intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ảnh hưởng của chất lượng thông tin từ mạng xã hội đến ý định lựa chọn điểm đến của du khách: Nghiên cứu trường hợp điểm đến Bình Định

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

82
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngành dịch vụ du lịch đang ngày trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn thu hút nhiều thành phần đầu tư tại Việt Nam, cùng với đó các nhà khoa học đã thực hiện rất nhiều nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực du lịch liên quan đến hình ảnh điểm đến, hành vi du khách,… Bài viết tập trung nghiên cứu và đo lường sự tác động của chất lượng thông tin trên mạng xã hội đến ý định lựa chọn điểm đến của du khách.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ảnh hưởng của chất lượng thông tin từ mạng xã hội đến ý định lựa chọn điểm đến của du khách: Nghiên cứu trường hợp điểm đến Bình Định

  1. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020 ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤT LƯỢNG THÔNG TIN TỪ MẠNG XÃ HỘI ĐẾN Ý ĐỊNH LỰA CHỌN ĐIỂM ĐẾN CỦA DU KHÁCH: NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP ĐIỂM ĐẾN BÌNH ĐỊNH EFFECTS OF INFORMATION QUALITY FROM SOCIAL NETWORK ON TOURIST’S INTENTION TO DESTINATION SELECTION: THE CASE OF BINH DINH DESTINATION ThS. Nguyễn Hoàng Thịnh, Lương Thị Nhật Lệ Trường Đại học Quy Nhơn Emai: nguyenhoangthinh@qnu.edu.vn Tóm tắt Ngành dịch vụ du lịch đang ngày trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn thu hút nhiều thành phần đầu tư tại Việt Nam, cùng với đó các nhà khoa học đã thực hiện rất nhiều nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực du lịch liên quan đến hình ảnh điểm đến, hành vi du khách,… Bên cạnh đó, một xu hướng phát triển của xã hội hiện đại là sự áp dụng rộng rãi các phương tiện truyền thông xã hội (Social media – SM). Tuy nhiên, có rất ít nghiên cứu tại Việt Nam nghiên cứu về mối liên kết của hai chủ đề này. Bài viết tập trung nghiên cứu và đo lường sự tác động của chất lượng thông tin trên mạng xã hội đến ý định lựa chọn điểm đến của du khách. Nghiên cứu thu thập và xử lý số liệu từ hơn 220 du khách thông qua SPSS 20. Một mô hình cấu trúc được cấu trúc hồi quy được thiết lập với kết quả nghiên cứu phù hợp với thực trạng của xã hội và người tiêu dùng. Cụ thể, nghiên cứu đã xác định ảnh hưởng của chất lượng thông tin từ mạng xã hội đến ý định lựa chọn điểm đến của người tiêu dùng. Dựa trên những khám phá, nghiên cứu thảo luận và đề xuất ý kiến để phát triển du lịch Bình Định. Ngoài ra nghiên cứu cũng xác định những hạn chế còn tồn tại và định hướng nghiên cứu trong tương lai. Từ khóa: chất lượng thông tin, mạng xã hội, ý định lựa chọn điểm đến của du khách. Abstract Tourism service industry is becoming a key economic industry which is attracting a lot investment in Vietnam. Besides, scientists have done a lot of research related to tourism such as tourist behavior, destination image…. Moreover, a growing trend of modern society is the widespread adoption of social media (SM). However, in Vietnam, there is lack of research looking at linkage of these two topics. This paper focuses on researching and measuring impact of social network’s information quality on destination choice intentions. The study collected, analyzed data from more than 250 visitors, then the figures was processed by SPSS 20 software. A regression structure model was developed with research results which is consistent with the reality of society and consumers. Specifically, the study has determined the impact of information quality from social networks on destination choice intentions. Based on the findings, research discussed and suggested ideas for tourism development in Binh Dinh. In addition, the study also identifies its limitations and future research directions. Keywords: information quality, social network, tourist intention. 1. Giới thiệu Du lịch đang ngày trở thành một ngành kinh tế quan trọng đóng góp đáng kể vào sự phát triển của Việt Nam. Cả năm 2019, ngành du lịch Việt Nam đón được 18 triệu lượt khách quốc tế và 85 triệu lượt khách nội địa mang lại tổng doanh thu 726.000 tỷ đồng (Tổng cục thống kê, 2019). Hơn thế nữa Việt Nam đã lọt vào danh sách các quốc gia có tốc độ tăng trưởng du lịch nhanh nhất thế giới (Việt Cường và Chí Trung, 2017). Để tiếp tục duy trì và và phát huy tốc độ phát triển của ngành du lịch cần có sự tập trung nghiên cứu về quá trình lựa chọn điểm đến du lịch, từ đó làm cơ sở cho các công ty dịch vụ du lịch, chính quyền địa điểm du lịch xây dựng các chiến lược marketing hiệu quả. Quá trình ra quyết định lựa chọn địa điểm du lịch của du khách được tác động rất lớn bởi thông tin về điểm đến. Thông qua nghiên cứu tác động của thông tin về điểm đến du lịch đến du khách trong qua trình lựa chọn điểm đến giúp nắm rõ được nhu cầu và mong muốn của nhu khách. Phương tiện truyền thông xã hội đang trở thành một hiện tượng mạnh mẽ trong những năm gần đây, ảnh hưởng đến từng cá nhân, toàn xã hội và lĩnh vực kinh tế trong cuộc sống hiện đại. Tổng thể, 715
