BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRƯƠNG ĐỨC TIÊN ANH
XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính
Hà Nội: 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRƯƠNG ĐỨC TIÊN ANH
XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính
Mã số: 838 01 02 Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Kim Tiên
Hà Nội: 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất cứ công trình nào.
Tác Giả Luận Văn
Trương Đức Tiên Anh
i
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, cho phép tác giả của
luận văn gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới:
Học viện Hành chính Quốc gia, khoa sau đại học, các giảng viên Học
viện Hành chính quốc gia, đã tận tình giảng dạy và tạo mọi điều kiện giúp đỡ
tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Đặc biệt tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến tiến sỹ Đỗ Thị Kim
Tiên, đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, động viên tác giả trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều, nhưng luận văn không tránh khỏi những
thiếu sót; tác giả rất mong nhận được sự thông cảm, chỉ dẫn và đóng góp ý
kiến của các thầy cô giáo trong Hội đồng khoa học để luận văn Thạc sỹ được
hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
ii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
VNDCCH Việt Nam dân chủ cộng hòa
UBND Uỷ ban nhân dân
HKDD Hàng không dân dụng
HKVN Hàng không Việt Nam
VPHC Vi phạm hành chính
XLVPHC Xử lý vi phạm hành chính
iii
Mục lục
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................ ii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .................................................................. iii
Mục lục .................................................................................................. iv
MỞ ĐẦU................................................................................................ 1
1.Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................... 1
2.Tình hình nghiên cứu đề tài ..................................................................... 3
3.Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 5
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................ 6
5.Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ....................................... 6
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀXỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰCHÀNG KHÔNG DÂN DỤNG ................................ 8
1.1 Tổng quan về ngành Hàng không dân dụng .......................................... 8
1.2. Bản chất, khái niệm vi phạm hành chính và vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hàng không dân dụng .................................................................... 17
1.3. Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân
dụng ........................................................................................................... 20
1.3.1. Mặt khách quan ....................................................................................... 20
1.3.2. Mặt chủ quan ........................................................................................... 22
1.3.3. Chủ thể .................................................................................................... 23
1.3.4. Khách thể................................................................................................. 24
1.4. Các loại vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng ...... 25
1.4.1.Vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng được phân loại
dựa trên các tiêu chí khác nhau ......................................................................... 25
1.4.2. Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng
........................................................................................................................... 27
iv
1.5. Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng .......... 28
1.5.1. Khái niệm ................................................................................................ 28
1.5.2. Đặc thù của xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân
dụng ................................................................................................................... 31
1.6. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân
dụng ........................................................................................................... 33
1.6.1. Các nguyên tắc chung ............................................................................. 33
1.6.2. Các nguyên tắc kỹ thuật .......................................................................... 34
TIỂU KẾT CHƯƠNG I .......................................................................... 35
CHƯƠNG II:THỰC TRẠNG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNHTRONG
LĨNH VỰC HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG Ở VIỆT NAMGIAI ĐOẠN 2014
– 2019 .................................................................................................... 36
2.1. Thực trạng pháp luật xử lý vi phạm hành trong lĩnh vực hàng không dân
dụng ở Việt Nam ........................................................................................ 36
2.1.1.Pháp luật về lĩnh vực hàng không dân dụng ở Việt Nam ........................ 36
2.1.2. Thực trạng quy định của pháp luật về vi phạm pháp luật hành chính trong
lĩnh vực hàng không dân dụng .......................................................................... 38
2.2. Tình hình xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng
................................................................................................................... 58
2.2.1. Về hình thức xử phạt và mức xử phạt ..................................................... 58
2.2.2.Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính ................................................ 63
2.2.3. Tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng và xử
lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng từ năm 2014 đến
năm 2019 ........................................................................................................... 64
2.3. Đánh giá tình hình xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không
dân dụng ..................................................................................................... 69
2.3.1. Một số thành công ................................................................................... 69
2.3.2. Những hạn chế, bất cập ........................................................................... 69
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế ............................................................ 73
v
TIỂU KẾT CHƯƠNG II ......................................................................... 78
CHƯƠNG III:PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢMXỬ LÝ VI
PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG
Ở VIỆT NAM ......................................................................................... 79
3.1. Phương hướng xử lý vi trong lĩnh vực hàng không dân dụng ở Việt Nam
................................................................................................................... 79
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hàng không dân dụng .................................................................... 85
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về xử phạt hành chính lĩnh vực hàng không dân dụng
........................................................................................................................... 85
3.2.2. Nâng cao hiệu quả công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
hàng không dân dụng ........................................................................................ 86
3.2.3. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, thanh tra viên làm công tác xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng .................................... 90
3.2.4. Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật về hàng không về xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng .............................................. 92
3.2.5. Tăng cường sự giám sát của nhân dân, báo chí, của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền trong hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hàng
không dân dụng ................................................................................................. 93
3.2.6. Đầu tư phù hợp phương tiện hỗ trợ xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực hàng không dân dụng ................................................................................. 93
3.3. Một số kiến nghị .................................................................................. 94
TIỂU KẾT CHƯƠNG III ........................................................................ 97
KẾT LUẬN ............................................................................................ 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 100
vi
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Cách mạng
Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới. Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã
hội, khôi phục kinh tế, đẩy mạnh sản xuất, xây dựng miền Bắc vững về mọi
mặt làm chỗ dựa cho cuộc đấu tranh chống Mỹ thống nhất hai miền Nam Bắc.
Trong bối cảnh đó, việc ra đời một tổ chức chính thức của ngành Hàng không
dân dụng (HKDD) nhằm phục vụ cho việc phát triển kinh tế và bảo vệ tổ quốc
là một yêu cầu cấp thiết.
Với tầm nhìn chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, ngày 15/1/1956 Thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã ký ban hành Nghị định số 666/TTg về việc thành
lập Cục HKDD Việt Nam thuộcChính phủ, đặt nền móng cho sự ra đời,
trưởng thành và phát triển bền vững của HKDDViệt Nam.
Nghị định thành lập Cục Hàng không dân dụngthuộc Chính phủ đặt cơ
sở cho việc ra đời một tổ chức vận chuyển hàng không, hội nhập, giao lưu
hàng không với thế giới. Vì vậy, ngày 15/1/1956 được lấy làm ngày truyền
thống của ngành Hàng không dân dụng Việt Nam.
Hàng không dân dụng là ngành kinh tế đặc thù bởi sự khác biệt so với
các ngành kinh tế khác và sự khác biệt giữa các quốc gia về trang thiết bị, tổ
chức khai thác, quy định an ninh về HKDD. Theo Tổ chức HKDD quốc tế
(International Civil Aviation Org-ICAO),các yếu tố cần thiết để tổ chức và
vận hành ngành HKDDcủa một quốc gia thường là: Kiểm soát viên không
lưu, Ðiện tử viễn thông hàng không, Khai thác thông tin hàng không, Thiết bị
phụ trợ hàng không, Dẫn đường bay, Khai thác vận tải hàng không, Vận
chuyển thương mại hàng không, Phi công, Tiếp viên, Cảng hàng không, Kỹ
thuật máy bay...
1
Là một hình thức kinh doanh với mục đích phục vụ nhu cầu giao thông,
đi lại bằng đường hàng không, HKDD Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu
phát triển và phù hợp với xu hướng chung của thời đại, mà còn thể hiện tính
ưu việt, bản chất tốt đẹp của chế độ Xã hội chủ nghĩa. Với chiến lược phát
triển là hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế lấy phát triển là vị trí trung tâm,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội, Đảng và
Nhà nước ta đã hết sức quan tâm đến HKDD với tư cách là một ngành kinh tế
mũi nhọn nhằm góp phần đảm bảo ổn định xã hội, thúc đẩy sản xuất kinh
doanh và tăng trưởng kinh tế. Điều này đã được ghi nhận trong Luật hàng
không dân dụng Việt Nam số 66/2006/QH11 ngày 29/6/2006của Quốc hội, có
hiệu lực kể từ ngày 01/01/2007, được sửa đổi, bổ sung tại Luật số
61/2014/QH13 ngày 21/11/2014 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật hàng không dân dụng Việt Nam, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015.
Là quốc gia đang phát triển và hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng, nền
kinh tế Việt Nam đang có bước phát triển mạnh mẽ, trong đó HKDDlà lĩnh
vực có đóng góp rất lớn vào công cuộc phát triển đất nước, thúc đẩy giao
thương,du lịch, sử dụng hiệu quả cơ sở hạ tầng và nâng cao chất lượng cuộc
sống cho người dân. Mặt khác, vượt ra ngoài ý nghĩa kinh tế, HKDD còn có
tầm quan trọng đặc biệt bởi mức độ ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng của
một quốc gia. Vì lẽ đó, việc tuân thủ các quy tắc quản lý là yêu cầu trước tiên
cần có đối với ngành HKDD. Những vi phạm trong lĩnh vực HKDD có thể để
lại những hậu quả cho nền kinh tế, an ninh và trật tự an toàn xã hội. Do đó, về
chính sách, Nhà nước Việt Nam đã có quy định pháp luật, nhằm giảm thiểu
các tác hại từ hoạt động HKDD. Song song với đó, Nhà nước có các quy định
về xử lý vi phạm pháp luật đối với hoạt động HKDD nhằm ngăn ngừa và bảo
vệ pháp luật. Các quy định về xử lý vi phạm trong lĩnh vực HKDD không chỉ
tác động đến hoạt động giao thông hàng không, phát triển kinh tế mà còn trực
tiếp bảo vệ an ninh, an toàn tính mạng và tài sản con người bảo vệ tính
nghiêm minh của pháp luật uy tín của nhà nước.
2
Đến nay, sau hơn 63 năm xây dựng và phát triển, ngành HKDDViệt
Nam đã có những đóng góp không nhỏ vào việc thúc đẩy kinh tế, xã hội phát
triển với độ bao phủ rộng khắp không chỉ tới nhiều địa phương trong cả nước
mà còn vươn đến nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ.Tuy vậy, ngành Hàng
không dân dụng Việt Nam đang đứng trước những thách thức rất lớn về: cạnh
tranh và hiệu quả kinh doanh, mức độ an toàn, an ninh hàng không,...Điều này
có mối quan hệ với những bất cập trong xử lý vi phạm hành chính (VPHC)
trong lĩnh vực HKDD. Thực tế cho thấy, có nhiều hành vi VPHC trong lĩnh
vực HKDDđược xử lý chưa nghiêm, hình thức chế tài không tương thích, với
mức phạt còn quá nhẹ. Có không ít vụ việc vi phạm hành chính trong lĩnh vực
HKDD trong thời gian gần đây được xử lý với mức phạt thực tế thấp chưa
tương xứng với mức độ nguy hiểm của việc vi phạm hành chính tạo tâm lý
thiếu tôn trọng pháp luật, chưa đủ sức răn đe đối với người vi phạm. Bên cạnh
đó, còn có tình trạng bỏ sót, không xử lý các hành vi vi phạm,...Những hạn
chế, yếu kém trong xử lý VPHC có nhiều nguyên nhân, trong đó có sự thiếu
phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước, sự chồng chéo văn bản, dẫn tới
khó xác định chức năng của các cơ quan quản lý, đùn đẩy trách nhiệm quản
lý, đồng thời còn là thái độ thiếu tôn trọng pháp luật của người dân, doanh
nghiệp khi tham gia vào quan hệ HKDD.
Từ thực tiễn trên đây, học viênđã lựa chọn vấn đề: “Xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng ở Việt Nam hiện nay”
làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Luật Hành chính - Hiến
pháp. Luận văn được nghiên cứu nhằm giải quyết những vấn đề lý luận, hệ
thống hóa luật pháp, đánh giá thực trạng xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD
Việt Nam và đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng, bảo đảm việc xử
lý VPHC trong lĩnh vực HKDD ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xử lý vi phạm hành chính nói chung và ở lĩnh vực hàng không dân dụng
nói riêng không phải là vấn đề hoàn toàn mới, mà đã có một số công trình
3
nghiên cứu liên quan đến vấn đề này. Có thể kể tên một số công trình nghiên
cứu tiêu biểu sau đây.
- Nguyễn Thị Thuỷ, Luận văn thạc sỹ luật học “Hoàn thiện chế định
thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính”, Trường Đại học Luật Hà Nội (năm
2001). Trong luận văn này, tác giả đã đi sâu phân tích thực trạng pháp luật về
thẩm quyền và các chủ thể được xử lý vi phạm hành hành chính và nêu ra giải
pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính.
- Kim Long Biên, Luận văn thạc sỹ luật học “Hoàn thiện pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan ở nước ta hiện nay”, Viện
Nhà nước và pháp luật phối hợp đào tạo với Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh (năm 2007). Luận văn nghiên cứu thực trạng pháp luật xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này;
- Phan Thị Tố Uyên, Luận văn thạc sỹ luật học “Pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường”,Trường Đại học Luật Hà
Nội (năm 2011). Luận văn nghiên cứu thực trạng pháp luật xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực môi trường ở Việt Nam, từ đó đưa ra những giải
pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
Bên cạnh các công trình trên đây còn có một số bài báo nghiên cứu về
vấn đề xử lý vi phạm hành chính như sau:
Tác giảLê Vương Longvới bài“Một số vấn đề hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính”, đăng trên Tạp chí Luật học thuộcTrường Đại học Luật Hà Nội, tháng 9/2003số Đặc san về xử lý vi phạm hành chínhtrang.35 Tác giảPGS, TS Bùi Thị Đào, với bài: “ Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính” đăng trên Tạp chí Luật học tháng 9/2003, số Đặc san về xử lý vi phạm hành chính. Tác giảPGS.TS Bùi Xuân Đức, với bài: “ Hệ thống chế tài xử phạt vi phạm hành chính - Những bất cập, hạn chế và phương hướng hoàn thiện” đăng trênTạp chí Luật học năm 2009, trang 8 -15.
4
Tác giả TS.Trần Minh Hương với bài : “ Thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính - Thực trạng quy định, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn
thiện”đăng trênTạp chí Luật học, năm 2008, trang 28 .
Tác giả Kiều Minh với bài: “Những gian nan trong thực hiện thu vi phạm
hành chính” đăngtrên Tạp chí Tài chính năm 2009 số 5A, tr 18 – 22
Những nghiên cứu trên đây chủ yếu đề cập vấn đề xử phạt vi phạm hành
chínhtrên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn. Hầu hết các công trình tập
trung giới thiệu, phân tích, đánh giá pháp luật và thực tiễn hoạt động xử phạt
VPHC nói chung hoặc ở một số lĩnh vực khác mà chưa đề cập đến xử lý
VPHC trong lĩnh vực HKDD, ngoại trừ các báo cáo tổng kết công tác của Bộ
Giao thông vận tải, Cục Hàng không Việt Nam.Do đó, những bất cập trong xử
lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD vẫn đang diễn ra, mà chưa có
phân tích, đánh giá một cách tổng thể, khoa học, xác định nguyên nhân và giải
pháp giải quyết vấn đề. Chính vì vậy, đề tài luận văn "xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực Hàng không dân dụng tại Việt Nam" có trách nhiệm
giải quyết những vấn đề mà các công trình nghiên cứu chưa đề cập, góp
phầncung cấp các luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật
và các giải pháp bảo đảm về phạt hành chính trong lĩnh vực Hàng không dân
dụng ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của luận văn: Làm rõcơ sở lý luận về xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực Hàng không dân dụng và pháp luật về xử lý
vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hàng không dân dụng ở Việt Nam, thực
trạng xử lý để ra các giải pháp bảo đảm xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực Hàng không dân dụng ở Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ:Để đạt được mục đích nói trên, đề tài có nhiệm vụ giải quyết
các vấn đề sau:
5
+ Một là, xác định rõ những vấn đề lý luận về xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực HKDD và hệ thống quy định pháp luật Việt Nam về xử lý
VPHC trong lĩnh vực HKDD.
+ Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực HKDD Việt Namnhững năm gần đây, làm rõ nguyên nhân dẫn đến
thành công và hạn chế về xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD ở Việt Nam.
+ Ba là, xác địnhvề định hướng và đề xuất giải pháp bảo đảm việc thực hiện
xử lývi phạm hành chính lĩnh vực HKDD ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hàng
không dân dụng ở Việt Nam
- Phạm vi:
+ Về nội dung:Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD
+ Về không gian:Hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
HKDD tại Việt Nam.
+ Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu về xử lý vi phạm hành chính
(XLVPHC) trong lĩnh vực HKDD tại Việt Nam từ năm 2014 đến tháng 12/2019
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận:Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận
của lý thuyết hệ thống, chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện
chứng, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về HKDD, VPHC, XLVPHC
trong lĩnh vực HKDD để phân tích, đánh gía tính khả thi của các quy phạm
pháp luật trong thực tiễn thực hiện, định hướng cho các giải pháp nhằm thực
hiện pháp luật về XLVPHC trong lĩnh vực HKDD; tìm hiểu về quá trình hình
thành và phát triển của pháp luật về xử lý VPHC trontg lĩnh vực HKDD.
- Phương pháp nghiên cứu:Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên
cứu mà đề tài đặt ra, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
+ Phương pháp thu thập thông tin
6
+ Phương pháp thống kê: Phương pháp thống kê tổng hợp số liệu để
đánh giá thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD ở Việt Nam
giai đoạn 2014 - 2019;
+ Phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh, đánh giá:Được sử dụng
nhằm làm sáng tỏ các vấn đề về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
HKDD tại Việt Nam từ năm 2014 đến năm 2019.
+ Phương pháp dự báo về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
HKDD tại Việt Nam.
6. Những đóng góp của luận văn
- Về lý luận: Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về xử lý vi
phạm hành chính, khái niệm, đặc trưng của vi phạm hành chính trong lĩnh vực
HKDD, tính đặc thù của vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD và xử lý
vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng.
- Về thực tiễn: Đề tài là tài liệu nghiên cứu cho các nhà hoạch định
chính sách, xây dựng pháp luật tham khảo và sửa đổi, bổ sung các quy định
về xử lý vi phạm hành chính trong thời gian tới, đồng thời cũng là tài liệu
tham khảo hữu ích cho các nhà thực thi, xử lý vi phạm hành chính, nhất là
trong lĩnh vực hàng không dân dụng.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể như sau:
Chương I: Cơ sở lý luận về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
hàng không dân dụng;
Chương II: Thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng
không dân dụngở Việt Nam giai đoạn 2014 - 2019;
Chương III: Phương hướng và giải pháp bảo đảm xử lý vi phạm hành
chínhtrong lĩnh vực hàng không dân dụngViệt Nam.
CHƯƠNG I
7
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ
XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC
HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG
1.1 Tổng quan về ngành Hàng không dân dụng
Ngành Hàng không dân dụng có công cụ lao động, đối tượng và điều
kiện lao động khác biệt với các ngành kinh tế thông thường. Với mục đích lao
động nhằm tạo ra những giá trị kinh tế bằng vận tải đường hàng không, mamg
tính quốc tế cao do đội ngũ lao động có chuyên môn và kỹ năng đặc biệt thực
hiện, ngành HKDD được coi là ngành kinh tế đặc thù.
Tại Việt Nam, ngành Hàng không dân dụng có quá trình hình thành và
phát triển gắn liền với lịch sử đấu tranh giữ nước và dựng nước của dân tộc
Việt Nam. Ngay từ tháng 6/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo xây dựng
Sân bay Lũng Cò thuộc thôn Đồng Đon, xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương,
tỉnh Tuyên Quang để vận chuyển quân sự của mặt trận Đồng Minh cho Cách
mạng Việt Nam, máy bay L5 của Mỹ vận chuyển đưa đón quân đồng minh,
thuốc men, vũ khí từ Côn Minh sang Tân Trào (sân bay dài 400m, rộng 20m).
Sân bay Lũng Cò có thể coi là sân bay “quốc tế” đầu tiên của Việt Nam. Sự
hình thành sân bay Lũng Cò tạo điều kiện thuận lợi trong quan hệ giữa Việt
Nam và quân Đồng Minh chống kẻ thù chung là phát xít Nhật. Góp phần vào
thắng lợi chung của cách mạng tháng 8 năm 1945. Ngày 9/3/1949 Đại tướng
Võ Nguyên Giáp đã ra quyết định thành lập Ban nguyên cứu không quân
thuộc Bộ Tổng tham mưu; đồng chí Hà Đổng- Trưởng ban. Nhiệm vụ của
Ban là xây dựng cơ sở ban đầu cho không quân nhân dân; tìm hiểu hoạt động
của không quân Pháp và nghiên cứu, đề xuất các biện pháp chiến đấu; chuẩn
bị cở sở vật chất tài liệu, từng bước huấn luyện đội ngũ cán bộ và nhân viên
kỹ thuật, chuẩn bị điều kiện mở rộng hoạt động. Sau cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp thắng lợi; ngày 10 /10 /1954 cùng với việc tiếp quản Thủ đô
Hà Nội, bộ đội đã tiến vào sân bay Gia Lâm tiếp quản các vị trí quan trọng.
8
Đúng 12 giờ đêm ngày 31/12/1954 từ sân bay Gia Lâm, một bức điện đã phát
để báo cho toàn thế giới biết: “Kể từ 0 giờ ngày 01/1/1955, sân bay Gia Lâm
không còn nằm trong khu quản chế của Đông Dương. Tất cả các máy bay
muốn vào, ra miền Bắc Việt Nam, từ vĩ tuyến 17 trở ra, phải xin phép cơ quan
điều phái của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH) đặt tại sân bay
Gia Lâm - Hà Nội”. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu bước phát triển
mớicủa Việt Nam trong phát triển ngành HKDD cũng như thực hiện chủ
quyền về vùng bay do Nhà nước VNDCCH quản lý.
Để chuẩn bị cơ sở ban đầu cho việc xây dựng và phát triển không quân
và Hàng không dân dụng, ngày 3/3/1955, Bộ Quốc phòng ra quyết định số
15/QĐA thành lập Ban nghiên cứu sân bay trực thuộc Tổng tham mưu
trưởng. Ban có nhiệm vụ chỉ huy, quản lý các sân bay hiện có; tổ chức chỉ
huy các chuyến bay hàng ngày; giúp Bộ tổng tham mưu nghiên cứu những
nội dung về tổ chức xây dựng lực lượng không quân phù hợp với kế hoạch
xây dựng quân đội trong giai đoạn mới.
Sau khi hoàn thành kế hoạch xây dựng kinh tế và hàn gắn vết thương
chiến tranh (1955-1959), miền Bắc bước vào thời kỳ cải tạo và thực hiện kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất và chi viện cho cho Cách mạng miền Nam.Để tăng
cường công tác quản lý lực lượng của HKDD đồng thời nâng cao vai trò, vị
trí của HKDD Việt Nam trên trường quốc tế; ngày 7/6/1963, Thủ tướng
Chính phủ ra Quyết định số 39/BT thành lập lại Cục HKDD Việt Nam. Trong
tình hình cả nước có chiến tranh, cán bộ, chiến sĩ không quân vận tải vừa làm
nhiệm vụ quân sự, vừa làm nhiệm vụ bay dân dụng. Các tổ lái và máy bay
mang ký hiệu của Hàng không dân dụng Việt Nam (thực chất là lực lượng
quân đội, nằm trong biên chế của Trung đoàn Không quân vận tải 919).
Trung đoàn 919 đã tổ chức hàng ngàn chuyến bay vận tải phục vụ mở đường
Trường Sơn, vận chuyển vũ khí, khí tài phục vụ các đơn vị trong Quân chủng
Phòng không - Không quân và nhiệm vụ bay đột xuất theo yêu cầu của công
tác sẵn sàng chiến đấu. Đặc biệt trong thời gian này, Hàng không Việt Nam
9
cùng với Liên Xô lập cầu Hàng không Liên xô - Việt Nam-Lào để vận chuyển
vũ khí đạn dược, lương thực, quân trang, quân dụng, chuyển quân, bay trinh
sát, liên lạc... làm nhiệm vụ quốc tế với cách mạng Lào.
Sau khi đất nước thống nhất ( từ sau ngày 30 /4/1975), nhu cầu đi lại bằng
đường hàng không trong cả nướcrất lớn, đòi hỏi ngành HKDD phải trở thành
ngành kinh tế kỹ thuật quan trọng của đất nước. Do vậy, Ngày 11/2/1976, Thủ
tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 28/CP về việc thành lập Tổng cục
HKDD trực thuộc Hội đồng Chính phủ nhưng về mặt tổ chức quản lý và chỉ
đạo xây dựng ngành HKDD vẫn trực thuộc Bộ Quốc phòng. Tổng cục HKDD
có các đơn vị sản xuất và phục vụ sản xuất trực thuộc là Đoàn bay 919 hoạt
động trên 11 sân bay: Gia Lâm, Tân Sơn Nhất, Phú Quốc, Rạch Giá, Đà
Nẵng, Đồng Hới, Phú Bài, Liên Khương, Buôn Ma Thuột, Nha Trang, Quy
Nhơn. Lúc này tổng số có 42 chiếc máy bay các loại. Tháng 6/1976, Tổng cục
HKDD ra quyết định về việc thay số đăng ký, sơn cờ và chữ trên các loại máy
bay để thống nhất quản lý nhà nước và chủ quyền quốc gia đối với phương
tiện vận tải hàng không và phù hợp với tập quán quốc tế. Tiến hành mở lại
đường bay A1 (trục Băng Cốc – Hồng Công); thảo luận về việc khôi phục
quyền kiểm soát, quản lý và điều hành Vùng thông báo bay (FIR) Sài Gòn
nay là FIR Hồ Chí Minh. Ngày 29/8/1989, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành
Nghị định số 112/HĐBT quy định chức năng, nhiệm vụ và bộ máy tổ chức
của Tổng cục HKDD Việt Nam, thực hiện chức năng là cơ quan quản lý nhà
nước về HKDD và Quyết định 225/CT về việc thành lập Tổng công ty Hàng
không Việt Nam thực hiện chức năng vận tải hàng không và các dịch vụ đồng
bộ. Nghị định 112/HDBT nêu rõ “Hàng không dân dụng Việt Nam là ngành
kinh tế, kỹ thuật của Nhà nước; Tổng cục Hàng không dân dụng là cơ quan
trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng”. Nghị định 112/HĐBT và Quyết định 225/CT
của Hội đồng Bộ trưởng và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng là một bước ngoặt
lịch sử của ngành HKDD Việt Nam. Từ đó, cơ quan quản lý nhà nước về
HKDD là cơ quan dân sự, các đơn vị hoạt động kinh tế là một tổ chức kinh tế
10
quốc doanh. Ngày 30/7/1992, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số
242/HĐBT, thành lập Cục HKDD Việt Nam( nay là Cục Hàng không Việt
Nam), trực thuộc Bộ Giao thông vận tải và Bưu điện. Cục Hàng không dân
dụng Việt Nam là cơ quan quản lý nhà nước về HKDD, có tư cách pháp nhân,
có con dấu và ngân sách riêng, được mở tài khoản tại Kho Bạc Nhà nước.
