Chủ yếu là:

Thanh tra viên, người được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành; Chánh

thanh tra Cục hàng không Việt Nam (HKVN), trưởng đoàn thanh tra chuyên

ngành Cục HKVN; Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành của Bộ Giao thông

vận tải(GTVT); Trưởng đại diện Cảng vụ hàng không; Chủ tịch UBND các

cấp. Tuy nhiên, việc quy định này cũng manh tính hình thức, trên thực tiễn

không hiệu quả. Bởi không riêng gì lĩnh vực HKDD mà hầu hết trong các lĩnh

vực khác, vai trò xử phạt VPHC của Chủ tịch UBND là rất mờ nhạt, tất cả

trông chờ vào thanh tra chuyên ngành. Trong khi lực lượng này rất hạn chế và

HKDD chỉ là một mảng trong nghiệp vụ thanh tra lao động. Do vậy, hoạt

động xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD hầu hết được thực hiện trên cơ sở

các đợt kiểm tra, thanh tra về HKDD gồm: thanh tra đột xuất, thanh tra định

kỳ theo quý, hoặc năm. Bên cạnh đó, hiện tại vẫn thiếu cơ chế phối hợp giữa

hệ thống kiểm tra, xử lý VPHC của cơ quan quản lý Nhà nước và hệ thống

kiểm tra nội bộ của cơ quan tổ chức sự nghiệp HKDD, dẫn tới tình trạng

chậm trễ trong xử phạt VPHC. Vì Hàng không dân dụng là một ngành có

phạm vi ảnh hưởng rộng lớn và liên quan trực tiếp đến đời sống xã hội, trước

32

tình trạng vi phạm đang ngày gia tăng trong lĩnh vực HKDD cần thiết phải

thành lập thanh tra chuyên ngành HKDD nhằm đảm bảo việc thực thi pháp

luật nói chung và pháp luật HKDD nói riêng.

Bốn là, hình thức xử lý vi phạm hành chính chủ yếu trong lĩnh vực HKDD

là phạt cảnh cáo và phạt tiền.

Tóm lại, xuất phát từ vai trò quan trọng của HKDD đối với kinh tế xã hội

của đất nước, việc hiểu rõ các vấn đề lý luận chung về XLVPHC, đặc thù của

VPHC và XLVPHC trong lĩnh vực HKDD có ý nghĩa rất to lớn. Từ đó, có thể

tìm hiểu các quy định cụ thể, thực tiễn áp dụng để hướng tới hoàn thiện pháp

luật về VPHC và XLVPHC trong lĩnh vực HKDD, góp phần tích cực trong

công cuộc đấu tranh phòng, chống VPHC nói chung cũng như nâng cao hiệu

quả hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực HKDD nói riêng.

1.6. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng

không dân dụng

Các nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính nói chung, xử lý hành chính

trong lĩnh vực HKDD nói riêng, là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho

toàn bộ quá trình xử lý VPHC. Các nguyên tắc xử lý VPHC thể hiện quan

điểm chính sách của nhà nước trong hoạt động quản lý các ngành, lĩnh vực,

thường được quy định trong các đạo luật. Tại Việt Nam, nguyên tắc xử lý

hành chính trong lĩnh vực HKDD được quy định trong Pháp lệnh xử lý

VPHC năm 2002, Luật xử lý VPHC năm 2012, Luật xử lý VPHC năm 2019,

bao gồm:

1.6.1. Các nguyên tắc chung

- Nguyên tắc pháp chế: Pháp chế là nguyên tắc hiến định được áp dụng

trong tổ chức và hoạt động của mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, trong

hành vi của công dân. Trong lĩnh vực xử lý VPHC nội dung nguyên tắc này

thể hiện ở chỗ cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt hành chính khi có VPHC do

pháp luật quy định; việc xử lý VPHC phải do người có thẩm quyền tiến hành

theo đúng quy định của pháp luật.

33

- Nguyên tắc mọi vi phạm hành chính phải được phạt hiện kịp thời, xử lý

công minh, nhanh chóng theo đúng pháp luật. Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ

quan Nhà nước có thẩm quyển phải phản ứng mau lẹ với các hành vi VPHC,

tuân theo nghiêm ngặt những quy định về thời hiệu xử phạt và thực hiện

quyết định xử phạt một cách khách quan, xử lý đúng người, đúng vi phạm,

không thiên vị; chỉ được chọn các chế tài, biện pháp xử lý đã được pháp luật

quy định.

- Việc xử lý vi phạm hành chínhphải căn cứ vào tính chất, mức độ vi

phạm, thân nhân người vi phạm và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng để

quyết định hình thức, biện pháp xử lý thích hợp.

- Không xử lý vi phạm hành chínhtrong các trường hợp thuộc tình thế cấp

thiết, phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ hoặc VPHC trong khi đang mắc

bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng

điều khiển hành vi của mình.

1.6.2. Các nguyên tắc kỹ thuật

- Một hành vi ci phạm hành chínhchỉ bị xử lý hành chính một lần;

- Nhiều người cùng thực hiện một hành vi VPHC thì mỗi người vi phạm

đều bị xử phạt;

- Một người thực hiện nhiều hành vi VPHC thì bị xử phạt về từng hành vi

vi phạm.

Là một lĩnh vực thuộc Nhà nước quản lý, xử lý VPHC trong lĩnh vực

HKDD cũng mang đầy đủ những nguyên tắc xử phạt VPHC như đã nêu trên

34

TIỂU KẾT CHƯƠNG I

Chương I của Luận văn "Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng

không dân dụng" thực hiện nhiệm vụ làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về

xử lý VPHC nói chung, xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD nói riêng. Đề thực

hiện nhiệm vụ nói trên,nội dung chương I tập trung vào làm rõ lĩnh vực

HKDD, quá trình xây dựng và phát triển của ngành HKDD Việt Nam; Bản

chất, khái niệm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD; Các yếu tố

cấu thành vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD (làm rõ mặt khách quan,

mặt chủ quan, chủ thể, khách thể); Các hình thức vi phạm hành chính trong

lĩnh vực HKDD; Vấn đề xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD và

các nguyên tắc xử lý vi phạm trong lĩnh vực HKDD.

Các nghiên cứu cụ thể trong chương I đã tập trung làm rõ một số khái

niệm như vi phạm hành chính, vi phạm hành chính tronglĩnh vực HKDD.

Theo đó vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD được xác định là hành vi

do cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại

đến những quan hệ về HKDD phát sinh trong quá trình thực hiện các quy định

của ngành HKDD, mà theo quy định của pháp luật phải bị xử lý. Đồng thời,

xác định chủ thể xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD là việc các cơ quan nhà

nước, người có thẩm quyền áp dụng những biện pháp cưỡng chế hành chính

(gồm các hình thức xử lý VPHC; các biện pháp khắc phục hậu quả; các biện

pháp ngăn chặn VPHC và đảm bảo việc xử lý VPHC đối với những cá nhân,

tổ chức có hành vi VPHC trong lĩnh vực HKDD, nhằm đảm bảo trật tự và kỷ

luật trong quản lý nhà nước về HKDD, theo thủ tục do pháp luật quy định.

Ngoài việc đưa ra các khái niệm, luận văn cũng chỉ ra những đặc thù và

nguyên tắc xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD. Đây là những kiến thức làm

nền tảng cơ sở lý luận cho việc đánh giá thực trạng vấn đề xử lý VPHC trong

lĩnh vực HKDD ở chương tiếp theo.

35

CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH

TRONG LĨNH VỰCHÀNG KHÔNG DÂN DỤNG Ở VIỆT NAM

GIAI ĐOẠN 2014 - 2019

2.1.Thực trạng pháp luật xử lý vi phạm hành trong lĩnh vực hàng

không dân dụngở Việt Nam

2.1.1.Pháp luật về lĩnh vực hàng không dân dụng ở Việt Nam

Cùng với sự phát triển của ngành HKDD, hệ thống pháp luật về HKDD

ở Việt Nam ngày càng được hoàn thiện. Các đạo luật, văn bản hướng dẫn và

quy chế của ngành HKDD đã được xây dựng trên cơ sở có sự tiếp cận với

thông lệ và luật pháp quốc tế.

Năm 1991, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật

HKDD Việt Nam. Luật được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để

điều chỉnh các quan hệ về hoạt động hàng không dân dụng đối với các tổ

chức, các cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế được phép hoạt động kinh

doanh hàng không tại Việt Nam. Quá trình thực hiện Luật HKDD Việt Nam

(1991) từ năm 1992 đến 1996 đã phát sinh những vấn đề mới, làm cho nhiều

quy định của Luật không còn phù hợp với thực tiễn. Do đó, tại kỳ họp thứ 7,

khóa IX, ngày 20/4/1995, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Hàng không dân dụng Việt Nam

(1991). Nội dung sửa đổi, bổ sung nhiệm vụ quản lý Nhà nước về HKDD,

quản lý bay, quản lý và khai thác cảng hàng không sân bay, công tác an ninh,

an toàn hàng không. Để đáp ứng yêu cầu tình hình mới, phù hợp điều kiện

phát triển của kinh tế, xã hội và hội nhập, ngày 22/6/2006, Quốc hội nước

CHXHCN Việt Nam đã chính thức thông qua Luật Hàng không dân dụng

Việt Nam, có hiệu lực từ ngày 01/1/2007. Năm 2014, Quốc hội khóa XIII, kỳ

họp thứ 8 tiếp tục thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hàng

không dân dụng Việt Nam, có hiệu lực từ ngày 01/7/2015. Cơ quan quản lý

36

Nhà nước về Hàng không đã ban hành hệ thống văn bản pháp luật và các

chính sách điều tiết vận tải hàng không. Bên cạnh đó, Ngành Hàng không

cũng đã chủ động, linh hoạt trong hội nhập quốc tế theo hướng tự do hoá, góp

phần quan trọng cho sự phát triển của thị trường hàng không, đặc biệt chính

sách của Nhà nước cho phép mở rộng đối với các thành phần kinh tế tham gia

kinh doanh vận tải hàng không; khuyến khích và bảo đảm các quyền cho các

hãng hàng không nước ngoài khai thác đi hoặc đến Việt Nam. Đồng thời, để

kịp thời điều chỉnh các quan hệ mới trong hoạt động của ngành HKDD, Luật

Hàng không dân dụng năm 2006 đã được sửa đổi bổ sung hai lần vào các năm

2014 và gần đây nhất vào năm 2018.

Nhìn chung, trong các giai đoạn phát triển của ngành HKDD, hệ thống

văn bản pháp luật về ngành HKDD đã được chú ý để hoàn thiện. Tuy nhiên,

các văn bản pháp luật chủ yếu quy định những nội dung có tính nguyên tắc về

HKDD, chưa cụ thể. Có những quy định khó thực hiện trên thực tế do không

phù hợp với các quy định pháp luật chuyên ngành khác. Chính vì vậy, những

quy định về xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD cũng rất mờ nhạt và được áp

dụng theo các quy định về XLVPHC mà chưa có những quy định riêng cho

lĩnh vực HKDD. Chẳng hạn, các quy định trong Pháp lệnh Xử lý VPHC 2002

và Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày 16/12/2008 của Chính phủ quy định

chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của

Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2008.

Để hướng dẫn chi tiết việc thi hành Luật Hàng không dân dụng, Chính

phủ đã ban hành các Nghị định quy định nội dung điều chỉnh các mặt hoạt

động trong ngành HKDD: (Nghị định 92/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy

định về các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện trong lĩnh vực ...). Bên cạnh

đó, có Nghị định 147/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực HKDD; Nghị định 162/2018/NĐ-CP của Chính phủ về việc Quy định xử

phạt VPHC trong lĩnh vực HKDD (Thay thế Nghị định 147/2013/NĐ-CP).

37

2.1.2. Thực trạng quy định của pháp luậtvề vi phạm pháp luậthành

chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng

Pháp luật quy định về VPHC và xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD

được quy định trong nhiều đạo luật và văn bản dưới luật. Ngoài các quy định

trong hệ thống luật chuyên ngành về hàng không dân dụng, còn có các Luật

và văn bản hướng dẫn luật chyên ngành, pháp luật về xử lý vi phạm hành

chính nói chung. Có thể kể đến nhóm các quy định pháp luật về xử lý VPHC

nói chung, gồm: Pháp lệnh xử lý VPHC số 44/2002/PL-UBTVQH10 và Pháp

lệnh số 31/2007/PL-UBTVQH11 sửa đổi một số điều của pháp lệnh xử phạt

VPHC, tiếp đó là Pháp lệnh số 04/2008/UBTV-QH12 của Pháp lệnh xử phạt

VPHC, Luật số 15/2012/QH13, Luật Xử lý VPHC. Bên cạnh đó, phải kể đến

các quy định trực tiếp về xử lý và xử phạt VPHC trong lĩnh vực HKDD như:

Nghị định số 01/2001/NĐ-CP ngày 4/1/2001 của Chính phủ về xử phạt

VPHC trong lĩnh vực HKDD; Nghị định số 91/2007/ NĐ-CP ngày 3/6/2007

của Chính phủ về xử phạt VPHC thay thế cho Nghị định 91/2007/NĐ-CP.

Tiếp theo là Nghị định số 60/2010/NĐ-CP ngày 31/7/2010 của Chính phủ về

xử phạt VPHC được ban hành nhằm giải quyết những vấn đề mới phát sinh

trong lĩnh vực hàng không. Năm 2013, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định

số 147/2013/NĐ-CP về xử phạt VPHC trong lĩnh vực HKDD thay thế cho

Nghị định số 60/2010/NĐ-CP. Đến nay Nghị định 162/2018/NĐ-CP năm

2018 của chính phủ về xử phạt VPHC trong lĩnh vực HKDD vừa được ban

hành để giải quyết sự gia tăng nhanh, sự đa dạng của các hành vi VPHC trong

lĩnh vực HKDD ở Việt Nam. Để có thể tiến hành các hoạt động xử lý VPHC

trong lĩnh vực HKDD, có thể kể đến các văn bản quy phạm pháp luật khác

như: Nghị định số 109/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định

xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý giá, phí, lệ phí, hóa đơn;

Nghị định số 139/2017/NĐ-CP ngày 27/11/2017 của Chính phủ quy định xử

phạt VPHC trong trong hoạt động đầu tư xây dựng; khai thác, chế biến, kinh

doanh khoáng sản làm vật liệu xây dựng, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây

38

dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; kinh doanh bất động sản, phát triển

nhà ở, quản lý sử dụng nhà và công sở; Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày

12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực an ninh,

trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy;

phòng, chống bạo lực gia đình; Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày

13/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực bưu chính,

viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện: Nghị định số

185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC

trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng và Nghị định số 124/2015/NĐ-CPngày 19/11/2015

của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số

185/2013/NĐ-CPngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC

trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng; Nghị định số 79/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của

Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nghề

nghiệp; Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ quy

định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; Nghị

định số 33/2017/NĐ-CP ngày 03/4/2017 của Chính phủ quy định về xử phạt

VPHC trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản.

Năm 2014, bên cạnh Luật HKDD Việt Nam (2006) đang có hiệu lực,

Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật HKDD

Việt Nam ngày 21/11/2014, nhằm xử lý những bất cập và những vấn đề mới

phát sinh trong lĩnh vực HKDD. Để phù hợp với các quy định của Luật mới

ban hành và phúc đáp yêu cầu của thực tiễn phát sinh, mới đây, ngày

30/11/2018 Chính phủ ban hành Nghị định 162/2018/NĐ-CP quy định xử

phạt VPHC trong lĩnh vực HKDD. Nghị định này quy định về hành vi VPHK,

hình thức, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi

VPHC, thẩm quyền xử phạt, mức phạt tiền cụ thể theo từng chức danh và

thẩm quyền lập biên bản đối với VPHC trong lĩnh vực HKDD.

39

Đối tượng áp dụng là: (i) Các tổ chức kinh tế được thành lập và hoạt

động theo quy định của pháp luật Việt Nam; cơ quan nhà nước có hành vi vi

phạm mà hành vi đó không thuộc nhiệm vụ quản lý nhà nước được giao; các

tổ chức nước ngoài hoạt động HKDD tại Việt Nam; văn phòng đại diện, văn

phòng bán vé của hãng hàng không nước ngoài tại Việt Nam; (ii) Hộ gia đình,

hộ kinh doanh cá thể vi phạm các quy định của Nghị định này bị xử phạt như

đối với cá nhân vi phạm; và (iii) Người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm

hành chính, người có thẩm quyền xử phạt VPHC trong lĩnh vực HKDD và

các cá nhân, tổ chức có liên quan.

Nguyên tắc áp dụng mức phạt tiền đối với các tổ chức, cá nhân khá cụ

thể, đồng thời quy định rõ đối với cùng một hành vi VPHC thì mức phạt tiền

đối với tổ chức bằng hai lần mức phạt tiền đối với cá nhân, thẩm quyền xử

phạt vi phạm hành chính và hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả.

Đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD, cá

nhân, tổ chức phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính là cảnh cáo

hoặc phạt tiền. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức có hành

vi vi phạm còn có thể bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung sau đây:

- Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc

đình chỉ hoạt động có thời hạn;

- Tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi

phạm hành chính.