  2. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020 Việt Nam có tới 50,05 triệu người dùng Internet chiếm 53% ; tại Việt Nam có tới 46 triệu người dùng mạng xã hội, chiếm 48% dân số (Dammio, 2017). Các phương tiện truyền thông xã hội như Facebook, Zalo, Youtube đã thay đổi mạnh mẽ tương tác xã hội bằng cách tạo nên những nền tảng mới cho việc giao tiếp và trao đổi thông tin. Không thể chối cãi, SM đang trở thành một công cụ hữu dụng cho việc quảng bá du lịch và công cụ giao tiếp cho người làm tiếp thị ở nhiều tổ chức (Chung và Koo, 2015). Các công ty đang chú trọng phát triển các công cụ truyền thông trên môi trường SM vì họ có thể tương tác trực tiếp với khách du lịch và ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định của người tiêu dùng du lịch của họ (Kiráľová và Pavlíčeka, 2015; Noti, 2013). Trong những năm gần đây, du khách ngày càng ưa chuộng hình thức du lịch tự túc thay vì các chuyến du lịch được thực hiện bởi các công ty lữ hành. Du khách thích đi du lịch theo cặp đôi hoặc nhóm nhỏ và họ tự đặt các chuyến du lịch trực tuyến mà không qua các công ty lữ hành. Bên cạnh đó, do các đặc tính độc đáo của sản phẩm du lịch (có sự tham gia cao, đòi hỏi kinh nghiệm, tính vô hình, rủi ro mua hàng cao, v.v.), ngành du lịch là một ngành công nghiệp mà thông tin rất quan trọng (Sheldon, 1997; Tan và Chen, 2012). Do đó, khách du lịch tiềm năng sử dụng các nguồn thông tin khác nhau vì họ nhận ra tầm quan trọng của thông tin du lịch trong việc lên kế hoạch cho chuyến đi. Trong bối cảnh này, ngày càng tăng số lượng khách du lịch độc lập tìm kiếm thông tin về chuyến đi của họ thông qua các trang web, mạng xã hội và qua các ứng dụng điện thoại di động (Kim và cộng sự, 2017). Trong đó, phương tiện truyền thông xã hội đang đóng vai trò quan trọng trong việc truyền tải thông tin du lịch vì nó không chỉ cung cấp thông tin mà còn dễ dàng chia sẻ thông tin giữa người dùng với nhau. Khách du lịch sử dụng thông tin du lịch trên phương tiện truyền thông xã hội không chỉ bị ảnh hưởng bởi chất lượng thông tin cá nhân mà còn cả uy tín của những người viết đã tạo và chuyển tiếp thông tin. So với các hành vi tìm kiếm trực tuyến trước khi truyền thông xã hội ra đời, các tìm kiếm thông tin du lịch trực tuyến hiện được kết nối xã hội nhiều hơn. Do đó, không giống như phương tiện truyền thông truyền thống, phương tiện truyền thông xã hội đóng vai trò là phương tiện truyền thông có sức thuyết phục cao mới làm thay đổi hành vi của khách du lịch (Chung và Han, 2017). Tại Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về cơ chế tác động đến ý ra quyết định của khách du lịch tiềm năng, thế nhưng số lượng nghiên cứu hành vi của khách du lịch tiềm năng trong môi trường SM thì còn hạn chế. Cụ thể hơn, quá trình du khách tiềm năng chịu tác động của thông tin từ mạng xã hội dẫn đến ý định tiêu dùng còn chưa được làm rõ. Lượng thông tin về địa điểm du lịch trên mạng xã hội rất nhiều và ngày càng tăng, thế nhưng những thông tin này tác động đến người tiêu dùng thế nào? Khía cạnh nào của thông tin sẽ có tác động đến người tiêu dùng để hình thành ý định? Thông tin nào được đánh giá cao, còn thông tin nào được cho là gây phiền nhiễu? Vì vậy nghiên cứu này xem xét các khía cạnh của thông tin trên mạng xã hội ảnh hưởng đến việc hình thành ý định lựa chọn điểm đến của du khách tiềm năng. 2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu 2.1. Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu 2.1.1. Phương tiện truyền thông xã hội Sự phát triển của công nghệ thông tin và internet đã mở ra một kỷ nguyên mới cho sự giao tiếp giữa con người với con người. Internet đã phát triển từ một công cụ trở thành một nền tảng cho phép con người trở thành nguồn truyền thông thông qua sự tương tác và chia sẻ thông tin (Thevenot, 2007). Nền tảng Web 2.0 cho phép con người giao tiếp, tương tác và chia sẻ thông tin với người khác thông qua mạng Internet. Một trong những sản phẩm nổi bật của nền tảng Web 2.0 đó là phương tiện truyền thông xã hội, một trong những công cụ marketing mạnh mẽ dựa trên sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của các trang mạng xã hội. Xiang và Gretzel (2010) định nghĩa SM là “Các ứng dụng dựa trên Internet lưu trữ nội dung được xây dựng bởi người dùng bao gồm những phương tiện được tạo nên bởi người người dùng”. Có thể nói, SM là nhóm các ứng dụng Internet, xây dựng trên nền tảng Web 2.0 cho phép con người tự sản xuất nội dung và chia sẻ chúng với các cá nhân khác trong xã hội. 716
