intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Yếu tố Phật giáo trong đạo Cao Đài

Chia sẻ: Kequaidan2 Kequaidan2 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:4

59
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đạo Cao Đài – một tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ được hình thành trên nền tảng kết hợp các tôn giáo khác như: Bàlamôn giáo, Đạo giáo, Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Trong đó, Phật giáo có phần trội hơn so với các tôn giáo khác. Chúng ta có thể thấy qua việc: Chọn nhân vật Phật giáo để thờ, danh hiệu Phật giáo được dùng trong tôn giáo này, kinh văn giáo lý mang yếu tố Phật giáo và yếu tố của nhà Phật được biểu hiện qua kiến trúc của Tòa Thánh Tây Ninh – thánh địa và tổ đình của đạo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Yếu tố Phật giáo trong đạo Cao Đài

KỶ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM 2019<br /> <br /> YẾU TỐ PHẬT GIÁO TRONG ĐẠO CAO ĐÀI<br /> SV: Huỳnh Minh Nhựt, Lớp: ĐHVNH16A<br /> GVHD: ThS. Trần Hoàng Phong<br /> Tóm tắt<br /> Đạo Cao Đài – một tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ được hình thành trên nền tảng kết hợp<br /> các tôn giáo khác như: Bàlamôn giáo, Đạo giáo, Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Trong đó, Phật<br /> giáo có phần trội hơn so với các tôn giáo khác.<br /> Chúng ta có thể thấy qua việc: Chọn nhân vật Phật giáo để thờ, danh hiệu Phật giáo<br /> được dùng trong tôn giáo này, kinh văn giáo lý mang yếu tố Phật giáo và yếu tố của nhà Phật<br /> được biểu hiện qua kiến trúc của Tòa Thánh Tây Ninh – thánh địa và tổ đình của đạo.<br /> Từ khóa: Cao Đài, yếu tố Phật giáo, dung hợp tôn giáo<br /> 1. Đặt vấn đề<br /> Vào thời kỳ Bắc thuộc, Phật giáo Bắc Tông đặt những nền móng đầu tiên trên đất Việt.<br /> Phật giáo đã hòa nhập với các tôn giáo – tín ngưỡng bản địa để tạo được chỗ đứng ổn định cho<br /> mình. Không dừng lại đó, tôn giáo này ra công hoằng hóa và góp công xây dựng đất nước phát<br /> triển. Vào thời Lý – Trần, Phật giáo đã vươn lên mạnh mẽ trở thành hệ tư tưởng chính trong xã<br /> hội. Những công lao to lớn của đạo Phật có thể kể đến: Thời kỳ đất nước yên bình, nhà chùa<br /> giúp tổ chức cộng đồng làng xã, chăm lo đời sống tinh thần và hỗ trợ đời sống sinh hoạt vật<br /> chất cho nhân dân. Thời kỳ kháng chiến, tự viện là nơi căn cứ kháng chiến, che giấu các chiến<br /> sĩ và là hậu phương cho tiền tuyến. Còn các công trình kiến trúc, nghệ thuật của Phật giáo cũng<br /> đạt đến trình độ thẩm mỹ cao.<br /> Sự phát triển lớn mạnh của Phật giáo cũng có sự ảnh hưởng đến một số tôn giáo nội<br /> sinh ở miền Nam Việt Nam, vào thế kỷ XIX và những năm đầu thế kỷ XX. Các tôn giáo này<br /> đã dùng một phần tinh hoa của Phật giáo làm nền tảng cơ sở để hình thành nên tư tưởng của<br /> đạo, tiêu biểu là các tôn giáo như: Bửu Sơn Kỳ Hương, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo.<br /> Trong các tôn giáo kể trên, chúng ta có thể nói đạo Cao Đài là một tôn giáo dung hợp,<br /> được hình thành dựa trên nhiều nền tảng tư tưởng của nhiều tôn giáo khác nhau, trong đó Phật<br /> giáo chiếm ưu thế, điều này được minh chứng qua nhiều khía cạnh được trình bày ở phần dưới.<br /> 2. Nội dung<br /> 2.1. Nhân vật Phật giáo được thờ trong đạo Cao Đài<br /> 2.1.1. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni<br /> Cao Đài là một tôn giáo mang tính tổng hợp. Tinh thần nhất quán của Đạo là Quy nguyên<br /> tam giáo và Ngũ chi phục nhất tức là quy 3 mối đạo (Nho, Phật, Lão) về một; thống nhất 5<br /> ngành đạo (Thánh đạo của Kitô giáo, Tiên đạo của Đạo giáo, Phật đạo của Phật giáo, Nhân đạo<br /> của Khổng giáo, Thần đạo của Khương Thái Công).<br /> Theo đạo Cao Đài, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người chưởng quản của một giáo phái<br /> trong tam giáo Phương Đông – một trong ba nền tảng lớn của Đại Đạo.<br /> “Kinh sách đạo Cao Đài có câu:<br /> Di-Lạc thất bá thiên niên quảng khai Đại Đạo,<br /> Thích Ca nhị thập ngũ thế chung lập Thiền môn.<br /> Nghĩa là:<br /> Đức Phật Di-Lạc truyền bá rộng rãi nền Đại Đạo trong 700 ngàn năm,<br /> Đức Phật Thích Ca lập Đạo Phật (Thiền môn) trong 25 thế kỷ là dứt (25 thế kỷ tức<br /> là 2500 năm)”. [1]<br /> Qua đây, chúng ta có thể nhận thấy tại sao Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ lại chọn Phật Thích<br /> Ca Mâu Ni làm một trong ba vị giáo chủ ở vị trí thờ cao thứ hai sau Thượng Đế và Diêu Trì<br /> Kim Mẫu, tôn giáo của ngày trở thành một trong ba nền tảng lớn để khai đạo.<br /> 2.1.2. Quán Thế Âm Bồ Tát<br /> Trong Phật giáo Bắc Tông, Quán Thế Âm Bồ Tát (nữ phái) là một vị Bồ Tát có tâm<br /> lòng đại từ, đại bi, cứu khổ cứu nạn. Trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ độ, Quán Thế Âm Bồ Tát giữ<br /> nhiệm vụ chấn hưng Phật giáo vào thời Nhị Kỳ Phổ độ.<br /> Trang 190<br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP KHOA VĂN HÓA - DU LỊCH<br /> <br /> Kỳ Phổ Độ thứ ba nầy, thừa lịnh Đức Chí Tôn cùng Diêu Trì Phật Mẫu, cầm quyền Nhị<br /> Trấn Oai Nghiêm, thay mặt Thích giáo, rọi gương bác ái từ bi, tế độ đoàn Nữ phái.” [2, tr. 299]<br /> 2.1.3. Di Lặc Vương Phật<br /> Trong các ngôi chùa theo Phật giáo Bắc Tông thường có đặt tượng ba vị Phật ngồi ở vị<br /> trí ngang nhau và có hình tướng giống như Đức Thích Ca Mâu Ni, đó là Tam Thế Phật (Gồm<br /> đức Thích Ca Mâu Ni ngồi giữa, bên trái ngài là Đức Phật A Di Đà, bên phải ngài là Đức Phật<br /> Di Lặc) – Đây là ba lần chuyển hóa cứu thế của Đức Thích Ca Mâu Ni đại diện cho Phật giáo.