Ngành Hàng không Việt Nam chính thức chuyển từ hoạch toán tập trung toàn
ngành sang cơ chế hoạch toán độc lập.
Ngày 26/3/1993, Văn phòng Chính phủ đã có công văn 86/TB thông
báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ về phương hướng phát triển của
Ngành Hàng không Việt Nam trong thời gian từ 1993 - 2000 phải tập trung
xây dựng và phát triển Ngành Hàng khôngViệt Nam thành một nền kinh tế kỹ
thuật quan trọng, đủ sức phục vụ các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong
nước cũng như tranh thủ mọi khả năng mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với
nước ngoài; đồng thời đảm bảo các yêu cầu phát triển văn hóa – xã hội, an
ninh quốc phòng của đất nước. Cục Hàng không Việt Nam là cơ quan quản lý
nhà nước đối với mọi doanh nghiệp hàng không. Vì thế cần tách chức năng
quản lý nhà nước của Cục Hàng không Việt Nam với các hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp hàng không khác. Từ tháng 5/1993, Ngành
Hàng không dân dụng Việt Nam đã chính thức hoạt động theo cơ chế mới.
Theo Nghị định 242/HĐBT và Quyết định 36/TTg của Thủ tướng Chính phủ,
toàn ngành sắp xếp và tổ chức theo hướng tách khối quản lý nhà nước ra khỏi
khối sản xuất kinh doanh. Theo đó, Cục Hàng không Việt Nam là cơ quan
quản lý nhà nước về chuyên ngành HKDD Việt Nam trong cả nước. Các đơn
vị sản xuất kinh doanh có 13 doanh nghiệp; trong đó hãng Hàng không Quốc
gia Việt Nam (Vietnam Airlines) là doanh nghiệp lớn nhất.
Có thể nói, do chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước về Hàng
không dân dụng để phục vụ xây dựng, phát triển kinh tế và bảo vệ đất nước,
ngành HKDD Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc trong những năm qua.
Hiện nay ở Việt Nam có 22 sân bay có hoạt động bay dân sự (trong đó có 11
11
sân bay quốc tế), số lượng máy bay đăng ký quốc tịch Việt Nam lên đến 161
chiếc, có 46 hãng hàng không từ 24 quốc gia, lãnh thổ có đường bay đến Việt
Nam.
Theo thống kê của ngành Hàng không Việt Nam, tính đến tháng 12/2019
toàn ngành Hàng không Việt Nam có hơn 44.000 người.Trong đó cơ cấu theo
lĩnh vực, gồm:
- Khối hành chính, sự nghiệp: 796 người = 1,8%
- Khối cơ quan Cục Hàng không Việt Nam: 187 người = 0,59%
- 03 Cảng vụ hàng không miền Bắc, Trung Nam: 435 người = 0,4%
- Trung tâm Y tế Hàng không: 40 người = 0,14%
- Học viện Hàng không Việt Nam: 134 người = 0,61%
- Khối các doanh nghiệp hàng không: 37.367 người = 84,7%
- Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hàng không và phi hàng khôngkhác:
5.983 người = 13,5%.
Những lĩnh vực hoạt động chủ yếu của Hàng không dân dụng bao gồm:
- Vận tải hàng không: Vận chuyển hành khách, hàng hóa, hàng không
chung do các nhà vận chuyển/hãng hàng không thực hiện.
- Kết cấu hạ tầng hàng không: Các cảng hàng không, các sân bay, dịch
vụ không lưu…
- Công nghiệp hàng không: Sản xuất, bảo dưỡng tàu bay, động cơ, thân,
càng, các cấu kiện thiết bị điện tử… trên tàu bay.
- Các dịch vụ kỹ thuật, thương mại hàng không: Các dịch vụ thương
mại kỹ thuật mặt đất, cung ứng xăng dầu, cung ứng vật tư phụ tùng máy bay,
huấn luyện, đào tạo, ăn uống, giải trí…
- Quản lý nhà nước chuyên ngành Hàng không dân dụng phối hợp với
các cơ quan có liên quan như hải quan, cửa khẩu, kiểm dịch y tế…
Đặc trưng của hoạt động Hàng không dân dung là ngành kinh tế đặc
biệt và mang tính toàn cầu, đòi hỏi trình độ quản lý cao, hiện đại. Với chức
năng điều hành, cung ứng dịch vụ không lưu và các dịch vụ phụ trợ khác
12
nhằm đảm bảo an toàn, điều hòa và có hiệu quả cho tất cả các máy bay dân
dụng hoạt động tại các cảng hàng không. An toàn hàng không là tiêu chuẩn về
việc đảm bảo không có những nguy cơ nào có thể gây tổn hại cho con người,
máy bay và những vật dụng có liên quan. Hoạt động chủ yếu trên không lưu,
an toàn hàng không được đánh giá là vô cùng quan trọng vì chỉ cần sai một
chi tiết nhỏ thì mức độ rủi ro rất lớn, có thể gây ra nhiều thiệt hại đến tính
mạng và tài sản.
Bên cạnh an toàn hàng không, lĩnh vực Hàng không dân dụng còn bao
gồm việc sử dụng, khai thác cơ sở hạ tầng như: Cảng hàng không, Sân bay.
Đây không chỉ là cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng cơ bản của ngành hàng
không mà còn là nút giao thông quan trọng, đưa đón hành khách, hàng hoá từ
nơi này đến nơi khác. Sân bay cũng là trung tâm kinh tế, thương mại, du lịch,
văn hoá. Sân bay bao gồm nhiều Cảng hàng không, có các tuyến bay đa
hướng, các công trình giao thông hội tụ ở cả mặt đất, trên cao và dưới ngầm,
có thể có các đường bộ, sắt, thuỷ kết nối nội địa hoặc liên vận quốc tế.
Do tính chất đặc thù, cho nên các hoạt động trong lĩnh vực Hàng không
dân dụng đòi hỏi phải đảm bảo an ninh, an toàn và buộc phải hoạt động đồng
bộ trong một quy trình chặt chẽ. Các quy định hoạt động trong lĩnh vực Hàng
không dân dụng vì thế cần có sự kiểm soát, quản lý nghiêm ngặt từ phía Nhà
nước về tiêu chuẩn đủ điều kiện bay; bảo dưỡng, sửa chữa tàu bay và khai
thác tàu bay; quốc tịch tàu bay, quản lý và khai thác cảng hàng không, sân
bay; cung cấp dịch vụ tại cảng hàng không, sân bay; vấn đề đi lại, điều khiển,
vận hành phương tiện, thiết bị hoạt động trong cảng hàng không, sân bay; vấn
đề phòng, chống thiên tai và khẩn nguy sân bay, bảo trì công trình hàng
không; vấn đề xử lý về bảo vệ môi trường trong khai thác tàu bay, bảo vệ môi
trường tại cảng hàng không, sân bay; vấn đề nhân viên hàng không, đào tạo,
huấn luyện nghiệp vụ, sử dụng nhân viên hàng không và giám định sức khỏe
cho nhân viên hàng không; vấn đề hoạt động bay, vận chuyển hàng không và
hoạt động hàng không chung; vấn đề an ninh, an toàn hàng không,...
13
Để thực hiện nhiệm vụ quản lý, Nhà nước thường tiến hành các công
việc sau đây:
- Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, định mức
kinh tế - kỹ thuật, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, quy chế, quy trình về hàng
không dân dụng.
- Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính
sách phát triển ngành HKDD theo quy định của pháp luật.
- Quản lý về hoạt động bay dân dụng trong lãnh thổ của nước mình và
ở vùng thông báo bay do nhà nước quản lý; quản lý việc đầu tư xây dựng cơ
sở cung cấp dịch vụ, hệ thống kỹ thuật, trang bị, thiết bị bảo đảm hoạt động
bay.
- Quy hoạch, quản lý việc đầu tư xây dựng, tổ chức khai thác cảng hàng
không, sân bay; quản lý việc sử dụng đất tại cảng hàng không, sân bay.
- Quản lý hoạt động vận chuyển hàng không; kiểm tra, giám sát hoạt
động của các doanh nghiệp vận chuyển hàng không, doanh nghiệp kinh doanh
dịch vụ hàng không.
- Đăng ký tàu bay và đăng ký các quyền đối với tàu bay.
- Quản lý việc thiết kế, sản xuất, khai thác, sửa chữa, bảo dưỡng, xuất
khẩu, nhập khẩu tàu bay, động cơ tàu bay, cánh quạt tàu bay, trang bị, thiết bị
của tàu bay và các trang bị, thiết bị, vật tư khác phục vụ hoạt động hàng
không dân dụng.
- Cấp, công nhận chứng chỉ, giấy phép, giấy chứng nhận và các giấy tờ,
tài liệu khác liên quan đến hoạt động HKDD.
- Quản lý việc bảo đảm an ninh, an toàn cho hoạt động hàng không dân
dụng; tổ chức và bảo đảm an ninh, an toàn chuyến bay chuyên cơ, chuyến bay
đặc biệt.
- Quản lý hoạt động tìm kiếm, cứu nạn và điều tra sự cố, tai nạn tàu
bay.
- Hợp tác quốc tế về hàng không dân dụng.
14
- Quản lý việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của ngành hàng
không dân dụng, giám định sức khỏe nhân viên hàng không.
- Quản lý hoạt động khoa học, công nghệ trong lĩnh vực Hàng không
dân dụng; bảo vệ môi trường, phòng, tránh thiên tai, ứng phó với biến đổi khí
hậu trong hoạt động HKDD.
- Quản lý giá, phí và lệ phí trong hoạt động Hàng không dân dụng.
- Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong
hoạt động HKDD.
Tại Việt Nam, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về Hàng không
dân dụng. Bộ Giao thông vận tải chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện
quản lý nhà nước về hàng không dân dụng. Cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản
lý nhà nước chuyên ngành HKDD là Cục Hàng không Việt Nam(thuộc Bộ
Giao thông vận tải) là Nhà chức trách hàng không.
Nhà chức trách hàng không có nhiệm vụ và quyền hạn trong việc ban
hành chỉ thị, huấn lệnh; thực hiện các biện pháp khẩn cấp bao gồm cả việc
đình chỉ chuyến bay và hoạt động của phương tiện, thiết bị, nhân viên hàng
không để bảo đảm an toàn hàng không, an ninh hàng không và duy trì hoạt
động đồng bộ của dây chuyền vận chuyển hàng không. Đồng thời, giám sát
việc khai thác, bảo dưỡng tàu bay, kết cấu hạ tầng hàng không, bảo đảm hoạt
động bay, khai thác vận chuyển hàng không, cung cấp dịch vụ hàng không,
dịch vụ phi hàng không;cấp, phê chuẩn, công nhận giấy phép, giấy chứng
nhận, năng định, tài liệu khai thác chuyên ngành hàng không dân dụng; Tổ
chức, vận hành và chỉ đạo hệ thống giám sát, quản lý an ninhhàng không, an
toàn hàng không, tìm kiếm cứu nạn hàng không, khẩn nguy sân bay; tổ chức,
chỉ đạo xử lý, điều tra, xác minh các tình huống uy hiếp an toàn hàng không,
an ninh hàng không, sự cố, tai nạn hàng không, thực hiện chuyến bay chuyên
cơ; Bổ nhiệm giám sát viên trong lĩnh vực bảo đảm an toàn hàng không, an
ninh hàng không, chất lượng dịch vụ hàng không theo tiêu chuẩn do Bộ
trưởng Giao thông vận tải quy định; Tổng hợp, phân tích và đánh giá báo cáo
15
sự cố, tai nạn tàu bay; kiểm tra, giám sát việc khắc phụcsự cố, tai nạn tàu bay
và thực hiện biện pháp phòng ngừa sự cố, tai nạn tàu bay; điều tra sự cố, tai
nạn tàu bay; Ban hành hoặc công nhận áp dụng quy trình, tiêu chuẩn cơ sở
chuyên ngành hàng không dân dụng; Công bố, phát hành trong nước và quốc
tế thông tin, thông báo liên quan đến hoạt động HKDD; Thực hiện thanh tra
chuyên ngành HKDD.
Bộ Quốc phòng có trách nhiệm quản lý và bảo vệ vùng trời Việt Nam;
giám sát hoạt động bay dân dụng; phối hợp với Bộ Giao thông vận tải trong
việc tổ chức và sử dụng vùng trời phục vụ hoạt động HKDD.
Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm phối hợp với Bộ Giao thông vận tải thực hiện quản lý nhà nước
về HKDD theo quy định của Chính phủ.
Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
thực hiện quản lý nhà nước về HKDD tại địa phương.
Ngoài ra, các cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước chuyên
ngành Hàng không dân dụng thực hiện thanh tra chuyên ngành HKDD và có
nhiệm vụ, quyền hạn:
- Thanh tra việc chấp hành quy định của pháp luật về Hàng không dân
dụng; điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên; quy tắc, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, quy chế, quy trình khai thác
chuyên ngành HKDD
- Đình chỉ hoạt động của tổ chức, cá nhân và phương tiện vi phạm quy
định về an toàn hàng không, an ninh hàng không hoặc không đáp ứng tiêu
chuẩn, điều kiện kỹ thuật an toàn hàng không, an ninh hàng không;
- Xử phạt vi phạm hành chính (VPHC) trong lĩnh vực Hàng không dân
dụng theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính;
- Tạm giữ tàu bay;
16
- Phối hợp với Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ và các cơ quan hữu quan ở địa phương trong việc phát hiện, ngăn chặn,
xử lý hành vi vi phạm pháp luật về HKDD;
- Kiến nghị áp dụng biện pháp xử lý và khắc phục những vi phạm trong
hoạt động HKDD và thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định
của pháp luật.
1.2. Bản chất, khái niệm vi phạm hành chính và vi phạm hành
chínhtrong lĩnh vực hàng không dân dụng
Để hoạt động Hàng không dân dụng được an toàn và hiệu quả, các quy
định của Nhà nước về lĩnh vực HKDD phải có tính khả thi, phát huy tác dụng
thực tế, tạo sự răn đe, có tính tuân thủ thực hiện cao. Điều đó không chỉ đòi
hỏi các quy định về điều kiện hoạt động HKDD bao quát đầy đủ các nội dung
cần thiết mà cần phải tạo tiền đề cho các cơ quan quản lý nhà nước có căn cứ
xử lý nghiêm minh các hànhvi phạm, trong đó các quy định phải chỉ ra những
hành vi nào là vi phạm pháp luật, mức độ vi phạm pháp luật hành chính, dân
sự, hình sự cụ thể. Vi phạm hành chính trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng đều có
dấu hiệu chung là hành vi trái quy định pháp luật hành chính diễn ra trong
thực tế và gây nguyên hiểm cho xã hội, nhưng ở mức độ thấp, chưa đến mức
truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời đó phải là hành vi có lỗi của chủ thể
xác định.
Vi phạm hành chínhlà một loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ biến
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy mức độ nguy hiểm thấp hơn
tội phạm nhưng VPHC cũng là hành vi gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại
cho lợi ích của nhà nước, tập thể, lợi ích cá nhân cũng như lợi ích của cộng
đồng. Nếu không được ngăn chặn, xử lý kịp thời thì VPHC sẽ là nguyên nhân
dẫn tới tình trạng phạm tội nảy sinh và tạo ra nhiều hệ lụy xã hội khác. Khi
định xác định đúng về hành vivi phạm hành chính sẽ cho phép xác định được
các vi phạm cụ thể trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Xác định được đúng
hành vi vi phạm hành chính (tức là xác định đúng cơ sở xử phạt), thì việc thực
17
hiện xử phạt hành chính mới đúng đắn, mới đảm bảo được quyền và lợi ích
hợp pháp của nhà nước, của tổ chức và cá nhân, phát huy được hiệu quả và
mục đích của việc xử phạt VPHC là nhằm lập lại trật tự quản lý nhà nước bị
xâm hại, góp phần giáo dục người vi phạm và cảnh báo, phòng ngừa vi phạm
trong tương lai, tránh được sự tuỳ tiện trong xử phạt hành chính.
Vi phạm hành chính, về bản chất là hành vi vi phạm pháp luật. Trong Từ
điển pháp luật, vi phạm pháp luật được hiểu theo nghĩa rộng, là các việc sai,
trái pháp luật nói chung. Theo nghĩa hẹp, vi phạm hành chính là hoạt động
làm việc sai, trái pháp luật, nhưng chưa cấu thành tội phạm.
Trong thực tiễn thi hành và áp dụng pháp luật hiện nay, vi phạm hành
chính thường được hiểu một cách chung nhất là hành vi vi phạm các quy tắc
quản lý của nhà nước nhưng không phải tội phạm và bị xử lý theo thủ tục
hành chính mà không viện đến Toà án và các thủ tục tư pháp.
Trên thế giới, nhiều nước cũng có quan niệm rằng, VPHC là các hành
vi vi phạm pháp luật mà không phải là tội phạm và bị xử phạt bằng các chế tài
hành chính.
Trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, vi phạm hành chính là vấn đề
được đề cập chính thức lần đầu tiên tại Pháp lệnh Xử phạt VPHC ngày
30/11/1989. Theo đó, “ vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm quy tắc quản lý Nhà nước mà
không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt
hành chính” (Điều 1). Cách quy định như vậy cho thấy, các dấu hiệu pháp lý
cơ bản của VPHC là: hành vi, tính trái pháp luật của hành vi, lỗi, và bị xử
phạt hành chính. Ngoài mặt khách quan và mặt chủ quan thể hiện qua các dấu
hiệu trên, quy định này cũng đề cập đến yếu tố chủ thể của cấu thành pháp lý
của VPHC. Sau 5 năm triển khai Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính
(1986) đã thể hiện những bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung, do đó nó được
thay thế bằng Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính (1995), tiếp theo là Pháp
lệnh về Xử lý vi phạm hành chính (2002). Về cơ bản, nội dung của Pháp lệnh
18
Xử lý vi phạm hành chính năm 1995 và năm 2002 đều có quy định và xác
định: Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ
chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý
nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị
xử phạt hành chính.
Năm 2012, vấn đề xử lý vi phạm hành chính đã được quy định trong
một đạo luật. Tại Khoản 1 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính (2012) xác
định: "vi phạm hành chínhlà hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi
phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm
và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính".
Như vậy, vi phạm hành chính có những dấu hiệu cơ bản như sau:
- Là hành vi vi phạm quy định pháp luật hành chính: Điều đó có nghĩa,
vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDDlà hành vi trái pháp luật, vi phạm
các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực HKDD; có tác
hại (tính nguy hiểm) do hành vi vi phạm của chủ thể gây ra, nhưng ở mức độ
thấp, chưa hoặc khôngcấu thành tội phạmhình sự và hành vi đó được quy định
trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.
- Là hành vi vi phạm đã diễn ra trong thực tế: Đó phải là một hành vi
khách quan đã được thực hiện (hành động hoặc không hành động), phải là
một việc thực, chứ không phải chỉ tồn tại trong ý thức hoặc mới chỉ là dự
định, đây có thể coi là dấu hiệu “vật chất” (material) của vi phạm.
- Chủ thể vi phạm có thể xác định: hành vi đó do một cá nhân hoặc
pháp nhân (tổ chức) thực hiện.
- Là hành vi có lỗi: Hành vi đó được tiến hành bởi người vi phạm nhận
thức được vi phạm của mình, hình thức lỗi có thể là cố ý, nếu người vi phạm
nhận thức được tính chất trái pháp luật trong hành vi của mình, thấy trước hậu
quả của vi phạm và mong muốn hậu quả đó xảy ra hoặc ý thức được hậu quả
và để mặc cho hậu quả xảy ra. Hình thức lỗi còn có thể là vô ý trong trường
hợp người vi phạm thấy trước được hậu quả của hành vi nhưng chủ quan cho
19
rằng mình có thể ngăn chặn được hậu quả hoặc không thấy trước hậu quả sẽ
xảy ra dù phải thấy trước và có thể thấy trước được hậu quả của vi phạm. Đây
có thể coi là dấu hiệu “tinh thần” của vi phạm.
Dựa vào tính chất, phạm vi của các hành vi vi phạm hành chính trong
lĩnh vực HKDD, có thể định nghĩa về VPHC trong lĩnh vực HKDD như sau:
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hàng không dân dụng là hành vi do
cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại
đến những quan hệ về hàng không dân dụng phát sinh trong quá trình thực
hiện các quy định của ngành Hàng không dân dụng mà theo quy định của
pháp luật phải bị xử lý vi phạm hành chính.
1.3. Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng
không dân dụng
Cũng như các loại vi phạm pháp luật, VPHC nói chung, vi phạm hành
chính trong lĩnh vực HKDD nói riêng đều được cấu thành bởi các yếu tố:
khách quan, chủ quan, chủ thể và khách thể.
1.3.1. Mặt khách quan
Mặt khách quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hàng không
dân dụng bao gồm các dấu hiệu: hành vi, tính trái pháp luật của hành vi, hậu
quả gây thiệt hại mà hành vi gây ra cho xã hội, quan hệ nhân quả, thời gian,
địa điểm, phương tiện vi phạm...
Vi phạm hành chính có hình thức biểu hiện là hành vi. Không có hành
vi thì không có vi phạm pháp luật nói chung và VPHC nói riêng. Hành vi vi
phạm hành chính trong lĩnh vực HKDDcũng biểu hiện dưới dạng hành vi, có
thể dưới hình thức hành động hoặc không hành động.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hàng không dân dụng là hành vi có
tính chất trái pháp luật, thể hiện ở chỗ hành vi đó được thực hiện ngược với
yêu cầu của quy phạm pháp luật. Nói cách khác, đó là những hành vi xâm
phạm quy định pháp luật về lĩnh vực HKDD, được chế định trách nhiệm hành
chính bảo vệ. Cụ thể hơn, đó là hành động bị pháp luật hành chính cấm, hoặc
20
không thực hiện hay thực hiện không đúng hành động mà pháp luật hành
chính buộc phải thực hiện.
Khi vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD đã xảy ra hậu quả, cần
xem xét mối liên hệ nhân quả giữa hành vi VPHC và hậu quả của hành vi.
Khi xem xét mặt khách quan của VPHC trong những vụ việc cụ thể cần tính
đến một số yếu tố như thời gian, địa điểm, hoàn cảnh, phương tiện vi phạm.
Cũng như các hành vi vi phạm hành chính ở các lĩnh vực khác, mặt
khách quan của hành vi VPHC trong lĩnh vực HKDD trước hết là các hành vi
vi phạm và hậu quả cho xã hội mà hành vi vi phạm gây ra hoặc đe doạ gây ra.
Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD tương đối đa dạng, tuy
nhiên có thể chia thành hai nhóm như sau:
- Thứ nhất, nhóm hành vi vi phạm trực tiếp các quy định làm nảy sinh
sự kiện
Nhóm hành vi vi phạm trực tiếp các quy định pháp luật hành chính
trong lĩnh vực HKDD làm nảy sinh sự kiện bao gồm các hành vi vi phạm trực
tiếp quy định về HKDD. Các hành vi vi phạm quy định của ngành HKDD
như: Không nộp lệ phí khi tham gia giao thông với hình thức máy bay, đóng
không đủ số người thuộc diện phải đóng phí bắt buộc. Nhóm hành vi này gây
thiệt hại trước hết là thiệt hại về tài chính cho ngành hàng không, nguy hiểm
hơn, nhóm hành vi này xâm hại đến quyền được hưởng các chế độ HKDD của
người tham gia giao thông bằng phương tiện tàu bay cả ở hiện tại và trong
tương lai.
- Thứ hai, nhóm các hành vi vi phạm liên quan đến tổ chức, hoạt động
HKDD
Nhóm vi phạm này có những hành vi sau:
+ Một là, hành vi của người quản lý trong ngành HKDD cố ý chiếm
đoạt hoặc để người khác chiếm đoạt tiền của khách hàng;
21
+ Hai là, hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trong ngành HKDD,
hệ thống y tế, hệ thống cơ quan lao động cố ý giải quyết sai hoặc lạm dụng
chính sách của Nhà nước liên quan đến ngành HKDD để trục lợi;
+ Ba là, hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trong ngành HKDD,
cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý và đầu tư.
Xét về hậu quả, hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD đều
xâm hại đến quan hệHKDD, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước. Về hình
thức, hậu quả của những hành vi này có thể thể hiện dưới dạng là thiệt hại
trực tiếp về vật chất cho ngành HKDD và thiệt hại gián tiếp cho người tham
gia và cho xã hội. Đối với ngành hàng không, thiệt hại vật chất được thể hiện
dưới dạng bị chiếm đoạt, bị thất thu (không thu được hoặc thu không đủ) hay
bị đe doạ gây ra đối với lợi ích trước mắt như các quyền được hưởng chế độ
ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp.
1.3.2. Mặt chủ quan
Mặt chủ quan của vi phạm hành chínhtrong lĩnh vực Hàng không dân
dụngthể hiện ở yếu tố lỗi của người vi phạm. Lỗi là dấu hiệu pháp lý bắt buộc
của VPHC. Cần phân biệt hành vi trái pháp luật với vi phạm pháp luật, nếu
chưa xác định yếu tố chủ quan: Thái độ, động cơ, ý chí của người vi phạm đối
với hành vi của họ và đối với hậu quả của hành vi. Có hai hình thức là lỗi cố ý
và lỗi vô ý. Lỗi cố ý thể hiện ở việc người có hành vi VPHC nhận thức được
tính chất nguy hại cho xã hội của hành vi nhưng vẫn thực hiện hoặc để mặc
cho hậu quả hành vi đó xảy ra. Lỗi vô ý thể hiện ở việc người có hành
viVPHC không biết hoặc không nhận thức được hành vi trái pháp luật mặc dù
cần phải biết và nhận thức được, hoặc nhận thức được nhưng cho rằng có thể
ngăn ngừa được hậu quả.
