ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ THỦY

ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO CÔNG GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC

GIỮ GÌN TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI Ở VÙNG GIÁO

NGHỆ AN HIỆN NAY- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Người hướng dẫn: TS. Hoàng Xuân Lương

HÀ NỘI - 2007

MỤC LỤC Mở đầu ............................................................................................................. 4 1

Chương 1. Đạo Công giáo và tình hình trật tự, an toàn xã hội ở vùng giáo

Nghệ An............................................................................................... 9

1.1.Quá trình du nhập và phát triển Đạo công giáo ở Nghệ An ........................... 9

1.1.1. Khái niệm Đạo công giáo ...................................................................... 9

1.1.2. Những giai đoạn phát triển chủ yếu ..................................................... 13

1.2.Thực trạng tình hình TT, ATXH ở các vùng giáo Nghệ An ........................ 20

1.2.1.Thực trạng chấp hành pháp luật ............................................................ 20

1.2.2.Về tệ nạn xã hội .................................................................................... 26

1.2.3.Về đoàn kết cộng đồng ......................................................................... 29

Chương 2. Ảnh hưởng của đạo công giáo đối với việc giữ gìn trật tự, an

toàn xã hội ở vùng giáo Nghệ An hiện nay ...................................... 35

2.1. Những ảnh hưởng tích cực và mặt hạn chế của đạo Công giáo đối với việc

giữ gìn TT, ATXH ở vùng giáo 36

2.1.1.Về mặt niềm tin .................................................................................. 36

2.1.2.Về mặt giáo lý .................................................................................... 40

2.1.3. Về mặt tổ chức giáo hội ..................................................................... 45

2.1.4.Về truyền thống giáo dục trong gia đình ............................................. 50

2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với việc giữ gìn TT, ATXH ................................ 56

2.2.1.Kết hợp niềm tin tôn giáo với niềm tin xã hội tiến bộ ........................... 56

2.2.2. Kết hợp gíao lý với luật pháp ............................................................... 60

2.2.3. Kết hợp sống đẹp đạo, tốt đời .............................................................. 63

2.2.4. Kết hợp tốt vấn đề xưng tội với khắc phục các căn bệnh xã hội ........... 68

Chương 3. Một số giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực và khắc phục mặt

hạn chế của đạo công giáo đối với việc giữ gìn trật tự, an toàn xã

hội ở vùng giáo nghệ an hiện nay ..................................................... 72

3.1. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục đường lối của Đảng, chính sách và pháp

luật của Nhà nước, nâng cao về mặt nhận thức ................................... 72

1

3.1.1. Đối với tầng lớp chức sắc, chức việc .................................................. 72

3.1.2. Đối với quần chúng giáo dân .............................................................. 74

3.2. Nghiên cứu vận dụng giáo lý, giáo luật đạo Công giáo vào công tác giữ gìn

TT, ATXH .......................................................................................... 78

3.3. Củng cố bộ máy cán bộ làm công tác tôn giáo, duy trì bảo vệ TT, ATXH

vùng giáo, chống địch lợi dụng đạo Công giáo ................................... 80

3.3.1. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần đấu tranh chống

hai xu hướng tả khuynh hoặc hữu khuynh .......................................... 82

3.3.2. Củng cố hoàn thiện bộ máy cán bộ làm công tác tôn giáo từ tỉnh xuống

cơ sở ................................................................................................... 85

3.4. Đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội ở vùng giáo, nâng cao đời sống cho

đồng bào có đạo.................................................................................. 86

3.4.1. Về kinh tế ........................................................................................... 87

3.4.2. Về văn hoá - xã hội ............................................................................. 88

Kết luận ........................................................................................................... 92

Danh mục tài liệu tham khảo ......................................................................... 98

2

Phụ lục ............................................................................................................ 99

CÁC CHỮ VIẾT TẮT ĐƯỢC DÙNG TRONG LUẬN VĂN

CNXH: Chủ nghĩa xã hội

UBĐKCG Uỷ ban đoàn kết Công giáo

UBMT: Uỷ ban mặt trận

UBND: Uỷ ban nhân dân

TT, ATXH: Trật tự, an toàn xã hội

3

XHCN: Xã hội chủ nghĩa

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Với tư cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội, tôn giáo có

tác động mạnh mẽ đến tồn tại xã hội. Mặc dù phản ánh hư ảo đời sống xã hội,

nhưng với sức mạnh của đức tin, tôn giáo có vai trò đặc biệt trong việc liên kết,

tập hợp cộng đồng. Trong một chừng mực nhất định, tôn giáo như là một trong

những nhân tố góp phần ổn định trật tự xã hội đang tồn tại, dựa trên các hệ

thống giá trị và chuẩn mực chung mà nó hình thành.

Nghệ An là một tỉnh đa tôn giáo (hiện nay ở Nghệ An có ba tôn giáo

chính đó là Đạo công giáo, Tin lành và Phật giáo), hơn bao giờ hết, Đảng bộ,

Chính quyền tỉnh Nghệ An cần nhận thức, đánh giá đúng vai trò và ảnh hưởng

của các tôn giáo đối với trật tự xã hội, đặc biệt là ảnh hưởng của đạo Công giáo -

tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất trên địa bàn tỉnh Nghệ An hiện nay.

Đến nay, Nghệ An được coi là trung tâm vùng giáo Bắc miền Trung, toàn

tỉnh có 232.228 tín đồ, chiếm xấp xỉ 8% dân số. Đồng bào theo Đạo công giáo

sinh sống tại 184 xã, phường, thị trấn với trên 839 xóm; trong đó có 185 xóm

giáo toàn tòng. Sự du nhập của đạo Công giáo vào Nghệ An đã đem lại cho một

bộ phận dân chúng một niềm tin tôn giáo mới. Đó là tôn giáo có một bề dày lịch

sử với nền thần học cao siêu, những giáo lý chặt chẽ và nhất là một hệ thống đạo

đức giàu tính nhân văn, rất gần gũi với đạo lý đời thường cũng như có những

quan điểm chung với hệ thống đạo đức luân lý của các tôn giáo đang hiện diện ở

Việt Nam. Vì vậy, đánh giá về tác động của tôn giáo này đối với đời sống cộng

đồng xã hội chúng ta phải đứng trên lập trường CNDVBC, phải thấy được tác

động có tính hai mặt của nó; nghĩa là bên cạnh việc thừa nhận những ảnh hưởng

tích cực của đạo Công giáo, chúng ta cũng không phủ nhận, lảng tránh những

ảnh hưởng tiêu cực, hạn chế của tôn giáo này. Trong khuôn khổ của một luận

văn thạc sỹ, tác giả chỉ đề cập đến một khía cạnh của sự ảnh hưởng, đó là ảnh

hưởng của đạo Công giáo đối với việc giữ gìn TT, ATXH ở vùng giáo Nghệ An

4

hiện nay. Nhìn từ góc độ triết học thì đây chính là mối quan hệ biện chứng giữa

đạo Công giáo - một hình thái ý thức xã hội, đối với TT, ATXH - một lĩnh vực

thuộc tồn tại xã hội.

Nhìn chung, ở các vùng giáo tình hình TT, ATXH có phần ổn định hơn

so với các địa bàn khác trong toàn tỉnh, nhưng bên cạnh đó có một số phần tử

xấu đã và đang lợi dụng tôn giáo để thực hiện những hành vi gây rối, vi phạm

chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đi ngược lại những giá trị đạo

đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc nói chung, của giáo lý đạo Công giáo nói

riêng, nổi lên hàng đầu hiện nay là vấn đề tranh chấp đất đai.

Đặc biệt trong hoàn cảnh phức tạp như hiện nay, khi mà các thế lực phản

động trong và ngoài nước đã, đang và sẽ lợi dụng vấn đề tôn giáo làm công cụ

cho chúng trong âm mưu "Diễn biến hoà bình" thì việc nghiên cứu ảnh hưởng

của đạo Công giáo đối với việc giữ gìn TT, ATXH vùng giáo không chỉ là

nhiệm vụ của riêng bất cứ một địa phương nào mà còn là nhiệm vụ chung của

toàn Đảng, toàn dân, góp thêm cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc hoàn thiện

chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, thực hiện một cách sáng tạo chính

sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của từng

địa phương.

Với ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc như vậy, nên Tôi quyết định

chọn đề tài "Ảnh hưởng của đạo công giáo đối với việc giữ gìn Trật tự an toàn

xã hội ở vùng giáo Nghệ An hiện nay - Thực trạng và giải pháp" làm luận văn

thạc sĩ triết học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Từ trước tới nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về tôn giáo nói

chung, đạo Công giáo nói riêng dưới các gióc độ và theo nhiều quan điểm tiếp

cận khác nhau. Các tác giả đã đi sâu phân tích ảnh hưởng của tôn giáo này đến

các mặt trong đời sống xã hội, trong đó có liên quan đến lĩnh vực TT, ATXH.

Tác giả luận văn xin tạm chia các công trình đó thành các nhóm sau đây:

- Nhóm các công trình nghiên cứu về vai trò của tôn giáo nói chung và ở

Việt Nam nói riêng, như: “Về tín ngưỡng và tôn giáo hiện nay” do GS Đặng

5

Nghiêm Vạn chủ biên; “Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con

người Việt Nam hiện nay” của GS Nguyễn Tài Thư; “Mười tôn giáo lớn trên thế

giới” do Hoàng Tâm Xuyên chủ biên; “Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo

ở Việt Nam” của Nxb Chính trị quốc gia; “Một số hiểu biết về tôn giáo. Tôn

giáo ở Việt Nam” của Nxb Quân đội nhân dân; “Mối quan hệ Thời đại - Dân tộc

- Tôn giáo” của PGS Bùi Thị Kim Quỳ; “Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn

giáo ở Việt Nam” của Viện nghiên cứu tôn giáo; “Vấn đề tôn giáo và chính sách

tôn giáo của Đảng cộng sản Việt Nam”; “Tôn giáo và đời sống hiện đại” của

Viện Thông tin Khoa học xã hội.

- Nhóm các công trình nghiên cứu vai trò của đạo Công giáo với tính chất

hai mặt vừa tích cực, vừa hạn chế, như: “Tìm hiểu nét đẹp văn hoá Thiên Chúa

giáo” của tác giả Hà Huy Tú; “Nghi lễ và lối sống công giáo trong văn hoá Việt

Nam” của Nxb Khoa học xã hội; “Sự du nhập của đạo Thiên Chúa vào Việt

Nam. Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX” của PGS Nguyễn Văn Kiệm; “Tìm hiểu

đạo đức trong kinh thánh” của tác giả Trương Như Vương; “Tên gọi đạo Thiên

Chúa ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Nghị đăng trên tạp chí Nghiên cứu Tôn

giáo (số 6, năm 2001).

- Nhóm các công trình, luận văn, bài viết nghiên cứu vai trò của đạo Công

giáo đối với TT, ATXH như: “Tổng kết lịch sử 60 năm đấu tranh chống địch lợi

dụng đạo Thiên Chúa ở Nghệ An (1954-2005)” của Công an tỉnh Nghệ An;

“Công tác an ninh trong quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt

Nam” của Nxb Công an nhân dân; “Công tác bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự

an toàn xã hội ở Nghệ An trong tiến trình đổi mới - Bài học và giải pháp” của

đồng tác giả Trần Phồn - Phạm Xuân Cần; “Điều tra các vụ án xâm phạm An

ninh quốc gia trong tình hình hiện nay ở Việt nam” của Nxb Công an nhân dân;

“Ảnh hưởng của giáo quyền đạo Công giáo đối với đời sống của cộng đồng giáo

dân ở tỉnh Nghệ An” - luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Văn Long, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; “Những giải pháp nâng cao vai trò, hiệu quả

lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức cơ sở Đảng xã, phường có đồng bào theo đạo

Công giáo ở Nghệ An” của Sở Khoa học công nghệ tỉnh Nghệ An; “Về tôn giáo

và đấu tranh chống hoạt động lợi dụng tôn giáo” của tác giả Trần Phồn - Công

6

an tỉnh Nghệ An;…

Như vậy, việc nghiên cứu đạo Công giáo ở Việt Nam nói chung, Nghệ An

nói riêng đã được đề cập tới trong nhiều tác phẩm. Các công trình này đã nghiên

cứu một cách hệ thống đạo Công giáo ở Việt Nam, ở Nghệ An và một số địa

phương; đề cập đến một số khía cạnh có liên quan đến TT, ATXH như niềm tin,

đạo đức, giáo dục gia đình, âm mưu của bọn phản động lợi dụng đạo Công

giáo… nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách trực tiếp, toàn

diện và có hệ thống việc nghiên cứu ảnh hưởng của đạo Công giáo đến TT,

ATXH. Trong luận văn này dựa trên cơ sở nguồn tài liệu cơ bản là qua điều tra

thực tế tại các địa bàn xã, phường, thị trấn ở tỉnh Nghệ An có đông đồng bào

theo đạo công giáo, tác giả mong muốn chỉ ra được những ảnh hưởng của đạo

Công giáo đối với lĩnh vực TT, ATXH ở vùng giáo để thông qua đó đề ra được

những giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực và khắc phục những hạn chế của sự

ảnh hưởng đó. Ngoài ra, đề tài cũng chọn lọc, sử dụng nhiều tài liệu báo cáo,

tổng kết, sơ kết ...về tình hình tôn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo; về tình

hình TT, ATXH ở vùng giáo của Ban Tôn giáo, Ban dân vận, Uỷ ban nhân dân

tỉnh Nghệ An, phòng PA38 công an tỉnh Nghệ An và các ngành có liên quan.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Đạo công giáo ở Nghệ An (đi sâu vào nghiên cứu

ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với việc giữ gìn TT, ATXH).

- Phạm vi nghiên cứu: Chỉ nghiên cứu ảnh hưởng của đạo Công giáo đối

với việc giữ gìn TT, ATXH ở Nghệ An trong những năm đổi mới, không nghiên

cứu các lĩnh vực khác và ở các địa phương khác.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích: Làm rõ ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với việc giữ gìn

TT, ATXH ở Nghệ An, từ đó góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ở

vùng có đông đồng bào theo đạo Công giáo vì mục tiêu chung "Dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".

- Nhiệm vụ :

+ Làm rõ quá trình du nhập và phát triển đạo Công giáo ở Nghệ An và vai

7

trò của nó đối với việc giữ gìn TT, ATXH ở Nghệ An.

+ Phân tích thực trạng và lý giải một số vấn đề đặt ra đối với đạo Công

giáo ở Nghệ An trong việc phát huy vai trò giữ gìn TT, ATXH.

+ Đưa ra một số giải pháp để phát huy vai trò tích cực và khắc phục mặt

hạn chế của đạo Công giáo trong việc giữ gìn TT, ATXH ở vùng giáo Nghệ An

hiện nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan

điểm, đường lối của Đảng, chính sách Nhà nước ta về tôn giáo cũng như một số

công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về tôn giáo và công tác tôn giáo.

- Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện

chứng, duy vật lịch sử; phương pháp lịch sử và lôgíc, phương pháp phân tích và

tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra, khảo sát thực tế...

6. Đóng góp mới của đề tài

Nghiên cứu, phân tích ảnh hưởng đạo Công giáo ở Nghệ An dưới góc độ

để vận dụng, xây dựng giữ gìn TT, ATXH vùng giáo vững mạnh là vấn đề cấp

thiết có ảnh hưởng tích cực đối với công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta nói

chung và ở tỉnh Nghệ An nói riêng. Từ đó đặt ra những vấn đề cần phải giải

quyết đối với tình hình TT, ATXH vùng giáo.

Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của các cấp, các

ngành có liên quan.

Ngoài ra đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,

giảng dạy và học tập lý luận về tôn giáo trong các trường Đại học, Cao đẳng.

7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo đề tài

gồm có 3 chương, 9 tiết.

Chương 1: Đạo công giáo và tình hình trật tự, an toàn xã hội ở vùng giáo

Nghệ An.

Chương 2: Ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với việc giữ gìn trật tự, an

8

toàn xã hội ở vùng giáo Nghệ An hiện nay.

Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực và khắc phục

mặt hạn chế của đạo Công giáo đối với việc giữ gìn trật tự, an toàn xã hội ở

vùng giáo Nghệ An hiện nay.

Chương 1

ĐẠO CÔNG GIÁO VÀ TÌNH HÌNH TRẬT TỰ,

AN TOÀN XÃ HỘI Ở VÙNG GIÁO NGHỆ AN

1.1. Quá trình du nhập và phát triển đạo Công giáo ở Nghệ An

1.1.1. Khái niệm Đạo công giáo

Trong lịch sử, Thiên Chúa giáo là tôn giáo độc thần của những tín đồ tin

theo và thờ phượng Chúa trời. Với họ, đó là một lực lượng siêu nhiên, toàn

năng, tạo dựng, quản trị và quan phòng, nắm quyền hành điều khiển mọi trật tự

trong vũ trụ, trần thế. Hình thức thờ Chúa trời đầu tiên trong lịch sử loài người

là người Do Thái. Tôn giáo này vốn phát sinh từ đa thần giáo ngẫu tượng của

các bộ lạc Do Thái thời cổ. Từ thế kỷ thứ VII trước công nguyên trở thành tôn

giáo độc thần là thờ Thiên Chúa. Nguồn gốc giáo lý của đạo Do Thái là pho

thánh kinh cựu ước. Họ tin rằng Thiên Chúa là đấng duy nhất, siêu việt và vô

hình. Còn Đấng cứu thế (Kinh thánh Tân ước gọi là đức Giêsu Kitô) thì chưa

đến nhưng sẽ đến để cứu rỗi nhân loại.

