intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

"Trái đôi" Xuân Diệu - Huy Cận với Tự lực văn đoàn

Chia sẻ: Lulu Nguyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

75
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

“Lấy chăn phủ ghế chui qua/ Ngăn bàn thích lục, tranh gà thích xem/ Xếp rồi cháu lại đảo lên/ Có hôm bác phải mười phen dọn nhà”(1), ấy là câu thơ của Xuân Diệu tả chú cu Vũ đang biến cuộc sống văn chương ngăn nắp của ông tại 24 Cột Cờ (nay là Điện Biên Phủ, Hà Nội) thành một trật tự thế giới mới, trật tự của những sự đảo lộn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: "Trái đôi" Xuân Diệu - Huy Cận với Tự lực văn đoàn

  1. "Trái đôi" Xuân Diệu - Huy Cận với Tự lực văn đoàn
  2. “Lấy chăn phủ ghế chui qua/ Ngăn bàn thích lục, tranh gà thích xem/ Xếp rồi cháu lại đảo lên/ Có hôm bác phải mười phen dọn nhà”(1), ấy là câu thơ của Xuân Diệu tả chú cu Vũ đang biến cuộc sống văn chương ngăn nắp của ông tại 24 Cột Cờ (nay là Điện Biên Phủ, Hà Nội) thành một trật tự thế giới mới, trật tự của những sự đảo lộn. Và Xuân Diệu đã tôn trọng cái “nền giáo dục tự thân và tự giác” ấy của tôi như điều kiện tiên quyết để hình thành nhân cách tri thức. Về phần mình, đơn giản tôi nghĩ là nếu không có người bác và là người cha nuôi thân yêu ấy thì làm sao tôi có thể hình dung nổi thuở bé thơ của mình. Nói cách khác, các bậc phụ huynh chính là những người đầu tiên chép sử con cái của họ. Sau khi đã mệt nhoài với những kiến tạo thế giới theo cách của mình, tôi lại nằm co vào lòng bác tôi để thiu thiu thực hành một nền học vấn không tự giác hay vô thức qua lời ru đọng âm hưởng “đàng trong” Bình Định của ông với “Phụ tử tình thâm” và những câu hát dặm Nghệ-Tĩnh. Đôi khi thảng thốt tôi tỉnh dậy và mở mắt ra (cũng dễ hiểu vì giấc ngủ chớm trưa không thật sâu) thì vẫn thấy bác Diệu tôi ngồi đó, tựa lưng vào thành giường, lời ru không còn thành tiếng nhưng vẫn nhận biết được nhờ những nhịp vỗ khẽ lên tôi, cái nhìn trở nên xa xăm, chốc chốc ông lại nhìn xuống nhoẻn cười với tôi nhưng vẫn với cái xa xăm ấy. Khi chớm tuổi đến trường thì chiến tranh đã lan ra miền Bắc và thế là tôi phải xa gia đình đi sơ tán, tất nhiên không ngậm ngùi như cậu bé Rémy của Hecto Malo. Thực vậy, mối liên hệ giữa tôi với gia đình hầu như không bị gián đoạn vì cứ vào cuối tuần bác tôi lại xắn quần đạp xe 30 km về thăm tôi tại Chùa Thầy, Sơn Tây. Chính vào những đêm đầy sao trên bờ thửa cánh đồng nơi sơ tán mà tôi được Xuân Diệu truyền cho cái vi diệu của những áng văn cổ: hết Nguyễn Khuyến, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương lại đến Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm và trở đi trở lại là Truyện Kiều của Nguyễn Du, đại văn hào cùng quê Hà Tĩnh. Những lúc đó tôi đến với văn học một cách bán ý thức: có thấy được cái Hay, cái Đẹp nhưng lại không cố tìm hiểu hết Nghĩa mà những con chữ lung linh như những vì sao kia chuyển tải. Vào tuổi thành niên, s ự tò mò cao độ của tôi về bản ngã may mắn thay lại được thoả mãn với sự hiện diện của Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Dọc đường gió bụi, Tiêu Sơn tráng s ĩ... trong tủ sách của bác tôi. Những pho truyện tình cảm đó của Tự lực văn đoàn thời ấy bị liệt vào “sách cấm” ấy vậy mà bác
