intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ảnh hưởng của 5 công thức phân bón và kỹ thuật nhân giống bằng chồi củ và nuôi cấy mô lên năng suất và hàm lượng curcumin của cây nghệ Xà Cừ

Chia sẻ: Bautroibinhyen17 Bautroibinhyen17 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

108
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

nhằm nghiên cứu sâu hơn về ảnh hưởng của các liều lượng phân bón lên khả năng sinh trưởng và năng suất của cây nghệ Xà Cừ được nhân giống bằng củ và cả nuôi cấy mô để góp phần hoàn thiện quy trình trồng và đưa nghệ Xà Cừ vào cơ cấu cây dược liệu được trồng trong tỉnh An Giang.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ảnh hưởng của 5 công thức phân bón và kỹ thuật nhân giống bằng chồi củ và nuôi cấy mô lên năng suất và hàm lượng curcumin của cây nghệ Xà Cừ

Journal of Science – 2015, Vol.7 (1), 84 – 93<br /> <br /> Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology<br /> <br /> ẢNH HƯỞNG CỦA 5 CÔNG THỨC PHÂN BÓN VÀ KỸ THUẬT NHÂN GIỐNG BẰNG<br /> CHỒI CỦ VÀ NUÔI CẤY MÔ LÊN NĂNG SUẤT VÀ HÀM LƯỢNG CURCUMIN CỦA<br /> CÂY NGHỆ XÀ CỪ<br /> Trịnh Hoài Vũ1<br /> 1<br /> ThS. Trường Đại học An Giang<br /> Thông tin chung:<br /> Ngày nhận bài: 24/08/15<br /> Ngày nhận kết quả bình duyệt:<br /> 07/09/15<br /> Ngày chấp nhận đăng : 09/15<br /> <br /> ABSTRACT<br /> <br /> The research was conducted to evaluate the effects of 5 fertilized fomulars on the<br /> productivity and curcumin concentration of temulawak propagated from rhizome<br /> and tissue culturing. The results showed that fertilizers increased significantly the<br /> height, the number of shoot and the length of leaves but did not increase the width<br /> Title:<br /> of leaves. The fertilized fomula provided high productivity 90-60-120kg/ha of two<br /> The effects of 5 fertilized fomulars<br /> kinds of temulawak propagated from rhizome and tissue culturing. The<br /> and propagated technique from<br /> productivity of rhizome of temulawak propagated from rhizome was higher and<br /> rhizome and tissue culturing on<br /> has more meaning than those propagated from tissue culturing. The increase of<br /> productivity and curcumin<br /> fertilizer help to increase the productivity of rhizome; however, there is no<br /> concentration of temulawak<br /> difference of curcumin concentration in all fertilized fomulas. Curcumin<br /> Từ khóa:<br /> concentration was 0,517% in temulawak propagated from rhizome and 0,583% in<br /> Nghệ Xà Cừ, Curcuma<br /> temulawak propagated from tissue culturing; but, this differences has no meaning<br /> xanthorrhiza, curcumin, phân<br /> in statistics.