<br /> Trong đạo Cao Đài, họ xem lần chuyển thế thứ ba của Đức Thế Tôn có nhiệm vụ quan<br /> trong thay mặt Ngọc Hoàng Thượng Đế cứu độ chúng sinh. Như thế Phật giáo phải mang tầm<br /> ảnh rất lớn trong tôn giáo này cho nên chọn nhân vật Phật giáo mà thay thế cho Đấng Chí Tôn.<br /> “Di-Lặc Vương Phật là vị Phật tương lai, giáng sanh xuống cõi trần vào thời Tam Kỳ<br /> Phổ Độ, đắc đạo tại cội cây Long Hoa, làm giáo chủ Đại hội Long Hoa, thay mặt Đức Chí Tôn<br /> Ngọc Hoàng Thượng Đế mà làm vua cai trị Càn khôn thế giới và Vạn linh.<br /> Trong Kinh Thiên Đạo của Đạo Cao Đài, Đức Phật Thích Ca giáng cơ ban cho 2 Bài<br /> Kinh: Kinh Đại Tường và Di-Lạc Chơn Kinh, nhờ đó chúng ta biết được nhiệm vụ và quyền<br /> hành của Đức Di-Lạc Vương Phật.<br /> Khi Ngài làm nhiệm vụ cai quản Càn khôn thế giới thì gọi Ngài là Đức Di-Lạc Vương<br /> Phật; nhưng khi Ngài làm nhiệm vụ cứu độ chúng sanh (năng cứu khổ ách, năng cứu tam tai,<br /> năng cứu tật bịnh, năng độ dẫn chúng sanh thoát chư nghiệt chướng) thì gọi Ngài là Di-Lạc<br /> Vương Bồ Tát. Theo lời thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp trong Con đường Thiêng liêng<br /> Hằng sống: Tam Kỳ Phổ Độ nầy, Đức A-Di-Đà Phật giao quyền lại cho Đức Di-Lạc Vương<br /> Phật chưởng quản Cực Lạc Thế Giới, nên Đức Di-Lạc Vương Phật hiện nay ngự tại cửa Kim<br /> Tự Tháp, dưới tàn cây dương tối cổ ở Kinh đô Cực Lạc Thế Giới, còn Đức A-Di-Đà Phật vào<br /> ngự trong Lôi Âm Tự và Đức Phật Thích Ca ngự tại Kim Sa Đại điện trong Kim Tự Tháp.” [2;<br /> tr.175]<br /> 2.2. Danh hiệu Phật giáo được dùng trong đạo Cao Đài<br /> 2.2.1. Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát<br /> Chúng ta có thể nhận thấy được yếu tố Phật giáo đã xuất hiện qua cách xưng tên trong<br /> đạo Cao Đài. Khi giáng cơ, Giáo chủ đạo Cao Đài đã xưng danh là “Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ<br /> Tát Ma Ha Tát”. Như vậy, lúc bấy giờ, tín đồ đạo Cao Đài chỉ biết được người giáng cơ khai<br /> đạo là “Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát”. Cho đến lúc “Đức Thích Ca Mâu Ni” giáng<br /> cơ nói về đạo này, tín đồ đạo Cao Đài mới biết thêm danh xưng khác của vị giáo chủ là Ngọc<br /> Hoàng Thượng Đế.<br /> Theo Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Phật Thích Ca giáng cơ dạy về Đại Đạo Tam Kỳ<br /> Phổ Độ lần đầu tiên vào ngày 8-4-1926 (âl 26-2-Bính Dần) tại đàn cơ nơi Vĩnh Nguyên Tự,<br /> Cần Giuộc.<br /> Kinh của đạo Cao Đài viết:<br /> “Thích Ca Mâu Ni Phật giáng cơ:<br /> THÍCH CA MÂU NI PHẬT<br /> Chuyển Phật đạo, Chuyển Phật pháp, Chuyển Phật tăng, qui nguyên Đại Đạo. Tri hồ<br /> chư chúng sanh?<br /> Khánh hỷ! Khánh hỷ! Hội đắc TAM KỲ PHỔ ĐỘ.<br /> Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, đại hỷ phát đại tiếu.<br /> Ngã vô lự Tam đồ chi khổ.<br /> Khả tùng giáo Ngọc Đế, viết Cao Đài Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.”