  3. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020 Người dùng sử dụng SM để đăng tải những câu truyện, lời bình, lời đánh giá, hình ảnh và những đoạn video. Tập trung mạnh mẽ vào những điểm đến, du khách chia sẻ những đánh giá, quan điểm về hình ảnh điểm đến sử dụng SM và những đánh giá này có khả năng ảnh hưởng đến việc lựa chọn điểm đến: không chỉ đến bạn bè và gia đình mà còn đến những du khách tiềm tàng. SM được sử dụng trước, trong và sau những kỳ nghỉ để chia sẻ trải nghiệm đang trở thành một nguồn thông tin quan trọng (Xiang và Gretzel, 2010). Trong nghiên cứu hàn lâm, rất nhiều nhà nghiên cứu đã đánh giá vai trò của SM đối với ngành du lịch. Nghiên cứu chỉ ra rằng người tiêu dùng thường sử dụng SM suốt giai đoạn tìm kiếm thông tin trong quá trình lên kế hoạch du lịch và SM được đánh giá là một trong những nguồn thông tin quan trọng (Leung và cộng sự, 2013). SM cùng với các công cụ tìm kiếm được đánh giá là hai xu hướng nổi bật có ảnh hưởng mạnh mẽ tới ngành du lịch (Xiang và Gretzel, 2010). SM đã được du khách sử dụng rộng rãi để tìm kiếm, tổ chức, chia sẻ và hướng dẫn thông qua những câu chuyện trong quá trình du lịch, những trải nghiệm thông qua các trang blog, mạng xã hội (Ví dụ: Facebook, Zalo), trang chia sẻ đa phương tiện (Ví dụ: YouTube, TripAdvisor, Tiktok), trang web chia sẻ thông tin (Ví dụ: Foody, Diadiemanuong.com, Vntrip, Ivivu). Các du khách đánh giá lợi ích của các SM đối với quá trình tìm kiếm thông tin du lịch. SM mang lại một lượng vô cùng lớn thông tin lớn cho việc tìm kiếm thông tin du lịch. Tuy nhiên, khối lượng thông tin này đang ngày càng khiến cho người dùng cảm thấy quá tải. Với sự phát triển thần tốc của SM kèm theo đó là các nguồn sản xuất nội dung ngày càng đa dạng (Công ty lữ hành, chính quyền, báo chí, người du lịch chuyên nghiệp) gây khó khăn cho người dùng để nhận ra và theo dõi những điều hiện đang diễn ra trên các SM. Người dùng cảm thấy bối rối khi có quá nhiều thông tin và nhiều nguồn thông tin để lựa chọn họ không biết được những thông tin được chia sẻ có đang tin cậy và có quan trọng đối với quá trình ra quyết định của mình. Từ đó, người dùng mạng xã hội và đặc biệt là du khách ngày càng khắc khe hơn trong việc tiếp nhận thông tin từ các trang mạng xã hội. Cùng với sự phát triển của mạng xã hội, du khách cũng tự phát triển những thang đo, đánh giá thông tin họ nhận được từ SM từ đó chắc lọc, tiếp nhận những thông tin mà họ cho là đáng tin cây. 2.1.2. Mô hình khả năng đánh giá kỹ lưỡng (Elaboration Likelihood Model – ELM) ELM được sử dụng làm nền tảng lý thuyết để phát triển các giả thuyết liên quan đến mối quan hệ tương quan giữa chất lượng thông tin, sự uy tín nguồn thông tin (Hur và cộng sự, 2017). ELM được sử dụng rộng rãi trong marketing, tâm lý xã hội, công nghệ thông tin và thương mại điện tử để giải thích cách thức người dùng xử lý thông tin (Li, 2013). Theo mô hình ELM, chất lượng thông tin và sự uy tín nguồn thông tin được đánh giá là có mối quan hệ tích cực với thái độ và niềm tin của người tiêu dùng. Chất lượng thông được xem là sức mạnh thuyết phục của luận điểm trong một thông điệp thông tin, khi cá nhân có năng lực và động cơ xử lý một thông điệp họ sẽ chú ý và nỗ lực đánh giá kỹ lưỡng các luận điểm, từ đó hình thành những suy nghĩ của riêng họ đối với các luận điểm này (Park và cộng sự, 2007). Độ tin cậy của nguồn được định nghĩa là mức độ mà nguồn thông tin được người nhận thông tin coi là đáng tin cậy, có trình độ và uy tín (Bhattacherjee và Sanford, 2006). Gần đây, mô hình ELM đã được áp dụng trong các nghiên cứu về SM và được mở rộng phạm vi áp dụng của nghiên cứu, một số nghiên cứu đã xây dựng biến phụ thuộc bao hàm hành vi của người tiêu dùng (Nguyễn Hữu Khôi và Đỗ Như An, 2017; Bhattacherjee và Sanford, 2006; Hur và cộng sự, 2017). Trong bối cảnh cảnh SM, hành vi được giải thích là việc người dùng tiếp nhận và tin tưởng thông tin từ mạng xã hội (Bhattacherjee và Sanford, 2006; Chung và Han, 2017). Bên cạnh đó, các nghiên cứu trước đây nhấn mạnh rằng khi một người tiêu dùng có thiện chí đối với quảng cáo, thông tin về một sản phẩm/dịch vụ thì họ có nhiều khả năng mua sản phẩm/dịch vụ đó (Haley và Baldinger, 2000; Shih, 2004). Từ đó, thái độ và sự tin tưởng của người dùng đối với thông tin về địa điểm du lịch trên SM có tác động tích cực đến ý định lựa chọn điểm đến du lịch. Hơn thế nữa, các nghiên gần đây trong lĩnh vực du lịch và lữ hành đã chỉ ra rằng thông tin, nội dung trên trang web và SM có ảnh hưởng đến ý định du lịch của khách du lịch tiềm năng (Narangajavana và cộng sự, 2017; Loureiro, 2015; Xu và Pratt, 2018; Nguyễn Hữu Khôi và Đỗ Như An, 2017). Trong nghiên cứu này, việc nhận thông tin được xem là ý định tham quan điểm đến du lịch hoặc giới thiệu điểm đến cho bạn bè, người thân. Áp 717