Một tôn giáo khác cũng thờ phượng Chúa trời tuy giáo lý khác hơn, đó là

Hồi giáo còn gọi là đạo Islam hay là đạo Mahômét đấng thiên sứ, vị tổ phụ và là

nhà tiên tri của Hồi giáo, người được ơn Thiên chúa mạc khải và đã viết kinh

Coran với nội dung cũng dựa trên cơ sở thánh kinh cựu ước. Hồi giáo ra đời vào

9

thế kỷ thứ VII với giáo lý cho rằng Giêsu Kitô (ngôi hai trong Tân ước) không

được gọi là con Thiên Chúa, không chấp nhận sự kiện Giêsu chết và sống lại.

Thượng đế duy nhất của Hồi giáo là đấng Ala.

Một tôn giáo khác nữa cũng thờ phượng Thiên Chúa là đạo Kitô hay còn

gọi là đạo Cơ đốc. Ra đời từ những năm đầu công nguyên với truyền thuyết về

Giêsu Kitô là ngôi hai của Thiên Chúa được đầu thai làm người qua bà Maria.

Giêsu được coi là đấng cứu thế cho loài người, từ việc bị đóng đinh trên cây

thập giá, chết, táng xác, rồi sống lại sau 3 ngày. Vì vậy mà cùng với lễ giáng

sinh (nôen), lễ phục sinh được tín đồ Kitô giáo coi là lễ trọng nhất của Giáo hội.

Các nhà thần học cho rằng nếu không có sự kiện phục sinh tức Chúa Giêsu

không sống lại thì đức tin là vô ích.

Trong quá trình tồn tại và phát triển, đạo Kitô đã bị phân hoá do những

bất đồng về giáo lý, giáo luật, nghi lễ phụng vụ và những mâu thuẫn trong nội

bộ giáo hội. Sự phân hoá đó đã sinh ra những tôn giáo mới, trong đó có Công

giáo và được biểu đạt qua sơ đồ sau:

Đạo Thiên Chúa

Đạo Do Thái Đạo Kitô Đạo Hồi

Công giáo Chính thống giáo Tin lành Anh giáo

Công giáo là một tôn giáo thuộc Kitô giáo - tôn giáo thờ Đức Chúa Giêsu

Kitô. Đạo xuất phát từ Đức Giêsu, người Nazareth, miền bắc xứ Palétxtin, vùng

Cận Đông. Đạo công giáo được hình thành qua hai sự biến động:

- Thứ nhất, sự ra đời của Kitô giáo gắn với cuộc đấu tranh chống đế quốc

La Mã thế kỷ thứ II TCN. Sự ra đời của Kitô giáo là sự kế thừa cải cách Do thái

10

giáo kết hợp với các tư tưởng triết học duy tâm, thần học Hy Lạp, La Mã cổ đại.

Đạo Kitô ra đời với hai trung tâm lớn là Rôme và Côngstantinôv cùng các

trung tâm khác như Antốt Gerusalem... Mâu thuẫn giữa hai trung tâm Rôme và

Côngstantinôv diễn ra trong quá trình đấu tranh giành ngôi vị độc tôn, chi phối

toàn bộ Giáo hội Kitô giáo. Mâu thuẫn dẫn đến năm 1054 (thế kỷ XI), trong

Kitô giáo diễn ra cuộc phân liệt thứ nhất và dẫn đến sự hình thành của Công

giáo - thế lực lớn nhất - thuộc phần tây đế chế La Mã và Chính thống giáo ở

Phương Đông.

Trong đó Công giáo thừa nhận quyền tối thượng của Giáo hoàng, giữ mối

liên hệ hiệp thông với toà thánh Vatican trong các vấn đề về giáo lý, giáo luật,

nghi lễ phụng tự và nền tảng của đức tin là bộ kinh thánh (Cựu ước và Tân ước).

Công giáo là giáo hội Tây phương hay thường gọi là giáo hội La Mã; còn Chính

thống giáo hay còn gọi là giáo hội Phương Đông lại không thừa nhận quyền tối

thượng của Giáo hoàng; dựa vào phúc âm Gioan họ chỉ tin đức chúa Thánh thần

(ngôi ba) bởi Chúa Cha (ngôi nhất mà ra chứ không phải từ cả ngôi hai (Giê su),

không công nhận ơn vô ngộ của Giáo hoàng mà chỉ cộng đồng chung mới có.

Tuy vẫn kính Đức mẹ nhưng không tin Maria là vô nhiễm nguyên tội.

- Thứ hai, đến thế kỷ XVI, giai cấp Tư sản ở Châu Âu xuất hiện đã đặt ra

yêu cầu cải cách Công giáo. Với những cải cách tôn giáo của Máctinluthơ (1483

- 1546) và GiăngCanVanh (1509-1546) đã dẫn đến sự xuất hiện của Giáo hội cải

cách gọi là Tin lành, đây là cuộc phân liệt thứ hai. Trong đó, giữa giáo lý Tin

lành và Công giáo có những điểm khác biệt cơ bản như: Tin lành không chấp

nhận quyền tối thượng của Giáo hoàng, không công nhận các bí tích giải tội và

thánh thể. Niềm tin duy nhất là kinh thánh. Ngày chủ nhật các tín đồ đến nhà thờ

nghe mục sư giảng kinh thánh rồi cầu nguyện, ăn năn thú tội trực tiếp với Chúa.

Cùng với cuộc cải cách dẫn đến sự ra đời của đạo Tin lành, ở nước Anh

vào thời kỳ này (1533) cũng nảy sinh mâu thuẫn giữa Vua Henry VIII với Giáo

hội dẫn đến sự ra đời của tôn giáo mới là Anh giáo. Tôn giáo này không chịu sự

chỉ đạo của Roma. Về mặt giáo lý, Anh giáo gần giống như Công giáo trừ việc

chối bỏ quyền tối thượng của Giáo hoàng và với phép truyền chức thì linh mục

11

hay giám mục không bị buộc phải sống độc thân.

Như vậy mỗi tôn giáo có một đặc điểm riêng biệt và chính tên gọi chỉ ra

đặc điểm riêng biệt đó. Tin lành giáo chỉ đặc điểm là tôn giáo này coi trọng

thánh kinh (theo họ, thánh kinh Tân ước chính là tin tốt lành nên gọi là Tin lành

giáo); Anh giáo chỉ đặc điểm ở tính chất địa phương (chỉ có tại nước Anh);

Chính thống giáo chỉ đặc điểm là cố lưu giữ những tính chất nguyên sơ ban đầu;

Công giáo chỉ đặc điểm là trung thành với giáo hội Rô ma với tính chất phổ quát

của nó là duy nhất, thánh thiện, công giáo, tông truyền. Theo ý nghĩa đó, Công

giáo - tên gọi được dịch từ chữ la tinh: Catholica, xuất hiện lần đầu tiên trong

một bức thư của Thánh Ignatiô tử đạo năm 107 gửi cho Giáo hội tại Smyrne:

"Ubi christus, ibi Catholica Ecclesia"(ở đâu có Đức Kitô, ở đó có hội thánh

Công giáo). Công giáo - như vậy là một thuộc tính của đạo xuất phát từ Đức

Kitô. Định nghĩa đầu tiên của thuộc tính "Công giáo" đã do Thánh Cyrillô thành

Giêrusalem đưa ra vào cuối thế kỷ II: "Giáo hội được gọi là Công giáo vì Giáo

hội lan tràn trên khắp thế giới từ đầu này đến đầu kia của trái đất, vì Giáo hội

giảng dạy một cách phổ biến, không loại trừ tất cả tín điều con người cần phải

biết và cũng vì Giáo hội muốn cho loài người, vua quan cũng như thường dân,

người thông thái cũng như kẻ dốt nát suy phục sự tôn sùng đích thực" [43,

tr.34]. Ở cách hiểu này, Công giáo được coi là đạo chung cho mọi người hay

quốc giáo.

Dù có những khác biệt nhưng điểm chung cơ bản nhất là cả bốn tôn giáo

này đều cho rằng Thiên Chúa là nhân vật tối cao của họ.

Đạo Thiên Chúa du nhập vào nước ta gồm có Kitô giáo và Hồi giáo (một

ít ở Miền Nam, cho đến nay tôn giáo này vẫn có mặt ở một số tỉnh Miền Nam

nước ta), trong Kitô giáo chỉ có Tin lành và Công giáo. Tuy vậy, tôn giáo này

khi được truyền vào Việt Nam (1553) đã được gọi bằng nhiều tên khác nhau,

như: Đạo Giatô, đạo Cơ đốc, Công giáo, Kitô giáo, Thiên Chúa giáo... Mỗi tên

gọi được giải thích khác nhau và nhấn mạnh vào một nội dung hoặc một khía

cạnh riêng của tôn giáo này, ví dụ tên gọi đạo Gia tô, Thiên Chúa giáo nhấn

mạnh vào đấng được gọi là Thiên Chúa, vị Chúa độc nhất, Đấng tạo hoá được

thờ kính trong tôn giáo này; Kitô giáo nhấn mạnh vào Đức Kitô, Đấng cứu thế;

12

Còn Công giáo có thể hiểu theo cả hai nghĩa này vì tín lý Công giáo là thờ Thiên

Chúa ba ngôi: Thiên Chúa - Chúa cha, Đức Giêsu Kitô - Chúa con và Chúa

thánh thần.

Thật ra, tại Việt Nam, các tên gọi này nhất là Thiên Chúa giáo, Kitô giáo,

Công giáo thường được dùng một cách lẫn lộn, ít có sự phân biệt rõ ràng và

chưa có một văn bản chính thức nào khẳng định nên gọi như thế nào cho phù

hợp. Tuy nhiên theo những căn cứ sau đây chúng ta có thể đi đến khẳng định

nên gọi như thế nào là phù hợp nhất:

Thứ nhất: Với tên gọi là Thiên Chúa giáo, cách gọi này có ý nghĩa chỉ ra

nhân vật tối cao được tôn thờ của Giáo hội là Thiên Chúa. Tuy nhiên trong lịch

sử có 3 tôn giáo khác nhau cùng thờ Chúa trời là Do thái giáo, Hồi giáo và Kitô

giáo. Do đó nếu gọi Thiên Chúa giáo thì có thể đúng với các tôn giáo nói trên và

chưa có sự phân biệt để chỉ ra đặc điểm riêng vốn có của mỗi tôn giáo này.

Thứ hai: Với tên gọi là Kitô giáo, tên gọi này chỉ ra nhân vật được thờ

phụng là Đức Kitô hay còn gọi là Giêsu, theo kinh Tân ước đó chính là nhân vật

đã sáng lập ra tôn giáo này. Tuy nhiên trong lịch sử phát triển do có sự xung đột,

mâu thuẫn trong nội bộ Giáo hội nên từ Kitô giáo đã có sự phân hoá, tách thành

4 tôn giáo khác nhau là Công giáo, Chính thống giáo, Tin lành và Anh giáo. Tín

đồ của cả 4 tôn giáo này đều có thể gọi là Kitô hữu. Vì vậy nếu gọi là Kitô giáo

thì chưa chỉ ra được đặc điểm riêng của cả 4 tôn giáo nói trên nên rất dễ nhầm

lẫn như cách gọi Thiên Chúa giáo.

Thứ ba: Với tên gọi là Công giáo được Giáo hội tôn giáo này giải thích ý

nghĩa là chỉ có tôn giáo của họ mới tính cách phổ quát cao nhất. Ba tôn giáo còn

lại (Chính thống giáo, Tin lành và Anh giáo) chẳng qua là những dị biệt, do sự

hiểu lầm đáng tiếc mà có. Và tôn giáo của họ mới có tính chất đại diện. Vì vậy

tên gọi này nó có tính phổ biến, được Giáo hội Vatican và Giáo hội các quốc

gia, trong đó có Việt Nam đồng tình thống nhất một tên gọi duy nhất là Công

giáo.

Thứ tư: Riêng ở Việt Nam, dù Công giáo không phải là tôn giáo chung

cho mọi người hay là quốc giáo nhưng đây lại là tôn giáo có số lượng tín đồ

đông, có khắp các miền đất nước. Và theo ý kiến của phần lớn các tín đồ của tôn

13

giáo này ở nước ta cũng muốn được gọi tên của tôn giáo mình là Công giáo.

Cách gọi này đã quy tụ được sự đồng thuận của đồng bào Công giáo Việt Nam

trong chiến lược đại đoàn kết toàn dân.

Từ những cách hiểu trên, đối với đạo Thiên Chúa ở Việt Nam (mà lâu nay

ta quen gọi) - một tôn giáo chịu sự chỉ đạo của Hội đồng giám mục Việt Nam và

toà thánh Vatican ở Rôma cần được gọi đúng tên riêng của nó là Công giáo.

Trong luận văn này, tác giả cũng thống nhất cách gọi là đạo Công giáo.

1.1.2. Những giai đoạn phát triển chủ yếu

Ý định "Phúc âm hoá" các dân tộc, "Mở rộng nước chúa" trên trái đất của

Giáo hội Công giáo đã được thực hiện mạnh mẽ từ sau những phát kiến địa lý vĩ

đại thế kỷ XV. Sự gặp gỡ của hai ý định lớn: ý định của Giáo hội Công giáo

đem sự cứu rỗi của Chúa Kitô đến với mọi miền và ý định của giai cấp tư sản

mở rộng thị trường đã trở thành động lực thúc đẩy việc truyền bá đạo Công giáo

ra nhiều khu vực, trong đó có Đông Nam Á, Đông Dương và Việt Nam.

Từ thế kỷ XV - XVI đã lác đác có giáo sĩ phương tây đến nước ta. Sang

thế kỷ XVII, việc truyền bá đạo Công giáo vào Việt nam mới thực sự có kết quả

và có hệ thống.

Riêng với Nghệ An dưới thời phong kiến là mảnh đất nghèo khổ nhưng

nhân dân ở đây có truyền thống chống ngoại xâm rất oai hùng - Thực dân Pháp

biết rõ điều đó nên trong từng bước xâm lấn mảnh đất này, chúng đã triệt để lợi

dụng việc truyền giáo để từng bước thực hiện âm mưu xâm lược và nô dịch. Quá

trình du nhập và phát triển của tôn giáo này tại Nghệ An đã phản ánh đúng thực

trạng tình hình đó.

Nguyên nhân chủ yếu khiến cho đạo Công giáo phát triển ở Nghệ An nói

riêng và cả nước nói chung là nguyên nhân xã hội lúc bấy giờ. Một thời gian dài

đất nước không có chính quyền thống nhất. Các tập đoàn phong kiến không chú

ý đến phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân mà chỉ lo "xưng bá, xưng

hùng", Trịnh - Nguyễn phân tranh. Nhà Tây Sơn thống nhất quốc gia trong vinh

quang chống ngoại xâm nhưng chưa đủ thời gian để thực thi quốc sách, vả lại

còn lo đối phó với thù trong giặc ngoài. Triều Nguyễn không những không giải

quyết được những vấn đề lớn của xã hội mà còn đưa đất nước vào con đường bế

14

tắc, trì trệ, bảo thủ về mọi mặt. Hàng thế kỷ, người Việt Nam không còn cơ sở

để đặt niềm tin vào bộ máy cai trị của Nhà nước phong kiến. Tâm trạng hoang

mang, bế tắc không có đường ra là sự thực khá phổ biến trong nhiều tầng lớp

nhân dân. Tôn giáo bản địa (thờ cúng tổ tiên) không có hệ thống lý luận hoàn

chỉnh. Phật giáo và Nho giáo cũng ở vào tình trạng không làm nổi vai trò hướng

đạo cho số đông quần chúng lao khổ... Vì vậy, trong sự khủng khoảng về tư

tưởng đó thì những tác động của buổi đầu tiếp xúc với văn hoá văn minh

Phương Tây tất nhiên sẽ được đón nhận dưới nhiều hình thức và nội dung khác

nhau là điều dễ hiểu.

Ngoài ra, lợi dụng tâm lý phiếm thần và niềm tin tôn giáo của người nông

dân không có tính bền vững, hành động tôn giáo của họ mang tính thực dụng;

lợi dụng lòng khao khát đượcgiải phóng, nhu cầu đòi hỏi cấp bách để duy trì

cuộc sống "an bần lạc đạo" ở mức tối thiểu; sự bất mãn, phẫn uất vì chế độ hà

khắc của vương triều nhà Nguyễn... nên thực dân Pháp mà trực tiếp là bọn gián

điệp thầy tu trong Hội thừa sai Pari làm nhiệm vụ truyền giáo ở các nước Đông

Dương đã đẩy mạnh tuyên truyền lừa bịp họ bằng các đạo lý "Chúa cứu thế", "tử

vì đạo"... để mê hoặc nhân dân mất cảnh giác, buông lỏng ý thức dân tộc.

Trong bối cảnh chung đó, ở Nghệ An đạo Công giáo cũng bắt đầu được

du nhập và phát triển từ những năm 1629 - 1630. Cho đến nay, chúng ta có thể

tạm chia thành các giai đoạn sau:

- Giai đoạn từ 1630 đến 1846 (có giáo phận Vinh)

- Giai đoạn từ 1846 đến tháng 8/1945 (cách mạng tháng 8 thành công)

- Từ tháng 8/1945 đến nay.

1.1.2.1. Giai đoạn từ 1630 đến 1846

So với một số tỉnh Miền Bắc thì thời gian có người phương tây đến truyền

đạo ở Nghệ An chậm hơn. Theo An bum của Giáo phận Vinh do Toà Giám mục

Xã Đoài phát hành năm 1996 thì từ 1630, hai linh mục Alêxandrodes (Đắc Lộ)

và Mamarquez bị trục xuất khỏi Đàng ngoài, trên đường bị áp giải vào Đàng

trong để về Ma Cao, hai linh mục đã ghé vào cửa biển Nghệ -Tĩnh - Bình giảng

đạo. Trong vòng 6 tháng họ đã làm lễ rửa tội cho 600 người ở xứ Nghệ. Thủ

15

đoạn truyền đạo vẫn theo phương thức cổ truyền là thu phục nhân tâm bằng các

hoạt động như: chữa bệnh, cứu trợ từ thiện, tổ chức học chữ, học nghề... dần

giảng dạy giáo lý và làm phép.