Trong mặt chủ quan của nhiều vi phạm hành chính, yếu tố động cơ,
mục đích vi phạm cũng được tính đến khi xem xét để quyết định các hình
thức và mức xử phạt cụ thể. Khi xem xét, đánh giá một hành vi trái pháp luật
có phải là VPHC hay không, cần xem xét đẩy đủ các dấu hiệu, yếu tố cấu
22
thành pháp lý của vi phạm, từ đó có thể xác định là vi phạm gì để chọn chế tài
đúng.
Trong lĩnh vực Hàng không dân dụng, dấu hiệu nhận biết về mặt chủ
quan của hành vi VPHC là yếu tố lỗi gồm lỗi cố ý và lỗi vô ý của chủ thể vi
phạm. Lỗi cố ý trong hành viVPHC lĩnh vực HKDD thể hiện ở sự cố tình vi
phạm khi nhận biết được hành vi mình đang thực hiện là hành vi trái với quy
định của pháp luật HKDD. Tuy nhiên, các chủ thể (doanh nghiệp và cá
nhân)này lại cố tình vi phạm. Hoặc là lỗi vô ý không biết rằng hành vimình
đang thực hiện là trái quy định của pháp luật.
Ngoài dấu hiệu bắt buộc là lỗi, ở một số trường hợp cụ thể, pháp luật
còn xác định dấu hiệu bắt buộc của một số loại hành vi trong VPHC trong
lĩnh vực HKDD. Chẳng hạn, các hành vi vi phạm hành chính theo quy định
của Nghị định số 147/2013/NĐ-CP ngày 30/10/2013 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực HKDD, theo đó đối tượng bị xử lý VPHC là: “Cá nhân,
tổ chức Việt Nam và cá nhân, tổ chức nước ngoài có hành vi VPHC trong lĩnh
vực HKDD trong lãnh thổ Việt Nam, trên tàu bay đăng ký quốc tịch Việt
Nam, ở vùng thông báo bay do Việt Nam quản lý ”.
1.3.3. Chủ thể
Chủ thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD là các nhân hay
tổ chức có năng lực trách nhiệm hành chính đã thực hiện hành vi VPHC. Pháp
luật hành chính quy định chỉ truy cứu trách nhiệm hành chính đối với những
cá nhân có năng lực hành vi pháp luật hành chính. Người có năng lực hành vi
pháp luật hành chính là người có khả năng nhận được tính chất nguy hại cho
xã hội của hành vi, hậu quả của hành vi và điều khiển được hành vi đó.
Những người hành động trong tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng và sự
kiện bất ngờ, hoặc không có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của mình
thì không phải chịu trách nhiệm hành chính, nghĩa là không bị xử phạt VPHC.
Các chủ thể phải chịu trách nhiệm hành chính gồm: Cá nhân và tổ chức theo
quy định tại Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Chủ thể thực hiện hành vivi
23
phạm hành chínhtrong lĩnh vực HKDD có thể là cá nhân, tổ chức có năng lực,
chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật hành chính và pháp
luật về HKDD. Có thể chia thành hai nhóm chủ thể là cá nhân và chủ thể là
pháp nhân.
Nhóm chủ thể là cá nhân: Theo quy định của Luật Hàng không dân
dụng thuộc về nhóm này bao gồm công dân Việt Nam có hành vi vi phạm cụ
thể trong lĩnh vực HKDD. Những hành vi vi phạm hành chính mà cá nhân
thực hiện trong lĩnh vực HKDD chủ yếu bao gồm: Các hành vi vi phạm quy
định của ngành HKDD và các hành vi vi phạm liên quan đến tổ chức, hoạt
động về HKDD.
Thứ hai, nhóm chủ thể là pháp nhân: Thuộc đối tượng tham gia HKDD
gồm: Cơ quan Nhà nước; đơn vị sự nghiệp; đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức
chính trị; tổ chức chính trị - xã hội; tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp; tổ
chức xã hội – nghề nghiệp; tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài,
tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp. hợp tác xã,
tổ hợp tác, tổ chức khác... các cơ quan, tổ chức khác. Hành vi vi phạm hành
chính mà nhóm này thực hiện chủ yếu là hành vi vi phạm các quy định về
HKDD khi tham gia giao thông bằng đường hàng không.
1.3.4. Khách thể
Khách thể của vi phạm pháp luật là cái mà hành vi vi phạm đó xâm hại.
Khách thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD là những quan hệ xã
hội được các quy phạm pháp luật hành chính bảo vệ. Khách thể là yếu tố quan
trọng quy định tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật. Khách
thể của vi phạm hành chính rất đa dạng. Đó là trật tự quản lý hành chính Nhà
nước, quyền sở hữu, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân... Như vậy,
khách thể của VPHC không chỉ là trật tự quản lý nếu hiểu theo nghĩa hẹp của
các khái niệm đó. Mặt khác, không phải toàn bộ các quan hệ quản lý nhà
nước là khách thể của VPHC, mà chỉ những quan hệ được bảo vệ bởi trách
nhiệm hành chính trong số đó mà thôi.
24
Dấu hiệu khách thể để nhận biết về vi phạm hành chính trong lĩnh vực
HKDD là hành vi vi phạm đã xâm hại đến quan hệ kinh tế, xã hội trong lĩnh
vực HKDD, được pháp luật hành chính và pháp luật vềHKDD bảo vệ. Nói
cách khác, vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD là hành vi trái với các
quy định của pháp luật về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực HKDD, được quy
định phải bị xử phạt hành chính trong các văn bản pháp luật, cụ thể là Nghị
định của Chính phủ về xử phạt VPHC trong lĩnh vực HKDD hoặc các văn bản
quy phạm pháp luật khác có liên quan.
1.4. Các loại vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân
dụng
1.4.1. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụngđược
phân loại dựa trên các tiêu chí khác nhau
- Căn cứ vào các quan hệ trong lĩnh vực HKDD và phương thức thực
hiện của ngành HKDD, có thể chia VPHC thành ba loại như sau:
+ Hành vi vi phạm về nghĩa vụ mua phí chuyên chở theo định của
ngành HKDD;
+ Hành vi vi phạm về nghĩa vụ chi trả cho hành khách;
+ Hành vi vi phạm về quản lý các hoạt động HKDD.
- Căn cứ vào nội dung quy định của pháp luật và của ngành HKDD, có
thể phân loại vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD thành các loại sau:
+ Vi phạm các quy định về tàu bay, với các vi phạm cụ thể như: về
quốc tịch tàu bay; tiêu chuẩn đủ điều kiện bay; bảo dưỡng, sửa chữa tàu bay;
khai thác tàu bay;
+ Vi phạm quy định về cảng hàng không, sân bay, cụ thể như:quản lý
và khai thác cảng hàng không, sân bay; cung cấp dịch vụ tại cảng hàng không,
sân bay; đi lại, điều khiển, vận hành phương tiện, thiết bị hoạt động trong
cảng hàng không, sân bay; phòng, chống thiên tai và khẩn nguy sân bay; bảo
trì công trình hàng không.
25
+ Vi phạm quy định về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực HKDD, như:
Vi phạm quy định về bảo vệ môi trường trong khai thác tàu bay; Vi phạm quy
định về bảo vệ môi trường tại cảng hàng không, sân bay.
+ Vi phạm quy định về nhân viên hàng không, đào tạo, huấn luyện
nghiệp vụ, sử dụng nhân viên hàng không và giám định sức khỏe cho nhân
viên hàng không, gồm: Vi phạm quy định về nhân viên hàng không và thực
hiện công việc theo tài liệu, quy trình, yêu cầu công việc, quy trình phối hợp
hoạt động; Vi phạm quy định về bố trí, sử dụng, giám sát nhân viên hàng
không và thực hiện công việc theo tài liệu, quy trình, yêu cầu công việc, quy
trình phối hợp hoạt động; Vi phạm quy định về đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện
chuyên môn, nghiệp vụ cho nhân viên hàng không và đánh giá trình độ tiếng
Anh; Vi phạm quy định về giám định sức khỏe cho nhân viên hàng không.
+ Vi phạm quy định về hoạt động bay: Vi phạm quy định về cung cấp
dịch vụ bảo đảm hoạt động bay; Vi phạm quy định về quản lý hoạt động bay;
+ Vi phạm quy định về hoạt động vận chuyển hàng không và hoạt động
hàng không chung, cụ thể như:Vi phạm quy định về thành lập doanh nghiệp
vận chuyển hàng không và hoạt động hàng không chung; Vi phạm quy định
về khaithác vận chuyển hàng không và hoạt động hàng không chung; Vi
phạm quy định về hoạt động vận chuyển hàng không và hoạt động hàng
không chung.
+ Vi phạm quy định về an ninh hàng không, cụ thể như: Vi phạm quy
định về quản lý, sử dụng thẻ và giấy phép kiểm soát an ninh hàng không; Vi
phạm quy định về an ninh hàng không tại cảng hàng không, sân bay; trên
chuyến bay; tạinơi có công trình, trang bị, thiết bị hàng không; Vi phạm quy
định về tổ chức bảo đảm an ninh hàng không.
+ Vi phạm quy định về phòng chống cháy nổ tại cảng hàng không, sân
bay và cơ sở cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay, gồm: Vi phạm quy
định về phòng, chống cháy nổ tại cảng hàng không, sân bay và cơ sở cung cấp
dịch vụ bảo đảm hoạt động bay;
26
+ Vi phạm quy định về an toàn hàng không, như: Vi phạm về hệ thống
quản lý an toàn hàng không (SMS) và bảo đảm chất lượng; Vi phạm quy định
về điều tra sự cố, tai nạn hàng không.
- Căn cứ vào địa vị pháp lý của chủ thể vi phạm hành chính trong lĩnh
vực HKDD thành các loại sau:
+ Hành vi vi phạm do người có trách nhiệmchuyên chở thực hiện;
+ Hành vi vi phạm do hành khách và người tham gia quan hệ của
ngành HKDD thực hiện;
+ Hành vi vi phạm do tổ chức HKDD và các tổ chức khác vi phạm.
- Căn cứ chủ thể thực hiện vi phạm, có thể phân loại vi phạm hành
chính trong lĩnh vực HKDD thành hai loại là:
+ Hành vi vi phạm do cá nhân thực hiện;
+ Hành vi vi phạm do pháp nhân thực hiện.
1.4.2. Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không
dân dụng
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hàng không dân dụng vừa có những
nét đặc trưng chung của VPHC, vừa mang những nét đặc thù, thể hiện ở
những mặt sau đây:
Thứ nhất, Vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD là những vi phạm
chủ yếu liên quan đến các quy định an toàn bay của pháp luật và của ngành
HKDD.
Người tham gia vào quan hệ của ngành HKDD phải tuân thủ các quy định
về an toàn của chuyến bay, bắt buộc phải nghiêm túc thực hiện trên nguyên
tắc vì sự an toàn của chuyến bay. Khi một người xác định phương pháp di
chuyển bằng phương tiện tàu bay nghĩa là kể từ khi đăng ký, lấy vé đã tham
gia quan hệ của pháp luật của ngành HKDD để được hưởng quyền được tham
gia bay và nghĩa vụ phải tuân thủ nghiêm túc các quy định của phápluật và
của ngành HKDD về bảo đảm an ninh trật tự tại cảng hàng không, an toàn về
hàng hóa mang theo người cho đến việc không được làm bất cứ điều gì ảnh
27
hưởng đến sự an toàn trong suốt chuyến bay. Khi có những rủi ro xảy ra trước
hoặc trong chuyến bay mặc dù lỗi cố ý hay vô ý, ngành HKDD sẽ thực hiện
việc xử phạt VPHC đối với người đó theo mức độ, hậu quả do lỗi của người
đó gây ra.
Thứ hai, chủ thể của các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực
HKDD là những đối tượng tham gia quan hệ của ngành HKDD được hưởng
quyền từ quy định của ngành HKDD và phải thực hiện các nghĩa vụ theo quy
định của pháp luật. Vì những đặc thù từ hoạt động của ngành HKDD do vậy,
phần lớncác hành vi VPHC về HKDD đều do các chủ thể tham gia quan hệ
HKDD thực hiện, bao gồm hành khách và những người đưa, đón hành khách.
Thứ ba, thiệt hại mà hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD
gây ra là sự mất ổn định đến hoạt động của hàng không, ảnh hưởng đến việc
bảo đảm an toàn tuyệt đối tại cảng hàng không cũng như các chuyến bay, làm
giảm lòng tin của khách hàng về sự an toàn của họ khi tham gia quan hệ
HKDD.
1.5. Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng
1.5.1. Khái niệm
Vi phạm hành chínhlà hành vi vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng tiêu cực
đến đời sống kinh tế, xã hội. Do đó, các hành vi vi phạm pháp luật, bao gồm
VPHC trong lĩnh vực HKDD cần được xác định rõ và xử lý nghiêm minh.
Trong hoạt động quản lý của Nhà nước, bên cạnh hành vi VPHC, còn có khái
niệm xử phạt VPHC và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác. Xét về
bản chất, hoạt động xử lý VPHC là áp dụng một số biện pháp cưỡng chế hành
chính. Chủ thể thực hiện các biện pháp cưỡng chế hành chính là cá nhân hoặc
cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, theo quy định của pháp luật. Đối
tượng cưỡng chế là cá nhân có hành vi VPHC. Mục đích cưỡng chế là nhằm
ngăn chặn, phòng ngừa hoặc thực hiện công vụ vì lí do an ninh, quốc phòng
và vì lợi ích quốc gia. Việc thực hiện cưỡng chế của cơ quan quản lý nhà
28
nước đối với các đối tượng cưỡng chế phải theo trình tự, thủ tục hành chính
quy định. Thực chất, xử lý VPHC, xử phạt VPHC, áp dụng các biện pháp xử
lý hành chính khác đều thuộc phạm trù xử lý VPHC, bởi lẽ, đều phản ánh việc
áp dụng các biện pháp chế tài mang tính cưỡng chế hành chính của Nhà nước
đối với chủ thể có hành vi VPHC.
Xử lý vi phạm hành chính là khái niệm được đề cập lần đầu tiên trong
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995. Mặc dù, trong một số văn bản
pháp luật trước đó có sử dụng cụm từ “xử lý hành chính”, nhưng dừng lại ở
hàm ý chỉ các biện pháp xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính. Pháp lệnh xử
phạt vi phạm hành chính năm 1989 có sử dụng khái niệm “xử phạt vi phạm
hành chính” là để chỉ các biện pháp xử phạt thông dụng như cảnh cáo, phạt
tiền, tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính năm 1995 đưa ra quy định về “xử lý vi phạm hành chính” có ý nghĩa
chung bao hàm cả các chế tài xử phạt hành chính theo Pháp lệnh năm 1989 và
các biện pháp xử lý hành chính khác, mới được đưa vào Pháp lệnh năm 1995.
Trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (2002) Điều 1 quy định:"Xử lý vi
phạm hành chính bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý
hành chính khác và xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá
nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của
pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định
của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.Các biện pháp xử lý hành chính
khácbao gồm: giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng,
đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính”
Với quy định như vậy, xử lý vi phạm hành chính là khái niệm rộng hơn
xử phạt VPHC, có ý nghĩa bao trùm cả việc xử phạt VPHC và việc áp dụng
các biện pháp hành chính khác.
Từ điển pháp luật giải thích, xử lý VPHC là hành vi của cơ quan nhà
nước, nhà chức trách có thẩm quyền áp dụng chế tài hành chính để xử lý đối
với các hành vi vi phạm pháp luật không thuộc phạm vi các tội hình sự đã
29
được quy định trong Bộ luật hình sự, và do các cá nhân, cơ quan hay tổ chức
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý.
Các cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính gồm có Ủy ban nhân dân
(UBND) các cấp, cơ quan cảnh sát, bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm,
thuế vụ, quản lý thị trường. Những cá nhân có quyền ra quyết định xử phạt
hành chính là thủ trưởng các cơ quan nói trên và cán bộ, chiến sĩ cảnh sát
nhân dân, bộ đội biên phòng, nhân viên hải quan, kiểm lâm, thuế vụ, thanh tra
viên thực hiện chức năng thanh tra nhà nước chuyên ngành đang thi hành
công vụ theo các hình thức xử phạt hành chính do luật định.
Hoạt động xử lý vi phạm hành chính chủ yếu do các cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp dụng theo thủ tục hành
chính do các quy phạm thủ tục hành chính quy định. Vì vi phạm hành chính là
những vi phạm nhỏ và phổ biến nên việc xử phạt VPHC không theo thủ tục tư
pháp như đối với truy cứu trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự, mà theo
thủ tục hành chính và chủ yếu do các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền thực hiện. Tuy nhiên, không phải bất kỳ cơ quan quản lý nhà nước nào
cũng có thẩm quyền xử lý VPHC mà chỉ có một số cơ quan nhất định trong số
đó được nhà nước trao quyền hạn này. Hoạt động xử phạt VPHC, cũng như
việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính (bao gồm: các hình thức xử
lý VPHC, các biện pháp khắc phục hậu quả, các biện pháp ngăn chặn vi phạm
và đảm bảo việc xử lý VPHC...), nằm ngoài hoạt động xét xử của Toà án.
Như vậy, hoạt động xử lý vi phạm hành chính chỉ có thể diễn ra khi có
VPHC và đây là một hoạt động cưỡng chế mang tính quyền lực nhà nước.
Hoạt động này là việc áp dụng các hình thức xử phạt và các biện pháp cưỡng
chế hành chính đối với cá nhân, tổ chức VPHC. Nói cách khác, thực chất của
xử phạt VPHC là việc áp dụng các chế tài xử phạt hành chính và các biện
pháp cưỡng chế hành chính khác do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền
tiến hành đối với cá nhân, tổ chức VPHCtheo quy định của pháp luật.
30
Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa xử lý VPHC trong lĩnh vực
HKDD là việc các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền áp dụng những
biện pháp cưỡng chế hành chính (gồm các hình thức xử phạt VPHC; các biện
pháp khắc phục hậu quả; các biện pháp ngăn chặn VPHC và đảm bảo việc xử
phạt VPHC) đối với những cá nhân, tổ chức thực hiện VPHC nhằm đảm bảo
trật tự và kỷ luật trong quản lý nhà nước về HKDD theo thủ tục do pháp luật
quy định.
Ở phạm vi hẹp hơn xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDDbao gồm các chế
tài hành chính thông thường, áp dụng đối với chủ thể là cá nhân, tổ chức có
hành vi VPHC, với hình thức xử phạt chính như cảnh cáo, phạt tiền và hình
thức phạt bổ sung (tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, tịch
thu tang vật,...) và các biện pháp khắc phục hậu quả VPHC gây ra nhằm mục
đích lập lại trật tự quản lý lĩnh vực HKDD bị xâm hại.
1.5.2. Đặc thù của xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng
không dân dụng
Ngoài những đặc điểm chung giống như xử lý VPHC trong các lĩnh vực khác
là:
- Được thực hiện trên cơ sở có VPHC xảy ra;
- Do các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật thực hiện;
- Nội dung cơ bản của hoạt động xử lý VPHC là xem xét, đánh giá tính
chất mức độ vi phạm và quyết định hình thức, mức độ xử phạt;
- Được thực hiện theo trình tự, thủ tục được pháp luật quy định.
Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD có những đặc thù gắn
liền với những đặc thù của loại hành vi vi phạm này như đã phân tích ở phần
trên, cụ thể:
Một là, do hành vi vi phạm hành chính là những vi phạm liên quan chủ
yếu đến các quan hệ làm phát sinh sự kiện rủi cho hoạt động của ngành
HKDD. Vì vậy, cơ sở để xử phạt VPHC lĩnh vực HKDD chủ yếu là những
hành vi vi phạm quy định về chuyên chở hành khách, chuyên chở hàng hóa,
31
bảo đảm an toàn cảng hàng không. Bao gồm hệ thống các mức xử phạt đối
với các hành vi không tuân thủ các quy định của ngành HKDD hoặc gian lận
(sửa chữa, tẩy xoá, làm giả một phần hoặc toàn bộ hóa đơn vận chuyển hàng
hóa…).
Hai là, đối tượng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD là cá
nhân, tổ chức tham gia vào quan hệ HKDD. Do hành vi VPHC trong lĩnh vực
này là những cá nhân, tổ chức có tham gia quan hệ vận chuyển người, hàng
hóa, quy định về cảng hàng không, sân bay hoặc tham gia vào quan hệ quản
lý của ngành HKDD (cá nhân, đơn vị thuộc hệ thống cơ quan HKDD, thanh
tra lao động, Hội đồng giám định y khoa...) theo quy định của pháp luật về
HKDD.
Ba là, thẩm quyền xử lý VPHC lĩnh vực HKDD là các chủ thể đại diện
cho cơ quan quản lý nhà nước, theo quy định của pháp luật. Chủ yếu là:
Thanh tra viên, người được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành; Chánh
thanh tra Cục hàng không Việt Nam (HKVN), trưởng đoàn thanh tra chuyên
ngành Cục HKVN; Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành của Bộ Giao thông
vận tải(GTVT); Trưởng đại diện Cảng vụ hàng không; Chủ tịch UBND các
cấp. Tuy nhiên, việc quy định này cũng manh tính hình thức, trên thực tiễn
không hiệu quả. Bởi không riêng gì lĩnh vực HKDD mà hầu hết trong các lĩnh
vực khác, vai trò xử phạt VPHC của Chủ tịch UBND là rất mờ nhạt, tất cả
trông chờ vào thanh tra chuyên ngành. Trong khi lực lượng này rất hạn chế và
HKDD chỉ là một mảng trong nghiệp vụ thanh tra lao động. Do vậy, hoạt
động xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD hầu hết được thực hiện trên cơ sở
các đợt kiểm tra, thanh tra về HKDD gồm: thanh tra đột xuất, thanh tra định
kỳ theo quý, hoặc năm. Bên cạnh đó, hiện tại vẫn thiếu cơ chế phối hợp giữa
hệ thống kiểm tra, xử lý VPHC của cơ quan quản lý Nhà nước và hệ thống
kiểm tra nội bộ của cơ quan tổ chức sự nghiệp HKDD, dẫn tới tình trạng
chậm trễ trong xử phạt VPHC. Vì Hàng không dân dụng là một ngành có
phạm vi ảnh hưởng rộng lớn và liên quan trực tiếp đến đời sống xã hội, trước
32
tình trạng vi phạm đang ngày gia tăng trong lĩnh vực HKDD cần thiết phải
thành lập thanh tra chuyên ngành HKDD nhằm đảm bảo việc thực thi pháp
luật nói chung và pháp luật HKDD nói riêng.
Bốn là, hình thức xử lý vi phạm hành chính chủ yếu trong lĩnh vực HKDD
là phạt cảnh cáo và phạt tiền.
Tóm lại, xuất phát từ vai trò quan trọng của HKDD đối với kinh tế xã hội
của đất nước, việc hiểu rõ các vấn đề lý luận chung về XLVPHC, đặc thù của
VPHC và XLVPHC trong lĩnh vực HKDD có ý nghĩa rất to lớn. Từ đó, có thể
tìm hiểu các quy định cụ thể, thực tiễn áp dụng để hướng tới hoàn thiện pháp
luật về VPHC và XLVPHC trong lĩnh vực HKDD, góp phần tích cực trong
công cuộc đấu tranh phòng, chống VPHC nói chung cũng như nâng cao hiệu
quả hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực HKDD nói riêng.
1.6. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng
không dân dụng
Các nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính nói chung, xử lý hành chính
trong lĩnh vực HKDD nói riêng, là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho
toàn bộ quá trình xử lý VPHC. Các nguyên tắc xử lý VPHC thể hiện quan
điểm chính sách của nhà nước trong hoạt động quản lý các ngành, lĩnh vực,
thường được quy định trong các đạo luật. Tại Việt Nam, nguyên tắc xử lý
hành chính trong lĩnh vực HKDD được quy định trong Pháp lệnh xử lý
VPHC năm 2002, Luật xử lý VPHC năm 2012, Luật xử lý VPHC năm 2019,
bao gồm:
1.6.1. Các nguyên tắc chung
- Nguyên tắc pháp chế: Pháp chế là nguyên tắc hiến định được áp dụng
trong tổ chức và hoạt động của mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, trong
hành vi của công dân. Trong lĩnh vực xử lý VPHC nội dung nguyên tắc này
thể hiện ở chỗ cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt hành chính khi có VPHC do
pháp luật quy định; việc xử lý VPHC phải do người có thẩm quyền tiến hành
theo đúng quy định của pháp luật.
33
- Nguyên tắc mọi vi phạm hành chính phải được phạt hiện kịp thời, xử lý
công minh, nhanh chóng theo đúng pháp luật. Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyển phải phản ứng mau lẹ với các hành vi VPHC,
tuân theo nghiêm ngặt những quy định về thời hiệu xử phạt và thực hiện
quyết định xử phạt một cách khách quan, xử lý đúng người, đúng vi phạm,
không thiên vị; chỉ được chọn các chế tài, biện pháp xử lý đã được pháp luật
quy định.
- Việc xử lý vi phạm hành chínhphải căn cứ vào tính chất, mức độ vi
phạm, thân nhân người vi phạm và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng để
quyết định hình thức, biện pháp xử lý thích hợp.
- Không xử lý vi phạm hành chínhtrong các trường hợp thuộc tình thế cấp
thiết, phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ hoặc VPHC trong khi đang mắc
bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng
điều khiển hành vi của mình.
1.6.2. Các nguyên tắc kỹ thuật
- Một hành vi ci phạm hành chínhchỉ bị xử lý hành chính một lần;
- Nhiều người cùng thực hiện một hành vi VPHC thì mỗi người vi phạm
đều bị xử phạt;
- Một người thực hiện nhiều hành vi VPHC thì bị xử phạt về từng hành vi
vi phạm.