Ngoài hình thức xử phạt chính, xử phạt bổ sung, cá nhân, tổ chức vi

phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục

hậu quả sau đây:

- Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên tàu bay và trên phương tiện, thiết bị;

- Buộc tái xuất tàu bay, động cơ, cánh quạt của tàu bay đã được nhập

khẩu vào Việt Nam;

- Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu;

40

- Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình được xây dựng, lắp đặt

không có Giấy phép hoặc xây dựng không đúng với Giấy phép;

- Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường,

lây lan dịch bệnh;

- Buộc trả lại đồ vật, thiết bị hoặc tài sản đã trộm cắp, công nhiên

chiếm đoạt, chiếm giữ trái phép;

- Buộc trả lại đất đã lấn, chiếm hoặc buộc trả lại phần mặt bằng;

- Buộc thực hiện bảo trì công trình;

- Buộc tổ chức kiểm tra lại, thi lại;

- Buộc hủy bỏ kết quả kiểm tra, thi;

- Buộc thu hồi chứng chỉ hành nghề đã cấp;

- Buộc hủy bỏ kết quả khám, giám định sức khỏe;

- Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được;

- Buộc thực hiện bảo dưỡng và lập hồ sơ bảo dưỡng tàu bay.

Theo quy định, các hành vi vi phạm, hình thức xử phạt, biện pháp khắc

phục VPHC trong lĩnh vực HKDD được xác định với mức phạt VPHC với

từngloại hành vi vi phạm như:

Một là,đối với hành vi vi phạm về tàu bay, có thể quan sát qua bảng

sau:

Số Nhóm Hành vi vi phạm Mức phạt Biện pháp khắc

thứ phục hậu quả

tự

1 20.000000 Buộc loại bỏ yếu Vi phạm quy

đến tố vi phạm trên định về quốc - Đưa tàu bay vào hoạt 30.000000 tàu bay đối với tịch tàu bay động mà dấu hiệu quốc đồng. các hành vi vi tịch hoặc dấu hiệu đăng ký phạm quy định tàu bay được sơn, gắn trên

41

tàu bay không đúng quy

định;

- Đưa tàu bay mang quốc 20.000000 Buộc loại bỏ yếu

tịch Việt Nam vào hoạt đến tố vi phạm trên

động mà dấu hiệu được 30.000000 tàu bay đối với

sơn hoặc gắn lên tàu bay đồng. các hành vi vi

có nội dung hoặc hình phạm quy định

thức giống hoặc gây nhầm

lẫn với tàu bay mang quốc

tịch của quốc gia khác.

đối với hành vi đưa tàu Buộc loại bỏ yếu

bay vào hoạt động mà 30.000000 tố vi phạm trên

không sơn hoặc gắn dấu đến tàu bay đối với

hiệu quốc tịch, dấu hiệu 50.000000 các hành vi vi

đăng ký tàu bay đồng. phạm quy định

đối với hành vi đưa tàu 50.000000 Buộc loại bỏ yếu

bay vào khai thác mà đến tố vi phạm trên

không có Giấy chứng nhận 60.000000 tàu bay đối với

đăng ký quốc tịch, trừ đồng. các hành vi vi

trường hợp thử nghiệm phạm quy định

thực tế tính năng bay của

tàu bay theo quy định của

Bộ Quốc phòng

2 Sử dụng thiết bị vô tuyến 10.000000 Vi phạm quy

điện trên tàu bay không đến định về tiêu

đúng theo Giấy phép đã 20.000000 chuẩn đủ

42

đồng điều kiện bay được cấp;

Lưu trữ không đủ hồ sơ 10.000000

bảo dưỡng, sửa chữa tàu đến

bay theo quy định. 20.000000

đồng.

Sản xuất tại Việt Nam 20.00000 Buộc tái xuất tàu

hoặc nhập khẩu vào Việt đến bay, động cơ,

Nam tàu bay, động cơ, 30.000.00 cánh quạt của

cánh quạt của tàu bay mà đồng. tàu bay đã được

không có hoặc không phù nhập khẩu vào

hợp với Giấy chứng nhận Việt Nam

loại tương ứng do cơ quan

có thẩm quyền cấp hoặc

công nhận;

Sử dụng tàu bay, động cơ,

cánh quạt, phụ tùng tàu

bay không đúng mục đích

Không có hồ sơ bảo 20.000000

dưỡng, sửa chữa tàu bay đến

theo quy định 30.000000

đồng.

Không duy trì, cập nhật

Chương trình bảo dưỡng 20.000000

tàu bay theo quy định. đến

30.000000

đồng.

43

Lắp đặt thiết bị vô tuyến 60.000000

điện trên tàu bay đang khai đến

thác mà không có Giấy 80.000000

phép sử dụng thiết bị vô đồng.

tuyến điện;

Làm sai lệch cấu hình tàu 60.000000 Buộc loại bỏ các

bay đã được phê duyệt; đến yếu tố vi phạm

làm thay đổi cấu hình tàu 80.000000 trên tàu bay

bay mà không được phê đồng.

chuẩn hoặc công nhận;

Không thực hiện các chỉ 60.000000 Buộc loại bỏ các

lệnh đủ điều kiện bay, chỉ đến yếu tố vi phạm

lệnh khai thác do cơ quan 80.000000 trên tàu bay

có thẩm quyền công nhận, đồng.

ban hành;

Không thực hiện công 60.000000 Buộc loại bỏ các

việc bảo dưỡng tàu bay đến yếu tố vi phạm

theo kế hoạch bảo dưỡng 80.000000 trên tàu bay

đã được phê chuẩn; không đồng.

sửa chữa, khắc phục các

hỏng hóc của tàu bay phù

hợp với các tiêu chuẩn, tài

liệu bảo dưỡng tàu bay đã

được phê duyệt;

Không duy trì tiêu chuẩn, 60.000000 Buộc loại bỏ các

điều kiện khác của tàu bay đến yếu tố vi phạm

phù hợp với cấu hình tàu 80.000000

44

bay đã được phê chuẩn. đồng. trên tàu bay

Đưa tàu bay vào khai thác

mà không có Giấy chứng 80.000000

nhận đủ điều kiện bay. đến

100.00000

0 đồng.

3 Không duy trì đủ điều kiện Vi phạm quy

của tổ chức bảo dưỡng tàu 30.000000 định về bảo

bay về tổ chức bộ máy, đến dưỡng, sửa

nhà xưởng, công cụ, dụng 40.000000 chữa tàu bay

cụ, phụ tùng, vật tư đồng.

Không duy trì đủ điều

kiện về trang bị, thiết bị 30.000000

mặt đất phục vụ bảo đến

dưỡng tàu bay theo tài liệu 40.000000

bảo dưỡng tàu bay đã đồng.

được cơ quan nhà nước có

thẩm quyền phê duyệt;

Bảo dưỡng tàu bay, động

cơ, thân tàu bay, cánh 30.000000

quạt, trang bị, thiết bị của đến

tàu bay ngoài phạm vi 40.000000

năng định được phê chuẩn đồng.

Thuê dịch vụ bảo dưỡng, 30.000000

bảo dưỡng dự phòng, cải đến

tiến đối với toàn bộ sản 40.000000

45

phẩm được cấp Giấy đồng

chứng nhận loại trong

phạm vi năng định của tổ

chức bảo dưỡng đã được

cấp giấy phép

Che giấu sai sót trong bảo

dưỡng, sửa chữa tàu bay

Không thực hiện đánh giá

nhà thầu phụ, giám sát 30.000000

công việc bảo dưỡng của đến

nhà thầu phụ 40.000000

đồng

Không có đủ hoặc không

cập nhật đủ, kịp thời tài 30.000000

liệu, dữ liệu bảo dưỡng, đến

sửa chữa tàu bay, động cơ, 40.000000

cánh quạt của tàu bay và đồng

thiết bị tàu bay theo quy

định

Lập hồ sơ bảo dưỡng tàu

bay không đầy đủ theo quy 30.000000

định; đến

40.000000

đồng

Không bảo dưỡng tàu 40.000000 Buộc thực hiện

bay, động cơ, cánh quạt, đến bảo dưỡng và

46

trang bị, thiết bị của tàu 60.000000 lập hồ sơ bảo

bay theo chương trình bảo đồng dưỡng tàu bay

dưỡng đã được phê chuẩn

Bảo dưỡng, thuê bảo 40.000000 Buộc thực hiện

dưỡng tàu bay, động cơ, đến bảo dưỡng và

cánh quạt, trang bị, thiết bị 60.000000 lập hồ sơ bảo

của tàu bay tại cơ sở bảo đồng dưỡng tàu bay

dưỡng không được phê

chuẩn năng định phù hợp

Không kiểm tra, hiệu 30.000000 Buộc thực hiện

chuẩn thiết bị bảo dưỡng, đến bảo dưỡng và

sửa chữa tàu bay theo quy 40.000000 lập hồ sơ bảo

định; đồng dưỡng tàu bay

Kiểm tra, hiệu chuẩn thiết

bị bảo dưỡng, sửa chữa tàu 40.000000

bay tại cơ sở không được đến

phép 60.000000

đồng

Không lập hồ sơ bảo 40.000000

dưỡng tàu bay theo quy đến

định 60.000000

đồng

4 Không tuân theo hướng 1.000.000 Vi phạm quy

dẫn về bảo đảm trật tự, an đến định về khai

ninh, an toàn hàng không, 3.000.000 thác tàu bay

phòng chống dịch bệnh đồng

47

của thành viên tổ bay

Sử dụng trái phép trang bị, 1.000.000

thiết bị an toàn trên tàu đến

bay 3.000.000

đồng

Hút thuốc, kể cả thuốc lá 3.000.000

điện tử trên tàu bay đến

5.000.000

đồng

Sử dụng thiết bị điện tử,

thiết bị thu phát sóng trên

tàu bay khi không được

phép

Làm hư hỏng trang bị, 3.000.000

thiết bị của tàu bay đến

5.000.000

đồng

Thực hiện thông thoại 3.000.000

không đúng tài liệu, quy đến

trình, yêu cầu công việc, 5.000.000

quy trình phối hợp hoạt đồng

động

Mở cửa của tàu bay khi 10.000000

không được phép đến

20.000000

48

đồng

Không bảo đảm đủ giấy 10.000000

tờ, tài liệu mang theo tàu đến

bay 20.000000

đồng

Mua bảo hiểm trách nhiệm 10.000000

dân sự hoặc thực hiện các đến

biện pháp bảo đảm khác 20.000000

đối với quyền lợi của đồng

người thứ ba ở mặt đất

không đến giới hạn trách

nhiệm theo quy định

Không nộp hoặc nộp 10.000000

không đủ hoặc nộp không đến

đúng thời hạn bản cân 20.000000

bằng trọng tải, bản khai đồng

tổng hợp, danh sách hành

khách, bản kê khai hàng

hóa của mỗi chuyến bay

cho Cảng vụ hàng không

theo quy địn

Thực hiện thông thoại 10.000000

không đúng tài liệu, quy đến

trình, yêu cầu công việc, 20.000000

quy trình phối hợp hoạt đồng

động gây uy hiếp an toàn

49

hàng không

Đưa tàu bay vào hoạt động 20.000000

với trang bị, thiết bị của đến

tàu bay không có chứng 30.000000

chỉ phù hợp đồng

Không mua bảo hiểm 20.000000

trách nhiệm dân sự hoặc đến

không thực hiện các biện 30.000000

pháp bảo đảm khác đối với đồng

quyền lợi của người thứ ba

ở mặt đất

Khai thác tàu bay thiếu 20.000000

trang bị, thiết bị an toàn đến

30.000000

đồng

Không mang đủ giấy tờ, 20.000000

tài liệu mang theo tàu bay đến

30.000000

đồng

Không tổ chức kiểm tra 20.000000

bên trong và bên ngoài tàu đến

bay 30.000000

đồng

Không thực hiện việc xác 20.000000

định trọng lượng rỗng của đến

30.000000

50

tàu bay đồng

khai thác tàu bay vì mục 40.000000

đích thương mại mà không đến

được phép. 50.000000

đồng

Không duy trì đủ điều 40.000000

kiện khai thác tàu bay về: đến

Tổ chức bộ máy; phương 60.000000

thức điều hành và giám sát đồng

khai thác tàu bay; trang bị,

thiết bị khai thác tàu bay

theo quy định

Không cập nhật, duy trì hệ 40.000000

thống tài liệu an toàn, đến

hướng dẫn khai thác theo 60.000000

quy định đồng

Hai là, đối với các hành vi vi phạm về cảng hàng không, sân bay, bao

gồm vi phạm về quản lý, khai thác cảng hàng không, sân bay; vi phạm về

cung cấp dịch vụ tại cảng hàng không, sân bay, vi phạm quy định về đi lại,

điều khiển, vận hành phương tiện, thiết bị hoạt động trong cảng hàng không,

sân bay, về phòng, chống thiên tai và khẩn nguy sân bay và về bảo trì công

trình hàng không cũng đều được quy định rõ về từng hành vi vi phạm cụ thể và

mức xử phạt, cũng như biện pháp khắc phục. Các quy định này có trong Điều

9, Điều 10, Điều 11, Điều 12 và Điều 13 của Nghị định 162/2018/NĐ-CP.

51

Ba là, các vi phạm quy định về bảo vệ môi trường trong khai thác tàu

bay và bảo vệ môi trường tại cảng hàng không, sân bay (Điều 14, Điều 15,

Nghị định 162/2018/NĐ-CP của Chính phủ).

Bốn là, pháp luật cũng quy định rõ về hành vi vi phạm và hình thức xử

lý về vấn đề nhân viên hàng không, việc bố trí sử dụng, giám sát nhân viên

hàng không và việc thực hiện theo tài liệu, quy trình yêu cầu công việc, phối

hợp hoạt động, đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ, sử dụng và giám định sức khỏe

cho nhân viên hàng không.

Năm là, đối với hoạt động bay, pháp luật cũng quy định rõ về hình thức

vi phạm và biện pháp xử lý đối với những vi phạm quy định về cung cấp dịch

vụ bảo đảm hoạt động bay và vi phạm quy định về quản lý hoạt động bay.

Sáu là, hoạt động vận chuyển hàng không và hoạt động hàng không

chung được quy định cụ thể về: Vi phạm quy định thành lập doanh nghiệp

vận chuyển hàng không và hoạt động hàng không chung; Vi phạm quy định

về khai thác vận chuyển hàng không và hoạt động hàng không chung; Vi

phạm quy định về hoạt động vận chuyển hàng không và hoạt động hàng

không chung.

Bảy là, quy định về anh ninh hàng không, xử lý vi phạm quy định về

quản lý, sử dụng thẻ và giấy phép kiểm soát an ninh hàng không, áp dụng cả

hình thức phạt cảnh cáo (đối với vi phạm lần đầu) và phạt tiền (từ 500.000

đồng đến 1.000.000 đồng) đối với trường hợp tái phạm hoặc vi phạm hành

chính nhiều lần đối với một trong các hành vi vi phạm sử dụng thẻ kiểm soát

an ninh hàng không mà không đúng phạm vi ghi trên thẻ và không đeo thẻ

kiểm soát an ninh hàng không theo quy định khi làm nhiệm vụ trong khu vực

hạn chế của cảng hàng không, sân bay. Trường hợp sử dụng giấy tờ nhân

thân, vé, thẻ lên tàu bay giả hoặc giấy tờ nhân thân, vé, thẻ lên tàu bay mang

tên người khác vào khu vực cách ly, lên tàu bay hoặc cho người chưa thành

niên vào khu vực cách ly, lên tàu bay hay cho người khác mượn Thẻ kiểm

soát an ninh hàng không, Giấy phép kiểm soát an ninh hàng không, Thẻ giám

52

sát viên an ninh hàng không, an toàn hàng không để vào khu vực hạn chế tại

cảng hàng không, sân bay, lên tàu bay sẽ bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến

5.000.000 đồng và áp dụng hình thức phạt bổ sung là tịch thu thẻ, với tính

chất là tang vật được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm.

Đối với các hành vi vi phạm quy định về an ninh hàng không tại cảng

hàng không, sân bay, trên chuyến bay, tại nơi có công trình, trang bị, thiết bị

hàng không, thì tùy theo tính chất, mức độ hành vi vi phạm mà áp dụng các

hình thức xử lý khác nhau. Chẳng hạn, Điều 26 quy định như sau:

1. Phạt tiền từ 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng) đến 500.000 đồng

(năm trăm nghìn đồng) đối với hành vi mang rượu, chất lỏng có cồn và chất

lỏng khác vào khu vực cách ly, lên tàu bay không đúng quy định.

2. Phạt tiền từ 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) đến 1.000.000

đồng (một triệu đồng) đối với hành vi không tuân theo sự chỉ dẫn của lực

lượng kiểm soát an ninh hàng không, nhân viên hàng không tại cảng hàng

không, sân bay.

3. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng (một triệu đồng) đến 3.000.000 đồng (ba

triệu đồng) đối với hành vi đe dọa, lăng mạ nhân viên hàng không, hành

khách hoặc người khác tại cảng hàng không, sân bay và nơi có công trình,

trang bị, thiết bị hàng không dân dụng.

4. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng (ba triệu đồng) đến 5.000.000 đồng (năm

triệu đồng) đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:

a) Gây rối, kích động, lôi kéo người khác gây rối làm mất an ninh, trật

tự tại cảng hàng không, sân bay và nơi có công trình, trang bị, thiết bị hàng

không dân dụng mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;

b) Vào khu vực hạn chế, lên tàu bay mà không đúng cổng, cửa quy

định; không qua kiểm tra, soi chiếu an ninh hàng không;

c) Không khóa chốt cửa buồng lái tàu bay theo quy định trong thời gian

tàu bay đang bay;

d) Vi phạm trật tự, kỷ luật trong tàu bay;

53

đ) Tung tin hoặc cung cấp thông tin sai về việc có súng, đạn, bom, mìn,

vật liệu nổ, chất nổ, chất phóng xạ, vũ khí sinh, hóa học mà chưa gây ảnh

hưởng đến hoạt động bình thường của hoạt động hàng không dân dụng và

chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;

e) Để người, hành lý, hàng hóa, bưu gửi và các đồ vật khác chưa qua

kiểm tra an ninh hàng không vào khu vực hạn chế tại cảng hàng không, sân

bay, lên tàu bay;

g) Để người, phương tiện vào khu vực hạn chế tại cảng hàng không,

sân bay không đúng quy định;

h) Có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh

dự, nhân phẩm của nhân viên hàng không, hành khách hoặc người khác tại

cảng hàng không, sân bay;

i) Đe dọa, lăng mạ nhân viên hàng không, hành khách trên tàu bay;

k) Thuê, lôi kéo hoặc xúi giục người khác đánh nhau hoặc đánh nhau

tại cảng hàng không, sân bay mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình

sự.

5. Phạt tiền từ 7.000.000 đồng (bảy triệu đồng) đến 10.000.000 đồng

(mười triệu đồng) đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:

a) Xâm nhập trái phép vào khu vực hạn chế của cảng hàng không, sân

bay và khu vực hạn chế của nơi có công trình, trang bị, thiết bị hàng không

dân dụng;

b) Hành hung nhân viên hàng không, hành khách, người khác tại cảng

hàng không, sân bay, nơi có công trình, trang bị, thiết bị hàng không dân dụng

mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;

c) Để người, đồ vật vào buồng lái tàu bay không đúng quy định;

d) Gây rối, kích động, lôi kéo người khác gây rối làm mất an ninh, trật

tự trên tàu bay mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;

54

đ) Trộm cắp, công nhiên chiếm đoạt, chiếm giữ trái phép đồ vật, thiết

bị hoặc tài sản trong cảng hàng không, sân bay, trên tàu bay mà chưa đến mức

bị truy cứu trách nhiệm hình sự;

e) Đưa vật phẩm, chất nguy hiểm vào khu vực hạn chế tại cảng hàng

không, sân bay trái quy định mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;

g) Không thực hiện đúng quy định về đăng ký, tiếp nhận vũ khí, công

cụ hỗ trợ, vật phẩm nguy hiểm được phép đưa vào khu vực hạn chế, lên tàu

bay;

h) Không cung cấp hoặc cung cấp không đúng hoặc không đầy đủ

thông tin trước chuyến bay (API) theo quy định;

i) Đánh bạc hoặc để người khác lợi dụng trụ sở hoặc trên phương tiện

trong khu vực cảng hàng không, sân bay hoặc trên tàu bay để đánh bạc mà

chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;

k) Không tổ chức kiểm tra an ninh tàu bay trước chuyến bay theo

quy định;

l) Thuê, lôi kéo hoặc xúi giục người khác đánh nhau hoặc đánh nhau

trên tàu bay mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;

m) Giao vũ khí, công cụ hỗ trợ cho người không có đủ điều kiện, tiêu

chuẩn sử dụng tại cảng hàng không, sân bay, trên tàu bay;

n) Có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh

dự, nhân phẩm của nhân viên hàng không, hành khách trên tàu bay mà chưa

đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

6. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) đến 15.000.000 đồng

(mười lăm triệu đồng) đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:

a) Xâm nhập trái phép vào tàu bay;

b) Hành hung thành viên tổ bay, hành khách, người khác trên tàu bay

mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;

c) Đưa công cụ hỗ trợ, chất dễ cháy, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao,

súng săn và các loại vũ khí, đồ vật khác có hình dạng, tính năng, tác dụng

55

tương tự vào khu vực hạn chế tại cảng hàng không, sân bay, lên tàu bay trái

quy định mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;

d) Phát ngôn đe dọa an toàn hàng không mà chưa đến mức bị truy cứu

trách nhiệm hình sự;

đ) Đưa vật phẩm nguy hiểm lên tàu bay mà chưa đến mức bị truy cứu

trách nhiệm hình sự.

7. Phạt tiền từ 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng) đến 20.000.000

đồng (hai mươi triệu đồng) đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:

a) Tung tin hoặc cung cấp thông tin sai về việc có súng, đạn, bom, mìn,

vật liệu nổ, chất nổ, chất phóng xạ, vũ khí sinh, hóa học gây ảnh hưởng đến

hoạt động bình thường của hoạt động hàng không dân dụng mà chưa đến mức

bị truy cứu trách nhiệm hình sự;

b) Cung cấp các thông tin sai có thể gây uy hiếp an toàn của tàu bay

trên mặt đất; an toàn của hành khách, tổ bay, nhân viên mặt đất hoặc người tại

cảng hàng không, sân bay và công trình, trang bị, thiết bị hàng không dân

dụng mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;

c) Đưa chất nổ, vật liệu nổ, vũ khí quân dụng, chất cháy vào khu vực

hạn chế tại cảng hàng không, sân bay trái quy định mà chưa đến mức bị truy

cứu trách nhiệm hình sự.

8. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) đến 30.000.000

đồng (ba mươi triệu đồng) đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:

a) Tung tin hoặc cung cấp thông tin sai về việc có súng, đạn, bom, mìn, vật

liệu nổ, chất nổ, chất phóng xạ, vũ khí sinh, hóa học hoặc các thông tin khác

có thể gây uy hiếp an toàn của tàu bay đang bay, người trên tàu bay đang bay;

b) Đưa chất nổ, vật liệu nổ, vũ khí quân dụng, chất cháy lên tàu bay trái quy

định mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

9. Hình thức xử phạt bổ sung:

56

a) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề 01 tháng đối

với nhân viên hàng không vi phạm quy định tại điểm a khoản 4, các điểm b,

d, đ, i, l khoản 5 và điểm b khoản 6 Điều này;

b) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính

đối với vi phạm quy định tại điểm i khoản 5 Điều này.

10. Biện pháp khắc phục hậu quả:

a) Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi

trường, lây lan dịch bệnh đối với hành vi vi phạm quy định tại điểm e khoản 5

Điều này;

b) Buộc trả lại đồ vật, thiết bị hoặc tài sản đã trộm cắp, công nhiên

chiếm đoạt, chiếm giữ trái phép đối với hành vi vi phạm quy định tại điểm đ

khoản 5 Điều này.

Ngoài ra, pháp luật cũng quy định rõ những vi phạm quy định về tổ

chức bảo đảm an ninh hàng không như trường hợp: (i) Không có đủ tài liệu

tại điểm kiểm tra an ninh hàng không; (ii) Không thực hiện kiểm tra trực quan

ngẫu nhiên sau kiểm tra an ninh đối với hành khách, hành lý xách tay, người

ra vào làm việc tại khu vực hạn chế của cảng hàng không, sân bay theo quy

định; (iii) Không lưu trữ hồ sơ, lý lịch, sổ kiểm tra, bảo dưỡng, sửa chữa thiết

bị, phương tiện an ninh hàng không theo quy định,...

Tám là, đối với vấn đề phòng chống cháy nổ tại cảng hàng không, sân

bay và cơ sở cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay,, pháp luật quy định rõ

về biện pháp xử lý đối với: (i)Vi phạm quy định về phòng, chống cháy nổ tại

cảng hàng không, sân bay và cơ sở cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay;

hành vi hút thuốc, kể cả thuốc lá điện tử hoặc sử dụng diêm, bật lửa, vật gây

cháy không đúng nơi quy định trong cảng hàng không, sân bay, tại cơ sở cung

cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay; Làm mất tác dụng hoặc để nội quy, tiêu

lệnh, biển báo, biển cấm, biển chỉ dẫn về phòng cháy và chữa cháy trong cảng

hàng không, sân bay, tại cơ sở cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay cũ

mờ, không nhìn rõ chữ, ký hiệu chỉ dẫn; Đun nấu, đốt lửa trong cảng hàng

57

không, sân bay và cơ sở cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay mà không

được phép hoặc không đúng quy định,...

Chín là, Về quản lý an toàn hàng không, quy định rõ những vi phạm về

hệ thống quản lý an toàn hàng không (SMS) và bảo đảm chất lượng; Vi phạm

quy định về điều tra sự cố, tai nạn hàng không

Pháp luật cũng quy định rõ về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

của các cấp, các ngành (Thanh tra Cục Hàng không Việt Nam; Thanh tra

chuyên ngành của Bộ Giao thông; Cảng vụ hàng không và Chủ tịch UBND

các cấp; Lực lượng Công an nhân dân và lực lượng thanh tra chuyên ngành

khác), việc phân định thẩm quyền xử phạt VPHC trong lĩnh vực HKDD (Điều

36, Nghị định 162/2018/NĐ-CP)

Pháp luật cũng quy định rõ về người có quyền lập biên bản vi phạm

hành chính trong lĩnh vực HKDD (Công chức thuộc Thanh tra Bộ Giao thông

vận tải, Thanh tra Cục Hàng không Việt Nam khi thực hiện nhiệm vụ thanh

tra, kiểm tra và xử lý vi phạm; Công chức, viên chức thuộc các Cảng vụ hàng

không đang thi hành công vụ, nhiệm vụ theo văn bản quy phạm pháp luật

hoặc văn bản hành chính do cơ quan, người có thẩm quyền ban hành; Người

chỉ huy tàu bay, thành viên tổ bay được người chỉ huy tàu bay giao lập biên

bản VPHC đối với hành vi VPHC xảy ra trên tàu bay khi tàu bay đang bay) và

trách nhiệm tổ chức lập biên bản VPHC đối với hành vi VPHC xảy ra trên tàu

bay đang bay của người chỉ huy tàu bay trên tàu bay mang quốc tịch Việt

Nam hoặc việc chuyển vụ việc cho Cảng vụ hàng không tại cảng hàng không,

sân bay của Việt Nam nơi tàu bay hạ cánh để lập biên bản VPHC.

2.2. Tình hình xử lývi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không

dân dụng

2.2.1.Về hình thức xử phạt và mức xử phạt

Hệ thống chế tài xử lý vi phạm hành chính được quy định tại Chương II

Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung

một số điều của Pháp lệnh Xử lý VPHC năm 2008, đây được coi như là “pháp

58

lệnh khung” quy định những vấn đề có tính chất nguyên tắc và cơ bản nhất.

Trên cơ sở pháp lệnh khung này, trong lĩnh vực HKDD, ngoài việc cụ thể hoá

các hành vi vi phạm, tương ứng với mỗi hành vi là một mức xử phạt, các hình

thức xử phạt bổ sung và các biện pháp khắc phục hậu quả được quy định

trong Luật HKDD và Nghị định số 162/2018/NĐ-CP ngày 30/10/2018.

Cũng tương tự các lĩnh vực khác, về hình thức xử lý VPHC trong lĩnh

vực HKDD bao gồm hai hình thức chính, đó là cảnh cáo và phạt tiền, hình

thức xử phạt bổ sung, bao gồm: Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng

để vi phạm pháp luật HKDD. So với quy định tại Nghị định số 147/2013/NĐ-

CP thì mức xử phạt có cao hơn tuy nhiên thẩm quyền và thủ tục xử lý vẫn

không thay đổi.

Theo Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, năm 2014 và năm 2018,

hình thức cảnh cáo được áp dụng không chỉ đối với cá nhân, tổ chức VPHC

nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ mà còn áp dụng đối với mọi VPHC do

người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện.

Theo Điều 4 Nghị định 162/2018/NĐ-CP quy định về mức xử phạt

VPHC trong lĩnh vực HKDD như sau:

“1. Đối với mỗi hành vi VPHC trong lĩnh vực HKDD, cá nhân, tổ chức

phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính sau đây:

a) Cảnh cáo;

b) Phạt tiền.

2. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức có hành vi vi

phạm còn có thể bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung sau đây:

a) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc

đình chỉ hoạt động có thời hạn;

b) Tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi

phạm hành chính.

59

3. Ngoài hình thức xử phạt chính, xử phạt bổ sung, cá nhân, tổ chức vi

phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục

hậu quả sau đây:

a) Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên tàu bay và trên phương tiện, thiết bị;

b) Buộc tái xuất tàu bay, động cơ, cánh quạt của tàu bay đã được nhập

khẩu vào Việt Nam;

c) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu;

d) Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình được xây dựng, lắp đặt

không có Giấy phép hoặc xây dựng không đúng với Giấy phép;

đ) Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường,

lây lan dịch bệnh;

e) Buộc trả lại đồ vật, thiết bị hoặc tài sản đã trộm cắp, công nhiên chiếm

đoạt, chiếm giữ trái phép;

g) Buộc trả lại đất đã lấn, chiếm hoặc buộc trả lại phần mặt bằng;

h) Buộc thực hiện bảo trì công trình;

i) Buộc tổ chức kiểm tra lại, thi lại;

k) Buộc hủy bỏ kết quả kiểm tra, thi;

l) Buộc thu hồi chứng chỉ hành nghề đã cấp;

m) Buộc hủy bỏ kết quả khám, giám định sức khỏe;

n) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được;

o) Buộc thực hiện bảo dưỡng và lập hồ sơ bảo dưỡng tàu bay.”

Nhìn chung, những quy định về xử lý VPHC lĩnh vực HKDD tương đối

rõ ràng, về cơ bản phù hợp với quy định của Luật xử phạt VPHC và thực tiễn

thi hành. Tuy nhiên, những quy định về xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD vẫn

còn có những bất cập như đã phân tích ở trên cần tiếp tục hoàn thiện, bổ xung.

Liệt kê các quy định của Nghị định162/2018/NĐ-CP cho thấy hình thức

phạt cảnh cáo được áp dụng đối với đa số hành vi VPHC trong lĩnh vực

HKDD Tuy nhiên, trên thực tế hầu như rất ít trường hợp vi phạm bị xử phạt

cảnh cáo.

60

Đối với hình thức phạt tiền: Điều 23 Luật xử lý vi phạm hành chính năm

2012 cũng như các Luật xử lý vi phạm hành chính sau này và các Nghị định

hướng dẫn thi hành Luật HKDD, Nghị định XLVPHC quy định mức phạt tiền

đối với các hành vi VPHC từ tối thiểu (50.000đồng) đến tối đa (500.000đồng)

trong lĩnh vực: xây dựng; quản lý rừng, lâm sản; đất đai. Tuy vậy, trong lĩnh

vực HKDD mức phạt tối đa 100.000.000đồng đối với hành vi thực hiện

chuyến bay mà không có phép bay do cơ quan có thẩm quyền cấp Khoản 6,

Điều 21, Nghị định 162/2018/NĐ-CP). Đây cũng là mức phạt cao nhất đã

được Nghị định 147/2013/NĐ-CP quy định tại khoản 6, Điều 14:“ Phạt tiền

từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với doanh nghiệp cảng hàng

không đưa cảng hàng không, sân bay vào khai thác mà không có điểm trung

chuyển chất thải rắn hoặc không có hệ thống thu gom, xử lý, thoát nước thải

của cảng hàng không, sân bay theo quy định”.Tuy vậy,Hình thức xử phạt bổ

sung và biện pháp khắc phục hậu quả của Nghị định 162/2018/NĐ-CP đã có

sự thay đổi mang tính khả thi hơn so với quy định tại Nghị định

147/2013/NĐ-CP.Hình thức xử phạt chính được áp dụng một cách độc lập.

Trong khi đó, các hình thức xử phạt bổ sung được áp dụng kèm theo hình

thức phạt chính khi phạt chính tỏ ra chưa có khả năng phòng ngừa VPHC và

theo nguyên tắc chúng phải căn cứ theo tính chất, mức độ và các tình tiết khác

của vi phạm đã được thực hiện. Hơn nữa, chúng chỉ được áp dụng đối với

những VPHC có đặc điểm nhất định chứ không phải đối với mọi loại VPHC

về HKDD.

Đối chiếu với thực tiễn thi hành xử lý VPHC nói chung và xử lý VPHC

trong lĩnh vực HKDD cho thấy các hình thức xử lýnhư hiện nay vẫn chưa đủ

đáp ứng nhu cầu giải quyết triệt để hành vi VPHC. Có thể thấy rõ điều này

qua các nội dung sau đây:

Thứ nhất: Cảnh cáo mang tính chất cưỡng chế Nhà nước nhưng phần

nhiều mang tính nhắc nhở, giáo dục. Còn phạt tiền tác động đến lợi ích vật

chất của người vi phạm, gây cho họ bất lợi về tài sản, nhưng ngay cả phạt tiền

61

ở mức cao đôi lúc cũng không đem lại hiệu quả mong muốn. Đối với cá nhân,

tổ chức thì hình thức xử phạt cảnh cáo, phạt tiền khi phạt xong là hết, nhiều

khi cá nhân, tổ chức không sợ. Do đó, pháp luật xử lý VPHC trong lĩnh vực

HKDD chưa đạt được hiệu quả phòng, chống và ngăn chặn cũng như xử lý

nghiêm minh hành vi vi phạm như mong muốn. Điều này đã được minh

chứng rất rõ nét trên thực tiễn, đó là việc các tổ chức, cá nhân có hành vi vi

phạm, bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền, thậm chí còn bị xử phạt nhiều lần,

nhưng sau đó vẫn tiếp tục tái phạm.