Đến năm 1632, có một số thừa sai Dòng Tên tiếp tục đến Nghệ An để

truyền đạo. Tiêu biểu nhất là linh mục Magorica người Italia. Theo số liệu

không chính thức của một số thừa sai, vào cuối năm 1659, ở Nghệ An đã có tới

120 nhà thờ (trên tổng số 414 nhà thờ toàn Miền Bắc). Cũng năm 1659, hai địa

phận Đàng Trong và Đàng Ngoài được thành lập. Nghệ - Tĩnh - Bình là những

tỉnh cực nam của Đàng Ngoài, thuộc khu vực truyền giáo của các thừa sai người

Pháp. Đến năm 1668, linh mục xứ Nghệ đầu tiên được phong tại Thái Lan là

linh mục Bênêđiô Hiền. Năm 1679, xứ Nghệ đã có một toà giám mục giành cho

Đức giám mục phó để coi sóc giáo dân đặt tại Tràng Đen (Nam Đàn); đến 1792,

toà Phó giám mục được di chuyển xuống Thọ Kỳ (Đức Thọ, Hà Tĩnh) và đến

năm 1842, Đức cha Hậu II (Jean Denis Gauthier) Đức cha phó cuối cùng của

giáo phận Tây đàng ngoài coi sóc phần lãnh thổ này đã quyết định dời Toà giám

mục từ Thọ Kỳ ra làng Đoài (Xã Đoài, Nghi Diên, Nghi Lộc) và ổn định cho

đến ngày nay.

Đánh giá về thực trạng tình hình giáo hội Thiên Chúa giáo ở Nghệ Tĩnh

trong giai đoạn này, năm 1893, Giám mục Liêu (Mgr. retordd) đã viết trong báo

cáo gửi về Rôma rằng: "Tại Hà Tĩnh và Nghệ An có 45.364 bổn đạo, bổn đạo

trong hai tỉnh này là những bổn đạo sốt sắng nhất địa phận" [14, tr.396].

Như vậy, mặc dù về tổ chức cho mãi đến năm 1845 vẫn chưa có giáo

phận Vinh tồn tại độc lập, các hoạt động tôn giáo của các tín đồ Công giáo từ

năm 1679 trở về trước phụ thuộc vào giáo phận Đàng Ngoài, từ 1679 đến 1845

phụ thuộc vào giáo phận Tây Đàng Ngoài, nhưng các hoạt động về tôn giáo đã

diễn ra sôi nổi và liên tục. Về mặt tổ chức, các tổ chức bên dưới như: xứ, họ đã

hình thành một hệ thống cơ sở tương đối bền vững - đây là yếu tố hạt nhân, là cơ

sở hạ tầng đặc biệt quan trọng để Giáo hoàng cho phép thành lập Giáo phận

Vinh sau này.

16

1.1.2.2. Giai đoạn từ 1846 đến 1945

Trong thời gian này, Giáo hội Công giáo tại Nghệ An nói riêng và địa

phận Vinh nói chung đã hoàn chỉnh về tổ chức, phát triển nhanh, mạnh về lực

lượng và thực tế đã trở thành một lực lượng chính trị xã hội quan trọng trong đời

sống chính trị xã hội ở khu vực và địa phương.

Ngày 27/03/1846, Giáo hoàng Grêgôrox đã ban sắc chỉ thành lập giáo

phận Nam Đàng Ngoài (còn gọi là giáo phận Nam, từ năm 1924 gọi là giáo phận

Vĩnh, rồi sau gọi là Giáo phận Vinh cho đến nay) và bổ nhiệm Giám mục Ngô

Gia Hậu làm đại diện tổng toà giáo phận mới. Giám mục phó lúc này là ông

Masson Nghiêm. Cho đến thời điểm này (1848) theo thống kê của giáo phận

Vinh, toàn giáo phậnđã có: 1 giám mục, 1 giám mục phó, 4 linh mục thừa sai

Pháp, 35 linh mục Việt Nam, 75 thầy giảng, 18 giáo xứ, 66.350 giáo dân.

Như vậy, vượt qua bao dâu bể thăng trầm với những biến cố lịch sử chông

gai, mặc dù bị sự đàn áp của triều đình nhà Nguyễn nhưng đạo Công giáo vẫn

không ngừng phát triển về tổ chức và lực lượng.

Đến năm 1892, một sự kiện lịch sử đáng ghi nhận ở Giáo phận Vinh là

Giám mục Lpineau (tên thường gọi là Đức cha Trị) ra thư chung nhận lễ Mẹ lên

trời làm quan thầy Giáo phận và ngày dâng hiến Giáo phận cho Đức mẹ. Vào

thời điểm này, Giáo phận Vinh đã có 1 giám mục, 72 linh mục Việt Nam, 31

linh mục thừa sai, 12 giáo hạt, 51giáo xứ, 51 giáo họ, 300 nhà thờ, 88.227 giáo

dân... Đây là giai đoạn "sự đạo" ở Nghệ An nói riêng, Việt Nam nói chung được

ghi nhận là "khởi sắc nhất". Số linh mục Việt Nam một năm tăng xấp xỉ

1,33%,số giáo dân tăng hơn 1,22%, về tổ chức và cơ sở vật chất được tăng lên

không ngừng, cơ sở in ấn, phát hành các loại kinh bổn dần hoàn thiện...

Sau ngày tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945, ngày 27/8/1945 Đại hội linh

mục giáo phận Vinh đã được tiến hành càng khẳng định rõ hơn sự phát triển lớn

mạnh của giáo phận. Theo báo cáo của đại hội , cho đến thời điểm tiến hành đại

hội thì toàn giáo phận đã có: 178 linh mục Việt Nam, 194 chủng sinh, 200 nữ tu,

185.000 giáo dân... Đại hội đã cử linh mục Trần Hữu Đức làm tổng quản, tạm

quyền thay thế Giám mục Auêlêô Giuerla (tên thường gọi là Đức cha Bắc) lúc

17

này vì lý do sức khoẻ nên không làm việc được.

Như vậy, trong gần 100 năm tính từ ngày thành lập Giáo phận Vinh đến

cách mạng tháng 8 năm 1945, Giáo phận Vinh đã đạt được một số kết quả lớn

như: giành được thế và lực hợp pháp trong các hoạt động xã hội , hoàn chỉnh hệ

thống tổ chức từ Họ, Xứ đến Toà giám mục, phát triển nhanh lực lượng giáo sĩ

và giáo dân.

1.1.2.3. Từ 1945 đến nay

Sau năm 1945, Công giáo địa phận phát triển nhanh, mạnh. Việc chỉ đạo

cũng rất chặt chẽ từ trên xuống dưới qua các hệ thống của tôn giáo. Trong thời

kỳ này, toàn dân ta đang ra sức kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần

thứ hai, đại bộ phận người công giáo Việt Nam đã cảm nhận sâu sắc nỗi nhục

mất nước, tích cực tham gia, đóng góp sức mình vào sự nghiệp chung của Tổ

Quốc. Hàng nghìn thanh niên Công giáo yêu nước đã trực tiếp tham gia chiến

đấu trên tất cả các chiến trường với quyết tâm tất cả cho Tổ quốc quyết sinh.

Ngày 7/10/1945, hơn 30.000 đồng bào giáo dân cùng giáo sỹ đã kéo về sân vận

động Vinh dâng thánh lễ cầu nguyện cho Tổ quốc, nói lên quyết tâm bảo vệ Tổ

quốc bằng bất cứ giá nào. Trong thời gian này chúng ta cần ghi nhận công lao

đóng góp của một bộ phận không nhỏ đồng bào giáo dân và các linh mục tiến

bộ, yêu nước; tiêu biểu như linh mục Nguyễn Văn Tường, Đậu Quang Lĩnh, Lê

Đình Huân, Trần Đức Triều...

Thế nhưng bên cạnh đó vẫn có những thế lực đen tối cố tình khoét sâu

mâu thuẫn giữa vô thần và hữu thần, chia rẽ giáo dân với cách mạng, một số

chức sắc giáo hội đã đi theo đường lối chính trị, không đồng hành với dân tộc,

với nhân dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Thậm chí những

phần tử này còn liên kết với thực dân và các đối tượng ngăn cản, chống phá cách

mạng. Vì vậy sau 1954, Giáo phận Vinh tuy nằm trong vùng tự do nhưng vẫn bị

ảnh hưởng bởi các luận điệu tuyên truyền tâm lý chiến rằng "Việt minh cấm đạo,

cộng sản cấm đạo"... kết quả là có khoảng 61 linh mục, 27 chủng sinh, 52 tiểu

chủng sinh, 43 nữ tu và khoảng 45.000 giáo dân Nghệ An đã di cư vào Nam,

làm cho hoạt động công giáo của địa phận bị xáo trộn và trở nên rất nhạy cảm,

18

phức tạp.

Trong những năm 60-70, tình hình giáo phận Vinh tiếp tục có những thay

đổi, tình trạng thiếu linh mục cai quản các giáo xứ cũng là một trở ngại lớn đối

với việc khôi phục và củng cố giáo xứ, họ đạo. ở những vùng công giáo vốn

trước đây là toàn tòng nhưng về những năm sau đã có một số lượng khá đông

đồng bào ngoài công giáo ở các vùng xung quanh tới sinh sống. Trong những

thập kỷ gần đây, toà giám mục Xã Đoài, dưới sự chỉ đạo của toà thánh Vatican

và sự tác động của các thế lực bên ngoài nên đã có một số chuyển hướng hoạt

động: từ chỗ cực đoan không tuân thủ, thậm chí chống lại các cấp chính quyền

địa phương trước kia thì nay chuyển dần sang ôn hoà, tận dụng chủ trương dân

chủ để đổi mới từng bước, củng cố phát triển giáo hội, tìm mọi cách tách dần sự

quản lý của Nhà nước; tận dụng các ngày lễ trọng đại, các sự kiện lịch sử của

giáo hội để đẩy mạnh các hoạt động khuyếch trương thanh thế của Giáo hội,

củng cố đức tin cũng như để tuyên truyền, phát triển đạo.

Cho đến nay, Nghệ An có trên 23 vạn đồng bào công giáo, cư trú chủ yếu

ở 13 huyện, trong 184 xã, phường, thị trấn, 839 xóm vùng đồng bằng và núi

thấp. Toàn tỉnh có 2 xã và 185 xóm giáo toàn tòng, có 14 xã và 106 xóm, bản

xen đồng bào công giáo và đồng bào dân tộc thiểu số. Có toà giám mục Xã

Đoài, 9 hạt, 72 nhà thờ xứ, 245 nhà thờ họ, 1 giám mục, 76 linh mục. Các huyện

có đông đồng bào công giáo sinh sống là Nghi Lộc, Diễn Châu, Quỳnh Lưu,

Yên Thành, Hưng Nguyên. (Xem biểu tổng hợp 1).

Tóm lại, quá trình du nhập và phát triển đạo công giáo ở Nghệ An có

nhiều bước thăng trầm, để lại những dấu ấn khá rõ nét, thể hiện trên một số điểm

cơ bản như:

Một là, sau khi dòng tên bị Toà thánh giải thể, công cuộc truyền đạo tại

giáo phận Vinh hoàn toàn do các thừa sai của Hội thừa sai Pari đảm nhận.

Chúng ta cần hiểu rằng đối với các thừa sai này, việc thánh hoá nhân loại theo

tinh thần Phúc Âm và mở đường cho ách đô hộ của chế độ thực dân Pháp được

đặt ưu tiên ngang nhau. Chính vì thế tính vong bản của tôn giáo này thể hiện rất

rõ trong cộng đồng giáo dân Nghệ An.

Hai là, do tính cách có phần cực đoan của một bộ phận người dân xứ

19

Nghệ (theo nhận xét của nhiều học gỉả, trong đó có nhà văn hoá Phan Ngọc) nên

trong lòng cộng đồng này có những nét đặc trưng riêng dễ nảy sinh những mâu

thuẫn giữa những người đứng đầu tôn giáo truyền thống (thờ cúng tổ tiên) là các

nhà Nho, cả cộng đồng theo tôn giáo truyền thống này với đội ngũ chức sắc,

chức việc và giáo dân. Trong quá khứ, qua các thời kỳ cấm đạo của các triều đại

phong kiến thì Nghệ An là nơi thực hiện một cách triệt để nhất các chỉ dụ của

nhà Vua - điển hình nhất là cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn với khẩu hiệu

"Bình Tây sát Tả". Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, mặc dù khu

IV là chiến khu cách mạng song rất nhiều vấn đề phức tạp đã diễn ra, đã có

những xung đột dẫn đến đổ máu và chính trong thời kỳ di cư 1954, xấp xỉ 20%

tín đồ tại đây đã di cư vào Nam. Hiện nay, do thời gian, do các chính sách đúng

đắn của Đảng và Nhà nước nên những xung đột này đã được hoá giải, tình đoàn

kết lương - giáo được phát huy.

Ba là, người Nghệ có đức tính nhẫn nhục chịu đựng, tính cách này càng

thể hiện rõ hơn đối với giáo dân. Nếu chỉ quan sát những biểu hiện bên ngoài

mang tính hình thức thì nhiều lúc, nhiều địa phương lầm tưởng là mọi việc đã

được giải quyết êm thấm, thế nhưng chính vì nhẫn nhục chịu đựng nên các mâu

thuẫn thường bị tích tụ và một khi bùng phát thì rất khó kiểm soát (đặc điểm này

tác giả sẽ phân tích kỹ hơn ở phần thực trạng trật tự an toàn xã hội).

Bên cạnh đó một điểm nổi bật thể hiện sự tương đồng về ý thức dân tộc

của người công giáo nói chung, người công giáo Nghệ An nói riêng với toàn thể

dân tộc Việt Nam đó là phần lớn các tín đồ công giáo có lòng yêu nước, cần cù

lao động, đã góp phần cùng toàn dân tham gia phong trào đấu tranh giành độc

lập và bảo vệ tổ quốc. Qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế

quốc Mỹ, đã có hàng ngàn thanh niên công giáo hăng hái ra chiến trường theo

tiếng gọi của tổ quốc, nhiều người đã hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Trong công cuộc đổi mới hiện nay, nhiều tín đồ, giáo sĩ đã thể hiện tinh

thần yêu nước, tham gia đầy đủ các hoạt động xã hội, vận động tín đồ thực hiện

đầy đủ các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, "sống tốt

đời, đẹp đạo", thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ công dân, đồng thời làm tròn bổn

phận của tín đồ theo tinh thần thư chung 1980 của Hội đồng giám mục Việt

20

Nam "Sống phúc âm giữa lòng dân tộc".

1.2. Thực trạng tình hình trật tự, an toàn xã hội ở các vùng giáo Nghệ

An

1.2.1 Thực trạng chấp hành pháp luật

Dưới ánh sáng của đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, toàn thể

đảng bộ, quân và dân Nghệ An đã tiến hành công cuộc đổi mới sâu rộng trên tất

cả các lĩnh vực, kể cả trong lĩnh vực tôn giáo và đã thu được nhiều thành tựu to

lớn. Bộ mặt tỉnh nhà nói chung , các Xứ, Họ đạo nói riêng thực sự có những

khởi sắc mới. Hầu hết giáo hội và giáo dân đều tỏ ra phấn khởi, tin tưởng vào

đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, yên tâm phụng đạo, sống kính Chúa

yêu nước.

Trong lĩnh vực công tác tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục thực hiện

NQ 24 của Bộ chính trị (1990), NĐ 69/CP (1991), NQ 26/CP (1999) của Chính

phủ, thực sự quan tâm đến nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo. Đặc biệt tháng 03/2003,

Đảng ta có Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII BCHTW Đảng khoá IX về “Phát

huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; công tác dân tộc; công tác tôn giáo” và

Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo (2004),

Chính phủ ban hành Nghị định số 22/CP (2005) hướng dẫn thi hành một số điều

của Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo với nội dung tiếp tục đổi mới công tác tôn

giáo, quan tâm nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo hợp pháp, chính đáng. Chính sách

của Đảng, pháp luật của Nhà nước khẳng định tôn giáo là nhu cầu của một bộ

phận quần chúng nhân dân, còn tồn tại với Dân tộc trong quá trình xây dựng

CNXH. Nhiều nội dung mới được đề ra và giải quyết, như: vấn đề thành lập các

tổ chức tôn giáo hợp pháp, vấn đề tách - lập cơ sở tôn giáo... Tất cả những việc

làm thiết thực đó đem lại cho Giáo hội, giáo dân Nghệ An tâm lý phấn khởi, tin

tưởng vào vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong quá trình

"đồng hành" cùng dân tộc vì mục tiêu chung "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công

bằng, dân chủ, văn minh".

Riêng ở Nghệ An, cấp uỷ, chính quyền các cấp cũng đã rất quan tâm đến

công tác tôn giáo, thực hiện đúng chính sách pháp luật, giải quyết đáp ứng kịp

thời các nhu cầu hoạt động tôn giáo chính đáng. UBND tỉnh, Tỉnh uỷ cũng đã

21

ban hành kịp thời các văn bản, chỉ thị sâu sát về công tác tôn giáo. Trên cơ sở đó

mỗi người công giáo tỉnh nhà đã nâng cao ý thức công dân nghiêm chỉnh chấp

hành các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như của

chính quyền địa phương. Đa số các linh mục, tu sĩ đã tích cực phối hợp với

UBMT Tổ quốc các cấp vận động bà con giáo dân tham gia học tập các chủ

trương chính sách của Nhà nước như: Nghị định số 36/CP của Chính phủ về

đảm bảo ATGT , Nghị định số 29/CP về thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, Nghị

định số 26/CP về các hoạt động tôn giáo vv... Đặc biệt trong cuộc bầu cử Đại

biểu Quốc hội Khoá XII, bà con giáo dân đã hăng hái đi bầu cử đạt tỷ lệ 100%

và hoàn thành cuộc bầu cử đúng thời gian quy định.