  4. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020 dụng ELM vào bối cảnh thông tin du lịch trên SM, chất lượng thông tin và sự uy tín của nguồn tin có thể được sử dụng để giải thích ý định của người tiêu dùng. Người tiêu dùng có kiến thức và kỹ năng sẽ đánh giá tính hữu ích và chất lượng của thông tin du lịch, từ đó hình thành ý định du lịch, mong muốn giới thiệu. Khi người tiêu dùng không có khả năng đánh giá chất lượng nội dung họ sẽ xem xét các thông tin của người đăng thông tin du lịch (tính chính thống, lượng người theo dõi, mức độ nổi tiếng,…). Dựa trên các thông tin về người đăng, người tiêu dùng sẽ hình thành ý định du lịch và mong muốn giới thiệu. 2.1.3. Chất lượng thông tin du lịch Nghiên cứu về chất lượng thông tin được nghiên cứu dựa trên tính hữu ích và khả năng sử dụng đối với người dùng, và dựa trên một nghiên cứu thực nghiệm quy nạp, Wang và Strong (1996) đã đề xuất khung phân cấp cho chất lượng thông tin bao gồm bốn khía cạnh, mỗi khía cạnh bao gồm từ hai đến năm nhân tố: • Phẩm chất nội tại: đáng tin, sự chính xác, tính khách quan, uy tín. • Phẩm chất bối cảnh: gia tăng giá trị, sự liên quan, tính cập nhật, tính đầy đủ, lượng thông tin. • Phẩm chất trình bày: khả năng diễn đạt, dễ hiểu, trình bày nhất quán, trình bày súc tích. • Phẩm chất truy cập: khả năng tiếp cận, bảo mật truy cập. Các khía cạnh này đã được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu về chất lượng thông tin và là những khía cạnh được trích dẫn phổ biến (Agarwal và Yiliyasi, 2010; Strong và cộng sự, 1997; Stvilia và cộng sự, 2007; Kim và cộng sự, 2017). Klein (2002) đã phân tích chất lượng thông tin theo ngữ cảnh World Wide Web (WWW), và Knight và Burn (2005) cũng đã phát triển các số liệu để lấy thông tin từ WWW dựa trên Wang và Strong (1996). Trong phạm vi SM, chất lượng thông tin hay còn được gọi là chất lượng nội dung, điều này tạo thuận lợi cho việc xác định và phân biệt nội dung chất lượng cao với nội dung chất lượng thấp. Chất lượng thông tin trong phạm vi SM thì khác biệt khi so sánh với khái niệm chất lượng thông tin được sử dụng trong định lượng hệ thống thông tin, một số đặc điểm riêng biệt của SM như: khả năng truy cập rộng rãi, lâu dài, người truy cập toàn cầu, tính mới mẻ và dễ sử dụng (Agarwal và Yiliyasi, 2010). SM đã mở rộng những nguồn sáng tạo thông tin ra khỏi ranh giới của các tổ chức, do đó các nhà quản trị không có quyền gây ảnh hưởng đến chất lượng thông tin thu nhận được. Gần đây, Agarwal và Yiliyasi (2010), Emamjome và cộng sự (2013) và Kim và cộng sự (2017) đã phân tích các nhân tố thuộc chất lượng thông tin trong bối cảnh truyền thông xã hội. Do đó, nghiên cứu này xem xét các nghiên cứu áp dụng các nghiên cứu trước, chúng tôi đề xuất các nhân tố thuộc chất lượng thông tin có tác động đến du khách tiềm năng trong quá trình tìm kiếm và sử dụng thông tin từ mạng xã hội. Đối với Kim và cộng sự (2017) chất lượng thông tin du lịch trong SM liên quan đến năm nhân tố: gia tăng giá trị, sư liên quan, tính cập nhật, tính đầy đủ, thú vị và thiết kế. Nhân tố thú vị đã được Kim và cộng sự (2017) bổ xung vào khía cạnh phẩm chất bối cảnh bởi vì họ tin rằng người thường sử dụng phương tiện truyền thông xã hội không chỉ cho các hoạt động định hướng mục tiêu cụ thể mà còn để giải trí. Hơn nữa, sự thú vị được coi là một yếu tố có liên quan với ý định đến thăm một điểm đến của du khách. Đối với phẩm chất trình bày Kim và cộng sự (2017) đã thay thế bằng nhân tố thiết kế bởi vì đối với điểm đến du lịch hình ảnh và trình bày có tác động mạnh trong việc thu hút khách du lịch tiềm năng. Trong môi trường SM, người sử dụng ưu tiên lựa chọn các nội dung mang tính giải trí và hấp dẫn, đặc biệt đối với các thông tin về địa điểm du lịch thì yếu tố này thì nhân tố này càng được xem trọng. Bên cạnh đó, hình ảnh là một trong những công cụ được sử dụng cung cấp thông tin hiệu quả trong môi trường SM. Cụ thể là các trang mạng xã hội ngày càng tận dụng tối đa lợi ích của thiết bị số để truyền tải các hình ảnh, video truyền thông được đầu tư, chăm chút kỹ lưỡng vì tính ưa chuộng của người tiêu dùng. Người tiêu dùng tiếp xúc với hình ảnh, video, đánh giá, chiến dịch quảng cáo và thông tin về địa điểm du lịch có thể sử dụng chúng để thỏa mãn nhu cầu giải trí của họ (Hur và cộng sự, 2017). Hai nhân tố thú vị và thiết kế được đề xuất nhằm tăng tính phù hợp của mô hình trong bối cảnh các nền tảng truyền 718