<br /> bón, nuôi cấy mô<br /> Keywords:<br /> TÓM TẮT<br /> Temulawak, Curcuma<br /> xanthorrhiza, curcumin, fertilizer,<br /> Thí nghiệm được tiến hành nhằm đánh giá ảnh hưởng của các liều lượng phân bón<br /> tissue culture<br /> khác nhau lên năng suất và hàm lượng curcumin của nghệ Xà Cừ được nhân<br /> giống bằng chồi củ và nuôi cấy mô. Kết quả thí nghiệm cho thấy yếu tố phân bón<br /> làm gia tăng đáng kể chiều cao cây, số chồi và chiều dài lá, nhưng không làm gia<br /> tăng chiều rộng lá của cây. Công thức phân bón cho năng suất cao là 90 – 60 120 (kg/ha) ở cả hai loại nghệ Xà Cừ nhân giống bằng chồi củ và nuôi cấy mô.<br /> Năng suất củ ở cây nghệ Xà Cừ nhân giống bằng củ cao hơn và khác biệt có ý<br /> nghĩa so với cây nhân giống bằng nuôi cấy mô. Sự gia tăng liều lượng phân làm<br /> gia tăng năng suất củ nhưng không có sự khác biệt về hàm lượng curcumin ở tất<br /> cả các nghiệm thức phân bón. Hàm lượng curcumin đạt trung bình 0,517% ở cây<br /> nhân giống bằng củ và 0,583% ở cây nuôi cấy mô và những khác biệt này cũng<br /> không có ý nghĩa về mặt thống kê.<br /> <br /> 1.<br /> <br /> (Ravindran & Babu, 2004). Ở Việt Nam, cây nghệ<br /> được trồng phổ biến để lấy củ, chủ yếu sử dụng<br /> trong chế biến thực phẩm và chữa một số bệnh<br /> theo kinh nghiệm truyền thống (Đỗ Tất Lợi,<br /> 2004). Thành phần chính trong nghệ Xà Cừ là<br /> curcumin, một hoạt chất có tác dụng kích thích tế<br /> <br /> GIỚI THIỆU<br /> <br /> Chi Nghệ (Curcuma) là một chi lớn trong họ<br /> Gừng (Zingiberaceae), là loài cây hàng niên và rễ<br /> củ có thể tái sinh chồi mới trong nhiều năm, lâu<br /> nay được sử dụng để làm gia vị, thuốc nhuộm vải<br /> và thuốc kích thích ăn uống trong y học<br /> 84<br /> <br /> Journal of Science – 2015, Vol.7 (1), 84 – 93<br /> <br /> Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology<br /> <br /> bào gan tiết mật và tăng co bóp túi mật, tống mật,<br /> phá cholesterol ở thành mạch. Tinh dầu có tác<br /> dụng diệt vi sinh vật, tiêu viêm, ức chế kết tập tiểu<br /> cầu, khử gốc tự do chống oxy hóa. Gần đây tìm<br /> thấy thêm nhiều chất trong củ nghệ có tác dụng<br /> đối với một số bệnh ung thư, AIDS (Itokawa et al,<br /> 2008).<br /> <br /> của các liều lượng phân bón lên khả năng sinh<br /> trưởng và năng suất của cây nghệ Xà Cừ được<br /> nhân giống bằng củ và cả nuôi cấy mô để góp<br /> phần hoàn thiện quy trình trồng và đưa nghệ Xà<br /> Cừ vào cơ cấu cây dược liệu được trồng trong tỉnh<br /> An Giang.<br /> <br /> Cây nghệ Xà Cừ có thể được trồng ở điều kiện<br /> nhiệt đới. Mă ̣c dù có thể trồng được trên các loại<br /> đất khác nhau, nhưng phát triển tốt nhất là trong<br /> đất pha cát dễ thoát nước hay đất nhiều mùn tơi<br /> xốp. Cây nghệ Xà Cừ có rễ con màu vàng, được<br /> dùng làm đồ gia vị, thuốc nhuộm màu thực vật,<br /> thuốc và mỹ phẩm (Mai Văn Quyền, 2000).