Ngoài ra với nhận thức bảo vệ và xây dựng tổ quốc XHCN là nghĩa vụ

thiêng liêng và cao cả, các linh mục, tu sĩ và đồng bào công giáo đã tích cực

tham gia các tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội, tham gia xây dựng chính quyền,

nêu cao tinh thần cảnh giác trước các âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng

tôn giáo nhằm gây chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân. Đồng thời tích

cực tham gia các phong trào giữ gìn trật tự tại địa phương, tham gia lực lượng

tuần tra, dân phòng, dân quân cơ sở. Hưởng ứng cuộc vận động "Toàn dân tham

gia phòng chống, phát hiện, tố giác tội phạm, cảm hoá, giáo dục, cải tạo những

người lầm lỗi tại gia đình và cộng đồng dân cư", nhiều giáo xứ đạt đảm bảo về

an toàn trật tự, không có các tệ nạn xã hội như: mại dâm , ma tuý vv. Con em

trong độ tuổi thi hành nghĩa vụ quân sự chấp hành nghiêm chỉnh đạt tỷ lệ 100%.

Từ khi có các cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở

khu dân cư”, “Sống tốt đời, đẹp đạo”, bà con giáo dân đã tích cực hưởng ứng

với nhiều hoạt động phong phú đa dạng, làm thay đổi đời sống ở khu dân cư

khơi dậy nếp sống lành mạnh, tạo không khí ấm áp tình làng nghĩa xóm. Việc

thực hiện nếp sống văn hoá, các sinh hoạt lễ nghi tôn giáo về cơ bản là đúng

theo quy định. Việc cưới hỏi, tang gia được tổ chức theo nếp sống mới, giữ gìn

và phát huy những giá trị truyền thống đạo đức nhân văn, loại bỏ những tập tục

lạc hậu. Các phong trào “Xây dựng gia đình công giáo gương mẫu”, “Xây dựng

xứ, họ tiên tiến”, “Học tập gương người tốt, việc tốt”… đã được các linh mục,

giáo dân quan tâm và tích cực hưởng ứng với kết quả đạt được rất đáng phấn

22

khởi: Năm 2002, toàn tỉnh chỉ có 19.860 gia đình giáo dân văn hoá, đến nay đã

tăng lên gần 30.000 gia đình; Số khu dân cư tiên tiến xuất sắc năm 2002 có 276

đơn vị, nay tăng lên 500 đơn vị; Số làng văn hoá năm 2002 là 24 đơn vị, nay

tăng lên gần 50 đơn vị (Theo Báo cáo của Đại hội người Công giáo tỉnh Nghệ

An khoá V, nhiệm kỳ 2007-2012).

Tuy nhiên do bị tác động của kẻ địch bên ngoài, do nhận thức quan điểm

sai trái nên vẫn còn một số giáo sĩ có thái độ hoạt động cố tình vi phạm Luật

pháp, xem thường chính quyền trong hoạt động tôn giáo, gây hậu quả xấu về an

ninh trật tự. Ở một số xứ, họ đạo do trình độ nhận thức của giáo dân còn thấp,

diều kiện sinh hoạt còn nghèo nàn, lạc hậu nên họ dễ bị kích động dến cuồng tín

đã bị linh mục, BHG lợi dụng lôi kéo tham gia vào các hoạt động tôn giáo trái

Pháp luật, biểu hiện trên một số hoạt động sau:

Một là: Lợi dụng củng cố đức tin, phát triển đạo, tiến hành các hoạt động

tôn giáo vi phạm quy định của Pháp luật gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự.

Nổi lên là các hoạt động đòi lại đất đai cơ sở cũ, lấn chiếm, chuyển

nhượng đất trái phép. Điển hình như vụ đòi lại đất dòng Phanxico Vinh, nhà thờ

họ Đan Nhiệm (Nam Đàn)...Trong đó có một số vụ từ đòi đất đến chiếm giữ đất

trái phép và kích động gây rối công cộng như: vụ đòi lại 2,7 ha đất nhà thờ Cầu

Rầm (phường Cửa Nam, thành phố Vinh), lợi dụng sơ hở của ta trong việc thi

công xây dựng Công viên Hồ Cá ở khu vực đất Cầu Rầm cũ vào ngày

26/5/1998, ngày 27/5/1998 các phần tử cực đoan đã kích động tập hợp một số

giáo dân kéo đến cản trở thi công, tiếp đó họ huy động lực lượng chiếm giữ đất

xây dựng nhà tạm, đặt lán trại, tổ chức lực lượng thường trực canh giữ. Cao hơn

họ đặt Thánh giá tượng đức mẹ Maria, có lúc họ tập hợp hơn 1000 giáo dân dọa

biểu tình phản đối (vụ việc kéo dài đến 5 tháng). Hoặc gần đây nổi lên các vụ

việc như: một số phần tử xứ Lưu Mỹ, xứ Thanh Tân (Đô lương) đã kích động 80

giáo dân lên trụ sở UBND tỉnh yêu sách đòi lại đất đai cũ trái phép (2004); Ở xứ

Ngọc Long (Công Thành, Yên Thành) một số chức sắc tôn giáo đã chỉ đạo giáo

dân xây dựng nơi cầu hồn (ở nghĩa địa) trái phép bị Chính quyền xử lý đã kích

động giáo dân gây rối trật tự công cộng, bao vây trụ sở chính quyền, giữ người

trái pháp luật. Nguy hiểm hơn là từ tháng 3/2005 đến nay, họ tiếp tục vận động

23

giáo dân không đóng các loại thuế, yêu sách đòi kỷ luật cán bộ một cách sai trái

làm cho tình hình TTATXH tại địa bàn thêm phức tạp. Tiếp đó là vụ đòi lại đất

đai sai trái dẫn tới lấn chiếm 5776m2 đất tại giáo xứ Trung Hoà (Thanh Hoà-

Thanh Chương) xảy ra từ 25/9/2005, kích động hàng nghìn giáo dân kéo lên trụ

sở Chính quyền tỉnh, trụ sở tiếp dân Trung ương để khiếu kiện. Đặc biệt, linh

mục quản xứ ở đây đã vận động giáo dân không chấp hành pháp luật, rao giảng

cho rằng Chính quyền đàn áp tôn giáo, chia rẽ khối đoàn kết lương - giáo, gây

nên tình hình căng thẳng, kéo dài ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự ở các xã

thuộc cụm Cát Ngạn huyện Thanh Chương.

Về chuyển nhượng, lấn chiếm đất trái phép đã xảy ra ở 57 điểm nhằm mở

rộng khuôn viên, lập cơ sở tôn giáo mới... Đáng chú ý là hầu hết các sai phạm

này linh mục và BHG không chấp hành Pháp luật đất đai (Thông tư liên tịch

1646/TTLT-TCĐC-TGCP (2001) và chỉ thị số 32 của UBND tỉnh), không chấp

hành sự xử lý của Chính quyền. Theo Báo cáo của Tỉnh uỷ Nghệ An, năm 2003

số điểm vi phạm tranh chấp đất đai, địa giới hành chính là 137 điểm; đến năm

2005 số điểm tranh chấp này là 110 điểm, như vậy thời gian gần đây đã có xu

hướng giảm.

Bên cạnh đó nhiều Xứ, Họ đạo còn tổ chức rước sách trái phép, dựng

cổng chào ngoài khuôn viên... một số vụ việc xảy ra gần đây như: ở xứ Bố Sơn

(Nghi Vạn, Nghi Lộc), xứ Yên Đại (Nghi Phú, thành phố Vinh), xứ Quan Lãng

(Tường Sơn, Anh Sơn), Xứ Tràng Nứa (Hưng Yên, Hưng Nguyên) ... Đây là các

hoạt động của Giáo hội nhằm phô trương thanh thế, đề cao vai trò của Giáo hội

công giáo và lấn lướt chính quyền. Giáo hội còn chủ trương thành lập các hội

đoàn, hội dòng trong đó có nhiều hội đoàn, hội dòng trái phép - như Hội "Khôi

Bình" ở xứ xã Đoài với hơn 3000 người tham gia; Hội "Sinh viên nhà Chúa" với

hơn 200 sinh viên công giáo ở các trường Đại học, Cao đẳng thành phố Vinh

tham gia; Hội "Gia đình thánh tâm";... Việc thành lập các hội đoàn, hội dòng này

nhằm tập hợp quần chúng nhất là lớp trẻ, qua đó củng cố đức tin, vừa xây dựng

lực lượng để đối trọng với Chính quyền, vừa kích động yêu sách các vấn đề sai

trái. Thậm chí lợi dụng chủ trương đi học du học tự túc, xuất khẩu lao động của

Nhà nước ta, Giáo hội đã đề ra mục tiêu" Tích cực đào tạo nhân tài, xây dựng

24

lực lượng nòng cốt, đưa sinh viên đi du học, đào tạo các học sinh, sinh viên có

năng lực và khả năng chỉ huy quần chúng". Những năm qua giáo hội Vinh đã

đưa hàng chục em là sinh viên, học sinh công giáo ra nước ngoài tu học. Theo

Báo cáo của Ban tôn giáo tỉnh thì trong thời gian từ 1996 - 2005 có 42 em đi tu

học theo diện này.

Hai là: Tuyên truyền, phục hồi phát triển đạo trái phép nhất là truyền đạo

vào vùng dân tộc thiểu số, o ép đảng viên gốc giáo, ép buộc số khô nhạt đạo trở

lại đạo.

Đây là chủ trương lớn của Giáo hội nhằm củng cố phát triển đạo. Một số

linh mục đã đích thân đi khảo sát các địa phương và yêu cầu chính quyền cho

phục hồi lại các xứ đạo ở vùng miền núi dân tộc như: Tương Dương, Anh Sơn,

Quế Phong. Ví dụ như linh mục Trần Thanh Hương quản xứ Lãng Điền (Quan

Lãng, Anh Sơn), Ông đã lôi kéo hơn 200 người Thái ở Anh Sơn trở lại đạo và

theo đạo. Trong dịp kỷ niệm "Năm thánh truyền giáo" 2004, "Năm thánh thể"

2005, Toà giám mục đã chỉ đạo cho các linh mục phải lôi kéo số giáo dân khô

nhạt đạo trở lại đạo trong đó có cả Đảng viên gốc giáo. Tại xứ Xã Đoài, giám

mục và các linh mục đã trực tiếp mời hơn 200 giáo dân khô nhạt đạo để giảng

giải, kêu gọi và cả ép buộc họ trở lại đạo. Ở nhiều Xứ, Họ đạo linh mục đến

từng gia đình đã khô nhạt đạo, gia đình có hoàn cảnh neo đơn, khó khăn để tác

động kéo họ trở lại theo đạo. 10 năm qua, tại Nghệ An, Giáo hội đã lôi kéo được

hơn 700 người trở lại đạo và theo đạo. Tuy nhiên, Giáo hội vẫn lo ngại những

tác động xấu của cơ chế thị trường, của tệ nạn ma tuý, văn hoá phẩm độc hại vào

giáo hội gây ra tình trạng giảm sút đức tin, khô nhạt đạo, bỏ đạo trong giáo dân

ngày càng nhiều; hàng ngũ linh mục sa sút phẩm hạnh.

Ba là: Gợi lại hận thù quá khứ, kích động giáo dân không thực hiện đầy

đủ chính sách pháp luật, yêu sách đòi tự do tôn giáo.

Lợi dụng việc củng cố đức tin, một số linh mục thường xuyên nêu gương

các thánh tử vì đạo, tổ chức xây, bốc mộ cho một số linh mục, giáo dân bị chết

trong phong trào "Bình Tây, sát Tả" thời nhà Nguyễn, trong các trại cải tạo của

ta thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ... qua đó gợi lại hận thù, chia rẽ

khối đại đoàn kết dân tộc; như, vụ cất bốc mộ trái phép linh mục Nguyễn Châu

25

và tập thể giáo hữu bị sát đạo năm 1858 tại xứ đạo Trung Song (Diễn Thịnh,

Diễn Châu) kéo dài từ tháng 2 đến tháng 3 năm 2000, tạc bia ghi Thánh tử đạo

nhằm gợi lại hận thù dân tộc, mặc dù bị Chính quyền đình chỉ nhưng cố tình

chống lại không thực hiện.

Bên cạnh đó, lợi dụng một số sơ hở, thiếu sót, sự non kém, lúng túng

trong công tác quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo ở cơ sở, một số linh mục

có biểu hiện chống đối cực đoan đã kích động giáo dân đưa ra những yêu sách

sai trái, nguy hiểm hơn là bao vây trụ sở chính quyền, kéo đông người khiếu

kiện lên tỉnh. Điển hình như vụ gây rối trật tự an ninh tại xứ Làng Nghi xã Diễn

Hạnh, Diễn Châu trong dịp lễ Chầu lượt từ ngày 23/4/1993 đến ngày 25/4/1993.

Tại đây, BHG xứ dự định biểu diễn vở kịch "Chiếc khăn mang tên Mẹ", họ đã tổ

chức tập luyện và báo cáo xin phép Chính quyền. Nhưng vì vở kịch có nội dung

xấu, trái cả pháp luật và giáo luật nên Chính quyền không đồng ý. Tiếc rằng lệnh

đình chỉ của Chính quyền huyện ra quá chậm, đúng vào ngày diễn ra lễ. Các

phần tử xấu đã lợi dụng sơ hở đó vào đêm 23/4/1993 khi đã tập trung đông đủ

giáo dân, họ đọc lệnh đình chỉ diễn kịch và kích động giáo dân là "Chính quyền

ngăn cản tự do tín ngưỡng". Bọn chúng đã biến buổi lễ thành vụ gây rối trật tự

với hàng nghìn người tham gia, nguy hiểm hơn là kích động giáo dân kéo nhau

đi biểu tình trên đường làng và hô khẩu hiệu phản động. Vụ gây rối này đã gây

ra tình hình phức tạp về TT, ATXH trên địa bàn.

Trước những vụ việc phức tạp đó, Chính quyền các cấp đã bình tĩnh giải

quyết đúng chính sách pháp luật, tranh thủ được số đông giáo sĩ và từng bước

vận động tuyên truyền nâng cao nhận thức hiểu biết pháp luật đến tận giáo dân,

giáo dục mọi người sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, sống có trật

tự, kỷ cương từ gia đình đến xã hội.

Như vậy, nhìn một cách toàn cảnh thực trạng chấp hành pháp luật ở các

vùng giáo Nghệ An chúng ta có thể thấy rằng bên cạnh đa số chức sắc và đông

đảo giáo dân có nhận thức, quan điểm đúng đắn, tin tưởng vào đường lối đổi

mới, hoạt động tôn giáo tuân thủ luật pháp, tích cực xây dựng cuộc sống tốt đời

đẹp đạo, giữ gìn TT, ATXH thì vẫn còn một số đối tượng bị tác động của bên

26

ngoài, có nhận thức quan điểm sai trái nên đã có thái độ và hoạt động tôn giáo vi

phạm pháp luật, gây ảnh hưởng xấu trong cộng đồng giáo dân nói riêng và cả xã

hội nói chung.

1.2.2. Về tệ nạn xã hội

Dưới ảnh hưởng của niềm tin tôn giáo, của hệ thống giáo lý, giáo luật chặt

chẽ cũng như của các tổ chức hội đoàn công giáo khác nhau nên trong đời sống

cộng đồng giáo dân Nghệ An việc vi phạm tệ nạn xã hội là rất ít. Đây là điểm

tích cực đáng ghi nhận ở các vùng giáo.Theo kết quả điều tra và nhận xét của Sở

Công an tỉnh Nghệ An thì “Vấn đề trọng tâm an ninh, trật tự vùng giáo không

phải là các vấn đề trật tự, an toàn xã hội như tội phạm hình sự hay tệ nạn xã hội.

Về khía cạnh này, nhìn chung vùng giáo ít phức tạp hơn vùng lương” [27,

tr.418].

Theo thống kê của Ban tôn giáo tỉnh, tính đến thời điểm đầu năm 2006,

toàn vùng giáo Nghệ An có 822 người tiêm chích, nghiện hút ma tuý (năm 2003

là 879 người); 18 người buôn bán ma tuý và 58 người đánh bạc, 1047 đối tượng

phạm pháp (năm 2003 là 1060), trong đó vùng giáo có nhiều đối tượng tiêm

chích, sử dụng ma tuý và phức tạp về mọi mặt nhất là vùng giáo Nghi Phú -

Thành phố Vinh. Như vậy, mặc dù vẫn còn một số giáo dân phạm tội nhưng xét

theo tỷ lệ phần trăm thì đây là con số khá khiêm tốn. Bên cạnh đó, nhiều Xứ, Họ

đạo đã từng bước thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, xoá

bỏ các tập tục lạc hậu, các hình thức mê tín dị đoan. Các tổ tự quản, tổ hoà giải

được thành lập và hoạt động có hiệu quả trên địa bàn. Điển hình như vùng giáo

huyện Quỳnh Lưu thời gian qua đã hoà giải thành công 205 vụ việc, cảm hoá

148 người lầm lỗi trở về với cộng đồng; vùng giáo huyện Đô lương cũng đã

phối hợp để giáo dục, cảm hoá, hoà giảI tại cơ sở được 25 vụ việc; toàn huyện

năm 2002 có 19 đối tượng nghiện ma tuý thì nay chỉ còn 4 người .. Việc đấu

tranh phòng chống các loại tội phạm, các tệ nạn xã hội được các giáo xứ tiến

hành một cách tích cực và triệt để. Nhiều nơi bà con giáo dân đã cung cấp cho

công an các cấp hàng trăm nguồn tin có giá trị góp phần đấu tranh chống tội

phạm, tệ nạn xã hội có hiệu quả, thực hiện tốt chỉ thị 07/CT-TU của tỉnh uỷ,

kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng buôn bán, hút hít, tiêm chích ma

27

tuý...