Bên cạnh đó, bản thân hình thức phạt cảnh cáo còn nhiều vấn đề cần bàn.

Theo quy định của Pháp lệnh Xử lý VPHC thì điều kiện áp dụng của hình

thức xử lý này chưa rõ ràng dẫn đến khó vận dụng. VPHC lần đầu có thể hiểu

được nhưng rất khó khăn khi xác định như thế nào là VPHC nhỏ, có tình tiết

giảm nhẹ. Chính việc quy định chưa rõ ràng này dẫn đến việc áp dụng để truy

cứu trách nhiệm hành chính không thống nhất.

Thứ hai: Mức phạt tiền được quy định tại các văn pháp quy phạm pháp

luật về Xử lý VPHC là chưa đầy đủ. Điều luật này chỉ mới quy định về mức

phạt tiền, mức phạt tối đa mà không có quy định cụ thể về điều kiện và đối

tượng áp dụng... Đó thực sự là thiếu sót cần phải khắc phục tạo thuận lợi cho

việc áp dụng pháp luật. Mức phạt tiền đối với các hành vi VPHC trong lĩnh

vực HKDD cũng không nằm ngoài hạn chế này. Ngoài ra, mức phạt tiền đối

với các hành vi VPHC về HKDD còn khá thấp. Mức xử phạt tối đa chỉ dừng

lại ở mức 100 triệu đồng đối với tổ chức như đã nêu trên, điều này có nghĩa

là dù vi phạm bao nhiêu đi chăng nữa thì mức xử phạt cũng chỉ là 100 triệu

đồng. Điều này dẫn tới việc lợi ích của việc vi phạm lớn hơn rất nhiều so với

việc bị xử phạt do vi phạm.

Việc quy định hình thức tiền tối thiểu và tối đa cho từng hành vi vi phạm

là rất cứng nhắc, không hợp lý, nhất là khi điều kiện kinh tế của đất nước thay

đổi hàng ngày, làm cho văn bản không có tính dự báo cao. Nhiều khi, các quy

định về mọi vấn đề của xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD vẫn hợp lý nhưng

62

mức phạt tiền này lại trở thành thấp, làm cho pháp luật lạc hậu so với đòi hỏi

của cuộc sống.

2.2.2.Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

Trên cơ sở Pháp luật Xử lý vi phạm hành chính, thẩm quyền xử lý

VPHC trong lĩnh vực HKDD được quy định tại chương III Nghị định số

162/2018/NĐ-CP ngày 30/11/2018, bao gồm: Thanh tra viên, người được

giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành đang thi hành công vụ có

quyền; Chánh Thanh tra Cục Hàng không Việt Nam, trưởng đoàn thanh tra

chuyên ngành của Cục Hàng không Việt Nam (Điều 31); Trưởng đại diện

Cảng vụ hàng không; Giám đốc Cảng vụ hàng không; Chủ tịch UBND các

cấp; Lực lượng Công an nhân dân có quyền xử phạt đối với các VPHC trong

lĩnh vực HKDD trong các trường hợp sau đây:

a) Hành vi VPHC được phát hiện trong quá trình triển khai thực hiện

phương án khẩn nguy;

b) Các hành vi VPHC trong lĩnh vực HKDD về an ninh, trật tự và an

toàn xã hội tại các khu vực công cộng ở cảng hàng không, sân bay hoặc do

các cơ quan trong ngành HKDD chuyển giao.

Như vậy, không như các ngành khác, chủ thể có thẩm quyền xử lý

VPHC trong lĩnh vực HKDD là khá rộng. Theo tôi điều này có căn nguyên

bởi xuất phát từ đặc thù của ngành HKDD (chẳng hạn trong lĩnh vực bảo

hiểm chỉ có Chủ tịch UBND cấp quận, huyện trở lên và Thanh tra Nhà nước

về lao động mới có thẩm quyền xử lý VPHC). Tuy vậy, trong thực tiễn thi

hànhvai trò của UBND các cấp hay Chủ tịch UBND là rất mờ nhạt, xuất phát từ

lý do chính quyền địa phương chỉ chú trọng đến phát triển kinh tế- xã hội tại địa

phương mà “quên” mình cũng có vai trò là cơ quan Nhà nước thục hiện hoạt

động xử lý VPHC về HKDD và thường cho đó là công việc của ngành HKDD.

Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý về HKDD nhiều lúc, nhiều

nơi chưa thực sự hiệu quả. Trên thực tế xảy ra tình trạng những năm qua cơ

quan HKDD đã phát hiện và phản ánh với cơ quan chức năng rất nhiều đơn vị

63

vi phạm nhưng số vụ xử phạt còn rất ít, thậm chí không xử phạt hoặc có xử

phạt nhưng không giám sát việc thực hiện quyết định xử phạt. Đây cũng là

nguyên nhân tại sao số vụ vi phạm pháp luật HKDD, VPHC trong lĩnh vực

HKDD ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp.

2.2.3. Tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân

dụng và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng từ

năm 2014 đến năm 2019

Theo số liệu của Cục HKVN, vi phạm pháp luật về HKDD từ năm 2014

đến năm 2019 ngày càng gia tăng. Theo đó:

Năm 2014: Các cơ quan QLNN và chủ thể có thẩm quyền đã ban hành

299 quyết định xử lý VPHC đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi VPHC

trong lĩnh vực HKDD, cụ thể:

- Cục trưởng Cục HKVN đã ký 01 quyết định

- Chánh Thanh tra Cục HKVN đã ký 53 quyết định

- Giám đốc các Cảng vụ hàng không:Miền Bắc (HKMB), Miền Trung

(HKMT), Miền Nam (HKMN) đã ký 245 quyết định với Số tiền thu về cho

ngân sách nhà nước: 2.556.300.000 đồng.

Năm 2015:

Năm 2015 các cơ quan quản lý và chủ thể có thẩm quyền đã ban hành

342 quyết định xử lý VPHC đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi VPHC

trong lĩnh vực HKDD, trong đó:

- Chánh Thanh tra Cục HKVN đã ký 29 quyết định

- Giám đốc các Cảng vụ hàng không đã ký 313 quyết định (Cảng vụ

HKMB: 156 quyết định; Cảng vụ HKMT: 37 quyết định và Cảng vụ HKMN:

120 quyết định). Số tiền thu về cho ngân sách nhà nước 2.749.650.000 đồng.

Năm 2016:

Năm 2016 các cơ quan quản lý nhà nước đã ban hành 300 quyết định xử

lý VPHC đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi VPHC trong lĩnh vực

HKDD. Số tiền thu về cho ngân sách nhà nước 2.293.550.000 đồng. Cụ thể:

64

- Chánh Thanh tra Cục HKVN ký 23 quyết định (513.750.000 đồng);

- Giám đốc các Cảng vụ hàng không ký 377 quyết định

Năm 2017:Có 492 quyết định xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD đã

được ban hành vớiSố tiền thu về cho ngân sách nhà nước 3.448.250.000 đồng,

Cụ thể:

- Chánh Thanh tra Cục HKVN đã ký 42 quyết định (509.500.000 đồng);

- Giám đốc các Cảng vụ hàng không đã ký 450 quyết định:

(2.938.750.000 đồng)

Năm 2018:Có 559 quyết định xử lý VPHC đã được ban hành trong lĩnh

vực HKDD vớiSố tiền thu về cho ngân sách nhà nước 3.742.750.000 đồng,

trong đó:

- Chánh Thanh tra Cục HKVN ký 36 quyết định (655.000.000 đồng);

- Giám đốc các Cảng vụ hàng không ký 523 quyết định: (3.087.750.000

đồng).

Năm 2019: các chủ thể có thẩm quyền đã ban hành 595 quyết định xử lý

VPHC đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi VPHC trong lĩnh vực HKDD.

Số tiền thu về cho ngân sách nhà nước3.478.750,000 đồng. Cụ thể:

- Chánh Thanh tra Cục HKVN đã ký 08 quyết định (215.000.000 đồng);

- Giám đốc các Cảng vụ hàng không đã ký 587 quyết

định:(3.263.750.000 đồng).

Qua kết quả thống kê trên cho thấyvới sự phát triển của HKDD Việt

Nam việc ra đời các hãng hàng không trong nước, các hãng này phát triển

mạng đường bay nội địa và quốc tế, phát triển đội bay. Nhiều hãng hàng

không quốc tế bay đến Việt Nam; các cảng hàng không, sân bay được phát

triển, xây mới, mở rộng, lượng khách đi bằng đường hàng không,khách du

lịch tăng mạnh…cũng kéo theocác VPHC trong lĩnh vực HKDD ngày càng

gia tăng và phức tạp. Năm 2014 có 299 quyết định xử lý VPHC đối với các tổ

chức, cá nhân có hành vi VPHC trong lĩnh vực HKDD thì đếnnăm 2019 đã

65

tăng gần hai lần (có 595 quyết định xử lý VPHC đối với các tổ chức, cá nhân

có hành vi VPHC trong lĩnh vực HKDD).

Từ số liệu thống kê năm 2019 dưới đâyvề hành vi vi phạm đã được Nhà

chức trách hàng khôngViệt Nam xử phạt VPHC trong lĩnh vực HKDDtheo

Nghị định số 162/2018/NĐ-CP cho thấy tập trung vào các vi phạm quy định

về nhân viên hàng không và thực hiện công việc theo tài liệu, quy trình, yêu

cầu công việc, quy trình phối hợp hoạt động;Vi phạm quy định về an toàn,

ninh hàng không tại cảng hàng không, sân bay, trên chuyến bay, tại nơi có

công trình, trang bị, thiết bị hàng không; Vi phạm quy định về khai thác tàu

bay; Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thẻ và giấy phép kiểm soát an

ninh hàng không; Vi phạm quy định về đi lại, điều khiển, vận hành phương

tiện, thiết bị hoạt động trong cảng hàng không, sân bay .

66

Hành vi Điều

0

0

0

0

Số hành vi Thanh Tra Hàng Không Cảng Vụ HK Miền Bắc Cảng Vụ HK Miền Trung Cảng Vụ HK Miền Nam

5

0

0

0

0

0

6

0

0

0

0

0

7

1

46

46

35

0

8

0

2

1

2

128

9

0

0

1

3

5

10

0

10

21

6

4

11

0

0

0

0

37

12

0

0

0

0

0

13

0

0

0

0

0

14

0

0

0

0

0

15

38

78

30

64

0

16

9

0

3

1

210

17

2

0

0

0

13

18

Vi phạm quy định về quốc tịch tàu bay Vi phạm quy định về tiêu chuẩn đủ điều kiện bay Vi phạm quy định về bảo dưỡng, sửa chữa tàu bay Vi phạm quy định về khai thác tàu bay Vi phạm quy định về quản lý và khai thác cảng hàng không, sân bay Vi phạm quy định về cung cấp dịch vụ tại cảng hàng không, sân bay Vi phạm quy định về đi lại, điều khiển, vận hành phương tiện, thiết bị hoạt động trong cảng hàng không, sân bay Vi phạm quy định về phòng, chống thiên tai và khẩn nguy sân bay Vi phạm quy định về bảo trì công trình hàng không Vi phạm quy định về bảo vệ môi trường trong khai thác tàu bay Vi phạm quy định về bảo vệ môi trường tại cảng hàng không, sân bay Vi phạm quy định về nhân viên hàng không và thực hiện công việc theo tài liệu, quy trình, yêu cầu công việc, quy trình phối hợp hoạt động Vi phạm quy định về bố trí, sử dụng, giám sát nhân viên hàng không và thực hiện công việc theo tài liệu, quy trình, yêu cầu công việc, quy trình phối hợp hoạt động Vi phạm quy định về đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện chuyên môn, nghiệp vụ cho nhân viên hàng không và đánh giá trình độ

2

67

tiếng Anh

0

0

0

0

19

0

0

0

0

0

20

0

0

0

0

0

21

0

0

0

0

0

22

0

0

0

3

0

23

4

0

1

2

3

24

4

32

12

0

7

25

17

71

45

0

48

26

0

0

1

0

133

27

7

8

2

0

1

28

0

0

0

0

17

29

0

0

0

1

0

30

Vi phạm quy định về giám định sức khỏe cho nhân viên hàng không Vi phạm quy định về cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay Vi phạm quy định về quản lý hoạt động bay Vi phạm quy định về thành lập doanh nghiệp vận chuyển hàng không và hoạt động hàng không chung Vi phạm quy định về khai thác vận chuyển hàng không và hoạt động hàng không chung Vi phạm quy định về hoạt động vận chuyển hàng không và hoạt động hàng không chung Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thẻ và giấy phép kiểm soát an ninh hàng không Vi phạm quy định về an ninh hàng không tại cảng hàng không, sân bay; trên chuyến bay; tại nơi có công trình, trang bị, thiết bị hàng không Vi phạm quy định về tổ chức bảo đảm an ninh hàng không Vi phạm quy định về phòng, chống cháy nổ tại cảng hàng không, sân bay và cơ sở cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay Vi phạm về hệ thống quản lý an toàn hàng không (SMS) và bảo đảm chất lượng Vi phạm quy định về điều tra sự cố, tai nạn hàng không

1

68

2.3. Đánh giá tình hình xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực

hàng không dân dụng

2.3.1. Một số thành công

- Thứ nhất, Hoạt động xử lý vi phạm hành chính đã được thực hiện

đúng thẩm quyền, mặc dù số lượng các vụ vi phạm ngày càng gia tăng, với

tính chất của vụ việc ngày càng phức tạp nhưng cơ bản đã đảm bảo được trật

tự hoạt động của lĩnh vực HKDD.

- Thứ hai, quá trình thực hiện đã hạn chế được những sai sót, đặc biệt là

không hình sự hóa các vi phạm hành chính, tạo tâm lý tích cực. Kịp thời giải

quyết những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật xử lý

VPHC, thúc đẩy hiệu quả cho hoạt động của ngành HKDD.

- Thứ ba, các cơ quan có thẩm quyền đã thực hiện nhiều biện pháp

nghiệp vụ, kiểm soát, phát hiện và xử lý kịp thời hành vi vi phạm, đảm bảo

tính nghiêm minh của pháp luật, đạt được những kết quả tích cực, góp phần

phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi phạm hành chính đối với lĩnh vực

HKDD, giữa gìn trật tự, an ninh, an toàn xã hội và thúc đẩy phát triển.

2.3.2. Những hạn chế, bất cập

Bên cạnh các thành tựu, qua trình triển khai thực hiện xử lý vi phạm

hành chính trong lĩnh vực HKDD còn có những hạn chế nhất định.

- Thứ nhất, hoạt động xử phạt vi phạm hành chínhcòn nhiều vụ việc

chưa tương thích với hành vi vi phạm. Điều đó đi ngược với mục tiêu, phòng

ngừa răn đe vi phạm. Điều này một phần do các quy định pháp luật, một phần

do việc lựa chọn, áp dụng luật chưa chính xác. Thậm chí còn rất nhẹ, có thể

dẫn đến tâm lý chưa coi trọng pháp luật.

- Thứ hai,sự phối hợp của các cơ quan quản lý nhà nước trong xử lý

VPHC trong lĩnh vực HKDD còn lỏng lẻo, tạo ra những khoảng trống, khó

thực hiện.

- Thứ ba,Công tác cưỡng chế, tổ chức cưỡng chế thi hành quyết định

xử phạt hành chính khó thực hiện. Đối tượng vi phạm là người nghèo, không

69

có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, không có tài khoản ngân hàng, tài

sản của các đối tượng vi phạm cũng không có giá trị để kê biên. Bên cạnh đó,

việc xác định nơi tạm trú, nghề nghiệp và thu nhập đối với cá nhân vi phạm

gặp khó khăn, do đối tượng vi phạm trong nhiều trường hợp cư trú ở nhiều địa

phương khác nhau hoặc nơi cư trú không rõ ràng, chính quyền địa phương nơi

đối tượng cư trú cũng không quản lý được. Công tác phối hợp cưỡng chế giữa

các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan còn nhiều hạn chế, chưa có các

chế tài bắt buộc phải thực hiện đối với các cơ quan chức năng có liên quan.

Nhân lực, phương tiện, thiết bị và kinh phí của người quyết định xử phạt còn

hạn chế trong việc tổ chức cưỡng chế.