<br /> <br /> 2.1. Bố trí thí nghiệm<br /> <br /> 2.<br /> <br /> PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> <br /> Thí nghiệm được bố trí theo thể thức khối hoàn<br /> toàn ngẫu nhiên với 3 lần lặp lại gồm 2 nhân tố:<br /> (1) Nhân tố giống (V) gồm 2 loại: V1: Cây giống<br /> được nhân giống từ chồi củ. V2: Cây giống được<br /> nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô; (2)<br /> Nhân tố phân bón (F) gồm các nghiệm thức phân<br /> N - P2O5 - K2O với lượng như sau: F0: 45 – 30 30 (kg/ha) (đối chứng, lượng phân tương tự với<br /> lượng phân bón của nông dân tại địa bàn); F1: 90<br /> – 60 - 60 (kg/ha); F2: 90 – 60 - 90 (kg/ha); F3: 90<br /> – 60 - 120 (kg/ha); F4: 90 – 60 - 150 (kg/ha).<br /> Trong đó, phân lân được bón lót vào thời điểm<br /> làm đất trước khi trồng, phân đạm và kali còn lại<br /> được chia làm 3 lần bón vào các thời điểm 30, 60,<br /> 90 ngày sau khi trồng (SKT) vào thời điểm sau<br /> khi làm cỏ và vun gốc cho cây.<br /> <br /> Những năm gần đây, do nhu cầu rất cao về loại<br /> cây này trong sản xuất dược phẩm nên việc khai<br /> thác từ tự nhiên đã cạn kiệt. Để đáp ứng nhu cầu<br /> thị trường cần phải đẩy mạnh việc trồng và sản<br /> xuất cây nghệ Xà Cừ thương phẩm. Tuy nhiên,<br /> đây là đối tượng mới nên vấn đề gặp phải là<br /> nguồn cây giống và liều lượng phân bón hợp lý<br /> cho loại cây này là vấn đề đang được đặt ra, bởi vì<br /> chú ng quyết định đến năng suất, chất lượng sản<br /> phẩm làm ra và hiệu quả kinh tế của người dân.<br /> <br /> Chuẩn bị giống: (1) Đối với cây con nhân giống<br /> bằng chồi củ (V1): củ giống được giâm tại địa<br /> điểm thí nghiệm, khi củ nghệ nảy chồi cao từ 10 –<br /> 15 cm, hình thành 1 – 3 lá thì tách riêng từng chồi<br /> đem trồng. (2) Đối với cây con nhân giống bằng<br /> phương pháp nuôi cấy mô (V2): qua thời gian nuôi<br /> cấy in vitro, sau khi cây tái sinh hoàn chỉnh tiến<br /> hành đưa cây con ra vườm ươm thuần dưỡng từ<br /> 10 – 15 ngày, để cây con thích nghi với điều kiện<br /> bên ngoài. Khi cây con phát triển được 3 – 4 lá,<br /> cao khoảng 10 – 12 cm thì đem cây ra ngoài đồng.<br /> <br /> Tại An Giang, hiện nay, phần lớn nghệ Xà Cừ<br /> được trồng chủ yếu với nguồn giống từ củ nghệ<br /> vụ trước nên đưa đến tình trạng không chủ động<br /> được nguồn giống khi trồng với diện tích lớn.<br /> Năm 2011, Trường Đại học An Giang bắt đầu<br /> thực hiện việc nhân giống cây nghệ Xà Cừ bằng<br /> phương pháp nuôi cấy mô, kết quả thử nghiệm sơ<br /> bộ cũng đã cho thấy cây nghệ Xà Cừ được nhân<br /> giống bằng phương pháp nuôi cấy mô có khả<br /> năng phát triển tốt khi đem trồng ngoài đồng<br /> (Nguyễn Thị Mỹ Duyên, 2007). Hiện nay vẫn<br /> chưa có nghiên cứu nào trong nước thực hiện so<br /> sánh khả năng tăng trưởng của cây giống được<br /> nuôi cấy mô so với cây con được nhân giống bằng<br /> phương pháp truyền thống. Cho đến nay vẫn chưa<br /> có một công trình chính thức nào nghiên cứu về<br /> ảnh hưởng của phân bón lên sinh trưởng và năng<br /> suất của cây nghệ Xà Cừ, nhất là nghệ Xà Cừ<br /> được nhân giống bằng nuôi cấy mô ở An Giang.