Thông qua việc triển khai Quy chế dân chủ ở cơ sở, nhiều xứ, họ đạo đã

xây dựng các qui ước, hương ước và được giáo dân chấp nhận. Một số nơi bà

con giáo dân và linh mục góp tiền, công sức cùng với chính quyền địa phương

xây dựng các công trình phúc lợi tập thể phục vụ đời sống của nhân dân, góp

phần làm đẹp quê hương.

Để có được những kết quả tốt đẹp đó, chúng ta phải thấy được vai trò

quan trọng của các linh mục, người chăn dắt các giáo dân, là chỗ dựa tinh thần,

người khuyên bảo, dìu dắt họ trong cả đời sống đạo và đời. Với trách nhiệm là

người thay mặt cho Giáo hội, đa số các linh mục đã sử dụng uy tín của mình

phối hợp với Hội đồng mục vụ các xứ, họ đạo gặp gỡ trao đổi với Chính quyền

và MTTQ các cấp để có sự phối hợp thống nhất trong công tác tuyên truyền và

ký cam kết phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội. Khi xảy ra những vụ việc vi

phạm làm ảnh hưởng đến trật tự an ninh nông thôn thì kịp thời giải quyết thấu

tình đạt lý, phù hợp với đạo đức giáo lý của người Công giáo và quy định,

hương ước của địa phương.Từ đó tại các buổi lễ ở nhà thờ, các linh mục đã

giành thời gian để tuyên truyền nói rõ tác hại của tệ nạn xã hội và cách phòng

tránh, nói rõ trách nhiệm của các bậc phụ huynh cùng xã hội để giáo dục cho

con cái. Nhiều linh mục đã có những biện pháp, những chế tài phạt nặng đối với

các giáo dân vi phạm các tệ nạn xã hội và như vậy là vi phạm các điều răn của

Chúa. Thậm chí có những linh mục không quản ngại vất vả đêm hôm tự tìm đến

những nơi tụ tập cờ bạc để khuyên nhủ giáo dân tránh xa những đam mê tội lỗi.

Những mâu thuẫn trong nội bộ giáo dân thường được các linh mục giải quyết

êm thấm, hợp tình hợp lý. Sự nỗ lực đó của các linh mục kết hợp với sự quan

tâm, tạo điều kiện đầu tư, hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện chính sách

tôn giáo đảm bảo quyền tự do sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật của

Đảng, Nhà nước và Chính quyền địa phương đã tạo tâm lý phấn khởi, khích lệ

đồng bào công giáo nâng cao ý thức trong phong trào xây dựng xứ, họ đạo, khu

dân cư an toàn làm chủ không có tệ nạn xã hội. Tiêu biểu như vùng giáo huyện

Thanh Chương năm 2001 có 51/58 khu dân cư đạt tiêu chuẩn khu dân cư an toàn

28

làm chủ; hoặc xã Nam Lộc, huyện Nam Đàn nhiều năm liền là lá cờ đầu của

phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, được Bộ công an tặng cờ đơn vị xuất sắc về

an toàn xã hội.

Điều đáng tiếc là bên cạnh những gương mặt điển hình, những hoạt động

thiết thực, tích cực trên thì ở một số vùng giáo vẫn còn tồn tại một số giáo dân đi

lầm đường lạc lối. Dưới tác động hai mặt của kinh tế thị trường họ đã không làm

chủ dược mình sa vào những cám dỗ, tiêm nhiễm những thói hư tật xấu, vi phạm

luân lý đạo Công giáo cũng như đạo đức của dân tộc Việt Nam. Ngay trong

hàng ngũ linh mục (chúng tôi không tiện nêu tên) cũng có người bị sa sút phẩm

hạnh, tự hạ thấp uy tín của mình và làm mất đi vẻ đẹp tôn nghiêm, thánh thiện

đáng quý của đạo Công giáo.

Trước thực trạng đó, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh đã ban hành chỉ thị 07/CT-TU

và chỉ thị 50/CT-UB ngày 01/10/2001 , đồng thời tuyên truyền, giáo dục, vận

động, nâng cao nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự của đội ngũ chức

sắc, chức việc và của cả giáo dân. Kết quả cho thấy ý thức của giáo dân về vai

trò, nhiệm vụ của mình trong công tác bảo vệ an ninh trật tự cộng đồng được

nâng cao rõ rệt, nhiều chức sắc, chức việc và giáo dân sẵn sàng cung cấp các

thông tin liên quan đến an ninh trật tự và giúp đỡ các cấp có thẩm quyền giải

quyết các vụ việc phức tạp. Chính vì vậy, tình hình TT, ATXH ở các xứ, họ đạo

Nghệ An cơ bản là ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã

hội.

Vừa qua, trong không khí sôi nổi của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta

mừng Đảng quang vinh vừa tròn 77 tuổi, hưởng ứng tích cực cuộc vận động

"Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", tiếp tục đẩy mạnh cuộc

vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư", sống tốt

đời đẹp đạo, lập thành tích chào mừng Đại hội đại biểu những người công giáo

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của tỉnh nhà được tổ chức vào tháng 10/2007,…

Ban đoàn kết công giáo huyện Nghi Lộc - là nơi có số lượng tín đồ công giáo

đông nhất trên toàn tỉnh (với 24/34 xã có đạo công giáo, 8.495 hộ giáo dân,

45.783 tín đồ, 54 họ giáo, 16 xứ giáo và 32 linh mục trong đó có 4 linh mục

đang đi du học) đã gương mẫu đi đầu đăng ký Giao ước thi đua "Xây dựng xứ,

29

họ đạo 4 gương mẫu" với các nội dung cơ bản như:

- Gương mẫu trong lao động sản xuất, tham gia tích cực phong trào xoá

đói giảm nghèo, tăng hộ giàu trong các xứ, họ đạo.

- Gương mẫu chấp hành chính sách pháp luật của Nhà nước, hương ước

của địa phương, hoàn thành nghĩa vụ công dân, phấn đấu 100% họ giáo không

có người vi phạm pháp luật và các tệ nạn xã hội (ma tuý, mại dâm, số đề, cờ

bạc), 100% gia đình giáo dân hoàn thành thuế Nhà nước, quỹ địa phương.

- Gương mẫu xây dựng nếp sống văn hoá, phấn đấu có 72% số hộ gia

đình giáo dân đạt danh hiệu gia đình văn hoá, 100% học sinh trong độ tuổi đi

học được đến trường; thực hiện tốt quyết định 01 của UBND tỉnh về việc cưới,

việc tang, lễ hội... 30% xóm giáo đạt tiêu chuẩn làng văn hoá.

- Gương mẫu tham gia sinh hoạt trong các tổ chức trong hệ thống chính

trị và chính trị xã hội. Có 80% số người trong độ tuổi tham gia sinh hoạt các tổ

chức xã hội và các đoàn thể; phấn đấu 70% các tổ chức đạt danh hiệu trong

sạch, vững mạnh. Tham gia tích cực vào công tác xây dựng Đảng, chính quyền,

phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Có thể nói những điểm cơ bản trong Giao ước thi đua này cũng là tâm tư,

nguyện vọng của cả cộng đồng giáo dân Nghệ An, hoàn toàn phù hợp với những

giá trị đạo đức của giáo lý đạo công giáo cũng như những giá trị đạo đức của chế

độ XHCN mà chúng ta đang ra sức xây dựng.

1.2.3. Về đoàn kết cộng đồng

Cộng đồng giáo dân là một cộng đồng cố kết chặt chẽ, là mối liên kết tâm

linh giữa những người đồng đạo với nhau. Cộng đồng giáo dân do khu biệt cư

trú thành Giáp đạo, Họ đạo, Xứ đạo, làng công giáo... nên họ được ở gần nhau

thành những cộng đồng có thể là to nhỏ khác nhau. Cộng đồng ấy cùng chung

một thánh quan thày, một nhà thờ - ngôi nhà chung nên khiến họ dễ gắn bó, liên

kết với nhau [25, tr.340].

Riêng ở Nghệ An tín đồ công giáo có trên 23 vạn, chiếm 55% giáo dân

toàn giáo phận Vinh, cư trú chủ yếu ở 13 huyện, trong 184 xã, phường, thị trấn,

30

839 khối, xóm vùng đồng bằng và núi thấp. Với đặc điểm và điều kiện cư trú

như vậy nên tính đoàn kết của cộng đồng giáo dân Nghệ An rất cao không chỉ

bó hẹp trong phạm vi một xứ, họ đạo mà còn mở rộng mối liên hệ mật thiết,

đoàn kết giữa các xứ đạo, họ đạo với nhau. Trên cơ sở tinh thần chung "Sống

phúc âm giữa lòng dân tộc", "đồng hành" cùng dân tộc, hơn bao giờ hết, Giáo

hội Nghệ An rất chú trọng xây dựng và phát huy tình đoàn kết của cộng đồng

giáo dân. Bằng nhiều biện pháp, chủ trương dưới các hình thức khác nhau, vừa

mang tính tự nguyện vừa bắt buộc nhằm liên kết, ràng buộc họ trong một hệ

thống giáo lý, giáo luật và lễ nghi chặt chẽ. Nổi lên hàng đầu là chủ trương

thành lập các hội đoàn công giáo theo tinh thần chung của Giáo hội Việt Nam

"Đoàn ngũ hóa giáo dân theo từng tầng lớp" (Điều 7, Chương trình kỷ niệm

hướng tới năm thánh 2000).

Từ thực tế đó, với các tổ chức, hội đoàn tôn giáo được thành lập và hoạt

động với mục đích lành mạnh sẽ làm tăng cường mối liên kết bền chặt, tương

thân tương ái, chia sẻ những kinh nghiệm sống đời và sống đạo trong cộng đồng

giáo dân. Ở nhiều vùng giáo, giáo dân chủ động đứng ra thành lập các phường,

hội, các câu lạc bộ với những hình thức sinh hoạt phong phú như: CLB Dâu hiền

rể thảo, CLB Bà nội, Bà ngoại gương mẫu, CLB chị em không sinh con thứ

ba...; các phường, hội như: phường tiền, phường lúa nhằm giúp vốn cho chị em

nghèo cùng phát triển kinh tế xã hội, phấn đấu tăng hộ khá, giảm hộ nghèo, xoá

hộ đói. Riêng địa bàn huyện Nghi Lộc, bà con giáo dân đã thành lập 537 phường

các loại (chủ yếu là phường tiền) với tổng số vốn huy động lên đến 2 tỷ đồng.

Các huyện khác đều có những hình thức tương tự. Có những giáo dân năng động

đã biết phát huy thế mạnh của cộng đồng là mối quan hệ bền chặt, tin tưởng lẫn

nhau giữa các giáo họ, giáo xứ, giáo phận... trong và ngoài tỉnh nên nhanh chóng

vươn lên làm giàu. Điển hình như giáo họ Phi Lộc - Diễn Châu, đã hình thành

21 tổ xây dựng thu hút 300 lao động; Anh Phạm Công Hải ở giáo xứ Bảo Nham

- Yên Thành đã đầu tư trên một tỉ đồng để xây dựng và phát triển mô hình trang

trại; Anh Nguyễn Hồng Toan, Nguyễn Văn Đô ở giáo xứ Cầu Rầm - Vinh đã

đầu tư vốn để phát triển nhiều ngành nghề đem lại hiệu quả kinh tế cao, cho thu

31

nhập hàng năm trên 500 triệu đồng…

Với tinh thần hăng say lao động sản xuất, những năm qua đời sống của

giáo dân Nghệ An được cải thiện rõ rệt, thu nhập bình quân đầu người từ 3,9

triệu đồng năm 2003 tăng lên 5,2 triệu đồng năm 2005; một số xã, phường vùng

giáo ở Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Cửa Lò có thu nhập bình quân đầu người từ 5,5

đến 7 triệu đồng/ năm.

Bên cạnh đó, với tình cảm cao quý và truyền thống cao đẹp "uống nước

nhớ nguồn", "thương người như thể thương thân" của dân tộc Việt Nam nói

chung, của người công giáo nói riêng, những năm qua các xứ, họ đạo ở Nghệ An

đã thường xuyên quan tâm vận động giáo dân tham gia các phong trào đền ơn

đáp nghĩa, thăm hỏi tặng quà các gia đình thương binh liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam

anh hùng. Tổ chức các cuộc vận động tình nghĩa biên giới, hải đảo; ủng hộ vùng

nghèo, xã nghèo, người nghèo... Các phong trào, vận động này đã thu hút đông

đảo bà con giáo dân tích cực tham gia và được bà con giáo dân coi đây là việc

làm hợp lẽ đời, đúng lẽ đạo. Chính vì vậy, 5 năm qua, cùng với phong trào

chung của đồng bào trong tỉnh, riêng cộng đồng giáo dân toàn tỉnh đã tham gia

đóng góp xây dựng, tu sửa trên 30 nghĩa trang liệt sỹ, ủng hộ xây dựng, tu sửa

trên 3.000 ngôi nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết, ủng hộ trên 30.000 ngày công

và gần 20 tấn gạo cùng các đồ dùng, vật tư khác giá trị trên 7 tỷ đồng. Điển hình

như: giáo dân huyện Thanh Chương đã tu bổ 18 nghĩa trang liệt sĩ, xây tặng 12

ngôi nhà tình nghĩa, ủng hộ 28 cuốn sổ tiết kiệm, đóng góp hàng ngàn ngày công

giúp các gia đình chính sách. Hoặc giáo dân huyện Nghi Lộc trong 5 năm qua đã

ủng hộ Quỹ vì người nghèo, quỹ đền ơn đáp nghĩa, đồng bào bị thiên tai với số

tiền 1,4 tỷ đồng. Cha Nguyễn Đăng Điền - Hạt trưởng, chánh xứ Nhân Hoà đã

chăm nuôi 20 cháu tật nguyền, ủng hộ hàng chục triệu đồng giúp hộ nghèo và

học sinh nghèo. Chị em dòng tu mến thánh giá Xã Đoài cũng có nhiều việc làm

từ thiện, tình nghĩa, như giúp đỡ bệnh nhân trại phong Quỳnh Lập, trường câm

điếc Nghi Phú, lớp khuyết tật Nghi Diên..., phát động phong trào xây dựng quỹ

khuyến học góp phần nâng cao trình độ văn hoá cho con em giáo dân, động viên

con em nghèo khó vươn lên trong học tập. Các hoạt động văn hoá văn nghệ, thể

dục thể thao cũng được phát triển rộng khắp và có sự giao lưu giữa các xứ, họ

32

đạo, nhằm mở rộng quan hệ đoàn kết, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau.

Đặc biệt, để giải quyết tốt các mâu thuẫn nội bộ nảy sinh trong các gia

đình hoặc giữa các gia đình và xứ, họ đạo với nhau thì các tổ hoà giải, tổ tự quản

đã được thành lập và hoạt động rất có hiệu quả. Điển hình như vùng giáo huyện

Nghi Lộc, với những hình thức tuyên truyền, phối hợp giáo dục, cảm hoá đã

giúp cho hàng trăm thanh niên có quá khứ vi phạm pháp luật trở thành người có

ích cho xã hội, tiêu biểu như anh Phùng Bá Trị xóm Bắc Thạch - Nghi Thạch,

anh Mai Văn Nguyễn ở xứ Trang Cảnh - Nghi Xuân... từ những thanh niên có

quá khứ vi phạm, sau khi được các ban, nghành, đoàn thể phối hợp với gia đình,

xứ, họ giáo dục, cảm hoá đã phấn đấu trở thành người tốt, trở thành những tấm

gương làm kinh tế giỏi.Từ những việc làm thiết thực và đạt hiệu quả cao đó đã

củng cố mối quan hệ bề chặt trong cộng đồng, tình làng nghĩa xóm được vun

đắp, tối lửa tắt đèn có nhau, cùng nhau vượt qua khó khăn xây dựng xứ, họ đạo

đoàn kết, vững mạnh. Không những thế tình đoàn kết giữa đồng bào có đạo và

đồng bào không có đạo cũng được đề cao, phát huy dựa trên cơ sở tôn trọng

quyền tự do tín ngưỡng. Điều này thể hiện rất rõ ở các địa phương có đồng bào

lương - giáo sống xen nhau. Đến nay, ở huyện Nghi Lộc 97% giáo xứ, giáo họ,

xóm giáo không có tụ điểm phức tạp về ma tuý và tệ nạn xã hội. Năm 2006 toàn

huyện có 6.072 hộ giáo được công nhận gia đình văn hoá và tính đến giữa năm

2007 toàn huyện có 79 khu dân cư tiên tiến, 15 xóm giáo được công nhận làng

văn hoá. Tại Đại hội người Công giáo xây dựng và bảo vệ Tổ quốc khoá V,

nhiệm kỳ 2007-2012 của tỉnh nhà, UBĐKCG huyện Nghi Lộc đã vinh dự được

trao tặng bằng khen công nhận đạt danh hiệu xuất sắc trong phong troà thi đua

“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”.