- Thứ tư, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động xử lý VPHC hạn chế:

Hiện nay viên chức của các cảng vụ hàng không không được phép sử dụng

phương tiện, trang thiết bị phục vụ cho công tác xử phạt VPHC gây khó khăn

nhiều cho công tác xử phạt VPHC tại các cảng hàng không, sân bay. Cảng vụ

hàng không là cơ quan quản lý nhà nước về HKDD tại cảng hàng không, sân

bay chỉ có duy nhất giám đốc cảng vụ là công chức nhà nước, ngoài ra toàn

bộ là viên chức. Lực lượng thực hiện kiểm tra, giám sát các hoạt động hàng

không tại các cảng hàng không, sân bay đều do các viên chức thực hiện, việc

cho phép viên chức thuộc các cảng vụ hàng không sử dụng phương tiện, trang

thiết bị phục vụ cho công tác xử phạt VPHC tại các cảng hàng không, sân bay

là cần thiết và phù hợp.

Luật xử lý vi phạm hành chính, các văn bản quy phạm pháp luật khác

chưa có quy định cơ chế cho phép sử dụng dữ liệu được trích suất từ các thiết

bị chuyên ngành (trừ lĩnh vực quản lý đường bộ và môi trường đã được quy

định tại Nghị định số 46/2016/NĐ-CP, Nghị định số 155/2016/NĐ-CP). Thực

tế, hệ thống thiết bị chuyên ngành hàng không (hộp đen, camera an ninh, tàu

bay, thiết bị chỉ huy điều hành bay...) do các doanh nghiệp chuyên ngành sản

xuất, khai thác đáp ứng tiêu chuẩn của Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế

(ICAO), của Việt Nam ghi nhận dữ liệu cực kỳ chính xác và hoàn toàn đủ tiêu

70

chuẩn và độ tin cậy để sử dụng làm bằng chứng xử phạt VPHC nhưng hiện tại

chưa cho phép.

- Thứ năm, cơ chế xử lý vi phạm hành chính thiếu rõ ràng, chưa phù hợp

Nguyên tắc quy định về hình thức xử phạt, mức xử phạt căn cứ vào ”tính

chất, mức độ xâm hại trật tự quản lý hành chính nhà nước của hành vi vi

phạm” tại khoản 2 Điều 2 Nghị định 81/2013/NĐ-CP và ”hành vi vi phạm

hành chính phải được quy định tại các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực quản lý nhà nước tương ứng, phù hợp với tính chất vi phạm

của hành vi đó. Trường hợp hành vi vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực này

nhưng do tính chất vi phạm đặc thù của hành vi đó, thì có thể quy định và xử

phạt trong nghị định xử phạt vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực khác. Trong

trường hợp này, hình thức, mức xử phạt quy định phải thống nhất với quy

định tại Nghị định xử phạt vi phạm hành chính của lĩnh vực quản lý nhà nước

tương ứng” tại khoản 5 Điều 2 Nghị định 81/2013/NĐ-CP chưa rõ ràng, do đó

gây khó khăn cho việc xây dựng Nghị định xử phạt trong các lĩnh vực quản lý

chuyên ngành và áp dụng trong thực tiễn.

Ví dụ:Tại điểm H khoản 4 Điều 26 xác định hành vi vi phạm: "Có cử chỉ,

lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của

nhân viên hàng không, hành khách hoặc người khác tại cảng hàng không, sân

bay...". Về khía cạnh pháp lý, người có thẩm quyền xử phạt VPHC không thể

căn cứ yếu tố cấu thành VPHC để xác định hành vi vi phạm (chủ thể, khách

thể, chủ quan, khách quan); về mặt ngữ nghĩa không thể hiểu thế nào là trêu

ghẹo, là lời nói thế nào là thô bạo...

Quy định về tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành

nghề theo thủ tục hành chính tại Điều 125 Luật Xử lý VPHC không phù hợp

với thực tiễn hoạt động HKDD vì: Đối tượng bị xử phạt VPHC hiện nay trong

lĩnh vực HKDD chủ yếu là nhân viên hàng không, hành khách đi tàu bay, do

đó những giấy tờ được phép tạm giữ gồmgiấy phép lái xe hoặc giấy phép lưu

hành phương tiện hoặc giấy tờ cần thiết khác có liên quan đến tang vật,

71

phương tiện không có liên quan đến vi phạm của đối tượng VPHC trong lĩnh

vực HKDD. Vì vậy, hiện nay không có loại giấy tờ, tài liệu được tạm giữ để

bảo đảm cho việc xử phạt vi phạm hành chính. Hơn nữa, chứng chỉ chuyên

môn (không phải chứng chỉ hành nghề) trong một số lĩnh vực hoạt động

chuyên ngành là điều kiện cần để nhân viên được phép làm công việc chuyên

môn. Khi có hành vi vi phạm việc đình chỉ hoặc tước quyền sử dụng chứng

chỉ chuyên môn đó mà không giữ chứng chỉ chuyên môn cũng cần được

nghiên cứu để sửa đổi quy định trong Luật xử lý vi phạm hành chính.

Quy định về cách tính thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ

hành nghề tại Điều 25 Luật Xử lý VPHC không phù hợp với thực tiễn hoạt

động HKDD vì: Theo quy định hiện hành, nhân viên hàng không vi phạm sẽ

bị đình chỉ ngay (thời gian đình chỉ khoảng từ 1 đến 2 tháng) để phục vụ điều

tra, xác minh và huấn luyện lại, do đó khi bị xử phạt VPHC sẽ bị tước quyền

sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề từ 1 tháng đến 3 tháng. Điều này dẫn

đến kéo dài thời hạn đưa ra khỏi dây chuyền làm việc và làm thiệt hại lớn về

tài sản (mất thu nhập) của người lao động; đồng thời gây khó khăn cho doanh

nghiệp do thiếu nhân lực.

Thời gian tạm giữ tang vật quy định tại Khoản 3 Điều 60 Luật Xử lý

VPHC quy định: “Thời hạn tạm giữ tang vật để xác định giá trị không quá 24

giờ, kể từ thời điểm ra quyết định tạm giữ, trong trường hợp thật cần thiết thì

thời hạn có thể kéo dài thêm nhưng tối đa không quá 24 giờ”. Như vậy, thời

gian tạm giữ tang vật để xác định giá trị tối đa không quá 48 tiếng là chưa phù

hợp với thực tế vì thời gian tạm giữ là quá ngắn, do phải thành lập Hội đồng

định giá, nhất là những vụ vi phạm mà tang vật là hàng hóa giả, thiết bị đã

qua sử dụng thì thời gian không đủ để định giá theo quy định.

Một số quy định chưa có giải thích chi tiết (như một số thuật ngữ: lăng

mạ, xúc phạm, già yếu; trình độ lạc hậu; VPHC có quy mô lớn, số lượng hoặc

trị giá hàng hóa lớn…), do đó gây khó khăn cho việc thi hành và áp dụng.

- Thứ sáu, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật chưa hiệu quả

72

Việc thực hiện quy định về công bố công khai trên các phương tiện

thông tin đại chúng về xử phạt VPHC trong lĩnh vực quản lý chuyên ngành

nói chung và lĩnh vực HKDD nói riêng, một số hành vi VPHC chưa rõ ràng,

đồng thười người dân ít quan tâm nghiên cứu Luật về HKDD và xử lý VPHC

trong lĩnh vực HKDD. Do đó, nhiều quy định được ban hành nhưng chưa tạo

được sự minh bạch. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật xả phạt

VPHC chưa tốt, dẫn đến, có nhiều VPHC trong lĩnh vực HKDD có tính chất côn

đồ, gây mất an ninh, trật tự, hành hung, ảnh hưởng đến an ninh, an toàn.

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế

Những hạn chế về xử lý vi phạm hành chínhtrong lĩnh vực HKDD có

nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ chủ thể xử lý vi phạm,

nguyên nhân từ đối tượng xử lý và các công cụ, phương tiện xử lý vi phạm.

- Năng lực chuyên môn và đạo đức công vụ của một bộ phận cán bộ,

công chức, thanh tra viên chưa đáp ứng yêu cầu. Điều đó dẫn đến việc xử lý

các hành vi VPHC chưa nghiêm. làm giảm tính răn đe và giáo dục của pháp

luật. Thí dụ gần đây, trường hợp Đại úy công an Lê Thị Hiền (SN 1983, quê

quán Cẩm Thủy, Thanh Hóa), có hành vi gây rối, mạt sát nhân viên sân bay,

chỉ bị phạt VPHC 200.000 đồng là chưa đúng với quy định của pháp luật.

Thực chất, Đại úy Lê Thị Hiền đã có hành vi gây rối trật tự tại sân bay Tân

Sơn Nhất, có những lời lẽ vu cáo, thô bạo với nhân viên sân bay, xúc phạm

danh dự, nhân phẩm của nhân viên hàng không. Hành vi này của bà Hiền có

thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định 162/2018/NĐ-

CP ngày 30/11/2018 của chính phủ: Quy định xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực hàng không dân dụng. Điều 26 này quy định, phạt tiền từ

1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi đe dọa, lăng mạ nhân

viên hàng không, hành khách hoặc người khác tại cảng hàng không, sân bay

và nơi có công trình, trang bị, thiết bịhàng không dân dụng; Phạt tiền từ

3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm

sau đây: Gây rối, kích động, lôi kéo người khác gây rối làm mất an ninh, trật

73

tự tại cảng hàng không, sân bay và nơi có công trình, trang bị, thiết bịhàng

không dân dụng mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự; Có cử chỉ,

lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của

nhân viên hàng không, hành khách hoặc người khác tại cảng hàng không, sân

bay; đe dọa lăng mạ nhân viên hàng không, hành khách trên tàu bay;…Như

vậy, với hành vi của bà Hiền, mức phạt cao nhất có thể lên tới 5 triệu đồng,

thấp nhất cũng là 1 triệu đồng. Tuy nhiên, theo quy định tại Nghị định số

167/2013/NĐ-CP ngày 28/12/2013 của Chính Phủ, Đồn công an Sân bay

quốc tế Tân Sơn Nhất đã phạt bà Hiền 200 nghìn đồng. Ngoài đề xuất của

Cảng vụ cảng hàng không Miền Namđề nghị xem xét cấm bay với trường hợp

của bà Hiền, Luật sư Hải nhìn nhận điều này hoàn toàn đúng với quy định của

pháp luật. Bởi quy định “cấm bay” được thể hiện tại Khoản 1 Điều 18 Nghị

định 92/2015/NĐ-CP ngày 13/10/2015 về an ninh hàng không đã quy định,

cấm vận chuyển bằng đường hàng không có thời hạn từ 3- 12 tháng đối với

các đối tượng hành khách gây rối. Tuy nhiên, cần căn cứ vào tính chất, mức

độ vi phạm, Cục Hàng không Việt Nam quyết định cấm vận chuyển có thời

hạn hoặc vĩnh viễn đối với các đối tượng quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 của

Điều này 18. Quyết định cấm vận chuyển được áp dụng đối với các chuyến

bay nội địa, chuyến bay quốc tế xuất phát từ Việt Nam của tất cả các hãng

hàng không Việt Nam và nước ngoài.

- Quy định pháp luật về xử phạt VPHC trong lĩnh vực HKDD phân tán và

chưa đảm bảo chất lượng, thiếu rõ ràng, thậm chí mâu thuẫn, chồng chéo,

thiếu tính khả thi, cụ thể như sau:

+ Điều 33 Nghị định số 162/2018/NĐ- CP ngày 30/11/2018 quy định

thẩm quyền xử phạt VPHC của Chủ tịch UBND các cấp trong lĩnh vực

HKDD nhưng không quy định chi tiết thẩm quyền của Chủ tịch UBND các

cấp trong trường hợp nào, ranh giới hay địa bàn xảy ra VPHC ở đâu và nếu như

vậy có chồng lấn lên thẩm quyền xử lý VPHC của các chủ thể khác hay không.

74

+ Một số quy định về hành vi VPHC còn mang tính định tính: Chẳng

hạn: điểm c, khoản 1, Điều 16 Nghị định 162/2018/NĐ- CP quy định phạt

tiền từ 500.000đ đến 1.000.000đ đối với người có hành vi vi phạm ”Thực hiện

nhiệm vụ nhân viên hàng không quá thời gian làm việc; nghỉ không đủ thời

gian theo quy định, trừ thành viên tổ lái, kiểm soát viên không lưu và nhân

viên bảo dưỡng, sửa chữa tàu bay và thiết bị của tàu bay”; hoặc tại điểm b,

khoản 1, Điều 18 Nghị định nói trên quy định phạt từ 5.000.000 đ đến

10.000.000đ đối với hành vi “ Đánh giá trình độ tiếng Anh cho nhân viên

hàng không không đúng quy định” trong điều kiện chưa có quy định thế nào

là “Đúng”. Vì vậy, cần phải cụ thể hoá các quy định chung chung, thiếu định

tính, định lượng thành các hành vi cụ thể để dễ dàng nhận diện những vi

phạm này.

+ Ranh giới giữa hành vi VPHC với hành vi phạm tội trong lĩnh vực

HKDD, tránh quy định chung chung: “... tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm

mà bị xử phạt VPHC, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự...” và

dạng quy định này nằm ở nhiều văn bản pháp luật đặc biệt là ở Nghị định và

Thông tư. Tuy nhiên, việc xử lý về hình sự đã không thể thực hiện được vì

không có văn bản nào quy định rõ mức độ vi phạm như thế nào để có thể bị

truy cứu trách nhiệm hình sự. Có thể thấy, Luật HKDD không xác định ranh

giới giữa vi phạm và tội phạm ở những hành vi này và trong Bộ Luật Hình sự

cũng không có tội danh tương ứng nên cũng không thể xác định được ranh

giới này.

+ Các quy định về xử lý vi phạm hành chính phân tán, chồng chéo,việc

áp dụng xử phạt hành chính theo nghị định nào chưa rõ ràng đã tạo ra những

khó khăn cho việc tổ chức thực hiện và phối hợp xử lý. Việc xử phạt theo

Nghị định 167/2013/NĐ-CP áp dụng VPHC khu vực công cộng của Công an

cửa khẩu không sai nhưng những hành vi vi phạm xẩy ra khu vực cảng hàng

không, sân bay ảnh hưởng đến an toàn, an ninh vì các cảng hàng không, sân

75

bay là là công trình trọng điểm quốc gia, do đó việc vi phạm hành chính

thuộc lĩnh vực HKDD nên xử phạt theo Nghị định 162/2018/NĐ- CP

+ Quy định đối tượng áp dụng quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực

HKDD là cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các

quy định của pháp luật về HKDD mà không phải là tội phạm thì có thể bị áp

dụng hình thức xử phạt, mức xử phạt hoặc các hình thức khắc phục hậu quả

theo quy định.

+ Bất cập trong hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành HKDD về

những ưu đãi mà họ có được trong khi đó đối với các loại hình doanh nghiệp

khác không thể có những ưu đãi này. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài

có hành vi cố ý hoặc vô ý VPHC về pháp luật HKDD trong phạm vi nước

CHXHCN Việt Nam cũng bị xử phạt hành chính theo quy định tại Nghị định

162/2018/NĐ- CP, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành

viên có quy định khác.

+ Đối với những hành vi VPHC về lĩnh vực HKDD của cán bộ, công

chức trong khi thi hành nhiệm vụ mà không phải là tội phạm thì bị xử lý kỷ

luật theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức.

+ Quy định mức xử phạt cụ thể đối với từng hành vi VPHC trong lĩnh

vực HKDD chưa tương xứng.

Vi phạm hành chínhtrong lĩnh vực Hàng không dân dụng trong thực tiễn

rất đa dạng về hành vi, tính chất cũng như mức độ vi phạm. Trong khi đó, quy

định về hình thức xử phạt, mức xử phạtcũng như các biện pháp khắc phục hậu

quả khá nghèo nàn và cứng nhắc. Việc quy định cụ thể mức xử phạt đối với

từng hành vi vi phạm chưa tương xứng với mức độ vi phạm dẫn đến những

khó khăn bất cập trong thực tiễn áp dụng và làm cho các chế tài thiếu tính răn

đe, phòng ngừa, gây nên những hành vi tái phạm và tái phạm nhiều lần. Để

khắc phục tình trạng này có thể xây dựng mức xử phạt theo tỷ lệ phần trăm

(%) trên tổng số tiềnHKDD do vi phạm mà có.

76

- Về đối tượng xử lý: Đối tượng xử lý vi phạm nhiều người cư trú không ổn

định, thậm chí không có tài sản để thực hiện nghĩa vụ theo quyết định xử lý vi

phạm mà chưa có phương án thay thế để tăng tính phòng ngừa của pháp luật.

- Cơ sở vật chất chưa được đầu tư phù hợp trong điều kiện vi phạm gia

tăng với tính chất ngày càng phức tạp.

Từ những phân tích trên, có thể thấy VPHC lĩnh vực HKDD rất đa dạng,

đến một mức độ nhất định, những hành vi vi phạm này sẽ tạo nên những tác

động tiêu cực tới hệ thống HKDD trừ khi chúng ta có cơ chế phòng ngừa hiệu

quả. Và nếu các rào cản vi phạm được thiết lập chặt chẽ và các hành vi vi

phạm được xử lý kịp thời, thì sẽ hạn chế được rất nhiều những hiện tượng tiêu

cực này.