<br /> Chính điều này đã thúc đẩy chúng tôi thực hiện đề<br /> tài này nhằm nghiên cứu sâu hơn về ảnh hưởng<br /> <br /> Chuẩn bị đất trồng: Đất trồng được xới tơi, rải vôi<br /> bột với liều lượng 50 kg/1.000 m2. Sau đó được<br /> lên liếp với diện tích liếp 2 x 2,5 = 5 m2, cao<br /> 15cm, khoảng cách giữa các liếp là 40 cm. Cây<br /> giống được trồng với khoảng cách 40 x 40 cm.<br /> Thu hoạch: Khi cây nghệ Xà Cừ ngừng phát triển<br /> lá non, lá già bắt đầu khô ở mép lá và ngả màu<br /> vàng nhạt, vỏ củ có màu vàng sẫm, da bóng thì<br /> tiến hành thu hoạch.<br /> 85<br /> <br /> Journal of Science – 2015, Vol.7 (1), 84 – 93<br /> <br /> Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology<br /> <br /> thức được thực hiện bằng<br /> Statgraphics Centurion XV.<br /> <br /> 2.2. Các chỉ tiêu theo dõi<br /> a. Các chỉ tiêu sinh trưởng: được thu thập trên 10<br /> cây mẫu vào thời điểm tháng thứ 8 sau khi trồng<br /> (theo phương pháp của Hadipoentyanti & Syahid,<br /> 2007).<br /> - Tỉ lệ sống của từng loại cây con: thu thập ở<br /> thời điểm 1 tháng sau khi trồng.<br /> - Chiều cao cây: đo chiều cao từ gốc của cây đến<br /> chóp lá cao nhất.<br /> - Số chồi: đếm toàn bộ số chồi mọc từ một đơn<br /> vị chồi trồng ban đầu.<br /> - Số lá/cây: đếm toàn bộ số lá từ một đơn vị chồi<br /> ban đầu.<br /> - Chiều dài lá (cm): đo từ gốc phiến lá đến chóp<br /> lá.<br /> - Chiều rộng lá: thu thập trên 10 cây mẫu ở thời<br /> điểm 2, 3, 4, 5 tháng sau khi trồng.<br /> - Trọng lượng củ (gram): cân toàn bộ củ thu<br /> được từ một đơn vị chồi ban đầu.<br /> - Chiều dài (cm): đo từ gốc cây đến phần cuối<br /> của củ.<br /> - Chiều rộng củ (cm): được đo trên toàn bộ củ,<br /> đo nơi có chiều rộng nhất của củ.<br /> - Đường kính củ cái: được đo trên củ cái, là củ<br /> mọc từ thân chính của cây, đường kính củ lớn<br /> nhất được lấy tại nơi củ có kích thước lớn nhất.<br /> b. Sâu bệnh hại trong quá trình thí nghiệm: ghi<br /> nhận các loại sâu bệnh hại có ảnh hưởng đến các<br /> chỉ tiêu sinh trưởng và năng suất của cây nghệ Xà<br /> Cừ trong quá trình thí nghiệm.<br /> c. Chỉ tiêu năng suất: năng suất củ (tươi) của mỗi<br /> nghiệm thức được thu trên toàn bộ diện tích lô thí<br /> nghiệm (5 m2) và được quy về năng suất tính bằng<br /> kg/ha.