Là một lĩnh vực thuộc Nhà nước quản lý, xử lý VPHC trong lĩnh vực
HKDD cũng mang đầy đủ những nguyên tắc xử phạt VPHC như đã nêu trên
34
TIỂU KẾT CHƯƠNG I
Chương I của Luận văn "Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng
không dân dụng" thực hiện nhiệm vụ làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về
xử lý VPHC nói chung, xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD nói riêng. Đề thực
hiện nhiệm vụ nói trên,nội dung chương I tập trung vào làm rõ lĩnh vực
HKDD, quá trình xây dựng và phát triển của ngành HKDD Việt Nam; Bản
chất, khái niệm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD; Các yếu tố
cấu thành vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD (làm rõ mặt khách quan,
mặt chủ quan, chủ thể, khách thể); Các hình thức vi phạm hành chính trong
lĩnh vực HKDD; Vấn đề xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD và
các nguyên tắc xử lý vi phạm trong lĩnh vực HKDD.
Các nghiên cứu cụ thể trong chương I đã tập trung làm rõ một số khái
niệm như vi phạm hành chính, vi phạm hành chính tronglĩnh vực HKDD.
Theo đó vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD được xác định là hành vi
do cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại
đến những quan hệ về HKDD phát sinh trong quá trình thực hiện các quy định
của ngành HKDD, mà theo quy định của pháp luật phải bị xử lý. Đồng thời,
xác định chủ thể xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD là việc các cơ quan nhà
nước, người có thẩm quyền áp dụng những biện pháp cưỡng chế hành chính
(gồm các hình thức xử lý VPHC; các biện pháp khắc phục hậu quả; các biện
pháp ngăn chặn VPHC và đảm bảo việc xử lý VPHC đối với những cá nhân,
tổ chức có hành vi VPHC trong lĩnh vực HKDD, nhằm đảm bảo trật tự và kỷ
luật trong quản lý nhà nước về HKDD, theo thủ tục do pháp luật quy định.
Ngoài việc đưa ra các khái niệm, luận văn cũng chỉ ra những đặc thù và
nguyên tắc xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD. Đây là những kiến thức làm
nền tảng cơ sở lý luận cho việc đánh giá thực trạng vấn đề xử lý VPHC trong
lĩnh vực HKDD ở chương tiếp theo.
35
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰCHÀNG KHÔNG DÂN DỤNG Ở VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2014 - 2019
2.1.Thực trạng pháp luật xử lý vi phạm hành trong lĩnh vực hàng
không dân dụngở Việt Nam
2.1.1.Pháp luật về lĩnh vực hàng không dân dụng ở Việt Nam
Cùng với sự phát triển của ngành HKDD, hệ thống pháp luật về HKDD
ở Việt Nam ngày càng được hoàn thiện. Các đạo luật, văn bản hướng dẫn và
quy chế của ngành HKDD đã được xây dựng trên cơ sở có sự tiếp cận với
thông lệ và luật pháp quốc tế.
Năm 1991, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật
HKDD Việt Nam. Luật được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để
điều chỉnh các quan hệ về hoạt động hàng không dân dụng đối với các tổ
chức, các cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế được phép hoạt động kinh
doanh hàng không tại Việt Nam. Quá trình thực hiện Luật HKDD Việt Nam
(1991) từ năm 1992 đến 1996 đã phát sinh những vấn đề mới, làm cho nhiều
quy định của Luật không còn phù hợp với thực tiễn. Do đó, tại kỳ họp thứ 7,
khóa IX, ngày 20/4/1995, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Hàng không dân dụng Việt Nam
(1991). Nội dung sửa đổi, bổ sung nhiệm vụ quản lý Nhà nước về HKDD,
quản lý bay, quản lý và khai thác cảng hàng không sân bay, công tác an ninh,
an toàn hàng không. Để đáp ứng yêu cầu tình hình mới, phù hợp điều kiện
phát triển của kinh tế, xã hội và hội nhập, ngày 22/6/2006, Quốc hội nước
CHXHCN Việt Nam đã chính thức thông qua Luật Hàng không dân dụng
Việt Nam, có hiệu lực từ ngày 01/1/2007. Năm 2014, Quốc hội khóa XIII, kỳ
họp thứ 8 tiếp tục thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hàng
không dân dụng Việt Nam, có hiệu lực từ ngày 01/7/2015. Cơ quan quản lý
36
Nhà nước về Hàng không đã ban hành hệ thống văn bản pháp luật và các
chính sách điều tiết vận tải hàng không. Bên cạnh đó, Ngành Hàng không
cũng đã chủ động, linh hoạt trong hội nhập quốc tế theo hướng tự do hoá, góp
phần quan trọng cho sự phát triển của thị trường hàng không, đặc biệt chính
sách của Nhà nước cho phép mở rộng đối với các thành phần kinh tế tham gia
kinh doanh vận tải hàng không; khuyến khích và bảo đảm các quyền cho các
hãng hàng không nước ngoài khai thác đi hoặc đến Việt Nam. Đồng thời, để
kịp thời điều chỉnh các quan hệ mới trong hoạt động của ngành HKDD, Luật
Hàng không dân dụng năm 2006 đã được sửa đổi bổ sung hai lần vào các năm
2014 và gần đây nhất vào năm 2018.
Nhìn chung, trong các giai đoạn phát triển của ngành HKDD, hệ thống
văn bản pháp luật về ngành HKDD đã được chú ý để hoàn thiện. Tuy nhiên,
các văn bản pháp luật chủ yếu quy định những nội dung có tính nguyên tắc về
HKDD, chưa cụ thể. Có những quy định khó thực hiện trên thực tế do không
phù hợp với các quy định pháp luật chuyên ngành khác. Chính vì vậy, những
quy định về xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD cũng rất mờ nhạt và được áp
dụng theo các quy định về XLVPHC mà chưa có những quy định riêng cho
lĩnh vực HKDD. Chẳng hạn, các quy định trong Pháp lệnh Xử lý VPHC 2002
và Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày 16/12/2008 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2008.
Để hướng dẫn chi tiết việc thi hành Luật Hàng không dân dụng, Chính
phủ đã ban hành các Nghị định quy định nội dung điều chỉnh các mặt hoạt
động trong ngành HKDD: (Nghị định 92/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy
định về các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện trong lĩnh vực ...). Bên cạnh
đó, có Nghị định 147/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực HKDD; Nghị định 162/2018/NĐ-CP của Chính phủ về việc Quy định xử
phạt VPHC trong lĩnh vực HKDD (Thay thế Nghị định 147/2013/NĐ-CP).
37
2.1.2. Thực trạng quy định của pháp luậtvề vi phạm pháp luậthành
chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng
Pháp luật quy định về VPHC và xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD
được quy định trong nhiều đạo luật và văn bản dưới luật. Ngoài các quy định
trong hệ thống luật chuyên ngành về hàng không dân dụng, còn có các Luật
và văn bản hướng dẫn luật chyên ngành, pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính nói chung. Có thể kể đến nhóm các quy định pháp luật về xử lý VPHC
nói chung, gồm: Pháp lệnh xử lý VPHC số 44/2002/PL-UBTVQH10 và Pháp
lệnh số 31/2007/PL-UBTVQH11 sửa đổi một số điều của pháp lệnh xử phạt
VPHC, tiếp đó là Pháp lệnh số 04/2008/UBTV-QH12 của Pháp lệnh xử phạt
VPHC, Luật số 15/2012/QH13, Luật Xử lý VPHC. Bên cạnh đó, phải kể đến
các quy định trực tiếp về xử lý và xử phạt VPHC trong lĩnh vực HKDD như:
Nghị định số 01/2001/NĐ-CP ngày 4/1/2001 của Chính phủ về xử phạt
VPHC trong lĩnh vực HKDD; Nghị định số 91/2007/ NĐ-CP ngày 3/6/2007
của Chính phủ về xử phạt VPHC thay thế cho Nghị định 91/2007/NĐ-CP.
Tiếp theo là Nghị định số 60/2010/NĐ-CP ngày 31/7/2010 của Chính phủ về
xử phạt VPHC được ban hành nhằm giải quyết những vấn đề mới phát sinh
trong lĩnh vực hàng không. Năm 2013, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định
số 147/2013/NĐ-CP về xử phạt VPHC trong lĩnh vực HKDD thay thế cho
Nghị định số 60/2010/NĐ-CP. Đến nay Nghị định 162/2018/NĐ-CP năm
2018 của chính phủ về xử phạt VPHC trong lĩnh vực HKDD vừa được ban
hành để giải quyết sự gia tăng nhanh, sự đa dạng của các hành vi VPHC trong
lĩnh vực HKDD ở Việt Nam. Để có thể tiến hành các hoạt động xử lý VPHC
trong lĩnh vực HKDD, có thể kể đến các văn bản quy phạm pháp luật khác
như: Nghị định số 109/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý giá, phí, lệ phí, hóa đơn;
Nghị định số 139/2017/NĐ-CP ngày 27/11/2017 của Chính phủ quy định xử
phạt VPHC trong trong hoạt động đầu tư xây dựng; khai thác, chế biến, kinh
doanh khoáng sản làm vật liệu xây dựng, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây
38
dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; kinh doanh bất động sản, phát triển
nhà ở, quản lý sử dụng nhà và công sở; Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày
12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực an ninh,
trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy;
phòng, chống bạo lực gia đình; Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày
13/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực bưu chính,
viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện: Nghị định số
185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC
trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng và Nghị định số 124/2015/NĐ-CPngày 19/11/2015
của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
185/2013/NĐ-CPngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC
trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng; Nghị định số 79/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nghề
nghiệp; Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; Nghị
định số 33/2017/NĐ-CP ngày 03/4/2017 của Chính phủ quy định về xử phạt
VPHC trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản.
Năm 2014, bên cạnh Luật HKDD Việt Nam (2006) đang có hiệu lực,
Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật HKDD
Việt Nam ngày 21/11/2014, nhằm xử lý những bất cập và những vấn đề mới
phát sinh trong lĩnh vực HKDD. Để phù hợp với các quy định của Luật mới
ban hành và phúc đáp yêu cầu của thực tiễn phát sinh, mới đây, ngày
30/11/2018 Chính phủ ban hành Nghị định 162/2018/NĐ-CP quy định xử
phạt VPHC trong lĩnh vực HKDD. Nghị định này quy định về hành vi VPHK,
hình thức, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi
VPHC, thẩm quyền xử phạt, mức phạt tiền cụ thể theo từng chức danh và
thẩm quyền lập biên bản đối với VPHC trong lĩnh vực HKDD.
39
Đối tượng áp dụng là: (i) Các tổ chức kinh tế được thành lập và hoạt
động theo quy định của pháp luật Việt Nam; cơ quan nhà nước có hành vi vi
phạm mà hành vi đó không thuộc nhiệm vụ quản lý nhà nước được giao; các
tổ chức nước ngoài hoạt động HKDD tại Việt Nam; văn phòng đại diện, văn
phòng bán vé của hãng hàng không nước ngoài tại Việt Nam; (ii) Hộ gia đình,
hộ kinh doanh cá thể vi phạm các quy định của Nghị định này bị xử phạt như
đối với cá nhân vi phạm; và (iii) Người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm
hành chính, người có thẩm quyền xử phạt VPHC trong lĩnh vực HKDD và
các cá nhân, tổ chức có liên quan.
Nguyên tắc áp dụng mức phạt tiền đối với các tổ chức, cá nhân khá cụ
thể, đồng thời quy định rõ đối với cùng một hành vi VPHC thì mức phạt tiền
đối với tổ chức bằng hai lần mức phạt tiền đối với cá nhân, thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính và hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả.
Đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD, cá
nhân, tổ chức phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính là cảnh cáo
hoặc phạt tiền. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức có hành
vi vi phạm còn có thể bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung sau đây:
- Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc
đình chỉ hoạt động có thời hạn;
- Tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi
phạm hành chính.
Ngoài hình thức xử phạt chính, xử phạt bổ sung, cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục
hậu quả sau đây:
- Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên tàu bay và trên phương tiện, thiết bị;
- Buộc tái xuất tàu bay, động cơ, cánh quạt của tàu bay đã được nhập
khẩu vào Việt Nam;
- Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu;
40
- Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình được xây dựng, lắp đặt
không có Giấy phép hoặc xây dựng không đúng với Giấy phép;
- Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường,
lây lan dịch bệnh;
- Buộc trả lại đồ vật, thiết bị hoặc tài sản đã trộm cắp, công nhiên
chiếm đoạt, chiếm giữ trái phép;
- Buộc trả lại đất đã lấn, chiếm hoặc buộc trả lại phần mặt bằng;
- Buộc thực hiện bảo trì công trình;
- Buộc tổ chức kiểm tra lại, thi lại;
- Buộc hủy bỏ kết quả kiểm tra, thi;
- Buộc thu hồi chứng chỉ hành nghề đã cấp;
- Buộc hủy bỏ kết quả khám, giám định sức khỏe;
- Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được;
- Buộc thực hiện bảo dưỡng và lập hồ sơ bảo dưỡng tàu bay.
Theo quy định, các hành vi vi phạm, hình thức xử phạt, biện pháp khắc
phục VPHC trong lĩnh vực HKDD được xác định với mức phạt VPHC với
từngloại hành vi vi phạm như:
Một là,đối với hành vi vi phạm về tàu bay, có thể quan sát qua bảng
sau:
Số Nhóm Hành vi vi phạm Mức phạt Biện pháp khắc
thứ phục hậu quả
tự
1 20.000000 Buộc loại bỏ yếu Vi phạm quy
đến tố vi phạm trên định về quốc - Đưa tàu bay vào hoạt 30.000000 tàu bay đối với tịch tàu bay động mà dấu hiệu quốc đồng. các hành vi vi tịch hoặc dấu hiệu đăng ký phạm quy định tàu bay được sơn, gắn trên
41
tàu bay không đúng quy
định;
- Đưa tàu bay mang quốc 20.000000 Buộc loại bỏ yếu
tịch Việt Nam vào hoạt đến tố vi phạm trên
động mà dấu hiệu được 30.000000 tàu bay đối với
sơn hoặc gắn lên tàu bay đồng. các hành vi vi
có nội dung hoặc hình phạm quy định
thức giống hoặc gây nhầm
lẫn với tàu bay mang quốc
tịch của quốc gia khác.
đối với hành vi đưa tàu Buộc loại bỏ yếu
bay vào hoạt động mà 30.000000 tố vi phạm trên
không sơn hoặc gắn dấu đến tàu bay đối với
hiệu quốc tịch, dấu hiệu 50.000000 các hành vi vi
đăng ký tàu bay đồng. phạm quy định
đối với hành vi đưa tàu 50.000000 Buộc loại bỏ yếu
bay vào khai thác mà đến tố vi phạm trên
không có Giấy chứng nhận 60.000000 tàu bay đối với
đăng ký quốc tịch, trừ đồng. các hành vi vi
trường hợp thử nghiệm phạm quy định
thực tế tính năng bay của
tàu bay theo quy định của
Bộ Quốc phòng
2 Sử dụng thiết bị vô tuyến 10.000000 Vi phạm quy
điện trên tàu bay không đến định về tiêu
đúng theo Giấy phép đã 20.000000 chuẩn đủ
42
đồng điều kiện bay được cấp;
Lưu trữ không đủ hồ sơ 10.000000
bảo dưỡng, sửa chữa tàu đến
bay theo quy định. 20.000000
đồng.
Sản xuất tại Việt Nam 20.00000 Buộc tái xuất tàu
hoặc nhập khẩu vào Việt đến bay, động cơ,
Nam tàu bay, động cơ, 30.000.00 cánh quạt của
cánh quạt của tàu bay mà đồng. tàu bay đã được
không có hoặc không phù nhập khẩu vào
hợp với Giấy chứng nhận Việt Nam
loại tương ứng do cơ quan
có thẩm quyền cấp hoặc
công nhận;
Sử dụng tàu bay, động cơ,
cánh quạt, phụ tùng tàu
bay không đúng mục đích
Không có hồ sơ bảo 20.000000
dưỡng, sửa chữa tàu bay đến
theo quy định 30.000000
đồng.
Không duy trì, cập nhật
Chương trình bảo dưỡng 20.000000
tàu bay theo quy định. đến
30.000000
đồng.
43
Lắp đặt thiết bị vô tuyến 60.000000
điện trên tàu bay đang khai đến
thác mà không có Giấy 80.000000
phép sử dụng thiết bị vô đồng.
tuyến điện;
Làm sai lệch cấu hình tàu 60.000000 Buộc loại bỏ các
bay đã được phê duyệt; đến yếu tố vi phạm
làm thay đổi cấu hình tàu 80.000000 trên tàu bay
bay mà không được phê đồng.
chuẩn hoặc công nhận;
Không thực hiện các chỉ 60.000000 Buộc loại bỏ các
lệnh đủ điều kiện bay, chỉ đến yếu tố vi phạm
lệnh khai thác do cơ quan 80.000000 trên tàu bay
có thẩm quyền công nhận, đồng.
ban hành;
Không thực hiện công 60.000000 Buộc loại bỏ các
việc bảo dưỡng tàu bay đến yếu tố vi phạm
theo kế hoạch bảo dưỡng 80.000000 trên tàu bay
đã được phê chuẩn; không đồng.
sửa chữa, khắc phục các
hỏng hóc của tàu bay phù
hợp với các tiêu chuẩn, tài
liệu bảo dưỡng tàu bay đã
được phê duyệt;
Không duy trì tiêu chuẩn, 60.000000 Buộc loại bỏ các
điều kiện khác của tàu bay đến yếu tố vi phạm
phù hợp với cấu hình tàu 80.000000
44
bay đã được phê chuẩn. đồng. trên tàu bay
Đưa tàu bay vào khai thác
mà không có Giấy chứng 80.000000
nhận đủ điều kiện bay. đến
100.00000
0 đồng.
3 Không duy trì đủ điều kiện Vi phạm quy
của tổ chức bảo dưỡng tàu 30.000000 định về bảo
bay về tổ chức bộ máy, đến dưỡng, sửa
nhà xưởng, công cụ, dụng 40.000000 chữa tàu bay
cụ, phụ tùng, vật tư đồng.
Không duy trì đủ điều
kiện về trang bị, thiết bị 30.000000
mặt đất phục vụ bảo đến
dưỡng tàu bay theo tài liệu 40.000000
bảo dưỡng tàu bay đã đồng.
được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phê duyệt;
Bảo dưỡng tàu bay, động
cơ, thân tàu bay, cánh 30.000000
quạt, trang bị, thiết bị của đến
tàu bay ngoài phạm vi 40.000000
năng định được phê chuẩn đồng.
Thuê dịch vụ bảo dưỡng, 30.000000
bảo dưỡng dự phòng, cải đến
tiến đối với toàn bộ sản 40.000000
45
phẩm được cấp Giấy đồng
chứng nhận loại trong
phạm vi năng định của tổ
chức bảo dưỡng đã được
cấp giấy phép
Che giấu sai sót trong bảo
dưỡng, sửa chữa tàu bay
Không thực hiện đánh giá
nhà thầu phụ, giám sát 30.000000
công việc bảo dưỡng của đến
nhà thầu phụ 40.000000
đồng
Không có đủ hoặc không
cập nhật đủ, kịp thời tài 30.000000
liệu, dữ liệu bảo dưỡng, đến
sửa chữa tàu bay, động cơ, 40.000000
cánh quạt của tàu bay và đồng
thiết bị tàu bay theo quy
định
Lập hồ sơ bảo dưỡng tàu
bay không đầy đủ theo quy 30.000000
định; đến
40.000000
đồng
Không bảo dưỡng tàu 40.000000 Buộc thực hiện
bay, động cơ, cánh quạt, đến bảo dưỡng và
46
trang bị, thiết bị của tàu 60.000000 lập hồ sơ bảo
bay theo chương trình bảo đồng dưỡng tàu bay
dưỡng đã được phê chuẩn
Bảo dưỡng, thuê bảo 40.000000 Buộc thực hiện
dưỡng tàu bay, động cơ, đến bảo dưỡng và
cánh quạt, trang bị, thiết bị 60.000000 lập hồ sơ bảo
của tàu bay tại cơ sở bảo đồng dưỡng tàu bay
dưỡng không được phê
chuẩn năng định phù hợp
Không kiểm tra, hiệu 30.000000 Buộc thực hiện
chuẩn thiết bị bảo dưỡng, đến bảo dưỡng và
sửa chữa tàu bay theo quy 40.000000 lập hồ sơ bảo
định; đồng dưỡng tàu bay
Kiểm tra, hiệu chuẩn thiết
bị bảo dưỡng, sửa chữa tàu 40.000000
bay tại cơ sở không được đến
phép 60.000000
đồng
Không lập hồ sơ bảo 40.000000
dưỡng tàu bay theo quy đến
định 60.000000
đồng
4 Không tuân theo hướng 1.000.000 Vi phạm quy
dẫn về bảo đảm trật tự, an đến định về khai
ninh, an toàn hàng không, 3.000.000 thác tàu bay
phòng chống dịch bệnh đồng
47
của thành viên tổ bay
Sử dụng trái phép trang bị, 1.000.000
thiết bị an toàn trên tàu đến
bay 3.000.000
đồng
Hút thuốc, kể cả thuốc lá 3.000.000
điện tử trên tàu bay đến
5.000.000
đồng
Sử dụng thiết bị điện tử,
thiết bị thu phát sóng trên
tàu bay khi không được
phép
Làm hư hỏng trang bị, 3.000.000
thiết bị của tàu bay đến
5.000.000
đồng
Thực hiện thông thoại 3.000.000
không đúng tài liệu, quy đến
trình, yêu cầu công việc, 5.000.000
quy trình phối hợp hoạt đồng
động
Mở cửa của tàu bay khi 10.000000
không được phép đến
20.000000
48
đồng
Không bảo đảm đủ giấy 10.000000
tờ, tài liệu mang theo tàu đến
bay 20.000000
đồng
Mua bảo hiểm trách nhiệm 10.000000
dân sự hoặc thực hiện các đến
biện pháp bảo đảm khác 20.000000
đối với quyền lợi của đồng
người thứ ba ở mặt đất
không đến giới hạn trách
nhiệm theo quy định
Không nộp hoặc nộp 10.000000
không đủ hoặc nộp không đến
đúng thời hạn bản cân 20.000000
bằng trọng tải, bản khai đồng
tổng hợp, danh sách hành
khách, bản kê khai hàng
hóa của mỗi chuyến bay
cho Cảng vụ hàng không
theo quy địn
Thực hiện thông thoại 10.000000
không đúng tài liệu, quy đến
trình, yêu cầu công việc, 20.000000
quy trình phối hợp hoạt đồng
động gây uy hiếp an toàn
49
hàng không
Đưa tàu bay vào hoạt động 20.000000
với trang bị, thiết bị của đến
tàu bay không có chứng 30.000000
chỉ phù hợp đồng
Không mua bảo hiểm 20.000000
trách nhiệm dân sự hoặc đến
không thực hiện các biện 30.000000
pháp bảo đảm khác đối với đồng
quyền lợi của người thứ ba
ở mặt đất
Khai thác tàu bay thiếu 20.000000
trang bị, thiết bị an toàn đến
30.000000
đồng
Không mang đủ giấy tờ, 20.000000
tài liệu mang theo tàu bay đến
30.000000
đồng
Không tổ chức kiểm tra 20.000000
bên trong và bên ngoài tàu đến
bay 30.000000
đồng
Không thực hiện việc xác 20.000000
định trọng lượng rỗng của đến
30.000000
50
tàu bay đồng
khai thác tàu bay vì mục 40.000000
đích thương mại mà không đến
được phép. 50.000000
đồng
Không duy trì đủ điều 40.000000
kiện khai thác tàu bay về: đến
Tổ chức bộ máy; phương 60.000000
thức điều hành và giám sát đồng
khai thác tàu bay; trang bị,
thiết bị khai thác tàu bay
theo quy định
Không cập nhật, duy trì hệ 40.000000
thống tài liệu an toàn, đến
hướng dẫn khai thác theo 60.000000
quy định đồng
Hai là, đối với các hành vi vi phạm về cảng hàng không, sân bay, bao
gồm vi phạm về quản lý, khai thác cảng hàng không, sân bay; vi phạm về
cung cấp dịch vụ tại cảng hàng không, sân bay, vi phạm quy định về đi lại,
điều khiển, vận hành phương tiện, thiết bị hoạt động trong cảng hàng không,
sân bay, về phòng, chống thiên tai và khẩn nguy sân bay và về bảo trì công
trình hàng không cũng đều được quy định rõ về từng hành vi vi phạm cụ thể và
mức xử phạt, cũng như biện pháp khắc phục. Các quy định này có trong Điều
9, Điều 10, Điều 11, Điều 12 và Điều 13 của Nghị định 162/2018/NĐ-CP.
51
Ba là, các vi phạm quy định về bảo vệ môi trường trong khai thác tàu
bay và bảo vệ môi trường tại cảng hàng không, sân bay (Điều 14, Điều 15,
Nghị định 162/2018/NĐ-CP của Chính phủ).
Bốn là, pháp luật cũng quy định rõ về hành vi vi phạm và hình thức xử
lý về vấn đề nhân viên hàng không, việc bố trí sử dụng, giám sát nhân viên
hàng không và việc thực hiện theo tài liệu, quy trình yêu cầu công việc, phối
hợp hoạt động, đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ, sử dụng và giám định sức khỏe
cho nhân viên hàng không.
Năm là, đối với hoạt động bay, pháp luật cũng quy định rõ về hình thức
vi phạm và biện pháp xử lý đối với những vi phạm quy định về cung cấp dịch
vụ bảo đảm hoạt động bay và vi phạm quy định về quản lý hoạt động bay.
Sáu là, hoạt động vận chuyển hàng không và hoạt động hàng không
chung được quy định cụ thể về: Vi phạm quy định thành lập doanh nghiệp
vận chuyển hàng không và hoạt động hàng không chung; Vi phạm quy định
về khai thác vận chuyển hàng không và hoạt động hàng không chung; Vi
phạm quy định về hoạt động vận chuyển hàng không và hoạt động hàng
không chung.