  5. Kỷ yyếu Hội thảo quốc tế “Thư ương mại và phân phối” lần n 2 năm 20200 thô ông xã hội. Dựa trên cáác lập luận,, nghiên cứu u này đo lườờng chất lư ượng thông ttin dựa trên n năm nhân tố:: gia tăng giiá trị, tính cậập nhật, tínhh đầy đủ, th hú vị và thiếtt kế. 2.2 2. Mô hình nghiên cứu u và giả thu uyết Dựa trrên mô hìnhh khả năng đđánh giá kỹ ỹ lưỡng, nghhiên cứu nàày lập luận rrằng chất lưượng thông tin n và sự uy tíín của nguồnn tin trên cáác trang mạn ng xã hội cóó thể được ssử dụng để giải thích hành h vi tiêu dùùng của ngườ ời nhận thônng tin (ý địnnh du lịch, ý định giới thiệu). t Mô hhình này phhù hợp với đềđ xuất của Chhung và Haan (2017), hhai tác giả ccho rằng cáác nhà nghiiên cứu nênn đồng thờii xác định chất c lượng thôông tin và độđ tin cậy ccủa nhà cunng cấp thông tin để xácc định các ttác động củủa phương tiện t truyền thôông xã hội liên l quan đếến tìm kiếm m thông tin du d lịch. Nghhiên cứu củaa Zhang và cộng sự (20 010) chỉ ra rằnng sức mạnnh của lập luuận thuyết pphục dẫn đến ý định hành h vi của khách hàngg của nhà hàng, h trong khhi uy tín nguuồn tin thì kkhông. Tronng quá trình h tiềm kiếmm thông tin,, lên kế hoạạch du lịch người tiêu dùùng luôn muuốn tiếp cậnn các thông tin hữu ích và chất lượ ợng về sản pphẩm và dịcch vụ. Do đó,đ họ luôn tìm m cách đánhh giá, đo lườ ờng thông tiin nhận đượ ợc từ SM, đểể giúp cho hhọ ra quyết định xác đá áng. Trong ngghiên cứu vềề nội dung trên Youtubbe, Nguyễn n Hữu Khôi và Đỗ Nhhư An (20177) phân tích h quá trình nggười tiêu dùùng và chứnng minh rằnng người tiêêu dùng bị thuyếtt phụcc bởi chất lư ượng và uy y tín nguôn thôông tin tiếpp nhận từ mmạng xã hội và hình thành ý định hành vi. T Trong nghiênn cứu này, uy tín của ngguồn tin đượ ợc hình bởi nnăm nhân tốố: gia tăng giá g trị, tính cập nhật, tíính đầy đủ, thú vị và th hiết kế. Với nhhững quan điểm này, ngghiên cứu đư ưa ra giả thu uyết rằng: H1: Gia G tăng giá ttrị có tác độộng tích cựcc đến ý định h lựa chọn đđiểm đến du lịch H2: Tíính cập nhậật có tác độnng tích cực đến đ ý định lựa l chọn điểểm đến du lịịch H3: Tíính đầy đủ ccó tác độngg tích cực đếến ý định lựaa chọn điểm m đến du lịcch H4: Thhú vị có tácc động tích ccực đến ý địịnh lựa chọn n điểm đến du lịch H5: Thhiết kế có táác động tíchh cực đến ý định lựa ch họn điểm đếnn du lịch H6: Uy U tín của ngguồn tin có ttác động tícch cực đến ý định lựa chhọn điểm đến du lịch Hình 1: Mô M hình nghiiên cứu 2.3 3. Phương pháp p nghiêên cứu Nghiênn cứu đượcc thực hiện qua hai giaai đoạn gồm m: nghiên cứ ứu định tínnh và nghiên n cứu định lượ ợng. - Phươơng pháp ngghiên cứu địnnh tính đượợc dùng để khám k phá, điiều chỉnh, bbổ sung các thành t phần thaang đo. Trênn cơ sở kế tthừa các ngghiên cứu trư ước, đồng thời t tham khhảo ý kiến ccủa các chu uyên gia và giảảng viên dạyy chuyên nggành marketting, tác giả tiến hành th hảo luận theeo nhóm, gồồm 20 khách h du lịch và 719
  6. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020 những người đang công tác trong các lĩnh vực du lịch tại tỉnh Bình Định. Kết quả được xây dựng gồm 25 biến (mục hỏi) đại diện cho các nhân tố (bảng 1). Nghiên cứu sử dụng thang đo Likert 5 điểm để đo lường cảm nhận của khách hàng với: “1 = hoàn toàn không đồng ý”; “5 = hoàn toàn đồng ý”. - Tiếp theo nghiên cứu định lượng được thực hiện bằng phương pháp điều tra thuận tiện 320 du khách trên địa bàn tỉnh Bình Định từ tháng 10/2019 đến tháng 1/2020. Tổng cộng có 320 bảng câu hỏi được phát ra và thu lại. Dữ liệu được nhập vào phần mêm SPSS 20, sau đó dữ liệu được sàng lọc để đảm bảo tính khả dụng, độ tin cậy và sự phù hợp với nghiên cứu. Qua phương pháp thống kê mô tả đã có 26 mẫu dữ liệu bị loại bỏ, nghiên cứu giữ lại 294 mẫu dữ liệu hợp lệ để đưa vào phân tích Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá, phân tích tương quan và phân tích hồi quy. Bảng 1: Thang đo các nhân tố thuộc chất lượng thông tin và uy tín của nguồn tin tác động đến ý định lựa chọn điểm đến du lịch Tên nhân Kí hiệu Mục hỏi tố biến Thông tin du lịch về Bình Định trên mạng xã hội có hiệu quả cho việc lên kế hoạch GT1 cho một chuyến đi. Gia tăng Thông tin du lịch về Bình Định trên mạng xã hội có tính hữu ích cho việc lên kế hoạch GT2 giá trị cho một chuyến đi. Thông tin du lịch về Bình Định trên mạng xã hội giúp đỡ cho việc lên kế hoạch cho GT3 chuyến đi. CN1 Thật dễ dàng để tìm kiếm thông tin du lịch về Bình Định trên mạng xã hội. Tôi có thể tìm kiếm chính xác những gì tôi muốn một cách nhanh chóng trên mạng xã CN2 Tính cập hội. nhật Thông tin được cập nhật liên tục phù hợp với mục đích của tôi để đi du lịch tại Bình CN3 Định. CN4 Mạng xã hội cung cấp thông tin cho chuyến đi Bình Định nhanh chóng. DD1 Thông tin du lịch Bình Định trên mạng xã hội liên quan đến chuyến đi. Thông tin du lịch tại Bình Định trên mạng xã