Mặc dù truyền thống đoàn kết là nét nổi bật trong cộng đồng giáo dân

Nghệ An, nhưng qua khảo sát tại một số xứ, họ đạo ở Nghệ An hiện nay đang

nổi lên một số vấn đề đáng lo ngại. Theo tác giả có hai vấn đề nổi cộm sau:

- Thứ nhất, bên cạnh những hội đoàn công giáo được thành lập với mục

đích lành mạnh nêu trên thì vẫn tồn tại một số hội đoàn mượn danh nghĩa tôn

giáo được bí mật thành lập và có những hoạt động trái pháp luật, đặc biệt là đối

với những hội đoàn được xây dựng trong tầng lớp học sinh, sinh viên (như, hội

33

Sinh viên nhà Chúa), bởi những thành viên của các hội đoàn này thuộc tầng lớp

trí thức, đã có nhận thức nhưng độ chín của nhận thức ấy chưa đủ để nhận diện

mặt tốt, mặt chưa tốt nên rất dễ bị lôi kéo vào những hoạt động không đúng với

tôn chỉ và mục đích ban đầu. Hơn nữa, những hội đoàn này được những người

rất có uy tín, có khả năng trong giáo hội chịu trách nhiệm điều hành và có sự đầu

tư rất đặc biệt.

Đánh giá về mục đích thành lập và vai trò của các hội đoàn tôn giáo này

tác giả hoàn toàn đồng ý với ý kiến của GS nguyễn Tài Thư: "Các hình thức tổ

chức hoạt động Thiên chúa giáo đa dạng, phong phú, hấp dẫn thanh thiếu nhi,

lôi cuốn đông đảo tuổi trẻ vào các loại hình: toạ đàm, thuyết giảng, cầu nguyện,

dạy nghề, hoạt động văn hoá nghệ thuật, hoạt động từ thiện, thăm hỏi cứu trợ

người nghèo, người cô đơn không nơi nương tựa, phần khác xác lập thế giới

quan hữu thần về hệ tư tưởng tôn giáo. Bên cạnh hướng thiếu nhi làm điều nhân

nghĩa, ý thức hướng thiện, Thiên chúa giáo xác lập thế giới quan, hệ tư tưởng,

niềm tin vào những tín điều mù quáng, truyền bá lối sống thụ động, phản khoa

học và ý thức mê tín dị đoan trói buộc tâm linh lớp trẻ vào những luật lệ, lễ nghi

hà khắc, nhằm kiến tạo đức tin vào Chúa” [34, tr.217-218]. Hệ tư tưởng tôn giáo

ngày nay đang được tuyên truyền sâu rộng và gây tác động mạnh trong thế hệ trẻ

xác lập niềm tin tôn giáo, biến họ thành con chiên ngoan đạo, lực lượng tin cậy

của nhà thờ vào mục tiêu của cuộc đấu tranh giữa hệ tư tưởng vô thần và hữu

thần, giữa dân tộc và giáo hội" [34, tr. 221].

- Thứ hai là quan hệ giữa đảng viên gốc giáo và cộng đồng giáo dân trên

địa bàn họ sinh sống. Hầu hết đảng viên gốc giáo (đa số là kết nạp trước đổi

mới) không còn tham gia sinh hoạt tôn giáo. Ví dụ như, trong tổng số 62 đảng

viên tại Đô Lương chỉ có 14 đảng viên tham gia sinh hoạt tôn giáo. Thực trạng

này đã tạo nên trong cộng đồng giáo dân một nhận thức sai lệch rằng giữa Đảng

và tôn giáo của họ không thể chung sống một cách hoà thuận, người theo đạo

công giáo không thể là người cộng sản "một tôi không thể thờ hai chủ". Chính vì

lý do này nên đại đa số đảng viên giáo dân rất khó có mối quan hệ thật sự thân

thiện với cộng đồng, thậm chí có nhiều địa phương gần như có xu hướng giáo

dân cô lập đảng viên, vận động gia đình, họ hàng thuyết phục để các đảng viên

34

này trở lại tham gia sinh hoạt tôn giáo. Hầu như các đảng viên giáo dân rất e

ngại trong việc tiếp xúc với linh mục và các chức việc trong giáo hội vì họ sợ bị

hiểu lầm, bị đánh giá là không giữ vững lập trường... Từ những nguyên nhân

trên làm cho giáo dân hiểu không đúng về người đảng viên là giáo dân, coi họ

như là những kẻ phản đạo, ngược lại người đảng viên ở đây cũng rất khó phát

huy vai trò của mình trong cộng đồng. Vì vậy, hiện nay ở Nghệ An còn 66 xóm

giáo chưa có chi bộ, 76 xóm chưa có đảng viên. Cho đến hôm nay, mặc dù Đảng

đã cho phép đảng viên tham gia sinh hoạt tôn giáo để thoả mãn nhu cầu tín

ngưỡng của mình nhưng vẫn còn rất nhiều vấn đề khiến cho các đảng bộ, đảng

viên rất boăn khoăn. Có rất nhiều đảng viên giáo dân, thậm chí cả những thanh

niên là đối tượng đảng rất muốn gia nhập tổ chức đảng nhưng trong họ lý tưởng

của Đảng và hồng ân của Chúa đều cao trọng như nhau. Vấn đề này nếu không

sớm được giải quyết sẽ tạo nên những khó khăn không đáng có đối với đảng

viên giáo dân và với chính cộng đồng của họ, tạo điều kiện cho một số phần tử

cực đoan lợi dụng dân chủ tuyên truyền, xuyên tạc kích động gây mâu thuẫn,

chia rẽ trong nội bộ cộng đồng cũng như gây cản trở trong việc kết nạp đảng

viên mới cho chi bộ vùng giáo...

Như vậy, nhìn chung mặc dù vẫn còn nhiều bất cập, nhiều hạn chế cần

phải đấu tranh, khắc phục nhưng ở các vùng giáo Nghệ An truyền thống đoàn

kết cộng đồng được giữ gìn và phát huy hơn bất cứ cộng đồng nào khác. Các

chủ trương yêu thương đoàn kết giúp nhau thi đua phát triển kinh tế xoá đói

giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, xây dựng cơ sở an toàn

làm chủ, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, xây dựng làng, xóm, họ tộc, gia đình

hoà thuận yên vui... đã được các xứ, họ đạo ở Nghệ An tích cực hưởng ứng bằng

những việc làm thiết thực, mang ý nghĩa nhân văn cao cả, thể hiện tinh thần Thư

chung của Hội đồng giám mục Việt Nam “Sống phúc âm giữa lòng dân tộc để

phục vụ hạnh phúc của đồng bào” và thực thi lời khuyên của Thánh Phaolô

“Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được để sống hoà thuận với mọi

35

người”.

Chương 2

ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO CÔNG GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC GIỮ GÌN

TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI Ở VÙNG GIÁO NGHỆ AN HIỆN NAY

Tôn giáo là hệ thống những quan niệm tín ngưỡng, sùng bái một hay

nhiều vị thần linh và những hình thức nghi lễ thể hiện sự sùng bái ấy. Trong tác

phẩm "Chống Đuy Rinh", Ph. ĂngGhen đã viết: "Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua

chỉ là sự phản ánh hư áo - vào trong đầu óc con người - của những lực lượng bên

ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những

lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế" [20,

tr.437]. Sự bất lực của quần chúng trong đời sống hiện thực đã dẫn họ tới sự

nương tựa vào lực lượng siêu nhiên, khi mà thực tiễn chưa đủ sức xua tan thần

bí thì họ lại đến với thánh thần, gửi gắm những nguyện ước tương lai dù ở cõi

trần gian hay sau này "về bên kia thế giới".

Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, về bản chất, tôn giáo chỉ là một hình

36

thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội. Nếu tạm gác sự lợi dụng tôn giáo của

các thế lực chính trị sang một bên thì tôn giáo có tác dụng hai mặt đối với xã

hội, vừa tích cực lại vừa hạn chế, đó là:

- Thứ nhất, một mặt tôn giáo phản ánh khát vọng của con người, sự trăn

trở của họ về một thế giới tốt đẹp hơn; mặt khác, tôn giáo là sự kìm hãm quá

trình hiện thực hoá khát vọng đó bởi nó phản ánh hiện thực một cách hoang

đường, hư ảo.

- Thứ hai, một mặt tôn giáo làm tăng sự liên kết xã hội ; mặt khác, cũng là

nguy cơ của sự rạn nứt do sự sùng tín hay tính cục bộ cố hữu của nó.

- Thứ ba, một mặt tôn giáo hướng con người về những giá trị cao cả, đạo

đức, hướng thiện...; mặt khác, lại làm tăng tính thụ động của họ theo những giáo

điều có sẵn và bất di bất dịch.

- Thứ tư, một mặt tôn giáo gợi lên những suy tư tìm tòi, hướng tới xã hội

cao đẹp trên trời; mặt khác, lại ngăn cản sự phát triển của khoa học.

- Thứ năm, một mặt tôn giáo góp phần tạo dựng, tham gia sáng tạo các giá

trị văn hoá của dân tộc; mặt khác, lại kìm hãm sự sáng tạo hiện thực của con

người [40, tr.23-24].

Trong phạm vi cho phép của một luận văn, tác giả chỉ đi vào nghiên cứu,

phân tích sự ảnh hưởng hai mặt đó của đạo Công giáo - tôn giáo có số lượng tín

đồ đông nhất trên địa bàn tỉnh Nghệ An hiện nay đối với việc giữ gìn TT, ATXH

ở vùng giáo.

2.1. Những ảnh hưởng tích cực và mặt hạn chế của đạo công giáo đối

với việc giữ gìn trật tự, an toàn xã hội ở vùng giáo

2.1.1. Về mặt niềm tin

Niềm tin là một biểu tượng của định hướng giá trị được xác định vững

chắc trong nhận thức và chi phối hành động của con người. Niềm tin không chỉ

tác động đến trí tuệ mà còn tác động đến tình cảm. Nó có thể làm thay đổi động

cơ và lối sống của cá nhân.

Niềm tin tôn giáo là toàn bộ nhận thức thái độ của cá nhân đối với một

37

thực thể tối cao, đó là một niềm tin đặc biệt bởi lẽ đối tượng của niềm tin là các

lực lượng siêu nhiên, là thế giới không hiện thực mà con người chỉ có thể cảm

nhận được qua niềm tin và sự sùng kính.

Niềm tin của tín đồ càng mạnh mẽ thì tác động của ý chí trong việc kiểm

soát suy nghĩ, điều chỉnh hành vi và thực hiện các chuẩn mực tôn giáo, chuẩn

mực xã hội của tín đồ càng lớn, hay mức độ kiểm soát hành vi càng mạnh.

Chính vì vậy, niềm tin tôn giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ đến toàn bộ đời sống của

các tín đồ và cả cộng đồng của họ mà biểu hiện rõ nét nhất là trong việc giữ gìn

TT, ATXH.

Đạo công giáo - một trong những tôn giáo lớn của thế giới có khả năng

thực hiện rất thành công chức năng trên thông qua một hệ thống khá phức tạp,

đa dạng những điều răn dạy và cấm đoán trong giáo lý, giáo luật và các nghi lễ

tôn giáo.

So với các tôn giáo khác thì tâm thức tôn giáo của các giáo dân công giáo

là cao hơn, dường như đời sống tôn giáo hàng ngày gắn liền với họ, họ sống

trong tôn giáo. Mỗi chủ nhật, các tín đồ đến nhà thờ tham dự thánh lễ, cầu

nguyện và nghe linh mục giảng đạo. Đó cũng là nơi hàng ngày các tín đồ có thể

đến để học giáo lý, để cầu nguyện, để gặp gỡ "đấng linh thiêng" và để thực hiện

các nghi lễ tôn giáo khác như cưới xin, rửa tội ...

Đối với các tín đồ công giáo ở Nghệ An sống trong một điều kiện thiên

nhiên khá khắc nghiệt: hết giông bão lại hạn hán, chưa mưa đã úng, chưa nắng

đã hạn, đời sống vật chất còn nhiều khó khăn... điều đó đã góp phần rèn đúc

nhiều đức tính quý báu cho người giáo dân Nghệ An: kiên vững trong đức tin,

khiêm nhường, vị tha trong đời sống. Dường như trong khó khăn, niềm tin về

một thế giới ở bên kia vẫn là mơ ước của họ, vì thế qua khảo sát một số vùng

giáo ở Nghệ An cho thấy giáo dân không chỉ đi lễ nhà thờ vào Chủ nhật (đi lễ

vào thứ 7 hoặc chủ nhật là bắt buộc) mà hàng ngày, sau những khoảng thời gian

làm việc, buổi tối họ lại đến nhà thờ để cầu nguyện và thực hiện một số nghi lễ

tôn giáo khác.

Về mặt niềm tin, giáo lý, lễ nghi đạo công giáo luôn hướng con người tới

38

Chân - Thiện - Mỹ, như: không được bất hiếu với Cha mẹ, không được giết

người, không được dâm dục, không được gian tham lấy của người khác, không

được ham muốn vợ hoặc chồng người khác, không được làm chứng dối, không

được ham muốn của cải trái lẽ... Những tín đồ công giáo với đức tin "Chúa quan

phòng", họ cho rằng Chúa sẽ trừng phạt những người có tội lỗi vì không có hành

vi đạo đức hoặc vô đạo đức nào của con người mà Chúa không biết, "Thiên

Chúa là đấng hoàn hảo, toàn năng, hằng có đời đời, ở khắp mọi nơi, trọn tốt trọn

lành, thông biết mọi sự, nhân từ và công bằng vô cùng" [48, tr.61-62]. Vì vậy, ở

một góc độ nào đó, niềm tin tôn giáo này đã góp phần ngăn chặn các hành vi vô

đạo đức, trái luân thường đạo lý của các tín đồ công giáo.

Có thể nói rằng, trong đời sống đạo đức xã hội, trước một hành vi (kể cả

suy nghĩ) tín đồ công giáo đã nhìn nhận trách nhiệm của mình và như vậy trên

thực tế họ đã tham gia vào lợi ích xã hội do hành vi đạo đức cá nhân mang lại.

Tất nhiên ở đây chúng ta cũng phải thấy rằng mục tiêu của mọi hoạt động đạo

đức của các giáo dân suy cho cùng là vì lợi ích của chính bản thân cá nhân họ:

mong được Chúa ban phước lành, được Chúa chọn vào nước Trời trong ngày tận

thế để được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu nơi thiên đường. Còn lợi ích xã hội, lợi

ích cộng đồng có được mang lại chăng thì chỉ là hệ quả chứ không phải là mục

tiêu trực tiếp. Mục tiêu này kết hợp với đức tin "Chúa quan phòng" đã tạo cho

tín đồ sự tuân thủ các quy phạm đạo đức một cách đầy đủ hơn, thực hiện nghiêm

ngặt các lề luật mà Chúa đã phán dạy.

Niềm tin và nếp sống đạo đức đó thấm sâu vào trong tâm thức của mỗi tín

đồ, tạo nên cuộc sống thực sự đoàn kết, yêu thương nhân ái trong cộng đồng nói

chung và nếp sống gia phong, tôn ti trật tự, trên kính dưới nhường, thảo kính

Cha Mẹ trong mỗi gia đình nói riêng. Điều đó có ảnh hưởng tích cực tới việc giữ

gìn TT, ATXH. Giáo hội nói chung và giáo hội địa phương nói riêng, luôn khích

lệ các tín đồ của mình hãy thực hiện các đức tính nhân bản vì điều đó phù hợp

với đạo lý con người. Đây cũng là cơ sở khoa học để Đảng, Nhà nước ta hoạch

định và kiên trì với chính sách tôn giáo, càng khẳng định tính đúng đắn trong

quan điểm "đạo đức tôn giáo có nhiều điểm phù hợp với công cuộc xây dựng xã

39

hội mới".

Tuy vậy, với những tín đồ chân chính, tiến bộ, biết khai thác yếu tố tích

cực, hợp lý của đạo đức công giáo thì sẽ góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.

Ngược lại, với những kẻ còn "mượn danh Thiên Chúa để làm những điều phàm

tục, tầm thường", hoặc có những kẻ vì cuồng tín mà tuân phục một cách máy

móc, mù quáng, vì đức tin làm lu mờ lý trí... thì sẽ mang lại hậu quả xấu cho

cộng đồng xã hội, gây mất ổn định về an ninh chính trị và phá rối TT, ATXH ở

vùng giáo nói riêng và toàn tỉnh nói chung. Vụ việc Cầu Rầm (Vinh), Thanh

Hoà (Thanh Chương), Công Thành (Yên Thành), vụ Chúa Giêsu chảy máu ở

Nghi Phú (T hành phố Vinh)... là những ví dụ điển hình.

Hạn chế này được thể hiện rõ hơn trong việc chấp hành pháp luật. Đó là

trong khi đại đa số đồng bào công giáo rất có ý thức, gương mẫu chấp hành

đúng chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kết hợp hài hoà

giữa niềm tin tôn giáo với niềm tin xã hội tiến bộ... thì ở một số Xứ, Họ đạo do

trình độ dân trí của giáo dân còn thấp, đức tin dễ bị chuyển hoá thành cuồng tín

nên họ đã bị một số linh mục, BHG có ý đồ lợi dụng, lôi kéo họ tham gia vào

các hoạt động vi phạm pháp luật, như : đòi lại đất đai cơ sở cũ, lấn chiếm,

chuyển nhượng đất trái phép, tiếp tay tuyên truyền, phát triển đạo trái phép hoặc

đề ra các yêu sách đòi tự do tôn giáo vượt ra ngoài khuôn khổ của pháp luật.