Bảy là, quy định về anh ninh hàng không, xử lý vi phạm quy định về
quản lý, sử dụng thẻ và giấy phép kiểm soát an ninh hàng không, áp dụng cả
hình thức phạt cảnh cáo (đối với vi phạm lần đầu) và phạt tiền (từ 500.000
đồng đến 1.000.000 đồng) đối với trường hợp tái phạm hoặc vi phạm hành
chính nhiều lần đối với một trong các hành vi vi phạm sử dụng thẻ kiểm soát
an ninh hàng không mà không đúng phạm vi ghi trên thẻ và không đeo thẻ
kiểm soát an ninh hàng không theo quy định khi làm nhiệm vụ trong khu vực
hạn chế của cảng hàng không, sân bay. Trường hợp sử dụng giấy tờ nhân
thân, vé, thẻ lên tàu bay giả hoặc giấy tờ nhân thân, vé, thẻ lên tàu bay mang
tên người khác vào khu vực cách ly, lên tàu bay hoặc cho người chưa thành
niên vào khu vực cách ly, lên tàu bay hay cho người khác mượn Thẻ kiểm
soát an ninh hàng không, Giấy phép kiểm soát an ninh hàng không, Thẻ giám
52
sát viên an ninh hàng không, an toàn hàng không để vào khu vực hạn chế tại
cảng hàng không, sân bay, lên tàu bay sẽ bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến
5.000.000 đồng và áp dụng hình thức phạt bổ sung là tịch thu thẻ, với tính
chất là tang vật được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm.
Đối với các hành vi vi phạm quy định về an ninh hàng không tại cảng
hàng không, sân bay, trên chuyến bay, tại nơi có công trình, trang bị, thiết bị
hàng không, thì tùy theo tính chất, mức độ hành vi vi phạm mà áp dụng các
hình thức xử lý khác nhau. Chẳng hạn, Điều 26 quy định như sau:
1. Phạt tiền từ 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng) đến 500.000 đồng
(năm trăm nghìn đồng) đối với hành vi mang rượu, chất lỏng có cồn và chất
lỏng khác vào khu vực cách ly, lên tàu bay không đúng quy định.
2. Phạt tiền từ 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) đến 1.000.000
đồng (một triệu đồng) đối với hành vi không tuân theo sự chỉ dẫn của lực
lượng kiểm soát an ninh hàng không, nhân viên hàng không tại cảng hàng
không, sân bay.
3. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng (một triệu đồng) đến 3.000.000 đồng (ba
triệu đồng) đối với hành vi đe dọa, lăng mạ nhân viên hàng không, hành
khách hoặc người khác tại cảng hàng không, sân bay và nơi có công trình,
trang bị, thiết bị hàng không dân dụng.
4. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng (ba triệu đồng) đến 5.000.000 đồng (năm
triệu đồng) đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Gây rối, kích động, lôi kéo người khác gây rối làm mất an ninh, trật
tự tại cảng hàng không, sân bay và nơi có công trình, trang bị, thiết bị hàng
không dân dụng mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
b) Vào khu vực hạn chế, lên tàu bay mà không đúng cổng, cửa quy
định; không qua kiểm tra, soi chiếu an ninh hàng không;
c) Không khóa chốt cửa buồng lái tàu bay theo quy định trong thời gian
tàu bay đang bay;
d) Vi phạm trật tự, kỷ luật trong tàu bay;
53
đ) Tung tin hoặc cung cấp thông tin sai về việc có súng, đạn, bom, mìn,
vật liệu nổ, chất nổ, chất phóng xạ, vũ khí sinh, hóa học mà chưa gây ảnh
hưởng đến hoạt động bình thường của hoạt động hàng không dân dụng và
chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
e) Để người, hành lý, hàng hóa, bưu gửi và các đồ vật khác chưa qua
kiểm tra an ninh hàng không vào khu vực hạn chế tại cảng hàng không, sân
bay, lên tàu bay;
g) Để người, phương tiện vào khu vực hạn chế tại cảng hàng không,
sân bay không đúng quy định;
h) Có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh
dự, nhân phẩm của nhân viên hàng không, hành khách hoặc người khác tại
cảng hàng không, sân bay;
i) Đe dọa, lăng mạ nhân viên hàng không, hành khách trên tàu bay;
k) Thuê, lôi kéo hoặc xúi giục người khác đánh nhau hoặc đánh nhau
tại cảng hàng không, sân bay mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình
sự.
5. Phạt tiền từ 7.000.000 đồng (bảy triệu đồng) đến 10.000.000 đồng
(mười triệu đồng) đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Xâm nhập trái phép vào khu vực hạn chế của cảng hàng không, sân
bay và khu vực hạn chế của nơi có công trình, trang bị, thiết bị hàng không
dân dụng;
b) Hành hung nhân viên hàng không, hành khách, người khác tại cảng
hàng không, sân bay, nơi có công trình, trang bị, thiết bị hàng không dân dụng
mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
c) Để người, đồ vật vào buồng lái tàu bay không đúng quy định;
d) Gây rối, kích động, lôi kéo người khác gây rối làm mất an ninh, trật
tự trên tàu bay mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
54
đ) Trộm cắp, công nhiên chiếm đoạt, chiếm giữ trái phép đồ vật, thiết
bị hoặc tài sản trong cảng hàng không, sân bay, trên tàu bay mà chưa đến mức
bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
e) Đưa vật phẩm, chất nguy hiểm vào khu vực hạn chế tại cảng hàng
không, sân bay trái quy định mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
g) Không thực hiện đúng quy định về đăng ký, tiếp nhận vũ khí, công
cụ hỗ trợ, vật phẩm nguy hiểm được phép đưa vào khu vực hạn chế, lên tàu
bay;
h) Không cung cấp hoặc cung cấp không đúng hoặc không đầy đủ
thông tin trước chuyến bay (API) theo quy định;
i) Đánh bạc hoặc để người khác lợi dụng trụ sở hoặc trên phương tiện
trong khu vực cảng hàng không, sân bay hoặc trên tàu bay để đánh bạc mà
chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
k) Không tổ chức kiểm tra an ninh tàu bay trước chuyến bay theo
quy định;
l) Thuê, lôi kéo hoặc xúi giục người khác đánh nhau hoặc đánh nhau
trên tàu bay mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
m) Giao vũ khí, công cụ hỗ trợ cho người không có đủ điều kiện, tiêu
chuẩn sử dụng tại cảng hàng không, sân bay, trên tàu bay;
n) Có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh
dự, nhân phẩm của nhân viên hàng không, hành khách trên tàu bay mà chưa
đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
6. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) đến 15.000.000 đồng
(mười lăm triệu đồng) đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Xâm nhập trái phép vào tàu bay;
b) Hành hung thành viên tổ bay, hành khách, người khác trên tàu bay
mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
c) Đưa công cụ hỗ trợ, chất dễ cháy, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao,
súng săn và các loại vũ khí, đồ vật khác có hình dạng, tính năng, tác dụng
55
tương tự vào khu vực hạn chế tại cảng hàng không, sân bay, lên tàu bay trái
quy định mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
d) Phát ngôn đe dọa an toàn hàng không mà chưa đến mức bị truy cứu
trách nhiệm hình sự;
đ) Đưa vật phẩm nguy hiểm lên tàu bay mà chưa đến mức bị truy cứu
trách nhiệm hình sự.
7. Phạt tiền từ 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng) đến 20.000.000
đồng (hai mươi triệu đồng) đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Tung tin hoặc cung cấp thông tin sai về việc có súng, đạn, bom, mìn,
vật liệu nổ, chất nổ, chất phóng xạ, vũ khí sinh, hóa học gây ảnh hưởng đến
hoạt động bình thường của hoạt động hàng không dân dụng mà chưa đến mức
bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
b) Cung cấp các thông tin sai có thể gây uy hiếp an toàn của tàu bay
trên mặt đất; an toàn của hành khách, tổ bay, nhân viên mặt đất hoặc người tại
cảng hàng không, sân bay và công trình, trang bị, thiết bị hàng không dân
dụng mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
c) Đưa chất nổ, vật liệu nổ, vũ khí quân dụng, chất cháy vào khu vực
hạn chế tại cảng hàng không, sân bay trái quy định mà chưa đến mức bị truy
cứu trách nhiệm hình sự.
8. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) đến 30.000.000
đồng (ba mươi triệu đồng) đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Tung tin hoặc cung cấp thông tin sai về việc có súng, đạn, bom, mìn, vật
liệu nổ, chất nổ, chất phóng xạ, vũ khí sinh, hóa học hoặc các thông tin khác
có thể gây uy hiếp an toàn của tàu bay đang bay, người trên tàu bay đang bay;
b) Đưa chất nổ, vật liệu nổ, vũ khí quân dụng, chất cháy lên tàu bay trái quy
định mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
9. Hình thức xử phạt bổ sung:
56
a) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề 01 tháng đối
với nhân viên hàng không vi phạm quy định tại điểm a khoản 4, các điểm b,
d, đ, i, l khoản 5 và điểm b khoản 6 Điều này;
b) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính
đối với vi phạm quy định tại điểm i khoản 5 Điều này.
10. Biện pháp khắc phục hậu quả:
a) Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi
trường, lây lan dịch bệnh đối với hành vi vi phạm quy định tại điểm e khoản 5
Điều này;
b) Buộc trả lại đồ vật, thiết bị hoặc tài sản đã trộm cắp, công nhiên
chiếm đoạt, chiếm giữ trái phép đối với hành vi vi phạm quy định tại điểm đ
khoản 5 Điều này.
Ngoài ra, pháp luật cũng quy định rõ những vi phạm quy định về tổ
chức bảo đảm an ninh hàng không như trường hợp: (i) Không có đủ tài liệu
tại điểm kiểm tra an ninh hàng không; (ii) Không thực hiện kiểm tra trực quan
ngẫu nhiên sau kiểm tra an ninh đối với hành khách, hành lý xách tay, người
ra vào làm việc tại khu vực hạn chế của cảng hàng không, sân bay theo quy
định; (iii) Không lưu trữ hồ sơ, lý lịch, sổ kiểm tra, bảo dưỡng, sửa chữa thiết
bị, phương tiện an ninh hàng không theo quy định,...
Tám là, đối với vấn đề phòng chống cháy nổ tại cảng hàng không, sân
bay và cơ sở cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay,, pháp luật quy định rõ
về biện pháp xử lý đối với: (i)Vi phạm quy định về phòng, chống cháy nổ tại
cảng hàng không, sân bay và cơ sở cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay;
hành vi hút thuốc, kể cả thuốc lá điện tử hoặc sử dụng diêm, bật lửa, vật gây
cháy không đúng nơi quy định trong cảng hàng không, sân bay, tại cơ sở cung
cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay; Làm mất tác dụng hoặc để nội quy, tiêu
lệnh, biển báo, biển cấm, biển chỉ dẫn về phòng cháy và chữa cháy trong cảng
hàng không, sân bay, tại cơ sở cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay cũ
mờ, không nhìn rõ chữ, ký hiệu chỉ dẫn; Đun nấu, đốt lửa trong cảng hàng
57
không, sân bay và cơ sở cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay mà không
được phép hoặc không đúng quy định,...
Chín là, Về quản lý an toàn hàng không, quy định rõ những vi phạm về
hệ thống quản lý an toàn hàng không (SMS) và bảo đảm chất lượng; Vi phạm
quy định về điều tra sự cố, tai nạn hàng không
Pháp luật cũng quy định rõ về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
của các cấp, các ngành (Thanh tra Cục Hàng không Việt Nam; Thanh tra
chuyên ngành của Bộ Giao thông; Cảng vụ hàng không và Chủ tịch UBND
các cấp; Lực lượng Công an nhân dân và lực lượng thanh tra chuyên ngành
khác), việc phân định thẩm quyền xử phạt VPHC trong lĩnh vực HKDD (Điều
36, Nghị định 162/2018/NĐ-CP)
Pháp luật cũng quy định rõ về người có quyền lập biên bản vi phạm
hành chính trong lĩnh vực HKDD (Công chức thuộc Thanh tra Bộ Giao thông
vận tải, Thanh tra Cục Hàng không Việt Nam khi thực hiện nhiệm vụ thanh
tra, kiểm tra và xử lý vi phạm; Công chức, viên chức thuộc các Cảng vụ hàng
không đang thi hành công vụ, nhiệm vụ theo văn bản quy phạm pháp luật
hoặc văn bản hành chính do cơ quan, người có thẩm quyền ban hành; Người
chỉ huy tàu bay, thành viên tổ bay được người chỉ huy tàu bay giao lập biên
bản VPHC đối với hành vi VPHC xảy ra trên tàu bay khi tàu bay đang bay) và
trách nhiệm tổ chức lập biên bản VPHC đối với hành vi VPHC xảy ra trên tàu
bay đang bay của người chỉ huy tàu bay trên tàu bay mang quốc tịch Việt
Nam hoặc việc chuyển vụ việc cho Cảng vụ hàng không tại cảng hàng không,
sân bay của Việt Nam nơi tàu bay hạ cánh để lập biên bản VPHC.
2.2. Tình hình xử lývi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không
dân dụng
2.2.1.Về hình thức xử phạt và mức xử phạt
Hệ thống chế tài xử lý vi phạm hành chính được quy định tại Chương II
Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung
một số điều của Pháp lệnh Xử lý VPHC năm 2008, đây được coi như là “pháp
58
lệnh khung” quy định những vấn đề có tính chất nguyên tắc và cơ bản nhất.
Trên cơ sở pháp lệnh khung này, trong lĩnh vực HKDD, ngoài việc cụ thể hoá
các hành vi vi phạm, tương ứng với mỗi hành vi là một mức xử phạt, các hình
thức xử phạt bổ sung và các biện pháp khắc phục hậu quả được quy định
trong Luật HKDD và Nghị định số 162/2018/NĐ-CP ngày 30/10/2018.
Cũng tương tự các lĩnh vực khác, về hình thức xử lý VPHC trong lĩnh
vực HKDD bao gồm hai hình thức chính, đó là cảnh cáo và phạt tiền, hình
thức xử phạt bổ sung, bao gồm: Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng
để vi phạm pháp luật HKDD. So với quy định tại Nghị định số 147/2013/NĐ-
CP thì mức xử phạt có cao hơn tuy nhiên thẩm quyền và thủ tục xử lý vẫn
không thay đổi.
Theo Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, năm 2014 và năm 2018,
hình thức cảnh cáo được áp dụng không chỉ đối với cá nhân, tổ chức VPHC
nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ mà còn áp dụng đối với mọi VPHC do
người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện.
Theo Điều 4 Nghị định 162/2018/NĐ-CP quy định về mức xử phạt
VPHC trong lĩnh vực HKDD như sau:
“1. Đối với mỗi hành vi VPHC trong lĩnh vực HKDD, cá nhân, tổ chức
phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính sau đây:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền.
2. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức có hành vi vi
phạm còn có thể bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung sau đây:
a) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc
đình chỉ hoạt động có thời hạn;
b) Tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi
phạm hành chính.
59
3. Ngoài hình thức xử phạt chính, xử phạt bổ sung, cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục
hậu quả sau đây:
a) Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên tàu bay và trên phương tiện, thiết bị;
b) Buộc tái xuất tàu bay, động cơ, cánh quạt của tàu bay đã được nhập
khẩu vào Việt Nam;
c) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu;
d) Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình được xây dựng, lắp đặt
không có Giấy phép hoặc xây dựng không đúng với Giấy phép;
đ) Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường,
lây lan dịch bệnh;
e) Buộc trả lại đồ vật, thiết bị hoặc tài sản đã trộm cắp, công nhiên chiếm
đoạt, chiếm giữ trái phép;
g) Buộc trả lại đất đã lấn, chiếm hoặc buộc trả lại phần mặt bằng;
h) Buộc thực hiện bảo trì công trình;
i) Buộc tổ chức kiểm tra lại, thi lại;
k) Buộc hủy bỏ kết quả kiểm tra, thi;
l) Buộc thu hồi chứng chỉ hành nghề đã cấp;
m) Buộc hủy bỏ kết quả khám, giám định sức khỏe;
n) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được;
o) Buộc thực hiện bảo dưỡng và lập hồ sơ bảo dưỡng tàu bay.”
Nhìn chung, những quy định về xử lý VPHC lĩnh vực HKDD tương đối
rõ ràng, về cơ bản phù hợp với quy định của Luật xử phạt VPHC và thực tiễn
thi hành. Tuy nhiên, những quy định về xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD vẫn
còn có những bất cập như đã phân tích ở trên cần tiếp tục hoàn thiện, bổ xung.
Liệt kê các quy định của Nghị định162/2018/NĐ-CP cho thấy hình thức
phạt cảnh cáo được áp dụng đối với đa số hành vi VPHC trong lĩnh vực
HKDD Tuy nhiên, trên thực tế hầu như rất ít trường hợp vi phạm bị xử phạt
cảnh cáo.
60
Đối với hình thức phạt tiền: Điều 23 Luật xử lý vi phạm hành chính năm
2012 cũng như các Luật xử lý vi phạm hành chính sau này và các Nghị định
hướng dẫn thi hành Luật HKDD, Nghị định XLVPHC quy định mức phạt tiền
đối với các hành vi VPHC từ tối thiểu (50.000đồng) đến tối đa (500.000đồng)
trong lĩnh vực: xây dựng; quản lý rừng, lâm sản; đất đai. Tuy vậy, trong lĩnh
vực HKDD mức phạt tối đa 100.000.000đồng đối với hành vi thực hiện
chuyến bay mà không có phép bay do cơ quan có thẩm quyền cấp Khoản 6,
Điều 21, Nghị định 162/2018/NĐ-CP). Đây cũng là mức phạt cao nhất đã
được Nghị định 147/2013/NĐ-CP quy định tại khoản 6, Điều 14:“ Phạt tiền
từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với doanh nghiệp cảng hàng
không đưa cảng hàng không, sân bay vào khai thác mà không có điểm trung
chuyển chất thải rắn hoặc không có hệ thống thu gom, xử lý, thoát nước thải
của cảng hàng không, sân bay theo quy định”.Tuy vậy,Hình thức xử phạt bổ
sung và biện pháp khắc phục hậu quả của Nghị định 162/2018/NĐ-CP đã có
sự thay đổi mang tính khả thi hơn so với quy định tại Nghị định
147/2013/NĐ-CP.Hình thức xử phạt chính được áp dụng một cách độc lập.
Trong khi đó, các hình thức xử phạt bổ sung được áp dụng kèm theo hình
thức phạt chính khi phạt chính tỏ ra chưa có khả năng phòng ngừa VPHC và
theo nguyên tắc chúng phải căn cứ theo tính chất, mức độ và các tình tiết khác
của vi phạm đã được thực hiện. Hơn nữa, chúng chỉ được áp dụng đối với
những VPHC có đặc điểm nhất định chứ không phải đối với mọi loại VPHC
về HKDD.
Đối chiếu với thực tiễn thi hành xử lý VPHC nói chung và xử lý VPHC
trong lĩnh vực HKDD cho thấy các hình thức xử lýnhư hiện nay vẫn chưa đủ
đáp ứng nhu cầu giải quyết triệt để hành vi VPHC. Có thể thấy rõ điều này
qua các nội dung sau đây:
Thứ nhất: Cảnh cáo mang tính chất cưỡng chế Nhà nước nhưng phần
nhiều mang tính nhắc nhở, giáo dục. Còn phạt tiền tác động đến lợi ích vật
chất của người vi phạm, gây cho họ bất lợi về tài sản, nhưng ngay cả phạt tiền
61
ở mức cao đôi lúc cũng không đem lại hiệu quả mong muốn. Đối với cá nhân,
tổ chức thì hình thức xử phạt cảnh cáo, phạt tiền khi phạt xong là hết, nhiều
khi cá nhân, tổ chức không sợ. Do đó, pháp luật xử lý VPHC trong lĩnh vực
HKDD chưa đạt được hiệu quả phòng, chống và ngăn chặn cũng như xử lý
nghiêm minh hành vi vi phạm như mong muốn. Điều này đã được minh
chứng rất rõ nét trên thực tiễn, đó là việc các tổ chức, cá nhân có hành vi vi
phạm, bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền, thậm chí còn bị xử phạt nhiều lần,
nhưng sau đó vẫn tiếp tục tái phạm.
Bên cạnh đó, bản thân hình thức phạt cảnh cáo còn nhiều vấn đề cần bàn.
Theo quy định của Pháp lệnh Xử lý VPHC thì điều kiện áp dụng của hình
thức xử lý này chưa rõ ràng dẫn đến khó vận dụng. VPHC lần đầu có thể hiểu
được nhưng rất khó khăn khi xác định như thế nào là VPHC nhỏ, có tình tiết
giảm nhẹ. Chính việc quy định chưa rõ ràng này dẫn đến việc áp dụng để truy
cứu trách nhiệm hành chính không thống nhất.
Thứ hai: Mức phạt tiền được quy định tại các văn pháp quy phạm pháp
luật về Xử lý VPHC là chưa đầy đủ. Điều luật này chỉ mới quy định về mức
phạt tiền, mức phạt tối đa mà không có quy định cụ thể về điều kiện và đối
tượng áp dụng... Đó thực sự là thiếu sót cần phải khắc phục tạo thuận lợi cho
việc áp dụng pháp luật. Mức phạt tiền đối với các hành vi VPHC trong lĩnh
vực HKDD cũng không nằm ngoài hạn chế này. Ngoài ra, mức phạt tiền đối
với các hành vi VPHC về HKDD còn khá thấp. Mức xử phạt tối đa chỉ dừng
lại ở mức 100 triệu đồng đối với tổ chức như đã nêu trên, điều này có nghĩa
là dù vi phạm bao nhiêu đi chăng nữa thì mức xử phạt cũng chỉ là 100 triệu
đồng. Điều này dẫn tới việc lợi ích của việc vi phạm lớn hơn rất nhiều so với
việc bị xử phạt do vi phạm.
Việc quy định hình thức tiền tối thiểu và tối đa cho từng hành vi vi phạm
là rất cứng nhắc, không hợp lý, nhất là khi điều kiện kinh tế của đất nước thay
đổi hàng ngày, làm cho văn bản không có tính dự báo cao. Nhiều khi, các quy
định về mọi vấn đề của xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD vẫn hợp lý nhưng
62
mức phạt tiền này lại trở thành thấp, làm cho pháp luật lạc hậu so với đòi hỏi
của cuộc sống.
2.2.2.Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
Trên cơ sở Pháp luật Xử lý vi phạm hành chính, thẩm quyền xử lý
VPHC trong lĩnh vực HKDD được quy định tại chương III Nghị định số
162/2018/NĐ-CP ngày 30/11/2018, bao gồm: Thanh tra viên, người được
giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành đang thi hành công vụ có
quyền; Chánh Thanh tra Cục Hàng không Việt Nam, trưởng đoàn thanh tra
chuyên ngành của Cục Hàng không Việt Nam (Điều 31); Trưởng đại diện
Cảng vụ hàng không; Giám đốc Cảng vụ hàng không; Chủ tịch UBND các
cấp; Lực lượng Công an nhân dân có quyền xử phạt đối với các VPHC trong
lĩnh vực HKDD trong các trường hợp sau đây:
a) Hành vi VPHC được phát hiện trong quá trình triển khai thực hiện
phương án khẩn nguy;
b) Các hành vi VPHC trong lĩnh vực HKDD về an ninh, trật tự và an
toàn xã hội tại các khu vực công cộng ở cảng hàng không, sân bay hoặc do
các cơ quan trong ngành HKDD chuyển giao.
Như vậy, không như các ngành khác, chủ thể có thẩm quyền xử lý
VPHC trong lĩnh vực HKDD là khá rộng. Theo tôi điều này có căn nguyên
bởi xuất phát từ đặc thù của ngành HKDD (chẳng hạn trong lĩnh vực bảo
hiểm chỉ có Chủ tịch UBND cấp quận, huyện trở lên và Thanh tra Nhà nước
về lao động mới có thẩm quyền xử lý VPHC). Tuy vậy, trong thực tiễn thi
hànhvai trò của UBND các cấp hay Chủ tịch UBND là rất mờ nhạt, xuất phát từ
lý do chính quyền địa phương chỉ chú trọng đến phát triển kinh tế- xã hội tại địa
phương mà “quên” mình cũng có vai trò là cơ quan Nhà nước thục hiện hoạt
động xử lý VPHC về HKDD và thường cho đó là công việc của ngành HKDD.
Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý về HKDD nhiều lúc, nhiều
nơi chưa thực sự hiệu quả. Trên thực tế xảy ra tình trạng những năm qua cơ
quan HKDD đã phát hiện và phản ánh với cơ quan chức năng rất nhiều đơn vị
63
vi phạm nhưng số vụ xử phạt còn rất ít, thậm chí không xử phạt hoặc có xử
phạt nhưng không giám sát việc thực hiện quyết định xử phạt. Đây cũng là
nguyên nhân tại sao số vụ vi phạm pháp luật HKDD, VPHC trong lĩnh vực
HKDD ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp.
2.2.3. Tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân
dụng và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng từ
năm 2014 đến năm 2019
Theo số liệu của Cục HKVN, vi phạm pháp luật về HKDD từ năm 2014
đến năm 2019 ngày càng gia tăng. Theo đó:
Năm 2014: Các cơ quan QLNN và chủ thể có thẩm quyền đã ban hành
299 quyết định xử lý VPHC đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi VPHC
trong lĩnh vực HKDD, cụ thể:
- Cục trưởng Cục HKVN đã ký 01 quyết định
- Chánh Thanh tra Cục HKVN đã ký 53 quyết định
- Giám đốc các Cảng vụ hàng không:Miền Bắc (HKMB), Miền Trung
(HKMT), Miền Nam (HKMN) đã ký 245 quyết định với Số tiền thu về cho
ngân sách nhà nước: 2.556.300.000 đồng.