<br /> d. Chỉ tiêu chất lượng củ: hàm lượng curcumin:<br /> được phân tích tại phòng thí nghiệm thuộc Trung<br /> Tâm Dịch vụ phân tích thí nghiệm TP.HCM – Chi<br /> nhánh Cần Thơ bằng phương pháp sắc ký lỏng<br /> hiệu nâng cao (High Performance Liquid<br /> Chromatography).<br /> <br /> 3.<br /> <br /> chương<br /> <br /> trình<br /> <br /> KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br /> <br /> 3.1. Các chỉ tiêu sinh trưởng<br /> 3.1.1. Tỉ lệ sống của cây nghệ Xà Cừ<br /> Cây nghệ Xà Cừ nhân giống bằng chồi củ có tỉ lệ<br /> hao hụt là không đáng kể khi đưa ra trồng ngoài<br /> đồng. Các nghiệm thức F1V1, F3V1 và F4V1 có tỉ<br /> lệ sống sau khi trồng đạt 100%, nghiệm thức F2V1<br /> đạt 98,67% và nghiệm thức F0V1 (ND) cũng đạt<br /> đến 98,67%. Đối với cây nghệ Xà Cừ được nhân<br /> giống bằng phương pháp nuôi cấy mô, tỉ lệ sống<br /> sau 1 tháng trồng ngoài đồng thấp hơn so với<br /> trồng bằng củ. Các nghiệm thức có tỉ lệ sống từ<br /> 72,22 – 94,45%. Điều này có thể do cây nghệ Xà<br /> Cừ nhân giống bằng chồi củ có chất dự trữ trong<br /> củ nuôi cây con vào thời gian đầu nên cây nghệ có<br /> sức sống rất mạnh và phát triển rất nhanh chóng<br /> trong thời gian đầu. Riêng cây nghệ Xà Cừ được<br /> nhân giống bằng nuôi cấy mô dù đã trải qua giai<br /> đoạn thuần dưỡng trong vườn ươm nhưng vẫn<br /> chưa thích nghi kịp với điều kiện thời tiết ngoài<br /> đồng, cây rất yếu và bộ rễ chưa phát triển hoàn<br /> chỉnh nên tỉ lệ sống thấp. Khi tiến hành đưa cây ra<br /> bố trí thí nghiệm lúc điều kiện nắng nóng, ít mưa<br /> nên cây bị hao hụt cao. Đây cũng là mặt hạn chế<br /> cần phải xem xét và đánh giá thêm khi muốn đưa<br /> cây cấy mô nghệ Xà Cừ ra trồng ở ngoài đồng<br /> (nhất là trong điều kiện khí hậu ngày càng khắc<br /> nghiệt ở vùng có địa hình cao hiện nay).<br /> 3.1.2. Sự tăng trưởng của cây nghệ Xà Cừ<br /> Ảnh hưởng của nhân tố giống<br /> Nhìn chung, cây nghệ Xà Cừ phát triển tương đối<br /> tốt trên vùng đất núi, chiều cao cây gia tăng rất<br /> nhanh từ thời điểm 4 tháng sau khi trồng và giữa<br /> các nghiệm thức có sự khác biệt về mặt thống kê<br /> ở mức ý nghĩa 1%. Tuy nhiên, sau 5 tháng cây<br /> nghệ bắt đầu ngừng phát triển về chiều cao và<br /> chuẩn bị giai đoạn nuôi củ. Theo kết quả nghiên<br /> cứu của Hadipoentyanti và Syahid (2007), chiều<br /> cao cây nghệ Xà Cừ trong thí nghiệm của họ tại<br /> Bongor, Indonesia trong năm 2003 đạt đến<br /> khoảng 132,9 - 162,1 cm. Như vậy, chiều cao cây<br /> trong thí nghiệm tại Tịnh Biên vẫn còn thấp. Cây<br /> nghệ Xà Cừ được nhân giống bằng chồi củ phát<br /> <br /> 2.3. Phân tích thống kê<br /> Số liệu được thu thập và tính trung bình bằng<br /> chương trình Microsoft Excel. Phân tích phương<br /> sai (ANOVA) và so sánh các trung bình nghiệm<br /> <br /> 86<br /> <br /> Journal of Science – 2015, Vol.7 (1), 84 – 93<br /> <br /> Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology<br /> <br /> triển mạnh hơn cây được nhân giống bằng phương<br /> pháp nuôi cấy mô và chiều cao phát triển khác<br /> biệt rất có ý nghĩa. Sau 4 tháng, cây nghệ củ cao<br /> trung bình 87,61 cm, trong khi đó chiều cao trung<br /> bình của cây nghệ nuôi cấy mô là 71,38 cm. Cây<br /> nghệ trồng bằng củ có chiều cao cây vượt trội hơn<br /> <br /> so với cây nghệ nuôi cấy mô một phần có thể do<br /> chúng mau thích nghi với điều kiện thời tiết, có<br /> sức sống cao hơn và khả năng hấp thu phân bón<br /> trong thời gian đầu hiệu quả hơn cây nghệ nuôi<br /> cấy mô.<br /> <br /> Bảng 1. Một số chỉ tiêu sinh trưởng của hai loại cây giống ở thời điểm 3, 4, 5 tháng SKT<br /> <br /> Thời gian<br /> <br /> 4 tháng<br /> <br /> 5 tháng<br /> <br /> Cao cây<br /> <br /> Số lá<br /> <br /> Dài lá<br /> <br /> Rộng lá<br /> <br /> Số chồi<br /> <br /> V1<br /> <br /> 71,96a<br /> <br /> 17,32a<br /> <br /> 44,29a<br /> <br /> 11,89a<br /> <br /> 3,82a<br /> <br /> V2<br /> <br /> 43,46b<br /> <br /> 8,37b<br /> <br /> 27,60b<br /> <br /> 8,68b<br /> <br /> 1,44b<br /> <br /> V1<br /> <br /> 87,61a<br /> <br /> 28,03a<br /> <br /> 56,04a<br /> <br /> 11,87ns<br /> <br /> 5,96ns<br /> <br /> V2<br /> <br /> 71,38b<br /> <br /> 19,50b<br /> <br /> 44,54b<br /> <br /> 12,86ns<br /> <br /> 4,94ns<br /> <br /> V1<br /> <br /> 3 tháng<br /> <br /> Giống<br /> <br /> 84,60ns<br /> <br /> 23,64ns<br /> <br /> 47,64A<br /> <br /> 11,34ns<br /> <br /> 5,53ns<br /> <br /> V2<br /> <br /> 76,23ns<br /> <br /> 23,36ns<br /> <br /> 41,58B<br /> <br /> 10,84ns<br /> <br /> 5,41ns<br /> <br /> Ghi chú: V1 - Cây giống được nhân từ chồi củ; V2 - Cây giống được nhân bằng nuôi cấy mô.<br /> Ở từng thời điểm 3,4,5 tháng các số có ký hiệu ns theo sau thì khác biệt không có ý nghĩa theo từng chỉ tiêu thí<br /> nghiệm. a, b: Khác biệt ở mức ý nghĩa 1%; A, B: Khác biệt ở mức ý nghĩa 5%.<br /> <br /> Đối với cây nghệ nhân giống bằng chồi củ thì lá<br /> phát triển sớm hơn, nhiều hơn và nhanh hơn cây<br /> nghệ nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô.<br /> ̉<br /> Ơ thời điểm 3 tháng sau khi trồng cây nghệ được<br /> nhân giống từ củ đạt 17,32 lá/bụi so với cây nghệ<br /> nuôi cấy mô chỉ đạt 8,37 lá/bụi. Sự chênh lệch<br /> này có thể do cây nghệ trồng bằng củ có khả năng<br /> sinh trưởng tích cực hơn, phát triển nhanh hơn ở<br /> giai đoạn đầu nên số lá gia tăng nhanh chóng. Ở<br /> tháng thứ 5 sau khi trồng, cây nghệ nuôi cấy mô<br /> phát triển lá tích cực hơn, trong khi đó cây nghệ<br /> nhân giống bằng củ hầu như chậm lại và thậm chí<br /> giảm số lá. Sau 5 tháng bố trí thí nghiệm ở cây<br /> nghệ củ đạt trung bình 23,64 lá/bụi so với ở cây<br /> nghệ nuôi cấy mô đạt trung bình 23,36 lá/bụi.