hội là đầy đủ, vì vậy tôi có thể xác định DD2 Tính đầy những gì tôi muốn. đủ Thông tin du lịch tại Bình Định trên mạng xã hội cung cấp cho tôi đầy đủ thông tin DD3 chuyên sâu DD4 Thông tin du lịch Bình Định trên mạng xã hội mang tính chính xác. TV1 Thông tin du lịch về Bình Định trên mạng xã hội thì vui vẻ Thú vị TV2 Thông tin du lịch về Bình Định trên mạng xã hội thì hấp dẫn. TV3 Thông tin du lịch về Bình Định trên mạng xã hội thì thú vị. TK1 Hình ảnh về điểm đến du lịch Bình Định trên mạng xã hội thì hấp dẫn. TK2 Hình ảnh về điểm đến du lịch Bình Định trên mạng xã hội thì mới mẻ. Thiết kế TK3 Hình ảnh về điểm đến du lịch Bình Định trên mạng xã hội có sự đầu tư. Hình ảnh về điểm đến du lịch Bình Định trên mạng xã hội có sự cập nhật theo xu TK4 hướng. Uy tín UT1 Những thông tin về du lịch BĐ trên mạng xã hội được viết bởi người hiểu biết. nguồn UT2 Những thông tin về du lịch BĐ trên mạng xã hội được viết bởi nguồn tin đáng tin cậy. thông tin UT3 Những thông tin về du lịch BĐ trên mạng xã hội được viết bởi một chuyên gia. Ý định lựa YD1 Thông tin từ mạng xã hội này là tốt, tôi muốn đến Bình Định. chọn điểm YD2 Tôi sẽ khuyến khích bạn bè và người thân du lịch tại Bình Đình. đến du lịch YD3 Tôi sẽ đề nghị du lịch Bình Định nếu ai đó hỏi lời khuyên từ tôi. Bình Định YD4 Tôi xem xét điểm đến Bình Định trước tiên khi tôi có nhu cầu đi du lịch. Nguồn: Kim và cộng sự (2017); (Loureiro, 2015) 720
  7. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020 3. Kết quả nghiên cứu 3.1. Kiểm định thang đo và mô hình Kết quả kiểm định độ tin cậy của các thang đo đã loại biến TK1 để tăng giá trị Cronbach’s Alpha. Sau khi loại biến kết quả cho thấy tất cả các thang đo đều có hệ số Cronbach’s Alpha lớn hơn 0,6 và hệ số tương quan biến tổng của các biến quan sát đều > 0,3. Do đó, các thang đo đạt độ tin cậy cho phép, được sử dụng trong các bước phân tích EFA và phân tích hồi quy tiếp theo. Bảng 2: Kiểm định Cronbach’Alpha Thang đo Số biến quan sát Cronbach’ Alpha Hệ số tương quan biến tổng nhỏ nhất GT 3 0,770 0,572 CN 4 0,768 0,545 DD 4 0,914 0,766 TV 3 0,682 0,468 TK 4 0,773 0,584 UT 3 0,803 0,615 YD 4 0,886 0,738 Nguồn: Tính toán của tác giả 3.2. Phân tích nhân tố Kết quả phân tích nhân tố khám phá (EFA) các nhân tố tác động đến thái độ đối với hành vi mua xanh của giới trẻ cho thấy KMO = 0,814 và kiểm định Bartlett’s với mức ý nghĩa 0,000; có 6 nhân tố được rút trích tại Eigenvalue là 1.045 và phương sai trích được là 56,064%. Các nhân tố đều giữ nguyên so với kết quả ban đầu, kết quả phân tích được thể hiện như sau: Bảng 3: Kết quả phân tích EFA thang đo các nhân tố ảnh hưởng đến ý định lựa chọn điểm đến du lịch Bình Định Hệ số tải nhân tố của các thành phần 1 2 3 4 5 6 DD4 ,906 DD3 ,873 DD2 ,835 DD1 ,797 GT3 ,719 GT2 ,675 GT1 ,657 TK1 ,513 UT1 ,744 UT3 ,708 UT2 ,682 CN2 ,715 CN1 ,713 CN3 ,624 721
  8. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020 CN4 ,592 TK4 ,635 TK2 ,633 TK3 ,628 TV1 ,707 TV2 ,633 TV3 ,519 Eigenvalue 4,837 3,299 2,122 1,685 1,431 1,045 Phương sai trích 14,532 35,053 42,993 48,888 53,294 56,064 Nguồn: Tính toán của tác giả Phân tích EFA với thang đo ý định mua xanh: bốn biến quan sát của thang đo ý định lựa chọn điểm đến du lịch Bình Định được nhóm thành 1 nhân tố. EFA phù hợp với hệ số KMO = 0.825, phương sai trích 66.186%; các biến quan sát có hệ số tải nhân tố trên 0.5, mức ý nghĩa kiểm định của Bartlett là 0.000. 3.3. Phân tích tương quan Kiểm định hệ số tương quan Pearson dùng để kiểm tra mối liên hệ tuyến tính giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc. Theo kết quả của ma trận tương quan Sig tương quan Pearson giữa YD và DD lớn hơn 0.05, do vậy, không có mối tương quan tuyến tính giữa 2 biến này. Biến DD sẽ được loại bỏ khi thực hiện phân tích hồi quy tuyến tính bội. Các biến còn lại là GT,CN,TV,TK,UT đều có tương quan và có ý nghĩa ở mức
  9. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020 Bảng 6: Phân tích ANOVA Mô hình Tổng bình Bậc tự do Bình phương F Sig. 1 Hồi quy h 64,910 5 t bì12,982 h 37,704 ,000b Sai số 99,164 288 ,344 Tổng 164,074 293 Nguồn: Tính toán của tác giả Bảng 7: Các thông số của biến trong mô hình Hệ số chưa chuẩn hóa Hệ số đã chuẩn hóa Đa cộng tuyến Mô hình B Sai số chuẩn Beta t Sig. Dung sai VIF 1 Hằng ,482 ,277 1,741 ,083 ố GT ,315 ,057 ,294 5,534 ,000 ,743 1,345 CN ,099 ,039 ,124 2,529 ,012 ,874 1,144 TV ,142 ,056 ,127 2,556 ,011 ,850 1,176 TK ,248 ,055 ,255 4,507 ,000 ,658 1,520 UT ,111 ,050 ,121 2,216 ,027 ,702 1,425 Nguồn: Tính toán của tác giả Kết quả phân tích bảng 7 cho thấy Ý định lựa chọn điểm đến du lịch Bình Định chịu tác động của năm nhân tố: Gia tăng giá trị, Tính cập nhật, Thú vị, Thiết kế và Uy tín nguồn thông tin. Trong đó hai nhân tố Gia tăng giá trị và Thiết kế có tác động mạnh đến biến phụ thuộc (0,294 và 0,255). Mức độ tác động của ba nhân tố còn lại: Tính cập nhật, Thú vị, Uy tín nguồn thông tin là tương đương nhau (0,124; 0,127 và 0,121). 