Năm 2015:
Năm 2015 các cơ quan quản lý và chủ thể có thẩm quyền đã ban hành
342 quyết định xử lý VPHC đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi VPHC
trong lĩnh vực HKDD, trong đó:
- Chánh Thanh tra Cục HKVN đã ký 29 quyết định
- Giám đốc các Cảng vụ hàng không đã ký 313 quyết định (Cảng vụ
HKMB: 156 quyết định; Cảng vụ HKMT: 37 quyết định và Cảng vụ HKMN:
120 quyết định). Số tiền thu về cho ngân sách nhà nước 2.749.650.000 đồng.
Năm 2016:
Năm 2016 các cơ quan quản lý nhà nước đã ban hành 300 quyết định xử
lý VPHC đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi VPHC trong lĩnh vực
HKDD. Số tiền thu về cho ngân sách nhà nước 2.293.550.000 đồng. Cụ thể:
64
- Chánh Thanh tra Cục HKVN ký 23 quyết định (513.750.000 đồng);
- Giám đốc các Cảng vụ hàng không ký 377 quyết định
Năm 2017:Có 492 quyết định xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD đã
được ban hành vớiSố tiền thu về cho ngân sách nhà nước 3.448.250.000 đồng,
Cụ thể:
- Chánh Thanh tra Cục HKVN đã ký 42 quyết định (509.500.000 đồng);
- Giám đốc các Cảng vụ hàng không đã ký 450 quyết định:
(2.938.750.000 đồng)
Năm 2018:Có 559 quyết định xử lý VPHC đã được ban hành trong lĩnh
vực HKDD vớiSố tiền thu về cho ngân sách nhà nước 3.742.750.000 đồng,
trong đó:
- Chánh Thanh tra Cục HKVN ký 36 quyết định (655.000.000 đồng);
- Giám đốc các Cảng vụ hàng không ký 523 quyết định: (3.087.750.000
đồng).
Năm 2019: các chủ thể có thẩm quyền đã ban hành 595 quyết định xử lý
VPHC đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi VPHC trong lĩnh vực HKDD.
Số tiền thu về cho ngân sách nhà nước3.478.750,000 đồng. Cụ thể:
- Chánh Thanh tra Cục HKVN đã ký 08 quyết định (215.000.000 đồng);
- Giám đốc các Cảng vụ hàng không đã ký 587 quyết
định:(3.263.750.000 đồng).
Qua kết quả thống kê trên cho thấyvới sự phát triển của HKDD Việt
Nam việc ra đời các hãng hàng không trong nước, các hãng này phát triển
mạng đường bay nội địa và quốc tế, phát triển đội bay. Nhiều hãng hàng
không quốc tế bay đến Việt Nam; các cảng hàng không, sân bay được phát
triển, xây mới, mở rộng, lượng khách đi bằng đường hàng không,khách du
lịch tăng mạnh…cũng kéo theocác VPHC trong lĩnh vực HKDD ngày càng
gia tăng và phức tạp. Năm 2014 có 299 quyết định xử lý VPHC đối với các tổ
chức, cá nhân có hành vi VPHC trong lĩnh vực HKDD thì đếnnăm 2019 đã
65
tăng gần hai lần (có 595 quyết định xử lý VPHC đối với các tổ chức, cá nhân
có hành vi VPHC trong lĩnh vực HKDD).
Từ số liệu thống kê năm 2019 dưới đâyvề hành vi vi phạm đã được Nhà
chức trách hàng khôngViệt Nam xử phạt VPHC trong lĩnh vực HKDDtheo
Nghị định số 162/2018/NĐ-CP cho thấy tập trung vào các vi phạm quy định
về nhân viên hàng không và thực hiện công việc theo tài liệu, quy trình, yêu
cầu công việc, quy trình phối hợp hoạt động;Vi phạm quy định về an toàn,
ninh hàng không tại cảng hàng không, sân bay, trên chuyến bay, tại nơi có
công trình, trang bị, thiết bị hàng không; Vi phạm quy định về khai thác tàu
bay; Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thẻ và giấy phép kiểm soát an
ninh hàng không; Vi phạm quy định về đi lại, điều khiển, vận hành phương
tiện, thiết bị hoạt động trong cảng hàng không, sân bay .
66
Hành vi Điều
0
0
0
0
Số hành vi Thanh Tra Hàng Không Cảng Vụ HK Miền Bắc Cảng Vụ HK Miền Trung Cảng Vụ HK Miền Nam
5
0
0
0
0
0
6
0
0
0
0
0
7
1
46
46
35
0
8
0
2
1
2
128
9
0
0
1
3
5
10
0
10
21
6
4
11
0
0
0
0
37
12
0
0
0
0
0
13
0
0
0
0
0
14
0
0
0
0
0
15
38
78
30
64
0
16
9
0
3
1
210
17
2
0
0
0
13
18
Vi phạm quy định về quốc tịch tàu bay Vi phạm quy định về tiêu chuẩn đủ điều kiện bay Vi phạm quy định về bảo dưỡng, sửa chữa tàu bay Vi phạm quy định về khai thác tàu bay Vi phạm quy định về quản lý và khai thác cảng hàng không, sân bay Vi phạm quy định về cung cấp dịch vụ tại cảng hàng không, sân bay Vi phạm quy định về đi lại, điều khiển, vận hành phương tiện, thiết bị hoạt động trong cảng hàng không, sân bay Vi phạm quy định về phòng, chống thiên tai và khẩn nguy sân bay Vi phạm quy định về bảo trì công trình hàng không Vi phạm quy định về bảo vệ môi trường trong khai thác tàu bay Vi phạm quy định về bảo vệ môi trường tại cảng hàng không, sân bay Vi phạm quy định về nhân viên hàng không và thực hiện công việc theo tài liệu, quy trình, yêu cầu công việc, quy trình phối hợp hoạt động Vi phạm quy định về bố trí, sử dụng, giám sát nhân viên hàng không và thực hiện công việc theo tài liệu, quy trình, yêu cầu công việc, quy trình phối hợp hoạt động Vi phạm quy định về đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện chuyên môn, nghiệp vụ cho nhân viên hàng không và đánh giá trình độ
2
67
tiếng Anh
0
0
0
0
19
0
0
0
0
0
20
0
0
0
0
0
21
0
0
0
0
0
22
0
0
0
3
0
23
4
0
1
2
3
24
4
32
12
0
7
25
17
71
45
0
48
26
0
0
1
0
133
27
7
8
2
0
1
28
0
0
0
0
17
29
0
0
0
1
0
30
Vi phạm quy định về giám định sức khỏe cho nhân viên hàng không Vi phạm quy định về cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay Vi phạm quy định về quản lý hoạt động bay Vi phạm quy định về thành lập doanh nghiệp vận chuyển hàng không và hoạt động hàng không chung Vi phạm quy định về khai thác vận chuyển hàng không và hoạt động hàng không chung Vi phạm quy định về hoạt động vận chuyển hàng không và hoạt động hàng không chung Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thẻ và giấy phép kiểm soát an ninh hàng không Vi phạm quy định về an ninh hàng không tại cảng hàng không, sân bay; trên chuyến bay; tại nơi có công trình, trang bị, thiết bị hàng không Vi phạm quy định về tổ chức bảo đảm an ninh hàng không Vi phạm quy định về phòng, chống cháy nổ tại cảng hàng không, sân bay và cơ sở cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay Vi phạm về hệ thống quản lý an toàn hàng không (SMS) và bảo đảm chất lượng Vi phạm quy định về điều tra sự cố, tai nạn hàng không
1
68
2.3. Đánh giá tình hình xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
hàng không dân dụng
2.3.1. Một số thành công
- Thứ nhất, Hoạt động xử lý vi phạm hành chính đã được thực hiện
đúng thẩm quyền, mặc dù số lượng các vụ vi phạm ngày càng gia tăng, với
tính chất của vụ việc ngày càng phức tạp nhưng cơ bản đã đảm bảo được trật
tự hoạt động của lĩnh vực HKDD.
- Thứ hai, quá trình thực hiện đã hạn chế được những sai sót, đặc biệt là
không hình sự hóa các vi phạm hành chính, tạo tâm lý tích cực. Kịp thời giải
quyết những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật xử lý
VPHC, thúc đẩy hiệu quả cho hoạt động của ngành HKDD.
- Thứ ba, các cơ quan có thẩm quyền đã thực hiện nhiều biện pháp
nghiệp vụ, kiểm soát, phát hiện và xử lý kịp thời hành vi vi phạm, đảm bảo
tính nghiêm minh của pháp luật, đạt được những kết quả tích cực, góp phần
phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi phạm hành chính đối với lĩnh vực
HKDD, giữa gìn trật tự, an ninh, an toàn xã hội và thúc đẩy phát triển.
2.3.2. Những hạn chế, bất cập
Bên cạnh các thành tựu, qua trình triển khai thực hiện xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực HKDD còn có những hạn chế nhất định.
- Thứ nhất, hoạt động xử phạt vi phạm hành chínhcòn nhiều vụ việc
chưa tương thích với hành vi vi phạm. Điều đó đi ngược với mục tiêu, phòng
ngừa răn đe vi phạm. Điều này một phần do các quy định pháp luật, một phần
do việc lựa chọn, áp dụng luật chưa chính xác. Thậm chí còn rất nhẹ, có thể
dẫn đến tâm lý chưa coi trọng pháp luật.
- Thứ hai,sự phối hợp của các cơ quan quản lý nhà nước trong xử lý
VPHC trong lĩnh vực HKDD còn lỏng lẻo, tạo ra những khoảng trống, khó
thực hiện.
- Thứ ba,Công tác cưỡng chế, tổ chức cưỡng chế thi hành quyết định
xử phạt hành chính khó thực hiện. Đối tượng vi phạm là người nghèo, không
69
có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, không có tài khoản ngân hàng, tài
sản của các đối tượng vi phạm cũng không có giá trị để kê biên. Bên cạnh đó,
việc xác định nơi tạm trú, nghề nghiệp và thu nhập đối với cá nhân vi phạm
gặp khó khăn, do đối tượng vi phạm trong nhiều trường hợp cư trú ở nhiều địa
phương khác nhau hoặc nơi cư trú không rõ ràng, chính quyền địa phương nơi
đối tượng cư trú cũng không quản lý được. Công tác phối hợp cưỡng chế giữa
các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan còn nhiều hạn chế, chưa có các
chế tài bắt buộc phải thực hiện đối với các cơ quan chức năng có liên quan.
Nhân lực, phương tiện, thiết bị và kinh phí của người quyết định xử phạt còn
hạn chế trong việc tổ chức cưỡng chế.
- Thứ tư, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động xử lý VPHC hạn chế:
Hiện nay viên chức của các cảng vụ hàng không không được phép sử dụng
phương tiện, trang thiết bị phục vụ cho công tác xử phạt VPHC gây khó khăn
nhiều cho công tác xử phạt VPHC tại các cảng hàng không, sân bay. Cảng vụ
hàng không là cơ quan quản lý nhà nước về HKDD tại cảng hàng không, sân
bay chỉ có duy nhất giám đốc cảng vụ là công chức nhà nước, ngoài ra toàn
bộ là viên chức. Lực lượng thực hiện kiểm tra, giám sát các hoạt động hàng
không tại các cảng hàng không, sân bay đều do các viên chức thực hiện, việc
cho phép viên chức thuộc các cảng vụ hàng không sử dụng phương tiện, trang
thiết bị phục vụ cho công tác xử phạt VPHC tại các cảng hàng không, sân bay
là cần thiết và phù hợp.
Luật xử lý vi phạm hành chính, các văn bản quy phạm pháp luật khác
chưa có quy định cơ chế cho phép sử dụng dữ liệu được trích suất từ các thiết
bị chuyên ngành (trừ lĩnh vực quản lý đường bộ và môi trường đã được quy
định tại Nghị định số 46/2016/NĐ-CP, Nghị định số 155/2016/NĐ-CP). Thực
tế, hệ thống thiết bị chuyên ngành hàng không (hộp đen, camera an ninh, tàu
bay, thiết bị chỉ huy điều hành bay...) do các doanh nghiệp chuyên ngành sản
xuất, khai thác đáp ứng tiêu chuẩn của Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế
(ICAO), của Việt Nam ghi nhận dữ liệu cực kỳ chính xác và hoàn toàn đủ tiêu
70
chuẩn và độ tin cậy để sử dụng làm bằng chứng xử phạt VPHC nhưng hiện tại
chưa cho phép.
- Thứ năm, cơ chế xử lý vi phạm hành chính thiếu rõ ràng, chưa phù hợp
Nguyên tắc quy định về hình thức xử phạt, mức xử phạt căn cứ vào ”tính
chất, mức độ xâm hại trật tự quản lý hành chính nhà nước của hành vi vi
phạm” tại khoản 2 Điều 2 Nghị định 81/2013/NĐ-CP và ”hành vi vi phạm
hành chính phải được quy định tại các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực quản lý nhà nước tương ứng, phù hợp với tính chất vi phạm
của hành vi đó. Trường hợp hành vi vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực này
nhưng do tính chất vi phạm đặc thù của hành vi đó, thì có thể quy định và xử
phạt trong nghị định xử phạt vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực khác. Trong
trường hợp này, hình thức, mức xử phạt quy định phải thống nhất với quy
định tại Nghị định xử phạt vi phạm hành chính của lĩnh vực quản lý nhà nước
tương ứng” tại khoản 5 Điều 2 Nghị định 81/2013/NĐ-CP chưa rõ ràng, do đó
gây khó khăn cho việc xây dựng Nghị định xử phạt trong các lĩnh vực quản lý
chuyên ngành và áp dụng trong thực tiễn.
Ví dụ:Tại điểm H khoản 4 Điều 26 xác định hành vi vi phạm: "Có cử chỉ,
lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của
nhân viên hàng không, hành khách hoặc người khác tại cảng hàng không, sân
bay...". Về khía cạnh pháp lý, người có thẩm quyền xử phạt VPHC không thể
căn cứ yếu tố cấu thành VPHC để xác định hành vi vi phạm (chủ thể, khách
thể, chủ quan, khách quan); về mặt ngữ nghĩa không thể hiểu thế nào là trêu
ghẹo, là lời nói thế nào là thô bạo...
Quy định về tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành
nghề theo thủ tục hành chính tại Điều 125 Luật Xử lý VPHC không phù hợp
với thực tiễn hoạt động HKDD vì: Đối tượng bị xử phạt VPHC hiện nay trong
lĩnh vực HKDD chủ yếu là nhân viên hàng không, hành khách đi tàu bay, do
đó những giấy tờ được phép tạm giữ gồmgiấy phép lái xe hoặc giấy phép lưu
hành phương tiện hoặc giấy tờ cần thiết khác có liên quan đến tang vật,
71
phương tiện không có liên quan đến vi phạm của đối tượng VPHC trong lĩnh
vực HKDD. Vì vậy, hiện nay không có loại giấy tờ, tài liệu được tạm giữ để
bảo đảm cho việc xử phạt vi phạm hành chính. Hơn nữa, chứng chỉ chuyên
môn (không phải chứng chỉ hành nghề) trong một số lĩnh vực hoạt động
chuyên ngành là điều kiện cần để nhân viên được phép làm công việc chuyên
môn. Khi có hành vi vi phạm việc đình chỉ hoặc tước quyền sử dụng chứng
chỉ chuyên môn đó mà không giữ chứng chỉ chuyên môn cũng cần được
nghiên cứu để sửa đổi quy định trong Luật xử lý vi phạm hành chính.
Quy định về cách tính thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ
hành nghề tại Điều 25 Luật Xử lý VPHC không phù hợp với thực tiễn hoạt
động HKDD vì: Theo quy định hiện hành, nhân viên hàng không vi phạm sẽ
bị đình chỉ ngay (thời gian đình chỉ khoảng từ 1 đến 2 tháng) để phục vụ điều
tra, xác minh và huấn luyện lại, do đó khi bị xử phạt VPHC sẽ bị tước quyền
sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề từ 1 tháng đến 3 tháng. Điều này dẫn
đến kéo dài thời hạn đưa ra khỏi dây chuyền làm việc và làm thiệt hại lớn về
tài sản (mất thu nhập) của người lao động; đồng thời gây khó khăn cho doanh
nghiệp do thiếu nhân lực.
Thời gian tạm giữ tang vật quy định tại Khoản 3 Điều 60 Luật Xử lý
VPHC quy định: “Thời hạn tạm giữ tang vật để xác định giá trị không quá 24
giờ, kể từ thời điểm ra quyết định tạm giữ, trong trường hợp thật cần thiết thì
thời hạn có thể kéo dài thêm nhưng tối đa không quá 24 giờ”. Như vậy, thời
gian tạm giữ tang vật để xác định giá trị tối đa không quá 48 tiếng là chưa phù
hợp với thực tế vì thời gian tạm giữ là quá ngắn, do phải thành lập Hội đồng
định giá, nhất là những vụ vi phạm mà tang vật là hàng hóa giả, thiết bị đã
qua sử dụng thì thời gian không đủ để định giá theo quy định.
Một số quy định chưa có giải thích chi tiết (như một số thuật ngữ: lăng
mạ, xúc phạm, già yếu; trình độ lạc hậu; VPHC có quy mô lớn, số lượng hoặc
trị giá hàng hóa lớn…), do đó gây khó khăn cho việc thi hành và áp dụng.
- Thứ sáu, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật chưa hiệu quả
72
Việc thực hiện quy định về công bố công khai trên các phương tiện
thông tin đại chúng về xử phạt VPHC trong lĩnh vực quản lý chuyên ngành
nói chung và lĩnh vực HKDD nói riêng, một số hành vi VPHC chưa rõ ràng,
đồng thười người dân ít quan tâm nghiên cứu Luật về HKDD và xử lý VPHC
trong lĩnh vực HKDD. Do đó, nhiều quy định được ban hành nhưng chưa tạo
được sự minh bạch. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật xả phạt
VPHC chưa tốt, dẫn đến, có nhiều VPHC trong lĩnh vực HKDD có tính chất côn
đồ, gây mất an ninh, trật tự, hành hung, ảnh hưởng đến an ninh, an toàn.
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Những hạn chế về xử lý vi phạm hành chínhtrong lĩnh vực HKDD có
nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ chủ thể xử lý vi phạm,
nguyên nhân từ đối tượng xử lý và các công cụ, phương tiện xử lý vi phạm.
- Năng lực chuyên môn và đạo đức công vụ của một bộ phận cán bộ,
công chức, thanh tra viên chưa đáp ứng yêu cầu. Điều đó dẫn đến việc xử lý
các hành vi VPHC chưa nghiêm. làm giảm tính răn đe và giáo dục của pháp
luật. Thí dụ gần đây, trường hợp Đại úy công an Lê Thị Hiền (SN 1983, quê
quán Cẩm Thủy, Thanh Hóa), có hành vi gây rối, mạt sát nhân viên sân bay,
chỉ bị phạt VPHC 200.000 đồng là chưa đúng với quy định của pháp luật.
Thực chất, Đại úy Lê Thị Hiền đã có hành vi gây rối trật tự tại sân bay Tân
Sơn Nhất, có những lời lẽ vu cáo, thô bạo với nhân viên sân bay, xúc phạm
danh dự, nhân phẩm của nhân viên hàng không. Hành vi này của bà Hiền có
thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định 162/2018/NĐ-
CP ngày 30/11/2018 của chính phủ: Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hàng không dân dụng. Điều 26 này quy định, phạt tiền từ
1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi đe dọa, lăng mạ nhân
viên hàng không, hành khách hoặc người khác tại cảng hàng không, sân bay
và nơi có công trình, trang bị, thiết bịhàng không dân dụng; Phạt tiền từ
3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm
sau đây: Gây rối, kích động, lôi kéo người khác gây rối làm mất an ninh, trật
73
tự tại cảng hàng không, sân bay và nơi có công trình, trang bị, thiết bịhàng
không dân dụng mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự; Có cử chỉ,
lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của
nhân viên hàng không, hành khách hoặc người khác tại cảng hàng không, sân
bay; đe dọa lăng mạ nhân viên hàng không, hành khách trên tàu bay;…Như
vậy, với hành vi của bà Hiền, mức phạt cao nhất có thể lên tới 5 triệu đồng,
thấp nhất cũng là 1 triệu đồng. Tuy nhiên, theo quy định tại Nghị định số
167/2013/NĐ-CP ngày 28/12/2013 của Chính Phủ, Đồn công an Sân bay
quốc tế Tân Sơn Nhất đã phạt bà Hiền 200 nghìn đồng. Ngoài đề xuất của
Cảng vụ cảng hàng không Miền Namđề nghị xem xét cấm bay với trường hợp
của bà Hiền, Luật sư Hải nhìn nhận điều này hoàn toàn đúng với quy định của
pháp luật. Bởi quy định “cấm bay” được thể hiện tại Khoản 1 Điều 18 Nghị
định 92/2015/NĐ-CP ngày 13/10/2015 về an ninh hàng không đã quy định,
cấm vận chuyển bằng đường hàng không có thời hạn từ 3- 12 tháng đối với
các đối tượng hành khách gây rối. Tuy nhiên, cần căn cứ vào tính chất, mức
độ vi phạm, Cục Hàng không Việt Nam quyết định cấm vận chuyển có thời
hạn hoặc vĩnh viễn đối với các đối tượng quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 của
Điều này 18. Quyết định cấm vận chuyển được áp dụng đối với các chuyến
bay nội địa, chuyến bay quốc tế xuất phát từ Việt Nam của tất cả các hãng
hàng không Việt Nam và nước ngoài.
- Quy định pháp luật về xử phạt VPHC trong lĩnh vực HKDD phân tán và
chưa đảm bảo chất lượng, thiếu rõ ràng, thậm chí mâu thuẫn, chồng chéo,
thiếu tính khả thi, cụ thể như sau:
+ Điều 33 Nghị định số 162/2018/NĐ- CP ngày 30/11/2018 quy định
thẩm quyền xử phạt VPHC của Chủ tịch UBND các cấp trong lĩnh vực
HKDD nhưng không quy định chi tiết thẩm quyền của Chủ tịch UBND các
cấp trong trường hợp nào, ranh giới hay địa bàn xảy ra VPHC ở đâu và nếu như
vậy có chồng lấn lên thẩm quyền xử lý VPHC của các chủ thể khác hay không.
74
+ Một số quy định về hành vi VPHC còn mang tính định tính: Chẳng
hạn: điểm c, khoản 1, Điều 16 Nghị định 162/2018/NĐ- CP quy định phạt
tiền từ 500.000đ đến 1.000.000đ đối với người có hành vi vi phạm ”Thực hiện
nhiệm vụ nhân viên hàng không quá thời gian làm việc; nghỉ không đủ thời
gian theo quy định, trừ thành viên tổ lái, kiểm soát viên không lưu và nhân
viên bảo dưỡng, sửa chữa tàu bay và thiết bị của tàu bay”; hoặc tại điểm b,
khoản 1, Điều 18 Nghị định nói trên quy định phạt từ 5.000.000 đ đến
10.000.000đ đối với hành vi “ Đánh giá trình độ tiếng Anh cho nhân viên
hàng không không đúng quy định” trong điều kiện chưa có quy định thế nào
là “Đúng”. Vì vậy, cần phải cụ thể hoá các quy định chung chung, thiếu định
tính, định lượng thành các hành vi cụ thể để dễ dàng nhận diện những vi
phạm này.
+ Ranh giới giữa hành vi VPHC với hành vi phạm tội trong lĩnh vực
HKDD, tránh quy định chung chung: “... tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm
mà bị xử phạt VPHC, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự...” và
dạng quy định này nằm ở nhiều văn bản pháp luật đặc biệt là ở Nghị định và
Thông tư. Tuy nhiên, việc xử lý về hình sự đã không thể thực hiện được vì
không có văn bản nào quy định rõ mức độ vi phạm như thế nào để có thể bị
truy cứu trách nhiệm hình sự. Có thể thấy, Luật HKDD không xác định ranh
giới giữa vi phạm và tội phạm ở những hành vi này và trong Bộ Luật Hình sự
cũng không có tội danh tương ứng nên cũng không thể xác định được ranh
giới này.
+ Các quy định về xử lý vi phạm hành chính phân tán, chồng chéo,việc
áp dụng xử phạt hành chính theo nghị định nào chưa rõ ràng đã tạo ra những
khó khăn cho việc tổ chức thực hiện và phối hợp xử lý. Việc xử phạt theo
Nghị định 167/2013/NĐ-CP áp dụng VPHC khu vực công cộng của Công an
cửa khẩu không sai nhưng những hành vi vi phạm xẩy ra khu vực cảng hàng
không, sân bay ảnh hưởng đến an toàn, an ninh vì các cảng hàng không, sân
75
bay là là công trình trọng điểm quốc gia, do đó việc vi phạm hành chính
thuộc lĩnh vực HKDD nên xử phạt theo Nghị định 162/2018/NĐ- CP
+ Quy định đối tượng áp dụng quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực
HKDD là cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các
quy định của pháp luật về HKDD mà không phải là tội phạm thì có thể bị áp
dụng hình thức xử phạt, mức xử phạt hoặc các hình thức khắc phục hậu quả
theo quy định.
+ Bất cập trong hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành HKDD về
những ưu đãi mà họ có được trong khi đó đối với các loại hình doanh nghiệp
khác không thể có những ưu đãi này. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài
có hành vi cố ý hoặc vô ý VPHC về pháp luật HKDD trong phạm vi nước
CHXHCN Việt Nam cũng bị xử phạt hành chính theo quy định tại Nghị định
162/2018/NĐ- CP, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên có quy định khác.
+ Đối với những hành vi VPHC về lĩnh vực HKDD của cán bộ, công
chức trong khi thi hành nhiệm vụ mà không phải là tội phạm thì bị xử lý kỷ
luật theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức.
+ Quy định mức xử phạt cụ thể đối với từng hành vi VPHC trong lĩnh
vực HKDD chưa tương xứng.
Vi phạm hành chínhtrong lĩnh vực Hàng không dân dụng trong thực tiễn
rất đa dạng về hành vi, tính chất cũng như mức độ vi phạm. Trong khi đó, quy
định về hình thức xử phạt, mức xử phạtcũng như các biện pháp khắc phục hậu
quả khá nghèo nàn và cứng nhắc. Việc quy định cụ thể mức xử phạt đối với
từng hành vi vi phạm chưa tương xứng với mức độ vi phạm dẫn đến những
khó khăn bất cập trong thực tiễn áp dụng và làm cho các chế tài thiếu tính răn
đe, phòng ngừa, gây nên những hành vi tái phạm và tái phạm nhiều lần. Để
khắc phục tình trạng này có thể xây dựng mức xử phạt theo tỷ lệ phần trăm
(%) trên tổng số tiềnHKDD do vi phạm mà có.