  3. tôi không cản tôi đọc, thậm chí còn giảng giải là đằng khác. Tôi còn nhớ bác tôi tấm tắc mãi với bố tôi, Huy Cận, câu của Phạm Thái - người câu cá: “Chí lớn trong thiên hạ không đựng đầy hai con mắt mỹ nhân”. Thật lạ, đọc những truyện ấy tôi cũng thấy thú vị như khi đọc những mẩu chuyện về các anh hùng dân tộc và cách mạng. Không những tôi không cảm thấy bi luỵ, buồn chán bởi những cuộc t ình ảo não, vô vọng mà còn hứng khởi trước những tình cảm mới mẻ, rất có cá tính, điều mà tôi không cảm nhận được một cách rõ ràng từ nền giáo dục đương thời. Cũng có thể tôi không còn ở cái thời đại của những con người “tiểu tư sản” nào đó sống không có mục đích rõ rệt đâm ra chán đời. Nhưng trong bối cảnh cuộc chiến vẫn tiếp diễn, cái “tập thể” dường như từ chỗ nhân danh đã đi đến chỗ gần như thay thế hẳn cái “riêng”, cái “cá nhân” chí ít trên bình diện xã hội, nên những cái gì giúp tôi “giải mã” được những cái “cảm” của trẻ trai mới lớn thật sự làm tôi khoan khoái. Mặt khác, cũng phải nói rằng những tình cảm nhân đạo của những Anh phải sống, Gánh hàng hoa, Đời mưa gió... trong một chừng mực nhất định có thể là động lực giúp ta thành những anh hùng vô danh với những hành động nghĩa hiệp giữa đời thường mà lòng tự hào hẳn cũng không kém gì lòng tự hào của những anh hùng được toàn thể xã hội công nhận. Rồi những cuốn truyện lãng mạn ấy bắc cầu cho tôi đến với Thơ thơ, Gửi hương cho gió, Lửa thiêng - những thi phẩm trước Cách mạng hay c òn gọi là “tiền chiến” của bác tôi và bố tôi. Tưởng như có vẻ ngược đời nhưng lại là sự thật. Và rồi tôi mới vỡ ra rằng, xét theo hoàn cảnh thì tôi lại là người chậm chân đến với những giá trị tinh thần của những người thân yêu nhất của tôi vì trong đáy ba-lô của bao con người trẻ tuổi trên những ngả đường chiến tranh có những dòng nắn nót chép thơ tình Xuân Diệu, những Tràng giang, Vạn lý tình, Ngậm ngùi, Áo trắng của Huy Cận. Đến đây thì dẫu trí còn non nớt, tôi cũng khẳng định được rằng cái Văn đoàn ấy một khi đã “tạo” ra những Xuân Diệu, Huy Cận thì không thể “tiêu cực” như tôi được hiểu bấy lâu nay. Thế là lần theo hai “chứng nhân-người nhà” ấy tôi đi tìm diện mạo Tự lực văn đoàn trong phạm vi “lịch sử tình yêu” giữa thể chế văn chương này cùng với các thành viên sáng lập và Xuân Diệu, Huy Cận. Để nói rằng lần này thì tôi đến với văn chương, dù dưới khía cạnh sử học, một cách chủ động, hay đúng hơn là có ý thức. Lẽ dĩ nhiên cuộc tình nào cũng không tránh khỏi những bề trầm, những éo le của nó.