77

TIỂU KẾT CHƯƠNG II

Trên cơ sởnghiên cứu những vấn đề lý luận về xử lý vi phạm hành chính

trong lĩnh vực hàng không dân dụng của chương I, chương II luận văntập

trung nghiên cứu thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng

không dân dụngtại Việt Nam giai đoạn 2014 - 2019.

Trong phần nội dung, chương II đã nghiên cứu vềthực trạng pháp luật xử

phạt vi phậm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng, thực trạng vi

phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD và xử lý vi phạm hành chínhtrong

lĩnh vực HKDD. Trên cơ sở đó, đánh giá thực trạng xử lý vi phạm hành chính

trong lĩnh vực HKDD ở Việt Nam những năm gần đây và chỉ ra những thành

công,vấn đềcòn hạn chế, bất cập,nguyên nhân của những hạn chế, bất cập về

xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD ở Việt Nam.

Phân tích thực trạng pháp luật, thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh

vực hàng không dân dụng và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng

không dân dụng tại chương II, luận văn đã chỉ ranhững lý do cản trở quá trình

xử lý hiệu quả đối với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng

không dân dụngViệt Nam. Đây là những căn cứ quan trọng, cùng với những

định hướng về chính sách, luận văn sẽ đưa ra những và giải pháp bảo đảm xử

lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD ở Việt Nam trong chương III.

78

CHƯƠNG III

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁPBẢO ĐẢM

XỬ LÝ VI PHẠMHÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG Ở VIỆT NAM

3.1. Phương hướng xử lý vi trong lĩnh vực hàng không dân dụng ở

Việt Nam

Trong Quy hoạch phát triển giao thông vận tải hàng không giai đoạn đến

năm 2020, định hướng đến năm 2030 vừa được Chính phủ phê duyệt điều

chỉnh thì mục tiêu chính đến năm 2030, thị trường vận tải hàng không Việt

Nam đứng trong nhóm bốn quốc gia hàng đầu ASEAN về sản lượng vận

chuyển. Sau chín năm triển khai, vị trí, vai trò của ngành hàng không được

củng cố và phát triển. Điều này đóng góp quan trọng cho sự phát kinh tế-xã

hội, quốc phòng an ninh của đất nước.

Quy hoạch mới tập trung giải quyết những vấn đề cần bổ sung, điều

chỉnh về quan điểm, chỉ tiêu phát triển; mạng đường bay; đội tàu bay; mạng

cảng hàng không; quản lý, bảo đảm hoạt động bay; doanh nghiệp hàng không;

nguồn nhân lực và cơ sở đào tạo; công nghiệp hàng không; bảo vệ môi

trường. Quy hoạch mới sẽ tạo nên khung pháp lý cao hơn và có ảnh hưởng

tích cực, tạo động lực thúc đẩy quá trình đổi mới, hội nhập toàn diện, phát

triển bền vững. Đồng thời, nâng cao năng lực cạnh tranh và tạo dựng hình ảnh

của ngành hàng không Việt Nam trên trường quốc tế. Qua đó, mang lại hiệu

quả phát triển chính trị-kinh tế-xã hội, góp phần đảm bảo quốc phòng an ninh

của đất nước, đáp ứng yêu cầu đặt ra trong giai đoạn phát triển mới.Ngoài ra,

điều chỉnh một số chỉ tiêu phát triển của các lĩnh vực vận tải hàng không,

cảng hàng không và quản lý bảo đảm hoạt động bay; bổ sung một số mục tiêu

để phù hợp với định hướng phát triển.

Quy hoạch mới cũng điều chỉnh về số lượng cảng hàng không và thời

gian đưa vào khai thác hợp lý hơn để nâng cao hiệu lực, hiệu quả khai thác;

cải thiện giao thông kết nối liên vùng và quốc tế, quốc nội; hỗ trợ phát triển

79

các địa phương có tiềm năng phát triển du lịch. Cụ thể, đến năm 2020 từ 26

cảng hàng không (theo quy hoạch cũ) còn 23 cảng hàng không (theo quy

hoạch điều chỉnh); trong đó, duy trì số lượng 10 cảng hàng không quốc tế.

Đến năm 2030 từ 26 cảng hàng không (theo quy hoạch cũ) tăng lên 28 cảng

hàng không (theo quy hoạch mới); trong đó, số lượng cảng hàng không quốc

tế tăng từ 10 lên 13. Bổ sung các cảng hàng không (Phan Thiết, Quảng Trị,

Thọ Xuân, Lai Châu) vào quy hoạch mạng để đáp ứng nhu cầu vận chuyển

hàng không tới các địa phương có cảng hàng không được dự báo sẽ tăng

mạnh; thúc đẩy phát triển kinh tế gắn với tăng cường tiềm lực quân sự quốc

phòng, tăng cường hiệu quả công tác khẩn nguy, cứu nạn, đường bay nội

vùng liên vùng trong hệ thống mạng cảng

Việc điều chỉnh quy hoạch đội tàu bay dựa trên cơ sở kế hoạch phát

triển đội tàu bay của các hãng hàng không Việt Nam, mạng đường bay, định

hướng tần suất khai thác, mục tiêu tăng trưởng thị trường, nhu cầu khai thác

thị trường và đảm bảo khả năng đáp ứng của kết cấu hạ tầng hàng không; kế

hoạch phát triển và năng lực thông qua các cảng hàng không; tiêu chuẩn, năng

lực và kế hoạch đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cảng hàng không

Thời gian qua, ngành hàng không phát triển với tốc độ tăng trưởng cao.

Chỉ tính riêng giai đoạn 2010-2017, thị trường vận tải hàng không Việt Nam

đạt 16,64%/năm về hành khách, 14%/năm về hàng hoá. Tổng sản lượng thông

qua các cảng hàng không đạt 16,91%/năm về hành khách, 13%/năm về hàng

hóa. Sản lượng vận chuyển của các hãng hàng không Việt Nam đạt

17,3%/năm về hành khách, 8%/năm về hàng hóa. Sản lượng điều hành bay

đạt 12%/năm.

Với kế hoạch và mục tiêu phát triển của ngành HKDD Việt Nam, dự

báo trong thời gian tới ngành HKDD Việt Nam sẽ có nhiều phát triển, đi kèm

với những thách thức không chỉ về hạ tầng mà còn về số lượng khách hàng,

tính chất, mức độ tham gia quan hệ HKDD và VPHC.Lượng hành khách đi lại

bằng đường hàng không ngày càng tăng, đa dạng nhiều thành phần, đặc biệt

80

là tốc độ phát triển nhanh của các hãng hàng không giá rẻ, đa số đối tượng

hành khách ít đi tàu bay, trình độ nhận thức, ý thức chấp hành các quy định

của pháp luật về HKDD còn hạn chế; hàng nghìn phương tiện, trang thiết bị

mặt đất, đội ngũ lao động lớn làm việc 24/24h.

Thực tế cho thấy cùng với sự phát triển của HKDD Việt Nam, số lượng

các VPHC cũng ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp, các Cảng hàng

không, sân bay là môi trường rất dễ phát sinh các hành vi VPHC. Các loại

hành vi vi phạm phổ biến: hành hung nhân viên hàng không, hành khách,

người khác tại cảng hàng không sân bay; trộm cắp trong cảng hàng không,

sân bay, trên tàu bay…

Bên cạnh đó, việc xử lý vi phạm hành chính gặp nhiều khó khăn, làm

giảm hiệu quả hoạt động của ngành, nhất là trong điều kiện hội nhập ngày

càng sâu rộng. Do đó, các chính sách, pháp luật của Việt Nam cũng cần tính

đến giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực

HKDD, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành HKDD Việt Nam

Chất lượng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD được hiểu là

việc xử lý được kịp thời, thông suốt và bảo đảm được trật tự an ninh, an toàn

hàng không ....như vậy sẽ phụ thuộc vào nguồn lực, năng lực của chủ thể có

thẩm quyền xử lý để đảm bảo cho pháp luật được triển khai tốt, phát huy hiệu

lực, hiệu quả. Bên cạnh đó, cũng đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật xử lý

VPHC đồng bộ, có chất lượng, nâng cao dân trí, bảo đảm sự tôn trong luật lệ,

ứng xử văn minh nơi công cộng và đầu tư phù h ợp về cơ sở vật chất, phương

tiện hỗ trợ xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD. Nhà nước chủ trương hội

nhập, phát triển, nhất là hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân, ngành HKDD có sự

tham gia của các tập đoàn tư nhân, các hãng hàng không đang phát triển

mạnh. Theo đó ngành kinh tế vận tải hàng không mở thêm nhiều tuyến bay,

đến với nhiều quốc gia, nhiều thị trường trên thế giới...đó là lý do tất yếu sự

gia tăng các hành vi vi phạm pháp luật khi tham gia quan hệ HKDD của các

chủ thể. Các vấn đề về quốc tịch máy bay, môi trường, an ninh hàng khôngđặt

81

ra nhiều thách thức đòi hỏi phải nâng cao chất lượng xử lý VPHC để đáp ứng

yêu cầu phát triển của HKDD trong tình hình mới.

Trước yêu cầu đó, để bảo đảm chất lượng xử lý VPHC trong lĩnh vực

HKDD trong thời gian tới, Theo tác giả cần phải theo những định hướng sau:

Thứ nhất, phòng ngừa vi phạm luôn đòi hỏi phải có sự hỗ trợ đắc lực của

luật pháp và chỉ có trên cơ sở quy định của luật pháp mới có thể xác định

đúng đắn được hành vi ứng xử của mình. Luật HKDD được thông qua từ

ngày 29/6/200-6, nhưng phải một năm sau chúng ta mới có Nghị

định 91/2007/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực

HKDD. Tuy nhiên, văn bản này vừa ra đời đã bộc lộ những hạn chế nhất

định, nếu như không muốn nói rằng văn bản vừa ra đời đã lạc hậu, thiếu tính

kịp thời, đồng bộ gây lúng túng trong xử lý các VPHC trong lĩnh vực HKDD

vốn đã tiềm ẩn nhiều nguy cơ vi phạm. Sau khi có Nghị định số

162/2018/NĐ-CPngày 30/10/2018 Quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực

HKDD, chưa bao quát điều chỉnh đầy đủ hành vi, hành vi điều chỉnh chưa sát

với thực tiễn. Việc xác định hành vi VPHC thường không chú trọng yếu tố

căn cứ cấu thành hành vi VPHC nên việc xác định hành vi VPHC trong lĩnh

vực HKDD dễ mang tính cảm tính và bất đồng quan điểm giữa các lực lượng

chức năng tham gia công tác xử phạt VPHC trong lĩnh vực HKDD

Thứ hai:Phải tiếp tục nghiên cứu bổ sung thêm quy định về mức phạt

cho phù hợp với yêu cầu phát triển cũng như yêu cầu về an ninh, an toàn hàng

không.

Hiện nay mức xử phạt đối với các hành vi VPHC theo quy định hiện hành còn

thấp so với yêu cầu phòng ngừa và sự phát triển kinh tế, xã hội, các biện pháp

xử phạt bổ sung và các biện pháp khắc phục hậu quả trong nhiều trường hợp

không thực hiện được. Theo quy định mức xử phạt đối với hành vi VPHC về

HKDD hiện nay cao nhất là 100 triệu đồng thì đối với những doanh nghiệp thì

số tiền phạt đó không đáng là bao, doanh nghiệp thà chịu xử phạt còn hơn là

82

ngừng hoạt động và như vậy họ sẽ chọn phương pháp vẫn tiếp tục vi phạm để

duy trì hoạt động.

Thứ ba, cải cách thủ tục xử phạt vi phạm hành chính sao cho đơn giản,

rõ ràng, hiệu quả, tạo thuận lợi cho người dân nhưng không làm bó tay các cơ

quan có thẩm quyền xử phạt VPHC; bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp

của người lao động, cơ quan, đơn vị, tổ chức. Xác lập cơ chế giám sát, kiểm

tra chặt chẽ nhằm ngăn chặn kịp thời và phòng ngừa các vi phạm từ phía các

cơ quan nhà nước, công chức nhà nước thi hành công vụ về xử phạt VPHC

trong lĩnh vực HKDD.

Hoạt động thanh tra về HKDD thường được tổ chức theo đợt (định kỳ)

và chỉ là một nội dung trong thanh tra, kiểm tra (cùng với các nội dung khác

như: an toàn lao động, chế độ tiền lương...) nên hầu hết các doanh nghiệp,

đơn vị vi phạm thường chuẩn bị kế hoạch đối phó, nội dung thanh tra về

HKDD không được bao quát và đầy đủ. Do vậy, kết quả thanh tra và xử lý vi

phạm thường phản ánh không hết tình hình vi phạm pháp luật HKDD trên

thực tế.

Thứ tư, phối hợp chặt chẽ công tác giải quyết các VPHC giữa các cơ

quan Trung ương và địa phương, giữa các cơ quan quản lý nhà nước và Thanh

tra chuyên ngành về HKDD. Thẩm quyền xử phạt VPHC đã quá rõ ràng tuy

nhiên đại đa số các quyết định xử phạt đều do thanh tra lao động, nhưng lực

lượng này quá ít ỏi. Do vậy, các cuộc thanh tra về lĩnh vực HKDD còn rất hạn

chế, việc theo dõi, đôn đốc thực hiện quyết định xử phạt hầu như “bỏ ngỏ”.

Các kiến nghị của cơ quan HKDD sau kiểm tra thường chậm được thực hiện

do phải chờ ý kiến của các ngành chức, nhiều khi chờ đợi quá lâu, không có ý

kiến phản hồi làm cho việc giải quyết các vi phạm chậm theo, thậm chí ách

tắc làm tăng mức độ phức tạp của vụ việc.

Thứ năm, quy định cơ chế truy cứu trách nhiệm cá nhân trong trường

hợp xử lý VPHC các đơn vị, tổ chức. Hiện nay, mức độ vi phạm Luật HKDD

của các đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp trong việc đóng HKDD ngày càng lớn

83

với các hành vi tái phạm nhiều lần, làm ảnh hưởng trực tiếp tới ngành HKDD.

Tuy nhiên, pháp luật hiện hành không quy định trách nhiệm hành chính đối

với những hành vi của các cá nhân trong các đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp vi

phạm đó. Nhiều quy định vẫn chung chung khó áp dụng chế tài trên thực tế:

“Tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ

luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi

thường theo quy định của pháp luật”. Thêm nữa cho đến nay Việt Nam chưa

có quy định trách nhiệm cá nhân trong pháp nhân VPHC trong lĩnh vực

HKDD. Do vậy, trong trường hợp xử lý VPHC đối với các pháp nhân, cần

phải quy định cụ thể về việc truy cứu trách nhiệm hành chính những cá nhân

trong pháp nhân có lỗi khi để xảy ra vi phạm. Sau khi có quyết định xử lý đối

với pháp nhân cần tiếp tục làm rõ trách nhiệm của các cá nhân liên quan để có

hình thức xử lý thích hợp. Điều này cũng phù hợp với nguyên tắc cứ mỗi

hành vi vi phạm chỉ bị xử lý một lần vì hành vi và lỗi của pháp nhân chính là

lỗi tổng hợp bao hàm hành vi và lỗi của nhiều cá nhân. Trong đó, có những cá

nhân có hành vi và lỗi rõ ràng có thể cấu thành hành vi và lỗi độc lập nên có

thể xử lý VPHC đối với những cá nhân đó.

Thứ sáu, xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ trong xử lý VPHC

trong công tác đấu tranh phòng, chống hành vi vi phạm nói chung và lĩnh vực

HKDD nói riêng, nhằm giảm thiểu những tác động xấu do hành vi VPHC về

HKDD gây ra, để bảo đảm sự phát triển, bảo đảm an ninh, an toàn của ngành

HKDD; trong khi áp dụng các biện pháp xử lý VPHC không mang lại hiệu quả

cao như mong muốn cần thiết phải có cơ chế để ngành HKDD tiến hành việc

khởi kiện các doanh nghiệp, cá nhân vi phạm về HKDD ra toà án dân sự.

Như vậy, mặc dù đã có quy định của pháp luật về xử phạt VPHC đối với

những hành vi VPHC về HKDD nhưng qua phân tích thực trạng về VPHC và

xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD cho thấy còn nhiều bất cập, hạn chế trong

quy định của pháp luật. Điều này dẫn đến hiệu quả của công tác đấu tranh phòng

84

ngừa vi phạm pháp luật HKDD không cao. Do vậy, vấn đề đặt ra là cần phải

hoàn thiện hệ thống pháp luật về VPHC và xử phạt VPHC lĩnh vực HKDD.

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xử lý vi phạm hành

chính trong lĩnh vựchàng không dân dụng

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về xử phạt hành chính lĩnh vực hàng

không dân dụng

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, thời gian qua vấn đề xử lýVPHC trong

lĩnh vực HKDD Việt Nam đã có những đóng góp không nhỏ trong công tác

phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả đối với các VPHC ở nước ta, giữ vững ổn

định, trật tự an toàn xã hội để phát triển kinh tế - xã hội nói chung, ngành

HKDD nói riêng.Với vai trò Hàng không dân dụng là một ngành quan trọng,

đóng góp rất lớn vào công cuộc phát triển của đất nước, thúc đẩy giao thương

và du lịch, sử dụng hiệu quả cơ sở hạ tầng và nâng cao chất lượng cuộc sống

cho người dân. HKDD cũng là hoạt động đặc thù có tầm quan trọng đặc biệt

do ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng bởi vậy việc tuân thủ nghiêm đến quy

tắc quản lý là yêu cầu chặt chẽ trước tiên với ngành HKDD Việt Nam . Xử lý

vi phạm hành chính trong HKDD ko chỉ tác động đến giao thông, phát triển

kinh tế mà trực tiếp bảo vệ an ninh, an toàn tính mạng và tài sản con người

bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật uy tín của nhà nước.