76
- Về đối tượng xử lý: Đối tượng xử lý vi phạm nhiều người cư trú không ổn
định, thậm chí không có tài sản để thực hiện nghĩa vụ theo quyết định xử lý vi
phạm mà chưa có phương án thay thế để tăng tính phòng ngừa của pháp luật.
- Cơ sở vật chất chưa được đầu tư phù hợp trong điều kiện vi phạm gia
tăng với tính chất ngày càng phức tạp.
Từ những phân tích trên, có thể thấy VPHC lĩnh vực HKDD rất đa dạng,
đến một mức độ nhất định, những hành vi vi phạm này sẽ tạo nên những tác
động tiêu cực tới hệ thống HKDD trừ khi chúng ta có cơ chế phòng ngừa hiệu
quả. Và nếu các rào cản vi phạm được thiết lập chặt chẽ và các hành vi vi
phạm được xử lý kịp thời, thì sẽ hạn chế được rất nhiều những hiện tượng tiêu
cực này.
77
TIỂU KẾT CHƯƠNG II
Trên cơ sởnghiên cứu những vấn đề lý luận về xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hàng không dân dụng của chương I, chương II luận văntập
trung nghiên cứu thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng
không dân dụngtại Việt Nam giai đoạn 2014 - 2019.
Trong phần nội dung, chương II đã nghiên cứu vềthực trạng pháp luật xử
phạt vi phậm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng, thực trạng vi
phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD và xử lý vi phạm hành chínhtrong
lĩnh vực HKDD. Trên cơ sở đó, đánh giá thực trạng xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực HKDD ở Việt Nam những năm gần đây và chỉ ra những thành
công,vấn đềcòn hạn chế, bất cập,nguyên nhân của những hạn chế, bất cập về
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD ở Việt Nam.
Phân tích thực trạng pháp luật, thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh
vực hàng không dân dụng và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng
không dân dụng tại chương II, luận văn đã chỉ ranhững lý do cản trở quá trình
xử lý hiệu quả đối với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng
không dân dụngViệt Nam. Đây là những căn cứ quan trọng, cùng với những
định hướng về chính sách, luận văn sẽ đưa ra những và giải pháp bảo đảm xử
lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD ở Việt Nam trong chương III.
78
CHƯƠNG III
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁPBẢO ĐẢM
XỬ LÝ VI PHẠMHÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG Ở VIỆT NAM
3.1. Phương hướng xử lý vi trong lĩnh vực hàng không dân dụng ở
Việt Nam
Trong Quy hoạch phát triển giao thông vận tải hàng không giai đoạn đến
năm 2020, định hướng đến năm 2030 vừa được Chính phủ phê duyệt điều
chỉnh thì mục tiêu chính đến năm 2030, thị trường vận tải hàng không Việt
Nam đứng trong nhóm bốn quốc gia hàng đầu ASEAN về sản lượng vận
chuyển. Sau chín năm triển khai, vị trí, vai trò của ngành hàng không được
củng cố và phát triển. Điều này đóng góp quan trọng cho sự phát kinh tế-xã
hội, quốc phòng an ninh của đất nước.
Quy hoạch mới tập trung giải quyết những vấn đề cần bổ sung, điều
chỉnh về quan điểm, chỉ tiêu phát triển; mạng đường bay; đội tàu bay; mạng
cảng hàng không; quản lý, bảo đảm hoạt động bay; doanh nghiệp hàng không;
nguồn nhân lực và cơ sở đào tạo; công nghiệp hàng không; bảo vệ môi
trường. Quy hoạch mới sẽ tạo nên khung pháp lý cao hơn và có ảnh hưởng
tích cực, tạo động lực thúc đẩy quá trình đổi mới, hội nhập toàn diện, phát
triển bền vững. Đồng thời, nâng cao năng lực cạnh tranh và tạo dựng hình ảnh
của ngành hàng không Việt Nam trên trường quốc tế. Qua đó, mang lại hiệu
quả phát triển chính trị-kinh tế-xã hội, góp phần đảm bảo quốc phòng an ninh
của đất nước, đáp ứng yêu cầu đặt ra trong giai đoạn phát triển mới.Ngoài ra,
điều chỉnh một số chỉ tiêu phát triển của các lĩnh vực vận tải hàng không,
cảng hàng không và quản lý bảo đảm hoạt động bay; bổ sung một số mục tiêu
để phù hợp với định hướng phát triển.
Quy hoạch mới cũng điều chỉnh về số lượng cảng hàng không và thời
gian đưa vào khai thác hợp lý hơn để nâng cao hiệu lực, hiệu quả khai thác;
cải thiện giao thông kết nối liên vùng và quốc tế, quốc nội; hỗ trợ phát triển
79
các địa phương có tiềm năng phát triển du lịch. Cụ thể, đến năm 2020 từ 26
cảng hàng không (theo quy hoạch cũ) còn 23 cảng hàng không (theo quy
hoạch điều chỉnh); trong đó, duy trì số lượng 10 cảng hàng không quốc tế.
Đến năm 2030 từ 26 cảng hàng không (theo quy hoạch cũ) tăng lên 28 cảng
hàng không (theo quy hoạch mới); trong đó, số lượng cảng hàng không quốc
tế tăng từ 10 lên 13. Bổ sung các cảng hàng không (Phan Thiết, Quảng Trị,
Thọ Xuân, Lai Châu) vào quy hoạch mạng để đáp ứng nhu cầu vận chuyển
hàng không tới các địa phương có cảng hàng không được dự báo sẽ tăng
mạnh; thúc đẩy phát triển kinh tế gắn với tăng cường tiềm lực quân sự quốc
phòng, tăng cường hiệu quả công tác khẩn nguy, cứu nạn, đường bay nội
vùng liên vùng trong hệ thống mạng cảng
Việc điều chỉnh quy hoạch đội tàu bay dựa trên cơ sở kế hoạch phát
triển đội tàu bay của các hãng hàng không Việt Nam, mạng đường bay, định
hướng tần suất khai thác, mục tiêu tăng trưởng thị trường, nhu cầu khai thác
thị trường và đảm bảo khả năng đáp ứng của kết cấu hạ tầng hàng không; kế
hoạch phát triển và năng lực thông qua các cảng hàng không; tiêu chuẩn, năng
lực và kế hoạch đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cảng hàng không
Thời gian qua, ngành hàng không phát triển với tốc độ tăng trưởng cao.
Chỉ tính riêng giai đoạn 2010-2017, thị trường vận tải hàng không Việt Nam
đạt 16,64%/năm về hành khách, 14%/năm về hàng hoá. Tổng sản lượng thông
qua các cảng hàng không đạt 16,91%/năm về hành khách, 13%/năm về hàng
hóa. Sản lượng vận chuyển của các hãng hàng không Việt Nam đạt
17,3%/năm về hành khách, 8%/năm về hàng hóa. Sản lượng điều hành bay
đạt 12%/năm.
Với kế hoạch và mục tiêu phát triển của ngành HKDD Việt Nam, dự
báo trong thời gian tới ngành HKDD Việt Nam sẽ có nhiều phát triển, đi kèm
với những thách thức không chỉ về hạ tầng mà còn về số lượng khách hàng,
tính chất, mức độ tham gia quan hệ HKDD và VPHC.Lượng hành khách đi lại
bằng đường hàng không ngày càng tăng, đa dạng nhiều thành phần, đặc biệt
80
là tốc độ phát triển nhanh của các hãng hàng không giá rẻ, đa số đối tượng
hành khách ít đi tàu bay, trình độ nhận thức, ý thức chấp hành các quy định
của pháp luật về HKDD còn hạn chế; hàng nghìn phương tiện, trang thiết bị
mặt đất, đội ngũ lao động lớn làm việc 24/24h.
Thực tế cho thấy cùng với sự phát triển của HKDD Việt Nam, số lượng
các VPHC cũng ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp, các Cảng hàng
không, sân bay là môi trường rất dễ phát sinh các hành vi VPHC. Các loại
hành vi vi phạm phổ biến: hành hung nhân viên hàng không, hành khách,
người khác tại cảng hàng không sân bay; trộm cắp trong cảng hàng không,
sân bay, trên tàu bay…
Bên cạnh đó, việc xử lý vi phạm hành chính gặp nhiều khó khăn, làm
giảm hiệu quả hoạt động của ngành, nhất là trong điều kiện hội nhập ngày
càng sâu rộng. Do đó, các chính sách, pháp luật của Việt Nam cũng cần tính
đến giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
HKDD, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành HKDD Việt Nam
Chất lượng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD được hiểu là
việc xử lý được kịp thời, thông suốt và bảo đảm được trật tự an ninh, an toàn
hàng không ....như vậy sẽ phụ thuộc vào nguồn lực, năng lực của chủ thể có
thẩm quyền xử lý để đảm bảo cho pháp luật được triển khai tốt, phát huy hiệu
lực, hiệu quả. Bên cạnh đó, cũng đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật xử lý
VPHC đồng bộ, có chất lượng, nâng cao dân trí, bảo đảm sự tôn trong luật lệ,
ứng xử văn minh nơi công cộng và đầu tư phù h ợp về cơ sở vật chất, phương
tiện hỗ trợ xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD. Nhà nước chủ trương hội
nhập, phát triển, nhất là hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân, ngành HKDD có sự
tham gia của các tập đoàn tư nhân, các hãng hàng không đang phát triển
mạnh. Theo đó ngành kinh tế vận tải hàng không mở thêm nhiều tuyến bay,
đến với nhiều quốc gia, nhiều thị trường trên thế giới...đó là lý do tất yếu sự
gia tăng các hành vi vi phạm pháp luật khi tham gia quan hệ HKDD của các
chủ thể. Các vấn đề về quốc tịch máy bay, môi trường, an ninh hàng khôngđặt
81
ra nhiều thách thức đòi hỏi phải nâng cao chất lượng xử lý VPHC để đáp ứng
yêu cầu phát triển của HKDD trong tình hình mới.
Trước yêu cầu đó, để bảo đảm chất lượng xử lý VPHC trong lĩnh vực
HKDD trong thời gian tới, Theo tác giả cần phải theo những định hướng sau:
Thứ nhất, phòng ngừa vi phạm luôn đòi hỏi phải có sự hỗ trợ đắc lực của
luật pháp và chỉ có trên cơ sở quy định của luật pháp mới có thể xác định
đúng đắn được hành vi ứng xử của mình. Luật HKDD được thông qua từ
ngày 29/6/200-6, nhưng phải một năm sau chúng ta mới có Nghị
định 91/2007/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực
HKDD. Tuy nhiên, văn bản này vừa ra đời đã bộc lộ những hạn chế nhất
định, nếu như không muốn nói rằng văn bản vừa ra đời đã lạc hậu, thiếu tính
kịp thời, đồng bộ gây lúng túng trong xử lý các VPHC trong lĩnh vực HKDD
vốn đã tiềm ẩn nhiều nguy cơ vi phạm. Sau khi có Nghị định số
162/2018/NĐ-CPngày 30/10/2018 Quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực
HKDD, chưa bao quát điều chỉnh đầy đủ hành vi, hành vi điều chỉnh chưa sát
với thực tiễn. Việc xác định hành vi VPHC thường không chú trọng yếu tố
căn cứ cấu thành hành vi VPHC nên việc xác định hành vi VPHC trong lĩnh
vực HKDD dễ mang tính cảm tính và bất đồng quan điểm giữa các lực lượng
chức năng tham gia công tác xử phạt VPHC trong lĩnh vực HKDD
Thứ hai:Phải tiếp tục nghiên cứu bổ sung thêm quy định về mức phạt
cho phù hợp với yêu cầu phát triển cũng như yêu cầu về an ninh, an toàn hàng
không.
Hiện nay mức xử phạt đối với các hành vi VPHC theo quy định hiện hành còn
thấp so với yêu cầu phòng ngừa và sự phát triển kinh tế, xã hội, các biện pháp
xử phạt bổ sung và các biện pháp khắc phục hậu quả trong nhiều trường hợp
không thực hiện được. Theo quy định mức xử phạt đối với hành vi VPHC về
HKDD hiện nay cao nhất là 100 triệu đồng thì đối với những doanh nghiệp thì
số tiền phạt đó không đáng là bao, doanh nghiệp thà chịu xử phạt còn hơn là
82
ngừng hoạt động và như vậy họ sẽ chọn phương pháp vẫn tiếp tục vi phạm để
duy trì hoạt động.
Thứ ba, cải cách thủ tục xử phạt vi phạm hành chính sao cho đơn giản,
rõ ràng, hiệu quả, tạo thuận lợi cho người dân nhưng không làm bó tay các cơ
quan có thẩm quyền xử phạt VPHC; bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp
của người lao động, cơ quan, đơn vị, tổ chức. Xác lập cơ chế giám sát, kiểm
tra chặt chẽ nhằm ngăn chặn kịp thời và phòng ngừa các vi phạm từ phía các
cơ quan nhà nước, công chức nhà nước thi hành công vụ về xử phạt VPHC
trong lĩnh vực HKDD.
Hoạt động thanh tra về HKDD thường được tổ chức theo đợt (định kỳ)
và chỉ là một nội dung trong thanh tra, kiểm tra (cùng với các nội dung khác
như: an toàn lao động, chế độ tiền lương...) nên hầu hết các doanh nghiệp,
đơn vị vi phạm thường chuẩn bị kế hoạch đối phó, nội dung thanh tra về
HKDD không được bao quát và đầy đủ. Do vậy, kết quả thanh tra và xử lý vi
phạm thường phản ánh không hết tình hình vi phạm pháp luật HKDD trên
thực tế.
Thứ tư, phối hợp chặt chẽ công tác giải quyết các VPHC giữa các cơ
quan Trung ương và địa phương, giữa các cơ quan quản lý nhà nước và Thanh
tra chuyên ngành về HKDD. Thẩm quyền xử phạt VPHC đã quá rõ ràng tuy
nhiên đại đa số các quyết định xử phạt đều do thanh tra lao động, nhưng lực
lượng này quá ít ỏi. Do vậy, các cuộc thanh tra về lĩnh vực HKDD còn rất hạn
chế, việc theo dõi, đôn đốc thực hiện quyết định xử phạt hầu như “bỏ ngỏ”.
Các kiến nghị của cơ quan HKDD sau kiểm tra thường chậm được thực hiện
do phải chờ ý kiến của các ngành chức, nhiều khi chờ đợi quá lâu, không có ý
kiến phản hồi làm cho việc giải quyết các vi phạm chậm theo, thậm chí ách
tắc làm tăng mức độ phức tạp của vụ việc.
Thứ năm, quy định cơ chế truy cứu trách nhiệm cá nhân trong trường
hợp xử lý VPHC các đơn vị, tổ chức. Hiện nay, mức độ vi phạm Luật HKDD
của các đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp trong việc đóng HKDD ngày càng lớn
83
với các hành vi tái phạm nhiều lần, làm ảnh hưởng trực tiếp tới ngành HKDD.
Tuy nhiên, pháp luật hiện hành không quy định trách nhiệm hành chính đối
với những hành vi của các cá nhân trong các đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp vi
phạm đó. Nhiều quy định vẫn chung chung khó áp dụng chế tài trên thực tế:
“Tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ
luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi
thường theo quy định của pháp luật”. Thêm nữa cho đến nay Việt Nam chưa
có quy định trách nhiệm cá nhân trong pháp nhân VPHC trong lĩnh vực
HKDD. Do vậy, trong trường hợp xử lý VPHC đối với các pháp nhân, cần
phải quy định cụ thể về việc truy cứu trách nhiệm hành chính những cá nhân
trong pháp nhân có lỗi khi để xảy ra vi phạm. Sau khi có quyết định xử lý đối
với pháp nhân cần tiếp tục làm rõ trách nhiệm của các cá nhân liên quan để có
hình thức xử lý thích hợp. Điều này cũng phù hợp với nguyên tắc cứ mỗi
hành vi vi phạm chỉ bị xử lý một lần vì hành vi và lỗi của pháp nhân chính là
lỗi tổng hợp bao hàm hành vi và lỗi của nhiều cá nhân. Trong đó, có những cá
nhân có hành vi và lỗi rõ ràng có thể cấu thành hành vi và lỗi độc lập nên có
thể xử lý VPHC đối với những cá nhân đó.
Thứ sáu, xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ trong xử lý VPHC
trong công tác đấu tranh phòng, chống hành vi vi phạm nói chung và lĩnh vực
HKDD nói riêng, nhằm giảm thiểu những tác động xấu do hành vi VPHC về
HKDD gây ra, để bảo đảm sự phát triển, bảo đảm an ninh, an toàn của ngành
HKDD; trong khi áp dụng các biện pháp xử lý VPHC không mang lại hiệu quả
cao như mong muốn cần thiết phải có cơ chế để ngành HKDD tiến hành việc
khởi kiện các doanh nghiệp, cá nhân vi phạm về HKDD ra toà án dân sự.
Như vậy, mặc dù đã có quy định của pháp luật về xử phạt VPHC đối với
những hành vi VPHC về HKDD nhưng qua phân tích thực trạng về VPHC và
xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD cho thấy còn nhiều bất cập, hạn chế trong
quy định của pháp luật. Điều này dẫn đến hiệu quả của công tác đấu tranh phòng
84
ngừa vi phạm pháp luật HKDD không cao. Do vậy, vấn đề đặt ra là cần phải
hoàn thiện hệ thống pháp luật về VPHC và xử phạt VPHC lĩnh vực HKDD.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vựchàng không dân dụng
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về xử phạt hành chính lĩnh vực hàng
không dân dụng
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, thời gian qua vấn đề xử lýVPHC trong
lĩnh vực HKDD Việt Nam đã có những đóng góp không nhỏ trong công tác
phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả đối với các VPHC ở nước ta, giữ vững ổn
định, trật tự an toàn xã hội để phát triển kinh tế - xã hội nói chung, ngành
HKDD nói riêng.Với vai trò Hàng không dân dụng là một ngành quan trọng,
đóng góp rất lớn vào công cuộc phát triển của đất nước, thúc đẩy giao thương
và du lịch, sử dụng hiệu quả cơ sở hạ tầng và nâng cao chất lượng cuộc sống
cho người dân. HKDD cũng là hoạt động đặc thù có tầm quan trọng đặc biệt
do ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng bởi vậy việc tuân thủ nghiêm đến quy
tắc quản lý là yêu cầu chặt chẽ trước tiên với ngành HKDD Việt Nam . Xử lý
vi phạm hành chính trong HKDD ko chỉ tác động đến giao thông, phát triển
kinh tế mà trực tiếp bảo vệ an ninh, an toàn tính mạng và tài sản con người
bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật uy tín của nhà nước.
Xuất phát từ những bất cập, hạn chế trong các quy định của pháp luật cũng
như từ thực tiễn hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật về xử lý VPHC trong
lĩnh vực HKDD thời gian qua chưa đạt hiệu quả cao. Việc hoàn thiện pháp
luật xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD cũng như tổ chức thực hiện là một
yêu cầu tất yếu khách quan và cấp bách trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam.
Trước hết, khẩn trương, kịp thời ban hành văn bản quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành Luật Xử lý VPHC; tiếp tục rà soát các quy định của pháp
luật còn bất cập để kịp thời sửa đổi, bổ sung một số quy định cho phù hợp
tình hình thực tiễn ngoài ra các vấn đề bất cập được kiến nghị cụ thể như sau:
85
- Bổ sung quy chế phối hợp giữa Cục Hàng không Việt Nam và Cục
Quản lý xuất nhập cảnh về: quản lý, giám sát đối với các đối tượng đang có
nghĩa vụ chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính; chế tài đối với
đối tượng người nước ngoài không chấp hành quyết định xử phạt vi phạm
hành chính và đã xuất cảnh về nước. (trên cơ sở Luật nhập cảnh, xuất cảnh,
quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014).
- Tại Điều 75 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định về thi
hành quyết định xử phạt VPHC trong trường hợp người bị xử phạt chết, mất
tích, tổ chức bị xử phạt giải thể, phá sản cần: Xây dựng chế tài chi tiết, cụ thể
đối với trường hợp người nước ngoài VPHC trong phạm vi điều chỉnh của Luật
Xử lý VPHC năm 2012 chưa thi hành quyết định xử phạt mà đã xuất cảnh (đối
với những đối tượng đã vi phạm và có thể nhập cảnh trở lại Việt Nam).
- Đối với Nghị định số 162/2018/NĐ-CP ngày 30/11/2018 của Chính phủ
về xử phạt VPHC trong lĩnh vực HKDD cần có văn bản hướng dẫn cụ thể, khái
niệm giải thích hành vi, bao quát điều chỉnh đầy đủ hành vi sát với thực tiễn.
3.2.2. Nâng cao hiệu quả công tác xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hàng không dân dụng
Những quy định về hành vi vi phạm hành chính và các chế tài xử lý
VPHC về HKDD đã đóng vai trò tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả công
tác quản lý nhà nước về HKDD. Thông qua các cuộc thanh tra, kiểm tra việc
chấp hành các quy định của pháp luật HKDD, cơ quan có thẩm quyền đã kịp
thời phát hiện và xử lý các hành vi VPHC về HKDD, đồng thời ngăn ngừa
các hành vi vi phạm có thể xảy ra trong tương lai. Việc áp dụng các chế tài
hành chính đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm đã tác động phần nào
đến ý thức chấp hành pháp luật về HKDD của các cá nhân, tổ chức. Tuy
nhiên trong thực tế, pháp luật VPHC và xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD
hiện hành cũng như hoạt động tổ chức thực hiện còn tồn tại nhiều vấn đề bất
cập sau:
86
Sau gần 10 năm thực hiện Pháp luật xử lý vi phạm hành chính mặc dù
được nghiên cứu, hoàn thiện và sửa đổi nhiều lần vẫn bộc lộ những hạn chế
cần được nghiên cứu, khắc phục như sau: Một số hành vi VPHC còn quy định
chung chung, mang tính định tính nên khó xác định và áp dụng trong thực tế.
Hình thức xử phạt chưa phong phú, chưa đáp ứng được đòi hỏi của công cuộc
đấu tranh phòng, chống VPHC trong tình hình mới. Việc quy định cụ thể mức
phạt tiền tối đa đối với từng lĩnh vực tuy rõ ràng và dễ áp dụng, nhưng lại dễ
bị lạc hậu khi mà nền kinh tế - xã hội luôn luôn phát triển. Thủ tục xử lý vi
phạm hành chính còn thiếu các quy định để đảm bảo tính dân chủ, chính xác,
khách quan trong quá trình người có thẩm quyền xem xét, quyết định việc xử
phạt… Chính vì vậy, việc xây dựng và ban hành một văn bản luật về xử lý
VPHC có tính chất là “luật khung”, quy định những vấn đề cơ bản, cụ thể về
xác định các hành vi vi phạm và xử lý VPHC như nguyên tắc xử phạt, thẩm
quyền xử phạt, hình thức xử phạt, thủ tục xử phạt… là nhu cầu cần thiết. Trên
cơ sở những thay đổi của “luật khung” đó, pháp luật về xử lý VPHC trong
lĩnh vực HKDD cũng cần phải được hoàn thiện, sửa đổi cho phù hợp.
Qua nghiên cứu thực trạng, diễn biến của vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực HKDD cho thấy, các hành vi xâm hại quan hệ HKDD là một trong những
hành vi xảy ra phổ biến và hiện đang là vấn đề được đề cập nhiều trên các
phương tiện thông tin đại chúng ở nước ta hiện nay, các thiệt hại do các hành
vi đó gây ra có chiều hướng ngày càng gia tăng và nghiêm trọng. Là nguy cơ
gây bất ổn cho xã hội, làm giảm sút lòng tin của nhân dân lao động vào chính
sách HKDD của Đảng và Nhà nước. Trong khi đó, hoạt động xử lý VPHC
trong lĩnh vực HKDD hầu hết (nếu không nói là tuyệt đại đa số) đều được tiến
hành trên cơ sở các cuộc thanh tra về HKDD nhưng hoạt động thanh tra về
HKDD hiện nay chưa bao quát được hết mọi khía cạnh, chất lượng thanh tra
chưa đảm bảo, hoạt động thanh tra không được tiến hành thường xuyên. Do
đó, không thể tránh khỏi rất nhiều trường hợp VPHC về HKDD trên thực tế
không bị phát hiện và xử lý. Mức xử phạt thấp, biện pháp khắc phục hậu quả,
87
hình thái bổ sung còn nhiều bất cập không đủ sức răn đe, làm giảm vai trò của
chính sách pháp luật. Đây là những yêu cầu, đòi hỏi đặt ra cho việc xem xét,
hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử VPHC trong lĩnh vực HKDD
trong thời gian tới.Chịu ảnh hưởng từ những quy định của Pháp lệnh xử phạt
VPHC, nội dung các quy định hiện hành của pháp luật về xử lý VPHC trong
lĩnh vực HKDD cũng có những hạn chế, bất cập tương tự đó là: Quy định
hành vi VPHC về HKDD chưa cụ thể, mức xử phạt thấp; phân cấp thẩm
quyền xử phạt giữa các chức danh trong lĩnh vực HKDD chưa hợp lý dẫn đến
việc áp dụng pháp luật không thống nhất; quy định các hình thức xử phạt
chính vẫn chưa đủ đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống vi phạm
pháp luật về HKDD trong giai đoạn hiện nay. Để đáp ứng yêu cầu nói trên
cần thiết phải tiến hành các vấn đề sau:
Thứ nhất, xác định lại tính chất và cách áp dụng hình thức phạt cảnh cáo.
Một yêu cầu đặt ra là cần phải giải thích và quy định rõ ràng về điều kiện
áp dụng để thuận lợi cho việc áp dụng đối với hình thức cảnh cáo. Để xác
định vi phạm lần đầu hay không, cơ quan có thẩm quyền phải thiết lập cơ sở
dữ liệu một cách công khai, minh bạch về những trường hợp VPHC trong lĩnh
vực HKDD. Căn cứ vào đó, người có thẩm quyền có thể xử phạt chính xác,
khách quan.