  4. Tự lực văn đoàn được thành lập vào ngày 2-3-1933 bởi nhóm làm báo Phong hoá gồm bảy người: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ và họa sĩ Nguyễn Gia Trí(2), có trụ sở tại 80 Grand-Bouddha (nay là Quan Thánh - Hà Nội). Nhóm này chủ trương “Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên dịch sách nước ngoài... để làm giàu thêm văn sản trong nước”, “Ca tụng những nét hay, vẻ đẹp của nước nhà mà có tính cách bình dân, khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính cách trưởng giả, quí phái” và nhất là “Trọng tự do cá nhân”. Con số 7 gắn với mục đích văn chương này gợi nhớ tới Pléiade gồm bảy nhà thơ của Pháp thế kỷ thứ XVI do Ronsard và Du Bellay cầm chịch nhưng Tự lực văn đoàn chỉ có thể được coi là “bản sao” của Thất tinh Pháp với sự gia nhập của Xuân Diệu. “Và từ đây chúng ta đã có Xuân Diệu”, lời reo vui ấy của Thế Lữ trong Tựa Thơ thơ cũng chính là sự hoan nghênh nhiệt liệt của nhóm Tự lực dành cho chàng thi s ĩ “hiền hậu và say mê” được khám phá bởi chính họ. Quả vậy, Xuân Diệu ra mắt công chúng với Với bàn tay ấy in trên báo Phong hoá năm 1935 khi còn là cậu học sinh Lycée (trung học) Khải Định. V à Thế Lữ chính là người có “con mắt xanh” phát hiện ra và hơn thế nữa hết lòng tuyên truyền cho tài nhân ấy. Giở lại trang thư của tác giả Nhớ rừng gửi Xuân Diệu từ 1936, ta có thể đọc: “Lúc nào nghĩ đến anh, hay nói đến anh trước mặt bạn hữu tôi, tôi đều thấy vui vẻ sung s ướng như nghĩ đến, nói đến một thứ tài trong trẻo và có hy vọng rất nhiều. Nhiều lần tôi đọc thơ anh cho người khác nghe để giảng dẫn cho họ thấy những tình cảm rất tươi thắm mà chưa nhà thi s ĩ Việt Nam nào phô diễn ra được. Tôi tin ở tài anh lắm và lúc nào cũng mong được đọc thơ anh gửi ra”. Như thể “chúa rừng Thơ mới” thoạt kỳ thuỷ giờ đã hết phải ngậm ngùi “thời oanh liệt nay còn đâu” vì đã tìm ra được kẻ xứng đáng kế tục mình trong công cuộc chinh phục hoàn toàn chốn “thi lâm”. Rồi “Thấy anh được thưởng giải Nhất về Pháp văn ở Concours Général (Giải toàn Đông Dương mà hai năm sau, 1938, Huy C ận cũng đoạt được - C.H.H.V), tôi rất sung sướng, nhưng không lấy gì làm lạ. Xuân Diệu giỏi hơn các bạn học về văn chương là một việc dĩ nhiên rồi. Tôi mong cho công nghiệp trước tác của anh sau này cũng rực rỡ như thế”. Ôi, những tình cảm đẹp đẽ và đầy ánh sáng như thế của bậc đàn anh đối với người đến sau trong làng văn có còn lặp lại được ru! Không chỉ dừng lại đấy, Thế Lữ “chộp” lấy “tài trong trẻo
  5. và có hy vọng rất nhiều” ấy để gây thanh thế cho Tự lực ngay khi chàng vừa đỗ tú tài vào tháng 6/1937 với lời mời gọi thiết tha: “Anh Xuân Diệu. Anh có thể ra ngay Hà Nội được không? Ra để liệu tìm cách sống ở đây, nghĩa là để lăn lóc vất vả cùng với bạn hữu”. Và dường như để khẳng định cái “nghiệp”, ông tiếp: “ viết bài “kiếm ăn” được ít, nhưng có lẽ đó là thứ công việc hợp với chúng ta hơn”. “Được lời như cởi tấm lòng”, Xuân Diệu từ Huế ra ngay Hà Nội và xắn tay viết cho báo Ngày nay của Tự lực và năm sau chính thức “xe duyên” cùng Văn đoàn với tư cách là Thành viên thứ Tá m. Sự nhiệt tình, cái sốt sắng ấy của Tự lực đối với Xuân Diệu cũng là tình cảm chung của nhiều nhóm thi nhân c ùng thời và thi sĩ họ Ngô có thể