4. Thảo luận và kết luận Nghiên cứu đã thiết lập một mô hình lý thuyết về cách chất lượng thông tin, uy tín nguồn tin du lịch từ phương tiện truyền thông xã hội ảnh hưởng đến sự hình thành ý định lựa chọn điểm đến du lịch tại Bình Định. Qua việc phân tích năm nhân tố giải thích chất lượng thông tin và nhân tố uy tín của nguồn tin, nghiên cứu đã có một số phát hiện. Thứ nhất đặc tính gia tăng giá trị và thiết kế của thông tin về điểm đến du lịch bình định trong bối cảnh SM có tác động mạnh đến việc hình thành ý định lựa chọn điểm đến du lịch Bình Định. Kết quả này cho thấy những thông tin về du lịch Bình Định là hữu ích cho việc lên kế hoạch từ đó tạo động lực cho du khách lựa chọn Bình Định là địa điểm du lịch. Bên cạnh đó, hình ảnh về du lịch trên mạng xã hội cũng có tác động mạnh đến du khách tiềm năng, đây là một lợi thế mà du lịch Bình Định cần phát huy. Thứ hai, ba nhân tố tính cập nhật, thú vị và uy tín nguồn tin có tác động yếu đến việc hình thành ý định du lịch. Kết quả này phản ánh chất việc thông tin về du lịch Bình Định chưa được đầu tư sâu. Các thông tin về du lịch Bình Định xuất hiện trên mạng xã hội khá nhiều nhưng đa phần là các thông tin trùng lặp, giống nhau được tái sử dụng trong thời gian dài bởi các nguồn khác nhau. Bên cạnh đó, các bài viết về du lịch Bình Định đa phần sử dụng hình ảnh mà chưa có sự đa dạng trong việc truyền tải thông tin như videos, bài viết đánh giá. Nguyên nhân giải thích một phần là vì các bài viết về Bình Định đa phần mang tính tự phát được thực hiện rời rạc bởi các khu du lịch, nhà hàng, khách sạn hay du khách nên chưa có những bài viết mang nội dung tốt tạo ấn tượng với du khách. Tương tự, mức độ tác động thấp của Uy tín nguồn tin một phần cũng được lý giải vì các bài viết về Bình Định chưa được đầu tư, chưa có nhiều KOL, người nổi tiếng, chương trình uy tín thực hiện các bài viết hay đánh giá về du lịch Bình Định. Điều này cần được địa phương tập trung quan tâm và cải thiện bởi vì bối bối cảnh của thông tin du lịch vì một sản phẩm du lịch là không hoàn lại, một lần trải nghiệm Do đó, 723
  10. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020 khách du lịch đưa ra quyết định rất cẩn thận để giảm rủi ro mua sản phẩm du lịch trong giai đoạn lập kế hoạch. Tương tự như vậy, những người có được thông tin du lịch trên phương tiện truyền thông xã hội chịu ảnh hưởng lớn hơn bởi những người đã đăng thông tin hoặc có bao nhiêu người được đăng ký trong cộng đồng truyền thông xã hội hơn là thông tin (Chung và Han, 2017). Nghiên cứu này có những đóng góp nhất định, thứ nhất nghiên cứu giải thích quá trình hình thành ý định hành vi của du khách trong môi trường SM. Kết quả cho thấy các khía cạnh khác nhau của chất lượng thông tin du lịch trong phương tiện truyền thông xã hội có liên quan tích cực với ý định lựa chọn điểm đến du lịch. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Kim và cộng sự (2017), các tác giả đã chỉ ra mối quan hệ tương quan các nhân tố thuộc chất lượng thông tin: Gia tăng giá trị, Thiết kế đối với nhận thức của người tiêu dùng. Nguyễn Hữu Khôi và Đỗ Như An (2017) cũng đã giải thích ý định hành vi của ngời tiêu dùng bị tác động bởi chất lượng thông tin và uy tín nguồn tin trong môi trường SM. Thứ hai nghiên cứu giúp hình thành hiểu biết sâu sắt hơn về mức độ tác động của các nhân tố thuộc chất lượng thông tin từ mạng xã hội đến ý định hành vi của du khách. Từ đó các công ty lữ hành, chính quyền địa phương có sự đầu từ phù hợp cho nội dung, thông tin về địa điểm du lịch trong môi trường SM để đạt được hiệu quả marketing tốt nhất. Cuối cùng, tác giả tin rằng mô hình đề xuất không chỉ giải thích quá trình tiếp nhận thông tin về điểm đến du lịch tại Bình Định mà còn có thể áp dụng tại nhiều địa phương khác, vì nghiên cứu này là sự mở rộng của lý thuyết ELM, một lý thuyết đã được chấp nhận rộng rãi trong nghiên cứu khoa học. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Agarwal Nitin và Yusuf Yiliyasi (2010), 'Information quality challenges in social media', Kỷ yếu hội thảo: ICIQ. 2. Bhattacherjee Anol và Clive Sanford (2006), Influence processes for information technology acceptance: An elaboration likelihood model,Trang: 805-825. 3. Chung Namho và Chulmo Koo (2015), The use of social media in travel information search, Số 32(2),Trang: 215-229. 4. Chung Namho và Heejeong Han (2017), The relationship among tourists' persuasion, attachment and behavioral changes in social media, Tạp chí Technological Forecasting and Social Change, Số 123,Trang: 370-380. 