<br /> Bài Thánh ngôn Nho văn trên nghĩa là:<br /> Đức Phật Thích Ca nói rằng: Chuyển toàn thể Phật đạo, Phật Pháp, Phật Tăng trở về<br /> gốc là nền Đại Đạo. Chư chúng sanh biết chăng?<br /> Vui mừng! Vui mừng! Hội được vào Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.<br /> Chư Thần Thánh Tiên Phật quá vui mừng, phát ra tiếng cười lớn.<br /> Ta không còn lo lắng về Ba đường khổ. Khá tùng theo lời dạy bảo của Đấng Ngọc<br /> Hoàng Thượng Đế, nay gọi là Đấng Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát”.<br /> Trang 191<br /> KỶ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM 2019<br /> <br /> Đây là một điểm sáng tạo cực đắc mà người giáng cơ mang đến cho mối đạo mới này<br /> qua ý nghĩa danh xưng của một vị giáo chủ.<br /> “Bồ Tát là một danh từ được phiên âm tiếng Phạn là “Bồ Ðề Tát Ðoả (Bodhisatta hay<br /> Bodhisattva) được gọi tắt. Nguyên nghĩa là “Giác hữu tình”, cũng được dịch nghĩa là “Ðại sĩ”.<br /> Trong Quốc Phật Học Ðại Từ Ðiển (Bắc Kinh – 2002) đã định nghĩa về Bồ Tát như<br /> sau: “Bồ Tát là khái niệm tổng thể và giàu ý nghĩa để chỉ những vị chứng quả diệu thâm trong<br /> Phật Giáo, nhưng còn theo đuổi tâm nguyện độ thóat chúng sanh, nên còn lưu lại trong tam giới<br /> để hành trì đại nguyện nầy. Tư tưởng chính của Ðại Thừa Phật giáo.” [3]<br /> “Bồ Tát là danh hiệu dành cho những vị tu hành đạo Phật đã chứng quả. Tuy vậy, theo<br /> đẳng thứ, thì Bồ Tát vẫn còn dưới chư Phật một cấp bậc, cho nên phải tu thêm một kiếp nữa<br /> mới thành Phật.<br /> Vì còn muốn giác ngộ cho chúng sanh, cho nên chư Bồ Tát vẫn còn giữ chức năng cứu<br /> độ mọi loài trong ba cõi, theo ý nghĩa căn bản trong giáo lý của Ðại Thừa Phật Giáo”. [4]<br /> Như vậy chúng ta có thể hiểu Bồ Tát Ma Ha Tát là một Bồ Tát lớn, là người đứng bậc<br /> nhất và cứu độ chúng sinh. Phải chăng đạo Cao Đài muốn dùng danh hiệu Cao Đài Tiên Ông<br /> Đại Bồ Tát Ma Ha Tát để nói Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế là người đứng bậc nhất và cứu độ<br /> chúng sinh?<br /> 2.2.2. Phật Mẫu (Phật Địa Mẫu)<br /> “Trong Cao-Đài giáo ngoài tôn thờ Đức Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, còn tôn thờ<br /> Đấng thứ hai là Thiên-Hậu Chí-Tôn còn gọi là Diêu-Trì Kim-Mẫu hay là Phật-Mẫu đó là Đấng<br /> sinh-thành dưỡng dục vạn linh.<br /> Loài người đã nhận biết Phật-Mẫu rất sớm, nhờ các vị Tiên-nương giáng trần chỉ-giáo,<br /> mà các dân-tộc nhất là phương Đông thờ phượng người từ lâu đời, ngày nay chúng ta còn thấy<br /> lưu lại hình-tượng đồng cốt, có đề-cập đến Phật-Mẫu dưới danh hiệu Bà Chúa Tiên, Thánh-<br /> Mẫu hay là Mẫu.