nói trở thành đối tượng “giành giật” của các nhóm đó. Chính Hàn Mặc Tử đã bàn với Chế Lan Viên ngay từ tháng 1/1938 là mời cho bằng được Xuân Diệu để lập một Thi xã tên là Hoàng Anh Tao đàn với mục đích “nâng cao trình độ thơ mới và tuyển trạch nhân tài”. Cái Thi xã ấy của “ba chàng ngự lâm pháo thủ” xứ Bình Định mãi mãi là dự định vì bản thân Chế đã cảm nhận được sự gắn bó của Xuân Diệu với Thất tinh Hà Nội và vì vậy thi sĩ họ Hàn lấy làm “tiếc lắm”. Cũng cần nhắc lại rằng Tự lực văn đoàn, ngoài các báo Phong hoá và Ngày nay(3), còn sở hữu Nhà xuất bảnĐời nay, một nhà xuất bản lấy “Tìm tòi những nhà văn có giá trị, khuyến khích họ, làm cho nhà văn và tác phẩm được nhiều người biết đến” làm phương châm. Vì thế có gì đáng ngạc nhiên khi Thơ thơ, “cụm đầu mùa” của Xuân Diệu là do Đời nay ấn hành để trân trọng giới thiệu c ùng nhân gian. Thơ, ấy chính là cái gạch nối giữa thi nhân họ Ngô và Tao đàn và được thể hiện không gì rõ hơn ở ngay chính tiêu đề: Xuân Diệu - Thơ thơ - Tự lực văn đoàn. Ngược lại, chẳng có gì là lạ khi Xuân Diệu đề tặng các thành viên của “gia đình văn chương” của mình những bài thơ tâm huyết nhất của ông: Cảm xúc tặng Thế Lữ, Đây mùa thu tới tặng Nhất Linh, Đi thuyền tặng Khái Hưng, Vô biên tặng Hoàng Đạo, Nhị hồ tặng Thạch Lam, Giới thiệu tặng Tú Mỡ, Đơn sơ tặng Nguyễn Gia Trí. Thế nhưng có người vồ lấy cái tiêu đề ấy, những lời đề tặng ấy để nói Xuân Diệu là người cạn nghĩa cạn tình khi “cạo hẳn” dòng chữ Tự lực văn đoàn trong Thơ thơ in lần thứ hai và những lời đề tặng Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo trong những ấn phẩm sau này của ông. Thực ra nói như vậy không phải là người làm nghiên cứu đến nơi đến chốn.
  6. Bên cạnh các thành viên của Tự lực văn đoàn, Xuân Diệu đã có người bạn thân thiết là Huy Cận. Vốn vô cùng mê say Với bàn tay ấy, Huy Cận chỉ có thể mừng rỡ được gặp thi nhân cùng quê Hà Tĩnh hơn mình hai lớp trong buổi tựu trường của Lycée Khải Định (Quốc học cũ) tháng 9/1936. Ngay lập tức hai hồn thơ gắn với nhau như định mệnh để rồi có những dự định riêng mãi mãi. Một trong những dự định ấy là xuất bản các tác phẩm của hai người bằng tiền túi của mình. “Huy - Xuân” như một nhà xuất bản đã ra đời như thế vào cuối năm 1939 ngay sau khi Huy Cận vào học Cao đẳng Canh nông với nguồn tài chính là nhuận bút viết báo của Xuân và học bổng hạn hẹp của Huy. Và sản phẩm đầu tiên của cái “Nhà” ấy lại là Thơ thơ. Lần tái bản này, quả thực không còn dòng chữ “Tự lực văn đoàn” nữa. Chúng ta đã biết rằng Đời nay có thể nói là độc quyền xuất bản các tác phẩm của thành viên Tự lực. Vì vậy trước khi thực hiện dự định của mình, đôi bạn Huy-Xuân đã rủ nhau đến gặp Ban trị sự Đời nay để có được sự thông cảm thì được nhũn nhặn trả lời rằng việc các ông tái bản Thơ thơở nơi khác dĩ nhiên là quyền của các ông nhưng trong trường hợp đó đừng để Tự lực văn đo àn vào sách vì lý lẽ đã rõ. Vậy là vẹn cả đôi bề. Cũng phải nói ngay rằng Thơ thơ là ấn phẩm duy nhất của “Huy - Xuân” vì hai dự định khác là xuất bản Tây Sương ký do Nhượng Tống dịch (đã giả nhuận bút) và tái bản Ph ấn thông vàng đã không thành, đơn giản là vì ngay sau Tết 1940, Xuân Diệu đã rời Hà Nội vào Mỹ Tho làm Tham tá nhà Đoan (Douanne - quan thuế). Điều đáng nói ở đây là thái độ “làm ngơ” đầy thông cảm của các thành viên còn lại trong nhóm bởi họ quá yêu Xuân Diệu cùng bạn chàng, Huy Cận. Điều đáng chú ý là các thủ lĩnh của Tự lực văn đoàn rất có cảm tình với Huy Cận trước hết là do tài thơ của ông vì khi đăng Chiều xưa, thi phẩm đầu tiên của Huy Cận trên Ngày nay cùng một khung với bài Cảm xúc của Xuân Diệu trong số Tết năm 1938, họ vẫn chưa biết Xuân Diệu và Huy Cận đã là một đôi bạn tri kỷ. Thực vậy, nhận đ ược bài thơ của Huy Cận gửi từ Huế ra, Xuân Diệu lại không làm cái việc “lăng- xê” bạn mình như người đời thường làm bằng cách cầm bài thơ ấy đến gặp Nhất Linh hay Thế Lữ là người phụ trách mục thơ của báo mà lại gửi bằng bưu điện đến. Vậy là chỉ sau khi Huy Cận đã được “làng” Tự lực “duyệt” với bài Chiều xưa rồi, nhân đầu năm mới Xuân Diệu mới đưa “người thi sĩ lành như suối nước ngọt, hiền như cái lá xanh” ấy lần
  7. đầu tiên ra đất ngàn năm văn vật và cũng là lần đầu thăm đất Bắc, đến 80 Quan Thánh để chào các thành viên c ủa cái Văn đoàn “khét tiếng” đấu tranh cho một nền văn chương mới và nhân bản ấy. Đến chào theo đúng nghĩa đen của từ này vì Huy Cận không mang theo bài thơ mới nào hết. Và Huy Cận đã may mắn gặp được tất cả, đặc biệt Nhất Linh và Thế Lữ mà ông đã từng đọc và học rất nhiều. Ngay khi mới gặp chàng Huy, Nhất Linh (tên thật là Nguyễn Tường Tam) hạ ngay: “Bài Chiều xưa của anh hay lắm, rất cổ mà lại rất mới”. Và như để chứng minh cái tâm đắc của mình, Nhất Linh đọc một hơi bài thơ ấy trước sự ngỡ ngàng của tác giả rồi nói rằng Huy Cận cứ gửi thơ ra là Ngày nay sẽ đăng. Rõ là một cú “đúp” thành công của thi nhân họ C ù: không những ông được vị thủ lĩnh Tao đàn hoan ngênh nhiệt liệt mà thơ của mình từ đây không s ợ không có “đầu ra”. Không nghi ngờ gì nữa, thái độ nể phục ấy của vị chánh chủ khảo Giải thưởng Tự lực văn đoàn có giá trị như vòng nguyệt quế đầu tiên mà Huy Cận nhận được trong đời thơ của mình. Sau này, khi ở Sài Gòn, Nhất Linh còn khẳng định rằng về lục bát, “Huy Cận là hậu duệ của Nguyễn Du!”. Khái Hưng, Tú Mỡ, Hoàng Đạo, Thạch Lam và Nguyễn Gia Trí cũng chỉ có thể chia xẻ quan điểm của văn nhân họ Nguyễn. Đặc biệt Khái Hưng, cũng như Nhất Linh, rất đề cao thơ Huy Cận. Ông còn nói với Nguyễn Hữu Đang lúc đó hoạt động trong Hội Truyền bá Quốc ngữ: “Huy Cận hay từng bài, từng câu, từng chữ ”. Thế Lữ thì lại trách Xuân Diệu sao không đưa bài thơ ấy trực tiếp cho ông mà lại vòng vèo thế. “Là vì - Xuân Diệu đáp - tôi muốn xem giá trị thật của bài thơ thế nào chứ tự tôi đưa đến e mất khách quan”. Ngẫm lại, quả thi nhân họ Ngô ngay từ còn măng tơ đã là một bậc thầy trong đối nhân xử thế trên căn bản biết mình, biết bạn và biết người. Là kẻ “tri âm”, Xuân Diệu muốn bạn mình “hữu xạ tự nhiên hương”, hay mượn cách nói thời thượng, muốn Tự lực “tâm phục khẩu phục”. Cái tâm của Lưu Bình đối với Dương Lễ ấy của chàng Xuân dường như đã thấu tới ông Trời nên vô tình mà như hữu ý sự “trình làng” của chàng Huy trên Ngày nay lại được xếp cặp với chàng Xuân. Như thể Tự lực đã tiên liệu “cỗ song mã” Huy-Xuân ấy là cách đưa Thơ mới đến với nhân gian một cách lộng lẫy nhất.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2