Nếu phạt cảnh cáo được áp dụng thật nghiêm túc và theo đúng quy định
pháp luật thì nó không chỉ có tính giáo dục cao mà còn đạt mục đích phòng
ngừa đối với người vi phạm và những người xung quanh. Người có thẩm
quyền khi áp dụng hình thức này cần giải thích rõ giúp cho người vi phạm
hiểu và nhận thức được nguy cơ bị áp dụng các biện pháp khác có mức độ
nghiêm khắc hơn nếu tái phạm. Để tăng cường hơn nữa tính răn đem giáo dục
của hình thức phạt cảnh cáo, cần phải bổ sung thêm một số quy định như: cá
nhân khi bị áp dụng hình thức phạt cảnh cáo sẽ bị gửi thông báo cho chính
quyền địa phương hay cơ quan nơi người đó cư trú, làm việc. Hoặc công khai
thông tin về các đơn vị trốn đóng, nợ tiền đóng HKDD trên các phương tiện
88
thông tin đại chúng như đài truyền hình, đài phát thanh hoặc báo, tạp chí…
hoặc gửi trực tiếp đến cơ quan, tổ chức người đó đang làm việc. Làm như vậy
đối tượng vi phạm sợ sự lên án của những người xung quanh, và do vậy hình
thức xử phạt cảnh cáo sẽ thực sự đạt được mục đích, không chỉ nhằm vào đối
tượng vi phạm mà còn có ý nghĩa phòng ngừa đối với các đối tượng khác.
Thứ hai,nghiên cứu, thay đổi và hoàn thiện mức xử phạt
Đối với hình thức xử phạt tiền, đây là một biện pháp có vai trò quan
trọng trong việc đấu tranh phòng, chống VPHC. Tuy nhiên, trước những hạn
chế đã phân tích ở trên, cần có giải pháp hoàn thiện hình thức này. Trước hết,
cần quy định hợp lý hơn về khung tiền phạt và mức phạt tiền. Khung tiền phạt
phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm từ thấp đến cao và khung tiền phạt
không nên quá rộng và cách xa nhau. Để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã
hội hiện nay, tránh sự lạc hậu của các quy định pháp luật, mức phạt tiền
không nên quy định theo số tiền cụ thể mà nên theo một con số tỷ lệ với mức
tiền do vi phạm mà có. Cách thức này đảm bảo quy phạm sẽ có giá trị lâu dài,
không phải sửa đổi nhiều do sự thay đổi của nền kinh tế.
Mức xử phạt đối với hành vi vi phạm pháp luật về HKDD hiện nay
không quá mức phạt tối đa theo Nghị định xử phạt vi phạm hành chính. Với
mức xử phạt tối đa là 100 triệu đồng vẫn là quá nhẹ, trong khi thiệt hại do
hành vi VPHC là quá lớn. Có thể thấy rằng, mức tiền phạt này không phù hợp
với tính chất của hành vi vi phạm trong trường hợp đó. Vì vậy, Có thể xem
xét theo hướng, mức phạt vi phạm được tính tỷ lệ % với số tiền vi phạm như
quy định của một số nước trên thế giới. Ví dụ: Ở Mông Cổ mức phạt tới 50%
thiệt hại do vi phạm gây ra.
Thứ ba,trước thực trạng cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thanh tra và
xử phạt vi phạm pháp luật trong lĩnh vực HKDD hầu như chưa chủ động xử
lý các vụ vi phạm. Để đảm bảo hoạt động thanh tra, kiểm tra đạt được hiệu
quả mong muốn, cần sửa đổi Điều 10 Luật HKDD, đồng thời bổ sung quy
định về thẩm quyền phạt VPHC trong lĩnh vựcHKDD trong Nghị định số
89
162/2018/NĐ-CP ngày 03/10/2018 của Chính phủ theo hướng quy định chức
năng thanh tra cho cơ quan thuộc Chính phủ có hoạt động đặc thù như cơ
quan HKDD được thành lập thanh tra chuyên ngành về HKDD đáp ứng được
yêu cầu thanh tra, kiểm tra và xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD được kịp
thời, qua đó góp phần hạn chế những hành vi vi phạm liên quan đến hoạt
động HKDD.
Thứ tư,nghiên cứu, hoàn thiện các quy định của hệ thống pháp luật về
chế tài xử phạt. Qua phân tích thực tiễn thi hành Luật xử lý vi phạm hành
chính, có thể thấy hệ thống pháp luật của chúng ta thiếu các chế tài xử phạt đủ
mạnh và đồng bộ. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là phải cụ thể hóa quy
định tại Luật xử lý vi phạm hành chính, Luật HKDD và khi đã xác định
những hành vi vi phạm luật ở mức độ là tội phạm phải có chế tài xử phạt
tương ứng. Tuy nhiên, sai phạm lớn nhất, kéo dài và gây bức xúc nhất đối với
ngành HKDD cũng như cơ quan quản lý nhà nước phải kể đến là hành vi vi
phạm liên quan đến sự phát triển, an toàn, an ninh của HKDD thì chưa hề bị
coi là tội phạm cũng như bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nguyên nhân là do
chúng ta chưa có quy định cụ thể trong việc xác định tội phạm chuyên biệt
trong lĩnh vực HKDD cả ở Luật HKDD và ở Bộ Luật Hình sự. Bộ Luật Hình
sự xác định đối tượng là cá nhân, tuy nhiên những vi phạm về HKDD có cả
pháp nhân và cá nhân. Có thể tham khảo nội dung này qua luật pháp về
HKDD ở một số nước trên thế giới
3.2.3. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, thanh tra viên làm công
tác xử lý vi phạm hành chính tronglĩnh vực hàng không dân dụng
Có thể nói, năng lực, trình độ của các lực lượng liên quan đến công tác
xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD hiện nay mới chỉ đáp ứng cơ bản yêu cầu
nhiệm vụ chứ chưa thể hoàn thành nhiệm vụ ở mức hiệu quả cao. Vì vậy, cần
tiếp tục củng cố và hoàn thiện bộ máy làm công tác thanh tra, kiểm tra từ
Trung ương đến địa phương, từ Ngành HKDD đến hệ thống kiểm tra của
ngành HKDD. Tiếp tục rà soát số lượng đội ngũ cán bộ, viên chức trực tiếp
90
tham gia công tác kiểm tra giám sát nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế về biên chế
trong công tác xử phạt VPHC lĩnh vực HKDD.
- Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, viên chức: Tiếp tục
đổi mới nội dung chương trình và phương thức đào tạo, bồi dưỡng; chú trọng
nâng cao kiến thức, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ về công tác xử lý vi
phạm. Kết hợp đào tạo chính quy với các hình thức đào tạo không chính quy,
đào tạo trong nước và nước ngoài về kiến thức pháp luật hành chính.
- Nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức cán bộ, viên chức trực tiếp
tham gia công tác xử phạt VPHC: Tăng cường các biện pháp giáo dục cho cán
bộ, viên chức về tinh thần trách nhiệm, ý thực tận tâm, tận tụy với công việc.
- Ban hành và thực hiện nghiêm quy chế công vụ, công khai hóa hoạt
động xử phạt VPHC, nâng cao trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật của đội
ngũ cán bộ, viên chức…
-Đội ngũ thanh tra viên cần được tăng cường cả về số lượng và chất
lượng. Cần xây dựng cơ chế phân vùng quản lý và cơ chế trách nhiệm cho
thanh tra viên. Đây là áp lực lớn đối với thanh tra viên nhưng là việc phải thực
hiện nếu muốn công tác xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD hiệu quả cao.
Về phía ngành Hàng không dân dụng Việt Nam, cũng cần tăng cường
chỉ đạo nghiệp vụ kiểm tra theo kế hoạch, theo chuyên đề của các Ban Nghiệp
vụ, Ban Kiểm tra đối với HKDD các địaphương. Thực hiện phân công cán bộ
chuyên quản để có điều kiện sâu sát với tình hình hoạt động kiểm tra của địa
phương nhằm đôn đốc, tháo gỡ vướng mắc kịp thời trong nghiệp vụ kiểm tra.
Nghiên cứu và tổ chức thường xuyên, kịp thời các lớp tập huấn, hướng dẫn
nghiệp vụ trong công tác thanh tra, kiểm tra, tham gia tố tụng tại Toà án trong
toàn hệ thống: tổng kết, phổ biến kinh nghiệm thực tiễn. Về phía HKDD các
tỉnh, thành phố: Cán bộ kiểm tra tại địa phương là người sâu sát và hiểu biết
nhất những diễn biến của công tác quản lý, thông qua việc thực hiện chức
năng kiểm tra sẽ phát hiện những bất cập của văn bản, những kẽ hở trong
công tác quản lý để phản ánh, kịp thời đề xuất những biện pháp quản lý có
91
hiệu quả, phù hợp với thực tiễn. Hoạt động kiểm tra của 63 tỉnh, thành phố
nếu phát huy tốt giúp Lãnh đạo các địa phương chấn chỉnh, uốn nắn kịp thời
những tồn tại, sai phạm ngay trên địa bàn quản lý.
3.2.4. Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật về hàng không về xử
lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chính sách, pháp luật HKDD cả về
hình thức và nội dung tới các cấp, các ngành, tới nhân dân một cách có hiệu
quả nhằm làm chuyển biến nhận thức về việc tham gia quan hệ trong lĩnh vực
HKDD. Thường xuyên thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến về pháp luật xử
lý hành chính, pháp luật HKĐD cho các tầng lớp nhân dân một cách sâu rộng
và toàn diện nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, tăng cường sự giám
sát của nhân dân đối với công tác xử phạt VPHC.
Đa dạng hoá hình thức tuyên truyền, nội dung tuyên truyền cần phù hợp
với từng đối tượng, trong đó chú trọng giáo dục, phổ biến kiến thức, kỹ năng
trong khi tham gia giao thông bằng đường HKDD cả trong nước và ở nước
ngoài một cách sâu sắc về các hành vi VPHC và chế tài xử lý hành vi VPHC;
tuyên truyền làm rõ trách nhiệm của các cấp, các Ngành, tổ chức xã hội, đoàn
thể trong việc phối hợp tổ chức thực hiện Luật HKDD. Kịp thời tuyên truyền,
biểu dương các cá nhân, đơn vị, địa phương, thực hiện tốt, phê phán những cá
nhân, đơn vị chưa thực hiện nghiêm chỉnh hoặc cố tình trốn tránh, làm sai các
quy định pháp luật trong lĩnh vực HKDD. Thời gian qua, Cục Hàng không Việt
Nam cũng đã tổ chức tuyên truyền, tập huấn về pháp luật hàng không, an ninh,
an toàn hàng không với nội dung phong phú dễ hiểu để nâng cao nhân thức về
những hành vi vi phạm pháp luật cho người dân ở một vài địa phương, trường
học. Tuy nhiên cách làm này chưa được sâu rộng, thường xuyên.
92
3.2.5. Tăng cường sự giám sát của nhân dân, báo chí, của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực Hàng không dân dụng
Để công tác xử phạt vi phạm hànhtrong lĩnh vực HKDD được công khai,
minh bạch, hiệu quả, đảm bảo đúng các quy định của pháp luật thì hoạt động
giám sát của quần chúng nhân dân, báo chí là vô cùng quan trọng. Thông qua
hoạt động này, các hành vi vi phạm của các lực lượng kiểm tra, giám sát, thực
thi công vụ được phát hiện, xử lý kịp thời, qua đó sẽ loại bỏ những đối tượng
có hành vi tiêu cực, kém về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, không đáp ứng
được yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Như vậy, hoạt động này mới tạo điều kiện
cho việc thu hút nhân tài, những người có kinh nghiệm, am hiểu pháp luật vào
công tác tại các cơ quan có chức năng xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD
3.2.6. Đầu tư phù hợp phương tiện hỗ trợ xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hàng không dân dụng
Xây dựng cơ chế phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền trong việc
quản lý hoạt động HKDD và xử lý khi có vi phạm xảy ra bởi HKDD không
chỉ là các sân bay và các chuyến bay. Để các sân bay hoạt động tốt, các
chuyến bay an toàn cần sự phối hợp từ các ngành, chính quyền các địa
phương… Vì vậy, cần tranh thủ sự chỉ đạo của chính quyền địa phương:
UBND, Hội đồng nhân dân, tăng cường và nâng cao hiệu quả việc phối hợp
với ngành HKDD.Cơ quan Cảng hàng không của HKDD tại các tỉnh, thành
phố phải thống kê định kỳ trao đổi, phối hợp với cấp uỷ và chính quyền địa
phương tình hình thực hiện hoạt động HKDD, đề xuất giải pháp để chính
quyền chỉ đạo các doanh nghiệp, đơn vị chấp hành nghiêm túc pháp luật
HKDD kịp thời, hiệu quả.
Trong việc đầu tư các phương tiện hỗ trợ cho công tác xử lý VPHC trong
lĩnh vực HKDD tại Việt Nam hiện nay cũng không thể nằm ngoài cơ chế phối
hợp đó.
93
3.3. Một số kiến nghị
Thứ nhất, kiểm tra, rà soát, sửa đổi và cụ thể hóa những hành vi vi phạm
còn mang tính chất chung chung, thiếu minh bạch dễ gây hiểu nhầm trong
thực hiện. Mục đích của việc kiểm tra, rà soát nhằm tìm những điểm bất cập
trong các quy định hiện hành đểtừ đó, xem xét, sửa đổi, bãi bỏ hoặc ban hành
mới nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về hành vi VPHC trong lĩnh
vực HKDD phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với yêu
cầu phát triển của ngành HKDD hiện nay và giai đoạn tiếp theo. Chẳng hạn
sửa các Điều chưa cụ thể, khó thực hiện như đã nêu tại chương II.
Thứ hai, bổ sung các quy định pháp luật về hành vi VPHC trong lĩnh vực
HKDD những hành vi còn thiếu. Chẳng hạn, hành vi thông đồng giữa nhân
viên hàng không với khách hàng, hợp thức hoá hồ sơ hưởng chế độ ưu đãi
hoặc trốn thuế theo Luật HKDD.
Thứ ba,bổ sung những quy định làm rõ ranh giới giữa hành vi vi phạm
với phạm tội trong lĩnh vực HKDD.
Về cơ bản, hành vi vi phạm và tội phạm trong lĩnh vực HKDD có thể
phân biệt được bởi mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm, theo
đó là hậu quả pháp lý mà chủ thể thực hiện hành vi đó phải gánh chịu. Đó là
mức độ thiệt hại gây ra hoặc đe dọa gây ra cho ngànhHKDD, là mức độ lỗi
của người có hành vi vi phạm pháp luật HKDD, là tình hình thực thi pháp luật
HKDD đặt trong hoàn cảnh và điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể.
Những quy định để xác định ranh giới giữa tội phạm trong lĩnh vực
HKDD và vi phạm trong lĩnh vực này có thể căn cứ vào:
- Mức độ thiệt hại về vật chất mà hành vi đã gây ra cho ngành HKDD
hoặc cho khách hàng;
- Tính chất “lặp lại” của hành vi vi phạm có thể hiểu là hành vi vi phạm
liên tiếp hoặc có thể là tái vi phạm. Chẳng hạn, vi phạm về đe dọa an toàn
chuyến bay hoặc đe dọa nhân viên hàng không nhiều lần.
Thứ tư,hoàn thiện Luật Hàng không dân dụng.
94
Hạn chế tối đa kẽ hở trong các quy định của Luật về HKDD để tránh tình
trạng bị lạm dụng. Chính sách về HKDDcủa Đảng và Nhà nước đã có rất
nhiều thay đổi trong thời gian qua nhằm phát triển ngành hàng không. Tuy
vậy, đã có những thời kỳ, có những chính sách với những quy định còn thiếu
chặt chẽ, còn kẽ hở dễ bị lạm dụng. Những hành vi này đã và đang diễn ra
ngày càng theo chiều hướng gia tăng với tính chất phức tạp hơn tuy nhiên
hoạt động xử phạt lại không hiệu quả. Do vậy, các quy định của Luật
HKDDvà Nghị định của Chính phủ về HKDD vẫn thiết phải được nghiên cứu
xây dựng hoàn thiện hơn nữa.Làm rõ quy định về trách nhiệm hình sự đối với
các hành vivi phạm về HKDD, chẳng hạn: các hành vi vi phạm có thể bị xử lý
kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Nghĩa là có ba
hình thức xử lý đối với những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
HKDD.Ba hình thức này sẽ bổ sung cho nhau tạo thành một hàng rào bảo vệ
nhằm đảm bảo cho pháp luật HKDD được thực hiện nghiêm túc trên thực tế.
Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi đặt ra là phải xác định được ranh giới giữa vi phạm
và tội phạm trong lĩnh vực HKDD để có thể áp dụng đúng biện pháp chế tài
xử lý chứ không phải quy định để loại trừ nhau hoặc quy định chung chung
dẫn đến khó áp dụng trên thực tế như pháp luật hiện hành về xử lý hành chính
cũng như hình sự.
Xét hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD cho dù vi phạm
bao nhiêu đi nữa thì mức xử phạt tối đa cũng chỉ là 100 triệu đồng. Như vậy,
trách nhiệm hình sự trong trường hợp này đã bị pháp luật hành chính loại trừ
hoàn toàn. Thêm vào đó, pháp luật hình sự không quy định cụ thể về tội danh
và trách nhiệm hình sự của pháp nhân đã làm cho tính răn đe của pháp luật
hành chính và pháp luật hình sự đối với vi phạm và tội phạm trong lĩnh vực
HKDD không được trọn vẹn, tính nghiêm minh của pháp luật không được bảo
toàn. Tương tự như vậy, hành vi không cấp hoặc cấp sai giấy chứng nhận của
cơ sở y tế hoặc biên bản giám định khả năng lao động của Hội đồng giám
định y khoa cũng được quy định theo hướng không phải chịu trách nhiệm
95
hình sự. Chính điều này đã làm cho pháp luật HKDD bị lạm dụng, người lao
động mất niềm tin vào các cơ quan chức năng của nhà nước.
96
TIỂU KẾT CHƯƠNG III
Trên cơ sở những phân tích đánh giá của chương II, những bất cập về
luật pháp, mâu thuẫn, chồng chéo của các quy định và quá trình tổ chức thực
hiện pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD đã được chỉ ra. Những
khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành, trên cơ sở kế thừa kinh nghiệm
xây dựng pháp luật vềxử lý VPHC tại Việt Nam trong những năm
qua,Chương III của Luận văn tập trung vào phân tích các định hướng và đề
xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật
về xử lý hành chính trong lĩnh vực HKDD, bảo đảm các quy định của pháp
luật phù hợp và có hiệu quả trong thực tiễn áp dụng. Đồng thời, cũng đề xuất
một số giải pháp nhằm hỗ trợ, đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật về xử lý
VPHC trong lĩnh vực HKDD đạt hiệu quả cao hơn. Các giải pháp đưa ra đều
được dựa trên tư tưởng quán triệt các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà
nước về các vấn đề hoàn thiện pháp luật về HKDD phải đảm bảo phù hợp và
đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, cải cách bộ máy nhà nước, đồng thời
tiếp thu kinh nghiệm quý báu của quốc tế trong việc xây dựng, phát triển và
hoàn thiện pháp luật xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD.
97
KẾT LUẬN
Là quốc gia đang phát triển và hội nhập mạnh mẽ, nền kinh tế Việt Nam
phát triển ngày càng sôi động. HKDD Việt Nam là lĩnh vực có đóng góp lớn
vào sự tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Hàng
không dân dụng Việt Nam tham gia tích cực vào việc thúc đẩy giao thương và
du lịch, sử dụng hiệu quả cơ sở hạ tầng và nâng cao chất lượng cuộc sống
người dân và có tầm quan trọng đặc biệt đối với an ninh quốc phòng. Bởi vậy,
việc tuân thủ nghiêm các quy tắc quản lý là yêu cầu chặt chẽ trước tiên mà
các chủ thể tham gia cần tuân thủ. Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
HKDD không chỉ tác động đến vấn đề giao thông, phát triển kinh tế, mà còn
trực tiếp bảo vệ an ninh trật tự, an toàn tính mạng và tài sản của con người,
bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật, uy tín của Nhà nước.
Tuy nhiên, từ thực tiễn phát triển của ngành HKDD và những vi phạm,
thực trạng xử lý hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực HKDD, đã và
đang đặt ra những vấn đề cần được giải quyết. Thực tiễn đó cũng đã đặt ra
việc hoàn thiện pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD như một đòi
hỏi cấp thiết.
Việc thiết kế ba chương đề tài luận văn“Xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hàng không dân dụng ở Việt Nam hiện nay”đã tập trung
nghiên cứu những vấn đề sau:
Thứ nhất, luận văn đã hệ thống hoá được những vấn đề lý luận cơ bản về
xử lý VPHC lĩnh vực HKDD. Đây là cơ sở khoa học quan trọng góp phần làm
căn cứ đánh giá thực trạng xử lý VPHC về HKDD cũng như nghiên cứu, đề
xuất giải pháp hạn chế vi phạm.
Thứ hai, trên cơ sở thực tiễn công tác và nghiên cứu tình hình vi phạm
và xử lý VPHC, luận văn đã phác thảo những nét chính của thực trạng quy
định của pháp luật cũng như thực tiễn thi hành về xử lý VPHC trong lĩnh vực
98
HKDD; từ những phân tích, đánh giá đó chỉ ra được những nguyên nhân, hạn
chế về pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng.
Thứ ba, trên cơ sở những quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng và Nhà
nước về hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và hoàn thiện pháp luật
HKDD nói riêng, luận văn đưa ra hai nhóm giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện
các quy định của pháp luật về nâng cao hiệu quả cho hoạt động tổ chức thực
hiện pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực HKDD.
Việc giải quyết được những bất cập thông qua các giải pháp, kiến nghị
được đề xuất, trên cơ sở pháp luật xử lý VPHC về HKDD được hoàn thiện,
sẽ góp phần thúc đẩy ngành hàng không dân dụng và nền kinh tế, xã hội ngày
càng phát triển, góp phần giữ vững an sinh xã hội và trật tự an toàn xã hội,
xây dựng xã hội “công bằng, dân chủ, văn minh”.
99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách và tài liệu tham khảo tiếng việt:
1. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Báo cáo tổng kết 5 năm thực
hiện Luật Hàng không dân dụng Việt Nam.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Bộ Tư pháp – Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (năm 2005), Bình
luận khoa học Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002,Nhà
xuất bản Tư pháp, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2010), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Đại học Luật Hà Nội (năm 2005), Giáo trình Luật an sinh xã hội, Nhà
xuất bản Tư pháp, Hà Nội.
6. Bộ Giao thông vận tải ( năm 2016), Quy định chi tiết về quản lý, khai
thác cảng hàng không, sân bay –Thông tư số 17/2016/TT-BGTVT
7. Đại học Luật Hà Nội (năm 2011), Giáo trình Luật Hành chính,Nhà
xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
8. Báo cáo tổng hợp kết quả điều tra, Dự án điều tra cơ bản “Thực tiễn thi hành một số quy định mới của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012” của Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) thực hiện năm 2018, do TS. Nguyễn Văn Cương làm chủ nhiệm
9. Ngô Tử Liễn (năm 1994), “Cơ sở của trách nhiệm hành chính và vấn đề sửa đổi Điều 1 Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số (1), tr. 14.
10. TS. Bùi Xuân Đức (1998), Các hình thức xử phạt hành chính - Hiện trạng và phương hướng hoàn thiện, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 117
11. PGS, TS Bùi Thị Đào, (9/2003), Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính, Tạp chí Luật học, số Đặc san về xử lý vi phạm hành chính
100
12. Lê Vương Long, “Một số vấn đề hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính”, Tạp chí Luật học, - Trường Đại học Luật Hà Nội, (tháng 9/2003), tr.35
13. TS.Trần Minh Hương (năm 2008), Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính - Thực trạng quy định, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện,
Tạp chí Luật học, tr.28 .
14. Nguyễn Cửu Việt (năm 2008), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.393
15. PGS.TS Bùi Xuân Đức (năm 2009), Hệ thống chế tài xử phạt vi phạm
hành chính - Những bất cập, hạn chế và phương hướng hoàn
thiện,Tạp chí Luật học, tr.8 -15.
16. Kiều Minh (2009), Những gian nan trong thực hiện thu vi phạm hành
chính, Tạp chí Tài chính số 5A, tr 18 – 22.
17. Đại học Luật Hà Nội (năm 2011), Giáo trình Luật Hành chính, Nhà
xuất bản Công an nhân dân
Văn bản pháp luật Việt Nam:
1. Bộ Luật Lao động của nước CHXHCN Việt Nam năm 1994, sửa
đổi bổ sung năm 2002, 2006, 2007.
2. Bộ Luật Hình sự của nước CHXHCN Việt Nam năm 1999
3. Luật Vi phạm hành chính số 71/QH11/2006
4. Luật Bảo hiểm y tế số 25/2008/QH12
5. Pháp lệnh Xử phạt Vi phạm hành chính năm 1989
6. Pháp lệnh Xử lý Vi phạm hành chính năm 1995
7. Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002
8. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi
phạm hành chính năm 2008
9. Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày 16/12/2008 quy định chi tiết
thi hành một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm
101
2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý
vi phạm hành chính năm 2008
10. Nghị định số 113/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/4/2004 Quy
định về xử phạt hành chính về hành vi vi phạm pháp luật lao động.
11. Nghị định số 147/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/8/2013 Quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hàng không dân
dụng
12. Nghị định số 162/2018/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/10/2018 Quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hàng không dân
dụng
13. Nghị định số 86/2010/NĐ-CP ngày 13/8/2010 của Chính phủ Quy
định về xử phạt Vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hàng không dân
dụng
14. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020.
Tài liệu tham khảo tiếng anh:
15. Social Security Law of Combodia
16. Social Insurance Law of Mongolia (1996)
17. Social Security Law of Iran
18. Social Security Act of Philippines (1997)
19. Social Security Act, B.E. 2533 (1990) of Thailand