Thật vậy, đối với các giáo dân, niềm tin tôn giáo chủ đạo của họ là hướng

đến Thiên Chúa mà người đại diện cho Chúa, có quan hệ trực tiếp nhất, ảnh

hưởng trực tiếp nhất đối với họ chính là linh mục. Ở Nghệ An, có những xứ, họ

đạo giáo quyền công giáo đè nặng lên đời sống của giáo dân, lời nói của linh

mục có sức nặng to lớn đối với họ. Rất đáng mừng là, với vai trò, uy tín đó, đa

số các linh mục đã biết phát huy thế mạnh của mình trong cộng đồng, dùng lời

hay lẽ phải để thay mặt Chúa khuyên nhủ các giáo dân biết giữ đạo và sống đạo,

kết hợp tốt giữa việc đạo và việc đời, sống có kỷ cương, tình thương, trách

nhiệm... nhưng cũng thật đáng tiếc là bên cạnh đó vẫn còn một số linh mục do

lập trường chính trị không vững vàng, có quan điểm sai trái hoặc do bị tác động

của kẻ địch bên ngoài nên đã có thái độ, hoạt động cố tình vi phạm pháp luật. Tệ

hại hơn, các cá nhân cá biệt này còn lợi dụng niềm tin tôn giáo của các tín đồ để

40

lôi kéo họ vào những việc làm sai trái của mình.

Đồng thời với sự ảnh hưởng của niềm tin đến việc chấp hành pháp luật thì

niềm tin tôn giáo cũng có ảnh hưởng rõ nét đến việc bài trừ các tệ nạn xã hội và

phát huy tình đoàn kết cộng đồng. Trước hết đã là tín đồ công giáo thì điều đầu

tiên cần phải biết và ghi nhớ là 10 điều răn của Thiên Chúa - xác định rõ trong

quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, việc nào nên

làm, được làm và việc nào không nên làm, không được làm. Trong đó có 6/10

điều răn trực tiếp đề cập đến việc tránh xa các tệ nạn xã hội. Để thực hiện tốt

những điều răn dạy, cấm đoán này của Chúa, các tín đồ phải thực sự có niềm tin

vào Thiên Chúa và kính Chúa trên hết mọi sự, có như vậy con người mới thoát

khỏi những ham muốn trần tục, tầm thường, mới xây dựng được một cộng đồng

"mình vì mọi người và mọi người vì mình". Những điều răn dạy, những quy

phạm đạo đức trên rất gần gũi và cần thiết với chủ trương xây dựng khu dân cư

văn hoá, an toàn làm chủ, không có tệ nạn xã hội. Thực tế cho thấy, ở các vùng

giáo tinh thần đoàn kết cộng đồng được phát huy cao hơn so với các địa phương

khác. Đặc biệt, các tệ nạn xã hội thì rất ít bắt gặp. Có những tín đồ phạm tội,

được sự khuyên nhủ chân thành của linh mục, sự tác động của gia đình và sự

động viên của cộng đồng nên đã biết ăn năn hối cải, trở thành những công dân -

giáo dân tốt, tiến bộ, có ích cho gia đình, cộng đồng và xã hội; thậm chí có

những trường hợp tín đồ phạm tội, qua xưng tội hoặc qua một số kênh thông tin,

dư luận trong cộng đồng, linh mục đã đến tận nơi động viên, khuyên nhủ họ tự

giác ra đầu thú, nhận tội trước chính quyền.

Như vậy chúng ta không thể phủ nhận những giá trị đạo đức của đạo công

giáo mà thông qua sức mạnh của niềm tin tôn giáo đã tác động to lớn đến phong

trào giữ gìn TT, ATXH. Để phát huy cao hơn nữa ảnh hưởng tích cực này chúng

ta cũng cần phải kiên quyết đấu tranh chống lại những kẻ mượn danh Thiên

Chúa để lợi dụng sự sùng kính của tín đồ nhằm mưu lợi ích cho cá nhân, cho

một cộng đồng hạn hẹp và thực hiện ý đồ bành trướng ảnh hưởng trên tất cả các

lĩnh vực khác của đời sống.

2.1.2. Về mặt giáo lý

Giáo lý là hệ thống lý luận, hệ tư tưởng của một tôn giáo bao gồm những

41

quy định, tín điều, lề luật, lễ nghi... thể hiện quan điểm, tư tưởng về thế giới

quan và nhân sinh quan của tôn giáo đó. Trong đó, kinh thánh được coi là nền

tảng của giáo lý.

Bất cứ tôn giáo nào cũng có Giáo lý riêng của mình, mang tính chất vừa

giáo dục, vừa ràng buộc các tín đồ, buộc các tín đồ phải học, hiểu và thể hiện sự

hiểu biết đó trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình cả về phần Đạo và phần Đời.

Đạo công giáo là một tôn giáo có hệ thống giáo lý rất chặt chẽ và phức

tạp. Nội dung giáo lý gồm nhiều quan điểm triết học và thần học siêu hình được

xây dựng có hệ thống từ đơn giản để giành cho tín đồ đến những học thuyết kinh

viện. Sự cụ thể hoá đó còn thể hiện ở giáo lý đạo Công giáo được biên soạn theo

từng bộ sách giáo lý giành cho từng lứa tuổi khác nhau, như Giáo lý phổ thông,

Giáo lý vào đời, Giáo lý hôn phối... Ý thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của

giáo lý đối với các tín đồ nên Giáo hội nói chung và Giáo hội Nghệ An nói tiêng

đã có những việc làm cụ thể để nâng cao nhận thức, tầm hiểu biết của các tín đồ

về giáo lý của tôn giáo mình. Qua khảo sát cho thấy, những sai lầm, tính chất

cuồng tín của các tín đồ chỉ có thể hình thành khi họ không hiểu đạo một cách

thấu đáo, trong lúc đó thực tế số đông thanh thiếu niên công giáo lại khá lười

nhác, không ham thích học giáo lý và đội ngũ giáo lý viên thì không đủ năng lực

để đáp ứng được đòi hỏi đề ra. Chính vì vậy Giáo hội Nghệ An đã hết sức quan

tâm và đầu tư một lượng không nhỏ thời gian, tiền bạc và công sức để tổ chức

các lớp học tập giáo lý. Các lớp giáo lý này được tổ chức theo từng năm và theo

lứa tuổi chia thành 4 khối, tương ứng với độ tuổi ở cấp học phổ thông của Bộ

giáo dục và đào tạo: Khối sơ cấp (Rước lễ, tuổi từ 7-8) tương ứng với lớp 1, 2,

3; Khối lớp căn bản (thêm sức, tuổi từ 9-12) tương ứng với lớp 4, 5, 6; Khối lớp

kinh thánh (tuổi từ 13-15) tương ứng với lớp 7, 8, 9; Khối lớp vào đời (tuổi từ

16-18) tương ứng với lớp 10, 11, 12. Cuối khối giáo lý vào đời có khối giáo lý

Hôn phối (giáo lý về hôn nhân và gia đình) với độ tuổi có thể kéo dài quá qui

định từ 18-25 tuổi, nghĩa là khi lập gia đình mới chính thức kết thúc giáo lý vào

đời của mỗi giáo dân. Ngoài các cấp học trên, còn có một lớp giáo lý đặc biệt

gọi là "Giáo lý dự tòng" chỉ dành riêng cho những người gia nhập kitô giáo,

bước đầu là giúp họ "thiết lập quan hệ mật thiết với Thiên Chúa" và cuối cùng

42

thực hiện "Nghi thức gia nhập kitô giáo". ở các lớp giáo lý này, nội dung học tập

được nghiên cứu rất công phu nhằm phù hợp với tâm lý, nhận thức, trình độ của

từng lứa tuổi và chú trọng đến đời sống đạo đức thường nhật chứ không quá

nặng về giáo lý (nhất là các lớp dưới 12 tuổi). Đặc biệt sự khô khan trong giáo lý

đã được "hoá giải" một cách khá khôn ngoan và biết dựa vào học vấn có sẵn của

các em ở nhà trường phổ thông để lý giải cho kinh thánh. Chính vì vậy, hệ tư

tưởng của đạo công giáo thông qua các lớp học giáo lý đã và đang được tuyên

truyền sâu rộng, gây tác động mạnh trong thế hệ trẻ, xác lập niềm tin tôn giáo,

biến họ thành con chiên ngoan đạo.

Tuy vậy, nói về ảnh hưởng của giáo lý đạo Công giáo đối với việc giữ gìn

TT, ATXH ở vùng giáo thì chúng ta phải thừa nhận mặt tích cực nhiều hơn là

hạn chế. Giáo lý đạo công giáo đã giành một phần đáng kể vận động giáo dân

biết làm những điều tốt lành thông qua một hệ thống khá phức tạp và đa dạng

những điều răn dạy, cấm đoán, những lời giáo huấn... Ngay trong giáo luật đạo

công giáo cũng đã qui định rõ nhiệm vụ chủ chốt của giáo dân là phải thực hiện

10 điều răn của Chúa trời, 6 điều răn của hội thánh, 20 điều qui định nghĩa vụ

trong quan hệ với linh hồn, đồng loại và bản thân, 7 mối tội đầu và 7 đức cải tạo

7 mối, 8 mối phúc thật, 7 phép bí tích... Giáo dân phải học hỏi giáo lý, phải đọc

kinh cầu nguyện theo những qui định rất cụ thể. Tất cả những điều đó có tác

động quan trọng đến hành vi xã hội của con người, thể hiện trước hết trong việc

đấu tranh phòng chống các loại tội phạm, các tệ nạn xã hội, thực hiện tốt chủ

trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Trước hết, giáo lý đạo Công giáo đã truyền bá cho các tín đồ 10 điều răn

của Thiên Chúa:

Một, Phải thờ kính Chúa trên hết mọi sự

Hai, Không được kêu tên Chúa vô cớ

Ba, Giữ ngày chủ nhật

Bốn, Thảo kính cha mẹ

Năm, Không được giết người

Sáu, Không được dâm dục

43

Bảy, Không được gian tham lấy của người khác

Tám, Không được làm chứng dối, che dấu sự dối trá

Chín, Không được ham muốn vợ (chồng) người khác

Mười, Không được ham muốn của cải trái lẽ.

Ở đây ta thấy có 6/10 điều răn có ảnh hưởng trực tiếp tới việc giữ gìn TT,

ATXH vùng giáo và có nhiều điểm phù hợp với luật pháp của Nhà nước ta (từ

điều răn thứ 4 đến điều răn thứ 10), như:

Điều răn của Chúa Luật hình sự của nước CHXHCNVN

Điều 4, Thảo kính cha Chương XV, Điều 151 quy định “Tội ngược đãi

mẹ hành hạ ông bà, cha mẹ,… người có công nuôi

dưỡng mình”.

Điều 5, không được giết Chương XII, Điều 93, quy định “Tội giết người”.

người

Điều 6, không được dâm Chương XII, Điều 111 quy định “Tội hiếp dâm”;

dục Điều 113 quy định “Tội cưỡng dâm”…

Điều 7, không được gian Chương XIV, Điều 133 quy định “Tội cướp tài

tham lấy của người khác sản”; Điều 135 quy định “Tội cưỡng đoạt tài sản”;

Điều 138 quy định “Tội trộm cắp tài sản”;

Điều 139 quy định “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản”;

Điều 8, không được làm Chương XXII, Điều 313 quy định “Tội che dấu tội

chứng dối, che dấu sự phạm”;

dối trá Điều 314 quy định “Tội không tố giác tội phạm”.

Điều 9, không được ham Chương XV, Điều 147 quy định “Tội vi phạm chế

muốn vợ (chồng) người độ một vợ, một chồng”.

khác

Điều10, không được ham Chương XVI, Điều 153 quy định “Tội buôn lậu”;

của cải trái lẽ Điều 155 quy định “Tội sản xuất, tàng trữ, vận

chuyển, buôn bán hàng cấm”;

44

Điều 156 quy định “Tội sản xuất, buôn bán hàng

giả”;

Chương XXI, Điều 278 quy định “Tội tham ô tài

sản”; Điều 279 quy định “Tội nhận hối lộ”…

Hoặc tại điều răn thứ 2 "không được kêu tên Chúa vô cớ" cũng có điểm

tương đồng với chỉ thị 37/CTTW ngày 02/07/1998 của Bộ chính trị "Mọi hành

vi lợi dụng hoạt động tôn giáo để làm mất trật tự an toàn xã hội, phương hại đến

nền độc lập dân tộc, phá hoại chính sách đoàn kết toàn dân, chống lại Nhà nước

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gây tổn hại các giá trị đạo đức, lối sống,

văn hoá của dân tộc, ngăn cản tín đồ, chức sắc các tôn giáo thực hiện nghĩa vụ

công dân đều bị xử lý theo pháp luật. Hoạt động mê tín phải bị phê phán và loại

bỏ".

Ngoài 10 điều răn của Thiên chúa, Giáo hội cũng có 6 điều răn và 7 phép

bí tích nhưng chủ yếu là để ràng buộc tín đồ vào các nghi lễ tôn giáo và củng cố

đức tin. Gần hơn với sự điều chỉnh hành vi của các tín đồ, giáo hội đã có 20 điều

qui định nghĩa vụ trong quan hệ với linh hồn, đồng loại và bản thân, 20 điều qui

định này cũng có ảnh hưởng tích cực khá rõ nét đối với việc giữ gìn TT, ATXH

ở vùng giáo, đặc biệt trong vấn đề phát huy tình đoàn kết cộng đồng, đó là: Lấy

điều thiện mà khuyên người; Hướng dẫn cho kẻ mê muội; Tha thứ cho kẻ khinh

rẻ mình; Nhịn kẻ xúc phạm đến mình; Răn bảo kẻ tội lỗi; An ủi người lo âu; Cầu

nguyện cho người sống và người chết; Cho kẻ đói ăn; Cho kẻ khát uống; Cho kẻ

rách mặc; Cho khách ở nhờ; Cho người làm thuê; Thăm viếng người hoạn nạn;

Chôn táng người chết; Khiêm nhường; Không hà tiện; Đoan chính; Không tị

hiềm; Siêng năng; Ăn uống điều độ.

Bên cạnh đó giáo lý đạo Công giáo đã dạy về sự tội cùng những sự dữ bởi

tội mà ra. Trong đó nêu rõ, Tội là sự phạm lề luật Đức Chúa Trời và có hai

giống tội, một là tội tổ tông truyền - tức là tội ông Ađam và bà Eva phạm xưa vì

chẳng vâng lời Đức Chúa Trời răn cấm và con người do một tổ tông ấy mà sinh

ra thì cũng mắc phải tội ấy; hai là tội riêng ta phạm - nghĩa là "khi ta động lòng

lo, miệng nói, mình làm sự gì lỗi lề luật Đức Chúa Trời, hay là bỏ những việc ta

45

phải làm". Tội thì có tội nặng và tội nhẹ. Những tội ấy, giáo lý đạo Công giáo

tóm lại thành 7 mối, gọi là 7 mối tội đầu, đó là những nết xấu của con người mà

cần phải tránh và là cội rễ sinh ra nhiều tội khác: Kiêu ngạo, hà tiện, mê tà dâm,

ghen tuông, mê ăn uống, nóng giận, lười biếng. Để cải tạo 7 mối tội đầu này thì

cần có 7 đức, đó là: khiêm nhường chớ kiêu ngạo, rộng rãi chớ hà tiện, giữ mình

sạch sẽ chớ mê dâm dục, hay nhịn chớ hờn giận, kiêng bớt chớ mê ăn uống, yêu

người chớ ghen ghét, siêng năng việc Đức Chúa Trời chớ làm biếng. Cùng đồng

thời tác động đến hành vi của các tín đồ công giáo, giáo lý đạo Công giáo đã đưa

ra 8 mối phúc thật vừa thể hiện tính chất giáo dục hướng con người đến với cái

thiện lại vừa thể hiện sự đề cao vai trò tuyệt đối của Đức Chúa Trời, đó là:

Thứ nhất, ai có lòng khó khăn ấy là phúc thật vì chứng nước Đức Chúa

Trời là của mình vậy.

Thứ hai, ai hiền lành ấy là phúc thật vì chứng đất Đức Chúa Trời là của

mình vậy

Thứ ba, ai khóc lóc ấy là phúc thật vì chứng sẽ được an ủi vậy

Thứ tư, ai khao khát nhân đức lòng lành ấy là phúc thật vì chứng sẽ được

no đủ vậy

Thứ năm, ai thương xót người ấy là phúc thật vì chứng mình sẽ được

thương xót vậy

Thứ sáu, ai giữ lòng sạch sẽ ấy là phúc thật vì chứng sẽ được thấy mặt

Đức Chúa Trời vậy

Thứ bảy, ai làm cho người hoà thuận ấy là phúc thật vì chứng sẽ được gọi

là con Đức Chuá Trời vậy

Thứ tám, ai chịu khốn nạn vì đạo ngay ấy là phúc thật vì chứng đất Đức

Chúa Trời là của mình vậy.

Những nội dung này hoàn toàn phù hợp với ý bài giảng đầu tiên trên núi

của Chúa kitô là: "Mối phúc nước trời dành cho người nghèo khó, hiền lành, sầu

khổ, công chính, thương người, trong sạch bảo vệ Chúa và công chính" [16, tr.1850].

Như vậy, giáo lý hội thánh đã giành một phần khá lớn những lời răn dạy

đối với các tín đồ để họ trở thành những con người công chính. Trong gần 160

đề mục trong Tân ước có 21 đề mục hoàn toàn dành cho việc răn dạy con người

46

điều chỉnh hành vi cho phải lẽ trong đời sống cộng đồng. Chính sự quan tâm

thích đáng đó đã góp phần tạo nên tâm thức tốt đẹp cho các tín đồ luôn tự ý thức

điều chỉnh mình. Một người tốt là một người biết yêu thương đồng loại, hiền

lành, chất phác, biết tránh xa các đam mê tội lỗi, giữ gìn bản thân mình... Có thể

nói, tất cả những điều răn dạy này rất gần gũi, thiết thực đối với mỗi con người

trong cuộc sống và mang đậm nét nhân văn cao cả trong đời sống cộng đồng.