5. Dammio (2017), Các số liệu thống kê về Internet ở Việt Nam năm 2017, 2020], từ liên kết: 6. https://www.dammio.com/2017/07/17/cac-so-lieu-thong-ke-ve-internet-o-viet-nam-nam-2017 7. Emamjome Fahame F, Ahmad A Rabaa'i, Guy G Gable và Wasana Bandara (2013), 'Information quality in social media: a conceptual model', Kỷ yếu hội thảo: Proceedings of the Pacific Asia Conference on Information Systems (PACIS 2013). 8. Haley Russell I và Allan L Baldinger (2000), The ARF copy research validity project, Số 40(6),Trang: 114-135. 9. Hur Kyungsuk, Taegoo Terry Kim, Osman M. Karatepe và Gyehee Lee (2017), An exploration of the factors influencing social media continuance usage and information sharing intentions among Korean travellers, Tạp chí Tourism Management, Số 63,Trang: 170-178. 10. Kim Sung-Eun, Kyung Young Lee, Soo Il Shin và Sung-Byung Yang (2017), Effects of tourism information quality in social media on destination image formation: The case of Sina Weibo, Tạp chí Information & Management, Số 54(6),Trang: 687-702. 11. Kiráľová Alžbeta và Antonín Pavlíčeka (2015), Development of social media strategies in tourism destination, Số 175,Trang: 358-366. 12. Klein Barbara (2002), When do users detect information quality problems on the World Wide Web?,Trang: 152. 724
  11. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020 13. Knight Shirlee-ann và Janice %J Informing Science Burn (2005), Developing a framework for assessing information quality on the World Wide Web, Số 8. 14. Leung Daniel, Rob Law, Hubert Van Hoof và Dimitrios Buhalis (2013), Social media in tourism and hospitality: A literature review, Số 30(1-2),Trang: 3-22. 15. Li Chia-Ying (2013), Persuasive messages on information system acceptance: A theoretical extension of elaboration likelihood model and social influence theory, Số 29(1),Trang: 264-275. 16. Loureiro Sandra Maria Correia (2015), The Role of Website Quality on PAD, Attitude and Intentions to Visit and Recommend Island Destination, Tạp chí International Journal of Tourism Research, Số 17(6),Trang: 545-554. 17. Narangajavana Yeamduan, Luis José Callarisa Fiol, Miguel Ángel Moliner Tena, Rosa María Rodríguez Artola và Javier Sánchez García (2017), The influence of social media in creating expectations. An empirical study for a tourist destination, Tạp chí Annals of Tourism Research, Số 65,Trang: 60-70. 18. Noti Elton (2013), Web 2.0 and the its influence in the tourism sector, Số 9(20). 19. Nguyễn Hữu Khôi và Đỗ Như An (2017), Mở rộng mô hình Elaboration Likehood Model để giải thích hành vi người tiêu dùng trong bối cảnh truyền thông xã hội, Tạp chí Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, Số 20(3),Trang: 34-43. 20. Park Do-Hyung, Jumin Lee và Ingoo Han (2007), The effect of on-line consumer reviews on consumer purchasing intention: The moderating role of involvement, Số 11(4),Trang: 125-148. 21. Sheldon Pauline J (1997), Tourism information technology, Nhà xuất bản Cab International, 22. Shih Hung-Pin (2004), Extended technology acceptance model of Internet utilization behavior, Số 41(6),Trang: 719-729. 23. Strong Diane M, Yang W Lee và Richard Y Wang (1997), Data quality in context, Số 40(5),Trang: 103- 110. 24. Stvilia Besiki, Les Gasser, Michael B Twidale và Linda C Smith (2007), A framework for information quality assessment, Số 58(12),Trang: 1720-1733. 25. Tan Wee-Kheng và Tong-He Chen (2012), The usage of online tourist information sources in tourist information search: an exploratory study, Số 32(3),Trang: 451-476. 26. Thevenot Guillaume (2007), Blogging as a social media, Số 7(3-4),Trang: 287-289. 27. https://vtv.vn/kinh-te/2017-nam-but-pha-cua-nganh-du-lich-viet-nam-20171231142548451.htm 28. Tổng cục Thống kê (2019), Thông cáo báo chí về tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2019, Hà Nội. 29. Việt Cường và Trung Chí (2017), 2017 - Năm bứt phá của ngành du lịch Việt Nam, 2020], từ liên kết: 30. Wang Richard Y và Diane M Strong (1996), Beyond accuracy: What data quality means to data consumers, Số 12(4),Trang: 5-33. 31. Xiang Zheng và Ulrike Gretzel (2010), Role of social media in online travel information search, Số 31(2),Trang: 179-188. 32. Xu Xu và Stephen Pratt (2018), Social media influencers as endorsers to promote travel destinations: an application of self-congruence theory to the Chinese Generation Y, Tạp chí Journal of Travel & Tourism Marketing, Số 35(7),Trang: 958-972. 33. Zhang Kem ZK, Matthew KO Lee và Sesia J Zhao (2010), 'Understanding the Informational Social Influence of Online Review Platforms', Kỷ yếu hội thảo: ICIS, Trang 1-17. 725
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
25=>1