Xuất phát từ những bất cập, hạn chế trong các quy định của pháp luật cũng

như từ thực tiễn hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật về xử lý VPHC trong

lĩnh vực HKDD thời gian qua chưa đạt hiệu quả cao. Việc hoàn thiện pháp

luật xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD cũng như tổ chức thực hiện là một

yêu cầu tất yếu khách quan và cấp bách trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam.

Trước hết, khẩn trương, kịp thời ban hành văn bản quy định chi tiết và

hướng dẫn thi hành Luật Xử lý VPHC; tiếp tục rà soát các quy định của pháp

luật còn bất cập để kịp thời sửa đổi, bổ sung một số quy định cho phù hợp

tình hình thực tiễn ngoài ra các vấn đề bất cập được kiến nghị cụ thể như sau:

85

- Bổ sung quy chế phối hợp giữa Cục Hàng không Việt Nam và Cục

Quản lý xuất nhập cảnh về: quản lý, giám sát đối với các đối tượng đang có

nghĩa vụ chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính; chế tài đối với

đối tượng người nước ngoài không chấp hành quyết định xử phạt vi phạm

hành chính và đã xuất cảnh về nước. (trên cơ sở Luật nhập cảnh, xuất cảnh,

quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014).

- Tại Điều 75 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định về thi

hành quyết định xử phạt VPHC trong trường hợp người bị xử phạt chết, mất

tích, tổ chức bị xử phạt giải thể, phá sản cần: Xây dựng chế tài chi tiết, cụ thể

đối với trường hợp người nước ngoài VPHC trong phạm vi điều chỉnh của Luật

Xử lý VPHC năm 2012 chưa thi hành quyết định xử phạt mà đã xuất cảnh (đối

với những đối tượng đã vi phạm và có thể nhập cảnh trở lại Việt Nam).

- Đối với Nghị định số 162/2018/NĐ-CP ngày 30/11/2018 của Chính phủ

về xử phạt VPHC trong lĩnh vực HKDD cần có văn bản hướng dẫn cụ thể, khái

niệm giải thích hành vi, bao quát điều chỉnh đầy đủ hành vi sát với thực tiễn.

3.2.2. Nâng cao hiệu quả công tác xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực hàng không dân dụng

Những quy định về hành vi vi phạm hành chính và các chế tài xử lý

VPHC về HKDD đã đóng vai trò tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả công

tác quản lý nhà nước về HKDD. Thông qua các cuộc thanh tra, kiểm tra việc

chấp hành các quy định của pháp luật HKDD, cơ quan có thẩm quyền đã kịp

thời phát hiện và xử lý các hành vi VPHC về HKDD, đồng thời ngăn ngừa

các hành vi vi phạm có thể xảy ra trong tương lai. Việc áp dụng các chế tài

hành chính đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm đã tác động phần nào

đến ý thức chấp hành pháp luật về HKDD của các cá nhân, tổ chức. Tuy

nhiên trong thực tế, pháp luật VPHC và xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD

hiện hành cũng như hoạt động tổ chức thực hiện còn tồn tại nhiều vấn đề bất

cập sau:

86

Sau gần 10 năm thực hiện Pháp luật xử lý vi phạm hành chính mặc dù

được nghiên cứu, hoàn thiện và sửa đổi nhiều lần vẫn bộc lộ những hạn chế

cần được nghiên cứu, khắc phục như sau: Một số hành vi VPHC còn quy định

chung chung, mang tính định tính nên khó xác định và áp dụng trong thực tế.

Hình thức xử phạt chưa phong phú, chưa đáp ứng được đòi hỏi của công cuộc

đấu tranh phòng, chống VPHC trong tình hình mới. Việc quy định cụ thể mức

phạt tiền tối đa đối với từng lĩnh vực tuy rõ ràng và dễ áp dụng, nhưng lại dễ

bị lạc hậu khi mà nền kinh tế - xã hội luôn luôn phát triển. Thủ tục xử lý vi

phạm hành chính còn thiếu các quy định để đảm bảo tính dân chủ, chính xác,

khách quan trong quá trình người có thẩm quyền xem xét, quyết định việc xử

phạt… Chính vì vậy, việc xây dựng và ban hành một văn bản luật về xử lý

VPHC có tính chất là “luật khung”, quy định những vấn đề cơ bản, cụ thể về

xác định các hành vi vi phạm và xử lý VPHC như nguyên tắc xử phạt, thẩm

quyền xử phạt, hình thức xử phạt, thủ tục xử phạt… là nhu cầu cần thiết. Trên

cơ sở những thay đổi của “luật khung” đó, pháp luật về xử lý VPHC trong

lĩnh vực HKDD cũng cần phải được hoàn thiện, sửa đổi cho phù hợp.

Qua nghiên cứu thực trạng, diễn biến của vi phạm pháp luật trong lĩnh

vực HKDD cho thấy, các hành vi xâm hại quan hệ HKDD là một trong những

hành vi xảy ra phổ biến và hiện đang là vấn đề được đề cập nhiều trên các

phương tiện thông tin đại chúng ở nước ta hiện nay, các thiệt hại do các hành

vi đó gây ra có chiều hướng ngày càng gia tăng và nghiêm trọng. Là nguy cơ

gây bất ổn cho xã hội, làm giảm sút lòng tin của nhân dân lao động vào chính

sách HKDD của Đảng và Nhà nước. Trong khi đó, hoạt động xử lý VPHC

trong lĩnh vực HKDD hầu hết (nếu không nói là tuyệt đại đa số) đều được tiến

hành trên cơ sở các cuộc thanh tra về HKDD nhưng hoạt động thanh tra về

HKDD hiện nay chưa bao quát được hết mọi khía cạnh, chất lượng thanh tra

chưa đảm bảo, hoạt động thanh tra không được tiến hành thường xuyên. Do

đó, không thể tránh khỏi rất nhiều trường hợp VPHC về HKDD trên thực tế

không bị phát hiện và xử lý. Mức xử phạt thấp, biện pháp khắc phục hậu quả,

87

hình thái bổ sung còn nhiều bất cập không đủ sức răn đe, làm giảm vai trò của

chính sách pháp luật. Đây là những yêu cầu, đòi hỏi đặt ra cho việc xem xét,

hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử VPHC trong lĩnh vực HKDD

trong thời gian tới.Chịu ảnh hưởng từ những quy định của Pháp lệnh xử phạt

VPHC, nội dung các quy định hiện hành của pháp luật về xử lý VPHC trong

lĩnh vực HKDD cũng có những hạn chế, bất cập tương tự đó là: Quy định

hành vi VPHC về HKDD chưa cụ thể, mức xử phạt thấp; phân cấp thẩm

quyền xử phạt giữa các chức danh trong lĩnh vực HKDD chưa hợp lý dẫn đến

việc áp dụng pháp luật không thống nhất; quy định các hình thức xử phạt

chính vẫn chưa đủ đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống vi phạm

pháp luật về HKDD trong giai đoạn hiện nay. Để đáp ứng yêu cầu nói trên

cần thiết phải tiến hành các vấn đề sau:

Thứ nhất, xác định lại tính chất và cách áp dụng hình thức phạt cảnh cáo.

Một yêu cầu đặt ra là cần phải giải thích và quy định rõ ràng về điều kiện

áp dụng để thuận lợi cho việc áp dụng đối với hình thức cảnh cáo. Để xác

định vi phạm lần đầu hay không, cơ quan có thẩm quyền phải thiết lập cơ sở

dữ liệu một cách công khai, minh bạch về những trường hợp VPHC trong lĩnh

vực HKDD. Căn cứ vào đó, người có thẩm quyền có thể xử phạt chính xác,

khách quan.

Nếu phạt cảnh cáo được áp dụng thật nghiêm túc và theo đúng quy định

pháp luật thì nó không chỉ có tính giáo dục cao mà còn đạt mục đích phòng

ngừa đối với người vi phạm và những người xung quanh. Người có thẩm

quyền khi áp dụng hình thức này cần giải thích rõ giúp cho người vi phạm

hiểu và nhận thức được nguy cơ bị áp dụng các biện pháp khác có mức độ

nghiêm khắc hơn nếu tái phạm. Để tăng cường hơn nữa tính răn đem giáo dục

của hình thức phạt cảnh cáo, cần phải bổ sung thêm một số quy định như: cá

nhân khi bị áp dụng hình thức phạt cảnh cáo sẽ bị gửi thông báo cho chính

quyền địa phương hay cơ quan nơi người đó cư trú, làm việc. Hoặc công khai

thông tin về các đơn vị trốn đóng, nợ tiền đóng HKDD trên các phương tiện

88

thông tin đại chúng như đài truyền hình, đài phát thanh hoặc báo, tạp chí…

hoặc gửi trực tiếp đến cơ quan, tổ chức người đó đang làm việc. Làm như vậy

đối tượng vi phạm sợ sự lên án của những người xung quanh, và do vậy hình

thức xử phạt cảnh cáo sẽ thực sự đạt được mục đích, không chỉ nhằm vào đối

tượng vi phạm mà còn có ý nghĩa phòng ngừa đối với các đối tượng khác.

Thứ hai,nghiên cứu, thay đổi và hoàn thiện mức xử phạt

Đối với hình thức xử phạt tiền, đây là một biện pháp có vai trò quan

trọng trong việc đấu tranh phòng, chống VPHC. Tuy nhiên, trước những hạn

chế đã phân tích ở trên, cần có giải pháp hoàn thiện hình thức này. Trước hết,

cần quy định hợp lý hơn về khung tiền phạt và mức phạt tiền. Khung tiền phạt

phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm từ thấp đến cao và khung tiền phạt

không nên quá rộng và cách xa nhau. Để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã

hội hiện nay, tránh sự lạc hậu của các quy định pháp luật, mức phạt tiền

không nên quy định theo số tiền cụ thể mà nên theo một con số tỷ lệ với mức

tiền do vi phạm mà có. Cách thức này đảm bảo quy phạm sẽ có giá trị lâu dài,

không phải sửa đổi nhiều do sự thay đổi của nền kinh tế.

Mức xử phạt đối với hành vi vi phạm pháp luật về HKDD hiện nay

không quá mức phạt tối đa theo Nghị định xử phạt vi phạm hành chính. Với

mức xử phạt tối đa là 100 triệu đồng vẫn là quá nhẹ, trong khi thiệt hại do

hành vi VPHC là quá lớn. Có thể thấy rằng, mức tiền phạt này không phù hợp

với tính chất của hành vi vi phạm trong trường hợp đó. Vì vậy, Có thể xem

xét theo hướng, mức phạt vi phạm được tính tỷ lệ % với số tiền vi phạm như

quy định của một số nước trên thế giới. Ví dụ: Ở Mông Cổ mức phạt tới 50%

thiệt hại do vi phạm gây ra.

Thứ ba,trước thực trạng cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thanh tra và

xử phạt vi phạm pháp luật trong lĩnh vực HKDD hầu như chưa chủ động xử

lý các vụ vi phạm. Để đảm bảo hoạt động thanh tra, kiểm tra đạt được hiệu

quả mong muốn, cần sửa đổi Điều 10 Luật HKDD, đồng thời bổ sung quy

định về thẩm quyền phạt VPHC trong lĩnh vựcHKDD trong Nghị định số

89

162/2018/NĐ-CP ngày 03/10/2018 của Chính phủ theo hướng quy định chức

năng thanh tra cho cơ quan thuộc Chính phủ có hoạt động đặc thù như cơ

quan HKDD được thành lập thanh tra chuyên ngành về HKDD đáp ứng được

yêu cầu thanh tra, kiểm tra và xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD được kịp

thời, qua đó góp phần hạn chế những hành vi vi phạm liên quan đến hoạt

động HKDD.

Thứ tư,nghiên cứu, hoàn thiện các quy định của hệ thống pháp luật về

chế tài xử phạt. Qua phân tích thực tiễn thi hành Luật xử lý vi phạm hành

chính, có thể thấy hệ thống pháp luật của chúng ta thiếu các chế tài xử phạt đủ

mạnh và đồng bộ. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là phải cụ thể hóa quy

định tại Luật xử lý vi phạm hành chính, Luật HKDD và khi đã xác định

những hành vi vi phạm luật ở mức độ là tội phạm phải có chế tài xử phạt

tương ứng. Tuy nhiên, sai phạm lớn nhất, kéo dài và gây bức xúc nhất đối với

ngành HKDD cũng như cơ quan quản lý nhà nước phải kể đến là hành vi vi

phạm liên quan đến sự phát triển, an toàn, an ninh của HKDD thì chưa hề bị

coi là tội phạm cũng như bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nguyên nhân là do

chúng ta chưa có quy định cụ thể trong việc xác định tội phạm chuyên biệt

trong lĩnh vực HKDD cả ở Luật HKDD và ở Bộ Luật Hình sự. Bộ Luật Hình

sự xác định đối tượng là cá nhân, tuy nhiên những vi phạm về HKDD có cả

pháp nhân và cá nhân. Có thể tham khảo nội dung này qua luật pháp về

HKDD ở một số nước trên thế giới

3.2.3. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, thanh tra viên làm công

tác xử lý vi phạm hành chính tronglĩnh vực hàng không dân dụng

Có thể nói, năng lực, trình độ của các lực lượng liên quan đến công tác

xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD hiện nay mới chỉ đáp ứng cơ bản yêu cầu

nhiệm vụ chứ chưa thể hoàn thành nhiệm vụ ở mức hiệu quả cao. Vì vậy, cần

tiếp tục củng cố và hoàn thiện bộ máy làm công tác thanh tra, kiểm tra từ

Trung ương đến địa phương, từ Ngành HKDD đến hệ thống kiểm tra của

ngành HKDD. Tiếp tục rà soát số lượng đội ngũ cán bộ, viên chức trực tiếp

90

tham gia công tác kiểm tra giám sát nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế về biên chế

trong công tác xử phạt VPHC lĩnh vực HKDD.

- Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, viên chức: Tiếp tục

đổi mới nội dung chương trình và phương thức đào tạo, bồi dưỡng; chú trọng

nâng cao kiến thức, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ về công tác xử lý vi

phạm. Kết hợp đào tạo chính quy với các hình thức đào tạo không chính quy,

đào tạo trong nước và nước ngoài về kiến thức pháp luật hành chính.

- Nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức cán bộ, viên chức trực tiếp

tham gia công tác xử phạt VPHC: Tăng cường các biện pháp giáo dục cho cán

bộ, viên chức về tinh thần trách nhiệm, ý thực tận tâm, tận tụy với công việc.

- Ban hành và thực hiện nghiêm quy chế công vụ, công khai hóa hoạt

động xử phạt VPHC, nâng cao trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật của đội

ngũ cán bộ, viên chức…

-Đội ngũ thanh tra viên cần được tăng cường cả về số lượng và chất

lượng. Cần xây dựng cơ chế phân vùng quản lý và cơ chế trách nhiệm cho

thanh tra viên. Đây là áp lực lớn đối với thanh tra viên nhưng là việc phải thực

hiện nếu muốn công tác xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD hiệu quả cao.

Về phía ngành Hàng không dân dụng Việt Nam, cũng cần tăng cường

chỉ đạo nghiệp vụ kiểm tra theo kế hoạch, theo chuyên đề của các Ban Nghiệp

vụ, Ban Kiểm tra đối với HKDD các địaphương. Thực hiện phân công cán bộ

chuyên quản để có điều kiện sâu sát với tình hình hoạt động kiểm tra của địa

phương nhằm đôn đốc, tháo gỡ vướng mắc kịp thời trong nghiệp vụ kiểm tra.

Nghiên cứu và tổ chức thường xuyên, kịp thời các lớp tập huấn, hướng dẫn

nghiệp vụ trong công tác thanh tra, kiểm tra, tham gia tố tụng tại Toà án trong

toàn hệ thống: tổng kết, phổ biến kinh nghiệm thực tiễn. Về phía HKDD các

tỉnh, thành phố: Cán bộ kiểm tra tại địa phương là người sâu sát và hiểu biết

nhất những diễn biến của công tác quản lý, thông qua việc thực hiện chức

năng kiểm tra sẽ phát hiện những bất cập của văn bản, những kẽ hở trong

công tác quản lý để phản ánh, kịp thời đề xuất những biện pháp quản lý có

91

hiệu quả, phù hợp với thực tiễn. Hoạt động kiểm tra của 63 tỉnh, thành phố

nếu phát huy tốt giúp Lãnh đạo các địa phương chấn chỉnh, uốn nắn kịp thời

những tồn tại, sai phạm ngay trên địa bàn quản lý.