<br /> Phật-Mẫu được nhân-loại tôn thờ dưới nhiều danh xưng khác nhau: Tây phương gọi là<br /> Đức Mẹ, Đông-phương gọi là Cửu-Thiên Huyền-Nữ, Thái-Dương Thần-Nữ, Tiên-Thiên<br /> Thánh-Mẫu, Lão-giáo gọi là Lão Mẫu, Ấn-độ giáo xưng tụng NGƯỜI là Devi Bhagava, Thông-<br /> Thiên-học gọi là Đức Mẹ Thế-Gian. Việt-Nam gọi là Bà Chúa Tiên hay là Mẫu, Mẹ-Sanh... đa<br /> số nữ phái Việt-Nam đã tín-ngưỡng Phật-Mẫu từ lâu đời, hiện nay ở Cố-đô Huế có hội Tiên-<br /> Thiên Thánh-Mẫu, thờ-phụng NGƯỜI tại Điện Hòn-chén, hằng năm có tổ-chức lễ hội rất là<br /> linh-đình trọng thể”. [5, tr. 9]<br /> Như vậy, đạo Cao Đài đã nhìn nhận “Phật Mẫu” như một vị nữ thần có quyền năng tối<br /> thượng đứng thứ hai trong vũ trụ, sau một nam thần. Ví dụ: Đức Chí Tôn – Ngọc Hoàng Thượng<br /> Đế và Vương Mẫu Nương Nương<br /> Đạo Cao Đài không nhìn nhận “Phật Mẫu” là một vị Phật đã thành đạo nhờ vào lối tu<br /> hành theo Phật giáo vì “Phật Mẫu” có quyền năng hơn cả, Người là mẹ sanh của chư Phật, Tiên,<br /> Thánh, thần và nhân loại.<br /> Nếu chúng ta nói danh xưng “Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” là sự kết hợp<br /> của Phật giáo và Đạo giáo thì có lẽ Danh xưng “Phật Mẫu” là sự kết hợp giữa Phật giáo và đạo<br /> Mẫu Việt Nam – Tôn giáo bản địa.<br /> 2.3. Một số biểu tượng mang yếu tố Phật giáo trong đạo Cao Đài<br /> Màu sắc<br /> Trong đạo Cao Đài, mỗi một màu sắc đều biểu thị cho một hoặc nhiều ý nghĩa, tiêu biểu<br /> là ba màu xanh, đỏ và vàng tượng trưng cho tam giáo qui nguyên (Nho, Phật, Lão).<br /> - Phái Thái: màu vàng (Phật đạo)<br /> - Phái Thượng: màu xanh (Tiên đạo)<br /> - Phái Ngọc: màu đỏ (Thánh đạo)<br /> Trong đó, màu vàng được dùng làm màu áo cho tất cả chức sắc của đạo theo ngành<br /> Thái. Ngoài ra, màu vàng còn được thấy xuất hiện rất nhiều trong trang trí trên các công trình<br /> kiến trúc của đạo. Như đã biết, màu vàng từ lâu đã là màu được chọn để làm y phục chính của<br /> <br /> Trang 192<br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP KHOA VĂN HÓA - DU LỊCH<br /> <br /> các nhà tu hành của Phật giáo Bắc tông và Nam tông. Sự xuất hiện của màu vàng trong đạo Cao<br /> Đài đã thể hiện sự ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo với đạo Cao Đài.<br /> Biểu tượng tam giáo – Cổ pháp<br /> Bước vào cổng của Tòa Thánh Tây Ninh hay bất kỳ một Thánh Thất nào ta cũng đều<br /> dễ dàng nhận thấy hình ảnh cổ pháp được đắp trên mái ngói của cổng vào. Cổ pháp của đạo<br /> Cao Đài gồm: Bình Bát Vu tượng trưng cho Bình Bát đi khất thực của Phật và các đệ tử, cây<br /> phất chủ của Đức Thái Thượng Lão Quân và quyển Xuân Thu của Đức Khổng Tử.<br /> Đạo Cao Đài chọn ba cổ pháp trên để nói lên sự đồng nguyên của Phật giáo, Tiên giáo,<br /> Nho giáo trong nền Đại đạo.