<br /> <br /> nghiệm, kết quả nhận được cho thấy không có sự<br /> khác biệt về chiều dài và chiều rộng lá giữa 2 loại<br /> cây giống này (chiều dài 47,64 cm ở cây nghệ<br /> được nhân giống từ củ so với 41,58 cm ở cây nuôi<br /> cấy mô; chiều rộng lá 11,34 cm ở cây nghệ được<br /> nhân giống từ củ so với 10,84 cm ở cây nuôi cấy<br /> mô). Tương tự, số chồi cũng cho thấy không có sự<br /> khác biệt giữa 2 loại cây giống này (5,53 chồi so<br /> với 5,41 chồi) (Bảng 1).<br /> Ảnh hưởng của mức độ phân bón<br /> - Sự phát triển chiều cao cây (cm): Kết quả thí<br /> nghiệm cho thấy yếu tố phân bón có ảnh hưởng<br /> đến chiều cao cây. Ở nghiệm thức F4 chiều cao<br /> cây khác biệt có ý nghĩa đối với công thức đối<br /> chứng F0 nhưng khác biệt không ý nghĩa so với<br /> các nghiệm thức F1, F2, F3. Ở thời điểm 5 tháng<br /> sau khi trồng, các cây nghệ Xà Cừ ở nghiệm thức<br /> F4 đạt chiều cao 96,40 (cm) so với đối chứng là<br /> 64,04 (cm) (Bảng 2).<br /> <br /> Nhìn chung, khả năng phát triển bộ lá của cây<br /> nghệ Xà Cừ nhân giống từ chồi củ tốt hơn cây<br /> nghệ Xà Cừ nhân giống bằng phương pháp nuôi<br /> cấy mô ở giai đoạn đầu từ 1 - 4 tháng sau khi<br /> trồng. Tuy nhiên vào thời điểm kết thúc thí<br /> <br /> 87<br /> <br /> Journal of Science – 2015, Vol.7 (1), 84 – 93<br /> <br /> Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology<br /> <br /> Hình 1. Nghệ Xà Cừ ở thời điểm 3 tháng sau khi trồng<br /> <br /> a<br /> <br /> b<br /> Hình 2. Nghệ Xà Cừ ở thời điểm thu hoạch<br /> a) Nghệ trồ ng từ củ; b) Nghệ trồ ng từ cây nuôi cấy mô<br /> <br /> - Sự phát triển số lá: Tương tự như chiều cao<br /> cây, các nghiệm thức phân bón cũng cho thấy có<br /> ảnh hưởng đến sự phát triển số lá của cây nghệ Xà<br /> Cừ trong giai đoạn này. Nhìn chung, số lá phát<br /> triển rất nhanh và khác biệt rất có ý nghĩa về mặt<br /> thống kê. Ở tháng thứ 5, khi cây nghệ đã phát<br /> triển đủ số lá đạt từ 16 – 29 lá/bụi thì cây nghệ Xà<br /> Cừ ngừng phát triển lá non, sau đó lá già bắt đầu<br /> khô ở mép lá, ngả màu vàng nhạt và rụi dần đến<br /> khi thu hoạch. Các công thức phân bón (F1, F2, F3<br /> <br /> và F4) cho cây nghệ trong thí nghiệm này bằng<br /> nhau ở các lượng đạm, lân và chỉ khác nhau hàm<br /> lượng kali với mục đích đánh giá ảnh hưởng của<br /> hàm lượng kali lên năng suất củ và hàm lượng<br /> curcumin của cây nghệ sau này. Điều này chứng<br /> tỏ hàm lượng đạm và lân được cây sử dụng để tạo<br /> chồi và nuôi bộ lá trong thời gian đầu và có ảnh<br /> hưởng đến chiều cao cây ở phần trên cũng như số<br /> lá của cây thể hiện qua sự khác biệt so với nghiệm<br /> thức đối chứng (Bảng 2).<br /> <br /> 88<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
16=>1