3.2.4. Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật về hàng không về xử

lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chính sách, pháp luật HKDD cả về

hình thức và nội dung tới các cấp, các ngành, tới nhân dân một cách có hiệu

quả nhằm làm chuyển biến nhận thức về việc tham gia quan hệ trong lĩnh vực

HKDD. Thường xuyên thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến về pháp luật xử

lý hành chính, pháp luật HKĐD cho các tầng lớp nhân dân một cách sâu rộng

và toàn diện nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, tăng cường sự giám

sát của nhân dân đối với công tác xử phạt VPHC.

Đa dạng hoá hình thức tuyên truyền, nội dung tuyên truyền cần phù hợp

với từng đối tượng, trong đó chú trọng giáo dục, phổ biến kiến thức, kỹ năng

trong khi tham gia giao thông bằng đường HKDD cả trong nước và ở nước

ngoài một cách sâu sắc về các hành vi VPHC và chế tài xử lý hành vi VPHC;

tuyên truyền làm rõ trách nhiệm của các cấp, các Ngành, tổ chức xã hội, đoàn

thể trong việc phối hợp tổ chức thực hiện Luật HKDD. Kịp thời tuyên truyền,

biểu dương các cá nhân, đơn vị, địa phương, thực hiện tốt, phê phán những cá

nhân, đơn vị chưa thực hiện nghiêm chỉnh hoặc cố tình trốn tránh, làm sai các

quy định pháp luật trong lĩnh vực HKDD. Thời gian qua, Cục Hàng không Việt

Nam cũng đã tổ chức tuyên truyền, tập huấn về pháp luật hàng không, an ninh,

an toàn hàng không với nội dung phong phú dễ hiểu để nâng cao nhân thức về

những hành vi vi phạm pháp luật cho người dân ở một vài địa phương, trường

học. Tuy nhiên cách làm này chưa được sâu rộng, thường xuyên.

92

3.2.5. Tăng cường sự giám sát của nhân dân, báo chí, của cơ quan

nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong

lĩnh vực Hàng không dân dụng

Để công tác xử phạt vi phạm hànhtrong lĩnh vực HKDD được công khai,

minh bạch, hiệu quả, đảm bảo đúng các quy định của pháp luật thì hoạt động

giám sát của quần chúng nhân dân, báo chí là vô cùng quan trọng. Thông qua

hoạt động này, các hành vi vi phạm của các lực lượng kiểm tra, giám sát, thực

thi công vụ được phát hiện, xử lý kịp thời, qua đó sẽ loại bỏ những đối tượng

có hành vi tiêu cực, kém về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, không đáp ứng

được yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Như vậy, hoạt động này mới tạo điều kiện

cho việc thu hút nhân tài, những người có kinh nghiệm, am hiểu pháp luật vào

công tác tại các cơ quan có chức năng xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD

3.2.6. Đầu tư phù hợp phương tiện hỗ trợ xử lý vi phạm hành chính

trong lĩnh vực hàng không dân dụng

Xây dựng cơ chế phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền trong việc

quản lý hoạt động HKDD và xử lý khi có vi phạm xảy ra bởi HKDD không

chỉ là các sân bay và các chuyến bay. Để các sân bay hoạt động tốt, các

chuyến bay an toàn cần sự phối hợp từ các ngành, chính quyền các địa

phương… Vì vậy, cần tranh thủ sự chỉ đạo của chính quyền địa phương:

UBND, Hội đồng nhân dân, tăng cường và nâng cao hiệu quả việc phối hợp

với ngành HKDD.Cơ quan Cảng hàng không của HKDD tại các tỉnh, thành

phố phải thống kê định kỳ trao đổi, phối hợp với cấp uỷ và chính quyền địa

phương tình hình thực hiện hoạt động HKDD, đề xuất giải pháp để chính

quyền chỉ đạo các doanh nghiệp, đơn vị chấp hành nghiêm túc pháp luật

HKDD kịp thời, hiệu quả.

Trong việc đầu tư các phương tiện hỗ trợ cho công tác xử lý VPHC trong

lĩnh vực HKDD tại Việt Nam hiện nay cũng không thể nằm ngoài cơ chế phối

hợp đó.

93

3.3. Một số kiến nghị

Thứ nhất, kiểm tra, rà soát, sửa đổi và cụ thể hóa những hành vi vi phạm

còn mang tính chất chung chung, thiếu minh bạch dễ gây hiểu nhầm trong

thực hiện. Mục đích của việc kiểm tra, rà soát nhằm tìm những điểm bất cập

trong các quy định hiện hành đểtừ đó, xem xét, sửa đổi, bãi bỏ hoặc ban hành

mới nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về hành vi VPHC trong lĩnh

vực HKDD phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với yêu

cầu phát triển của ngành HKDD hiện nay và giai đoạn tiếp theo. Chẳng hạn

sửa các Điều chưa cụ thể, khó thực hiện như đã nêu tại chương II.

Thứ hai, bổ sung các quy định pháp luật về hành vi VPHC trong lĩnh vực

HKDD những hành vi còn thiếu. Chẳng hạn, hành vi thông đồng giữa nhân

viên hàng không với khách hàng, hợp thức hoá hồ sơ hưởng chế độ ưu đãi

hoặc trốn thuế theo Luật HKDD.

Thứ ba,bổ sung những quy định làm rõ ranh giới giữa hành vi vi phạm

với phạm tội trong lĩnh vực HKDD.

Về cơ bản, hành vi vi phạm và tội phạm trong lĩnh vực HKDD có thể

phân biệt được bởi mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm, theo

đó là hậu quả pháp lý mà chủ thể thực hiện hành vi đó phải gánh chịu. Đó là

mức độ thiệt hại gây ra hoặc đe dọa gây ra cho ngànhHKDD, là mức độ lỗi

của người có hành vi vi phạm pháp luật HKDD, là tình hình thực thi pháp luật

HKDD đặt trong hoàn cảnh và điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể.

Những quy định để xác định ranh giới giữa tội phạm trong lĩnh vực

HKDD và vi phạm trong lĩnh vực này có thể căn cứ vào:

- Mức độ thiệt hại về vật chất mà hành vi đã gây ra cho ngành HKDD

hoặc cho khách hàng;

- Tính chất “lặp lại” của hành vi vi phạm có thể hiểu là hành vi vi phạm

liên tiếp hoặc có thể là tái vi phạm. Chẳng hạn, vi phạm về đe dọa an toàn

chuyến bay hoặc đe dọa nhân viên hàng không nhiều lần.

Thứ tư,hoàn thiện Luật Hàng không dân dụng.

94

Hạn chế tối đa kẽ hở trong các quy định của Luật về HKDD để tránh tình

trạng bị lạm dụng. Chính sách về HKDDcủa Đảng và Nhà nước đã có rất

nhiều thay đổi trong thời gian qua nhằm phát triển ngành hàng không. Tuy

vậy, đã có những thời kỳ, có những chính sách với những quy định còn thiếu

chặt chẽ, còn kẽ hở dễ bị lạm dụng. Những hành vi này đã và đang diễn ra

ngày càng theo chiều hướng gia tăng với tính chất phức tạp hơn tuy nhiên

hoạt động xử phạt lại không hiệu quả. Do vậy, các quy định của Luật

HKDDvà Nghị định của Chính phủ về HKDD vẫn thiết phải được nghiên cứu

xây dựng hoàn thiện hơn nữa.Làm rõ quy định về trách nhiệm hình sự đối với

các hành vivi phạm về HKDD, chẳng hạn: các hành vi vi phạm có thể bị xử lý

kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Nghĩa là có ba

hình thức xử lý đối với những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực

HKDD.Ba hình thức này sẽ bổ sung cho nhau tạo thành một hàng rào bảo vệ

nhằm đảm bảo cho pháp luật HKDD được thực hiện nghiêm túc trên thực tế.

Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi đặt ra là phải xác định được ranh giới giữa vi phạm

và tội phạm trong lĩnh vực HKDD để có thể áp dụng đúng biện pháp chế tài

xử lý chứ không phải quy định để loại trừ nhau hoặc quy định chung chung

dẫn đến khó áp dụng trên thực tế như pháp luật hiện hành về xử lý hành chính

cũng như hình sự.

Xét hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD cho dù vi phạm

bao nhiêu đi nữa thì mức xử phạt tối đa cũng chỉ là 100 triệu đồng. Như vậy,

trách nhiệm hình sự trong trường hợp này đã bị pháp luật hành chính loại trừ

hoàn toàn. Thêm vào đó, pháp luật hình sự không quy định cụ thể về tội danh

và trách nhiệm hình sự của pháp nhân đã làm cho tính răn đe của pháp luật

hành chính và pháp luật hình sự đối với vi phạm và tội phạm trong lĩnh vực

HKDD không được trọn vẹn, tính nghiêm minh của pháp luật không được bảo

toàn. Tương tự như vậy, hành vi không cấp hoặc cấp sai giấy chứng nhận của

cơ sở y tế hoặc biên bản giám định khả năng lao động của Hội đồng giám

định y khoa cũng được quy định theo hướng không phải chịu trách nhiệm

95

hình sự. Chính điều này đã làm cho pháp luật HKDD bị lạm dụng, người lao

động mất niềm tin vào các cơ quan chức năng của nhà nước.

96

TIỂU KẾT CHƯƠNG III

Trên cơ sở những phân tích đánh giá của chương II, những bất cập về

luật pháp, mâu thuẫn, chồng chéo của các quy định và quá trình tổ chức thực

hiện pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD đã được chỉ ra. Những

khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành, trên cơ sở kế thừa kinh nghiệm

xây dựng pháp luật vềxử lý VPHC tại Việt Nam trong những năm

qua,Chương III của Luận văn tập trung vào phân tích các định hướng và đề

xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật

về xử lý hành chính trong lĩnh vực HKDD, bảo đảm các quy định của pháp

luật phù hợp và có hiệu quả trong thực tiễn áp dụng. Đồng thời, cũng đề xuất

một số giải pháp nhằm hỗ trợ, đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật về xử lý

VPHC trong lĩnh vực HKDD đạt hiệu quả cao hơn. Các giải pháp đưa ra đều

được dựa trên tư tưởng quán triệt các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà

nước về các vấn đề hoàn thiện pháp luật về HKDD phải đảm bảo phù hợp và

đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, cải cách bộ máy nhà nước, đồng thời

tiếp thu kinh nghiệm quý báu của quốc tế trong việc xây dựng, phát triển và

hoàn thiện pháp luật xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD.

97

KẾT LUẬN

Là quốc gia đang phát triển và hội nhập mạnh mẽ, nền kinh tế Việt Nam

phát triển ngày càng sôi động. HKDD Việt Nam là lĩnh vực có đóng góp lớn

vào sự tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Hàng

không dân dụng Việt Nam tham gia tích cực vào việc thúc đẩy giao thương và

du lịch, sử dụng hiệu quả cơ sở hạ tầng và nâng cao chất lượng cuộc sống

người dân và có tầm quan trọng đặc biệt đối với an ninh quốc phòng. Bởi vậy,

việc tuân thủ nghiêm các quy tắc quản lý là yêu cầu chặt chẽ trước tiên mà

các chủ thể tham gia cần tuân thủ. Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực

HKDD không chỉ tác động đến vấn đề giao thông, phát triển kinh tế, mà còn

trực tiếp bảo vệ an ninh trật tự, an toàn tính mạng và tài sản của con người,

bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật, uy tín của Nhà nước.

Tuy nhiên, từ thực tiễn phát triển của ngành HKDD và những vi phạm,

thực trạng xử lý hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD, đã và

đang đặt ra những vấn đề cần được giải quyết. Thực tiễn đó cũng đã đặt ra

việc hoàn thiện pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD như một đòi

hỏi cấp thiết.

Việc thiết kế ba chương đề tài luận văn“Xử lý vi phạm hành chính

trong lĩnh vực hàng không dân dụng ở Việt Nam hiện nay”đã tập trung

nghiên cứu những vấn đề sau:

Thứ nhất, luận văn đã hệ thống hoá được những vấn đề lý luận cơ bản về

xử lý VPHC lĩnh vực HKDD. Đây là cơ sở khoa học quan trọng góp phần làm

căn cứ đánh giá thực trạng xử lý VPHC về HKDD cũng như nghiên cứu, đề

xuất giải pháp hạn chế vi phạm.

Thứ hai, trên cơ sở thực tiễn công tác và nghiên cứu tình hình vi phạm

và xử lý VPHC, luận văn đã phác thảo những nét chính của thực trạng quy

định của pháp luật cũng như thực tiễn thi hành về xử lý VPHC trong lĩnh vực

98

HKDD; từ những phân tích, đánh giá đó chỉ ra được những nguyên nhân, hạn

chế về pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng.

Thứ ba, trên cơ sở những quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng và Nhà

nước về hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và hoàn thiện pháp luật

HKDD nói riêng, luận văn đưa ra hai nhóm giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện

các quy định của pháp luật về nâng cao hiệu quả cho hoạt động tổ chức thực

hiện pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD.

Việc giải quyết được những bất cập thông qua các giải pháp, kiến nghị

được đề xuất, trên cơ sở pháp luật xử lý VPHC về HKDD được hoàn thiện,

sẽ góp phần thúc đẩy ngành hàng không dân dụng và nền kinh tế, xã hội ngày

càng phát triển, góp phần giữ vững an sinh xã hội và trật tự an toàn xã hội,

xây dựng xã hội “công bằng, dân chủ, văn minh”.

99

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Sách và tài liệu tham khảo tiếng việt:

1. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Báo cáo tổng kết 5 năm thực

hiện Luật Hàng không dân dụng Việt Nam.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Bộ Tư pháp – Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (năm 2005), Bình

luận khoa học Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002,Nhà

xuất bản Tư pháp, Hà Nội.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2010), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Đại học Luật Hà Nội (năm 2005), Giáo trình Luật an sinh xã hội, Nhà

xuất bản Tư pháp, Hà Nội.

6. Bộ Giao thông vận tải ( năm 2016), Quy định chi tiết về quản lý, khai

thác cảng hàng không, sân bay –Thông tư số 17/2016/TT-BGTVT

7. Đại học Luật Hà Nội (năm 2011), Giáo trình Luật Hành chính,Nhà

xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.

8. Báo cáo tổng hợp kết quả điều tra, Dự án điều tra cơ bản “Thực tiễn thi hành một số quy định mới của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012” của Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) thực hiện năm 2018, do TS. Nguyễn Văn Cương làm chủ nhiệm

9. Ngô Tử Liễn (năm 1994), “Cơ sở của trách nhiệm hành chính và vấn đề sửa đổi Điều 1 Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số (1), tr. 14.

10. TS. Bùi Xuân Đức (1998), Các hình thức xử phạt hành chính - Hiện trạng và phương hướng hoàn thiện, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 117

11. PGS, TS Bùi Thị Đào, (9/2003), Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính, Tạp chí Luật học, số Đặc san về xử lý vi phạm hành chính

100

12. Lê Vương Long, “Một số vấn đề hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính”, Tạp chí Luật học, - Trường Đại học Luật Hà Nội, (tháng 9/2003), tr.35

13. TS.Trần Minh Hương (năm 2008), Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành

chính - Thực trạng quy định, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện,

Tạp chí Luật học, tr.28 .

14. Nguyễn Cửu Việt (năm 2008), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam,

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.393

15. PGS.TS Bùi Xuân Đức (năm 2009), Hệ thống chế tài xử phạt vi phạm

hành chính - Những bất cập, hạn chế và phương hướng hoàn

thiện,Tạp chí Luật học, tr.8 -15.

16. Kiều Minh (2009), Những gian nan trong thực hiện thu vi phạm hành

chính, Tạp chí Tài chính số 5A, tr 18 – 22.

17. Đại học Luật Hà Nội (năm 2011), Giáo trình Luật Hành chính, Nhà

xuất bản Công an nhân dân

Văn bản pháp luật Việt Nam:

1. Bộ Luật Lao động của nước CHXHCN Việt Nam năm 1994, sửa

đổi bổ sung năm 2002, 2006, 2007.

2. Bộ Luật Hình sự của nước CHXHCN Việt Nam năm 1999

3. Luật Vi phạm hành chính số 71/QH11/2006

4. Luật Bảo hiểm y tế số 25/2008/QH12

5. Pháp lệnh Xử phạt Vi phạm hành chính năm 1989

6. Pháp lệnh Xử lý Vi phạm hành chính năm 1995

7. Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002

8. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi

phạm hành chính năm 2008

9. Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày 16/12/2008 quy định chi tiết

thi hành một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm

101

2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý

vi phạm hành chính năm 2008

10. Nghị định số 113/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/4/2004 Quy

định về xử phạt hành chính về hành vi vi phạm pháp luật lao động.

11. Nghị định số 147/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/8/2013 Quy

định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hàng không dân

dụng

12. Nghị định số 162/2018/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/10/2018 Quy

định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hàng không dân

dụng

13. Nghị định số 86/2010/NĐ-CP ngày 13/8/2010 của Chính phủ Quy

định về xử phạt Vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hàng không dân

dụng

14. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về

chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến

năm 2010, định hướng đến năm 2020.

Tài liệu tham khảo tiếng anh:

15. Social Security Law of Combodia

16. Social Insurance Law of Mongolia (1996)

17. Social Security Law of Iran

18. Social Security Act of Philippines (1997)

19. Social Security Act, B.E. 2533 (1990) of Thailand

102