<br /> Bậc thang<br /> Ngay từ cửa bước vào chánh điện ta thấy có 5 bậc thang, đó là một con số có ý nghĩa<br /> biểu tượng. “Đạo Cao Đài xem con đường tiến hóa của nhân loại chia làm 5 chặng hay 5 nấc<br /> thang tiến hóa cho chúng sanh đắc đạo tùy theo công đức tu hành được nhiều hay ít. 5 nấc thang<br /> tiến hóa ấy là 5 phẩm bực từ thấp lên cao là: Nhơn, Thần, Thánh, Tiên, Phật. Rõ ràng, quan<br /> niệm của đạo cũng xem Phật là nấc thang tiến hóa cao nhất của nhân loại. Từ đó có thể thấy,<br /> Phật giáo được đặt ở vị trí rất cao trong quan niệm của đạo”. [1]<br /> Ông thiện và ông Ác<br /> Hai bên cửa chánh Tòa Thánh, trên hai lầu đài (Bạch Ngọc Chung Đài và Lôi Âm Cổ<br /> Đài), người ta có đặt 2 pho tượng lớn một hiền và một dữ, đây là hộ pháp của nhà Phật được<br /> chuyển hóa qua đạo Cao Đài thành ông Thiện và ông Ác đứng canh giữ hai bên cửa vào chính<br /> điện. Tuy nhiên, lai lịch hai đức Hộ pháp của Phật giáo không hoàn toàn trùng khớp với ông<br /> Thiện và ông Ác trong đạo Cao Đài.<br /> Tuy có vài chi tiết không tương đồng nhưng hình ảnh ông Thiện và ông Ác xuất hiện<br /> trong Phật giáo đã được đưa sang cả Cao Đài với những chức năng tương đối giống nhau là<br /> khuyến khích con người làm việc thiện, từ bỏ việc ác, trừng phạt kẻ làm việc ác, bảo vệ giáo<br /> pháp nhà Phật, giữ bên ngoài chùa (Thánh thất) những kẻ ác. Có thể thấy, từ ý tưởng motif đến<br /> hình thức thể hiện, vị trí sắp đặt, nhiệm vụ của ông Thiện và ông Ác trong đạo Cao Đài có liên<br /> hệ mật thiết đến hình ảnh của hai Hộ pháp trong Phật giáo đủ để nói lên một lần nữa ảnh hưởng<br /> của Phật giáo đến đạo Cao Đài.<br /> 3. Kết luận<br /> Đạo Cao Đài ra đời ở Nam Bộ sau đạo Phật hơn 26 thế kỷ. Dù mang màu sắc tổng hợp<br /> các tôn giáo từ Đông sang Tây, từ cổ chí kim với nguyên lý truy nguyên về nguồn gốc của Tam<br /> giáo (Nho, Phật, Lão) và thống nhất 5 ngành đạo (Thánh đạo, Tiên đạo, Nhân đạo, Thần đạo,<br /> Phật đạo) nhưng trong đó vẫn thấy nổi bật lên vai trò và sức ảnh hưởng to lớn của Phật giáo ở<br /> nhiều phương diện. Dấu ấn Phật giáo được tìm thấy từ màu sắc dùng trong lễ phục, màu sắc<br /> trang trí cơ sở thờ tự, danh xưng của vị giáo chủ, sự dung hợp các vị Phật, Bồ Tát, Hộ Pháp đến<br /> những yếu tố trang trí tạo hình trong Thánh Thất.<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> [1]. Đức Nguyên, Đạo Cao Đài & các tôn giáo lớn trên thế giới, Tủ Sách Đại Đạo<br /> (https://www.daotam.info/tusachdd.htm).<br /> [2]. Nguyễn Văn Hồng (1999), Giới thiệu tòa thánh Tây Ninh, sách đạo.<br /> [3]. http://www.daophatngaynay.com/vn/phat-phap/giao-phap/bo-tat-dao/10361-Khai-<br /> niem-ve-Bo-Tat.html.<br /> [4]. http://www.tuvienquangduc.com.au/luan/34daitrido1-5.html<br /> [5]. Dã Trung Tử (2002), Đức Phật Mẫu – Diêu Trì Kim-Mẫu, Tư-liệu tu-học Lưu-hành<br /> nội-bộ, Tủ Sách Đại Đạo (https://www.daotam.info/tusachdd.htm).<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Trang 193<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2