2.1.3 Về mặt tổ chức giáo hội

Giáo hội công giáo có một hệ thống tổ chức hoàn bị, chặt chẽ nhất trong

các tôn giáo. Hệ thống tổ chức này là sự tinh lọc, thừa kế các mẫu tổ chức Nhà

nước mà tôn giáo đó đã từng biết trong các chế độ khác nhau, trong các thời

điểm lịch sử khác nhau. Tính chặt chẽ của nó còn đựoc sự hỗ trợ tích cực của

giáo lý, lễ nghi và giáo luật. Hệ thống tổ chức của giáo hội công giáo đem lại sự

thống nhất cao từ người có quyền lực cao nhất là Giáo hoàng đến các tín đồ.

Thông qua nó, mọi tín điều đều được "cố định hoá", "ổn định hoá" theo ý muốn

của chính Giáo hoàng và các chủ chăn. Giáo lý hội thánh công giáo luôn tìm

mọi cách đề cao vai trò tuyệt đối của Thiên Chúa mà kẻ đại diện nơi trần thế là

Giáo hội.

Trục cơ bản của tổ chức giáo hội Rôma là: Giáo hoàng - Giám mục - Linh

mục - Phó tế - đó là những người đại diện cho Thiên Chúa có quyền lực tối cao.

Quyền lực này không chỉ vì sự khoa học trong cách phân bố mà nguyên do căn

bản là nó được giáo lý, giáo luật, lễ nghi suy tôn và khẳng định. Mọi tín đồ công

giáo đều chịu áp lực từ tất cả các bộ phận của hệ thống một cách có chủ ý từ

tầng lớp giáo sỹ. Vòng cương toả đó điều chỉnh mọi hành vi, ý nghĩ, những sự

kiện lớn trong đời người và nó tạo ấn tượng sâu đậm trong các tín đồ. Khó tìm ra

một tôn giáo nào mà trong bộ máy của nó có đủ cả 3 bộ phận của một Nhà nước.

Bộ máy "Hành pháp" (từ Giáo hoàng đến linh mục quản xứ), "Lập pháp" (Giáo

hoàng và các thánh bộ, văn phòng), "Tư pháp" (Giáo hoàng và toà án tôn giáo).

Là một bộ phận của giáo hội Công giáo hoàn vũ, giáo hội Công giáo Việt

Nam về cơ bản mang những đặc điểm chung về hệ thống tổ chức, hoạt động tôn

giáo. Song trong từng thời kỳ lịch sử truyền giáo phát triển đạo mà hệ thống tổ

chức, sinh hoạt tôn giáo của Công giáo Việt Nam có những biểu hiện đặc thù

riêng.

Giáo hội Việt Nam được tổ chức theo hệ thống dọc từ trên (phạm vi quốc

47

gia) đến cơ sở (xã), đó là hệ thống hết sức chặt chẽ. Đứng đầu là Hội đồng giám

mục (phạm vi quốc gia) gồm Chủ tịch Hội đồng và Phó chủ tịch; Tiếp đến là

Địa phận (phạm vi ở một số Tỉnh tổ chức thành địa phận); Rồi đến Hạt (bao

gồm nhiều Xứ - phạm vi giáo dân trong huyện hoặc lân cận - có linh mục quản

Hạt); Sau đó đến Xứ (gồm nhiều Họ thành Xứ, bao gồm: xã hoặc một số xã - có

Ban hành giáo hoặc Hội đồng giáo xứ, Ban chánh trương xứ điều hành); Cuối

cùng là đến Họ (gồm nhiều gia đình có cùng tên thánh - có Ban chùm điều

hành). Ngoài hệ thống tổ chức trên, có nơi còn tổ chức dưới Họ, như: Giáp (liên

xóm), Lân (Xóm), Dâu (Ngõ, cụm dân cư), Tích (nhóm dân cư).

Hệ thống tổ chức của giáo hội Công giáo Việt Nam được thể hiện theo sơ

đồ sau: GIÁO HỘI VIỆT NAM

Hội đồng Giám mục

GIÁO TỈNH Tổng Giám mục

GIÁO PHẬN Giám mục

GIÁO HẠT Linh mục quản hạt

GIÁO XỨ Linh mục chính xứ

Riêng giáo phận Vinh hiện có 14 giáo hạt, 141 giáo xứ - trong đó trên địa

bàn tỉnh Nghệ An có 9 giáo hạt và 68 giáo xứ, 323 họ đạo, 304 nhà thờ, 1 giám

mục, 1 phó giám mục và 76 linh mục. Toà giám mục nằm trên địa bàn Xã Đoài,

huyện Nghi Lộc. Giáo hội Nghệ An hiện có 297 hội đoàn, tập hợp được 5.299

giáo dân trong đó có 59 hội đoàn với 2901 giáo dân mang tính chất chính trị - xã

48

hội, như: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội cao niên... các hội này được tổ chức

và chỉ đạo hoạt động thống nhất từ phía Giáo hội và người chịu trách nhiệm

chính là Linh mục.

Với tổ chức chặt chẽ và rộng rãi đó, đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời

sống của cộng đồng giáo dân. Đối với mỗi giáo dân, về mặt tổ chức họ thuộc

một giáo phận mà người đứng đầu là Giám mục, người có quyền tuyệt đối đối

với họ. Trong giáo xứ, họ được sự chăn dắt của các linh mục quản xứ. Linh mục

là chỗ dựa tinh thần, là người dìu dắt khuyên bảo họ trong cả cách sống Đạo và

Đời. Nấc thang cuối cùng kiểm soát họ là Ban hành giáo - bộ phận giúp việc của

linh mục với người đứng đầu là Chánh trương, trùm họ hay trưởng ban hành

giáo. Bộ giáo luật qui định rõ thân phận của tín đồ với tinh thần chủ đạo là phải

tuyệt đối vâng lời tầng lớp giáo sỹ và góp phần mở mang nước Chúa. Để đạt

được điều đó, họ được giảng dạy giáo lý từ khi còn thơ ấu, khi chưa hiểu được ý

nghĩa của những lời dạy đó và hàng tuần, cùng các ngày lễ buộc phải có mặt ở

Nhà thờ để được nghe lời cắt nghĩa của linh mục. Lời giảng dạy của linh mục là

lời Chúa, giáo dân chỉ được phép nghe và làm theo bởi họ không có đặc ân hiệp

thông với Chúa để có thể có đủ khả năng hiểu hết ý nghĩa sâu xa của Thánh

kinh. Họ tin tưởng đặt niềm tin vào linh mục. Vì vậy, với những linh mục có tư

cách đạo đức tốt, tư tưởng tiến bộ thì sẽ ảnh hưởng tốt đối với cộng đồng giáo

dân và ngược lại, với những linh mục bị thoái hoá biến chất, sống theo xu hướng

"thế tục hoá" sẽ ảnh hưởng xấu đến cộng đồng giáo dân, đặc biệt là đến một bộ

phận tín đồ có nhận thức thấp kém, kích động họ làm những việc trái pháp luật,

gây mất ổn định về TT, ATXH ở vùng giáo nói riêng và của cả xã hội nói

chung.

Cùng với ảnh hưởng của tổ chức giáo hội đối với niềm tin tôn giáo, trong

việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước

Giáo hội cũng rất chú trọng gây ảnh hưởng ở mức tối đa nhất. Ở đây, giáo hội đã

bày tỏ công khai quan điểm của mình "Trước mắt chấp hành các chủ trương của

Nhà nước Việt Nam để đạt được quan hệ ngoại giao giữa Vaticăng và Việt

Nam" (Điều 3, thuộc Chương trình hướng tới kỷ niệm năm thánh 2000). Đối với

các chủ trương, chính sách phù hợp với lợi ích của giáo hội, các chức sắc vận

49

động giáo dân thực hiện một cách triệt để; Ngược lại, đối với những chủ trương,

chính sách mang tính nghĩa vụ hoặc chưa mang đến lợi ích trước mắt, họ thường

thực hiện một cách nửa vời. Đặc biệt, có một số chức sắc tôn giáo có biểu hiện

xa lánh chính quyền, trên các giáo đường họ khôn khéo nêu lên những hạn chế,

cách đối xử thiếu công bằng đối với công giáo với một tinh thần thiếu ý thức xây

dựng. Trong khi Đảng đang phát động phong trào chỉnh đốn Đảng, làm trong

sạch bộ máy chính quyền và mạnh dạn nêu lên những khuyết điểm của mình thì

tại các giáo đường, các linh mục tìm cách nhắc lại vấn đề này để làm xói mòn

niềm tin vào Đảng nơi quần chúng. Theo báo cáo của Ban dân vận các huyện thì

vẫn còn một số linh mục có những biểu hiện chống đối ngấm ngầm và khôn

khéo. Họ thường đặt Chính quyền vào tình thế giải quyết các vụ việc khi nó đã

xảy ra, như một số vụ việc mà chúng ta đã nêu ở phần thực trạng.

Bên cạnh đó, giáo hội còn tích cực kêu gọi sự đóng góp của giáo dân

(thực chất là bắt buộc, nghĩa vụ) để tiến hành xây dựng lại cơ sở vật chất thờ tự

với quy mô rất lớn. So với thu nhập của ngừơi nông dân thì những đóng góp này

không phải là nhỏ và có tác động xấu đến đời sống của bà con giáo dân. Đây là

vấn đề khá nhạy cảm và tế nhị, bởi dù khoản đóng góp lớn hay nhỏ, dù hoàn

cảnh gia đình khó khăn đến mức độ nào thì bà con giáo dân vẫn tìm mọi cách

đóng đủ và đúng thời hạn. Xin đơn cử một ví dụ: tại một số giáo xứ thuộc huyện

Yên Thành, hàng năm giáo dân phải đóng góp các khoản như sau: nuôi linh mục

mỗi khẩu 1kg thóc/năm, đóng góp cho giáo họ 5kg thóc/năm, đóng góp cho giáo

xứ 1kg thóc/năm, các ngày lễ trong giáo xứ 6.000 đồng/khẩu, xây dựng nhà thờ:

100.000 - 500.000 đồng/ hộ. Trong vấn đề này, thực ra Chính quyền vẫn chưa

thể tìm ra phương pháp hợp lý nào để can thiệp. Qua đó chúng ta càng nhận rõ

sức mạnh của tín lý, đức tin và quyền lực của giáo hội cũng như những ảnh

hưởng to lớn của nó đối với đời sống của bà con giáo dân. Ngay trong chương

trình hoạt động kỷ niệm năm thánh 2000, giáo hội công giáo Việt Nam cũng đã

đặt ra mục tiêu "Quyết tâm xây dựng bằng được tầng lớp giáo dân tuyệt đối

vâng lệnh Chúa, trung thành với giáo luật, thực hiện mọi chủ trương của

Vaticăng". Rõ ràng để đạt được mục tiêu đó thì hơn ai hết, giáo hội phải hiểu

rằng cần phải có cộng đồng giáo dân đông đảo về số lượng, mạnh về chất lượng

50

cả trong phần Đạo và phần Đời. Như vậy, với tham vọng không ngừng củng cố

và mở rộng ảnh hưởng của mình đối với cộng đồng giáo dân, mở rộng nước

Chúa... vô hình chung, tham vọng này lại có ảnh hưởng tích cực đối với việc xây

dựng một cộng đồng giáo dân mạnh về kinh tế, đoàn kết về tinh thần và tuyệt

đối không có tệ nạn xã hội. Đức cố Giám mục Phêrô Gioan Trần Xuân Hạp,

Giám mục địa phận Vinh đã khẳng định: "Để tránh xuống cấp về luân lý do ảnh

hưởng của các trào lưu văn hoá độc hại từ ngoài vào thì người kitô hữu chúng ta

có thể đưa ra vài phương hướng chung để cộng tác và tương trợ, hầu góp phần

gạn đục khơi trong các nguồn văn hoá nói trên, nhằm tránh sự xuống cấp về đạo

đức phong hoá. Trước tiên: chúng ta cần tích cực tham gia vào việc ngăn ngừa

các tệ nạn, đẩy lùi mọi tư tưởng lệch lạc, giải thích cho mọi người thấy được hậu

quả đen tối đang ẩn nấp đằng sau những lớp vỏ hào nhoáng của các nền văn hoá

từ ngoài vào. Giữa muôn vàn cái tốt và cái xấu lẫn lộn, chúng ta cần cố gắng

dùng lý trí của mình, đặc biệt là lý trí được soi sáng bởi mạc khải của Thiên

Chúa để lượng định vấn đề cho đúng đắn" [14, tr.179-180]. Đồng thời, khi nói

về mô hình giáo xứ lý tưởng, Giám mục Trần Xuân Hạp cũng khẳng định một

trong những tiêu chuẩn đó là "Một cộng đoàn sống bác ái, yêu thương, tương trợ

nhau. Trong đó, mỗi cá nhân trong giáo xứ phải cố gắng thực thi công bình và

bác ái; Mỗi gia đình trong giáo xứ phải sống yêu thương, thuận hoà, cha mẹ

chăm lo giáo dục con cái. Trong giáo xứ phải loại bỏ mọi bất đồng, dị biệt, đoàn

kết nên một. Tích cực hợp tác, đóng góp công của để phát triển cộng đồng,

thăng tiến giáo dục, dứt bỏ tệ nạn xã hội. Giáo xứ có quỹ tình thương để giúp đỡ

người già cả neo đơn, gia đình bị hoạn nạn, giúp đỡ các học sinh nghèo" [14,

tr.178-179].

Có thể khẳng định rằng, nếu nói về ảnh hưởng của tổ chức giáo hội đối

với vấn đề tệ nạn xã hội và đoàn kết cộng đồng thì đó chính là ảnh hưởng tích

cực. Một cộng đồng giáo dân đoàn kết, khoẻ mạnh cả về vật chất lẫn tinh thần sẽ

là nền tảng vững chắc cho sự khẳng định vị trí của tổ chức giáo hội trong cộng

đồng chung cả xã hội.

Tuy nhiên, ở đây có một vấn đề chúng ta cần quan tâm là Giáo hội đã và

đang có chủ trương tập hợp giáo dân vào các hội đoàn theo lứa tuổi và giới tính

51

"Đoàn ngũ hoá giáo dân theo từng tầng lớp" (Điều 7, chương trình kỷ niệm năm

thánh 2000). Theo khảo sát của Ban tôn giáo tỉnh tại một số xã ở huyện Nghi

Lộc, Quỳnh Lưu, Tân Kỳ, Đô Lương, được biết tuy năng lực của những người

đứng đầu các tổ chức này chưa cao song hầu như giáo dân đều tham gia sinh

hoạt rất tích cực. Các buổi sinh hoạt được ấn định vào những thời điểm cụ thể

trong tuần và thường xuyên được tổ chức (có những địa phương gần như đều

đặn mỗi tuần sinh hoạt một lần). Nội dung các buổi sinh hoạt không chỉ bó hẹp

trong phạm vi tôn giáo mà đề cập một cách rất cụ thể đến phát triển sản xuất,

xoá đói giảm nghèo, giáo dục, tránh các tệ nạn xã hội... Hoạt động của các hội

đoàn rất được các linh mục quan tâm và động viên kịp thời nên phát huy hiệu

quả khá rõ. Nếu chỉ xét đơn thuần về mặt tác dụng của nó đối với đời sống vật

chất và tinh thần của giáo dân thì rõ ràng là các hội đoàn có ảnh hưởng rất lớn và

lẽ dĩ nhiên ảnh hưởng này ở một mức độ nào đó đã có phần lấn lướt Chính

quyền. Giáo hội đang cố tình tự tổ chức cuộc sống cho họ mà không cần đến tác

động của Đảng và Chính quyền. Đây chính là chủ trương lớn mà giáo hội công

giáo đang tìm mọi cách để thực hiện học thuyết xã hội công giáo, xây dựng xã

hội công giáo song song với xã hội đang tồn tại. Nếu cứ để tình trạng này tiếp

tục tái diễn sẽ có rất nhiều vấn đề phức tạp xảy ra một khi có những biến động

lớn trong đời sống chính trị của các địa phương này. Mặc dù trong thời điểm

hiện nay, Giáo hội Việt Nam nói chung, Giáo hội Nghệ An nói riêng đã có nhiều

cải cách và đổi mới trong quan điểm, thế nhưng trên nguyên tắc vẫn có rất nhiều

vấn đề chưa giải quyết được, ở địa phương này hay địa phương khác, lúc này

hay lúc khác vẫn còn tồn tại nhiều hiện tượng vi phạm pháp luật, tạo ảnh hưởng

không nhỏ đến tiến trình hoà nhập, đồng hành cùng dân tộc.

2.1.4 Về truyền thống giáo dục trong gia đình

Trong xã hội, gia đình được coi là cộng đồng đầu tiên và là tế bào để tạo

nên xã hội loài người. Gia đình cũng là nơi đầu tiên phát sinh và nuôi dưỡng

những nhu cầu, tình cảm, khuynh hướng của con người. Vì vậy, từ cổ chí kim,

việc tạo lập nên một gia đình tốt đẹp cùng với những quan hệ đúng dắn trong đó

đã được đề cập đến nhiều trong pháp luật của các quốc gia và cả trong các tôn

giáo khác nhau. Mặc dù còn nhiều hạn chế về mặt thế giới quan và nhân sinh

52

quan nhưng các tôn giáo dựa trên các học thuyết duy tâm đều muốn khuyên răn

con người hướng thiện, tránh những lầm lạc ở cuộc sống trần gian và thoát khỏi

sự trừng phạt ở thế giới bên kia.

Đạo công giáo - một trong những tôn giáo lớn của thế giới đã rất chú

trọng dến gia đình và truyền thống giáo dục trong gia đình, bởi đó là cái nôi nuôi

dưỡng, giáo dục tín hữu sống đạo và sống đời, là nơi thể hiện và phát triển lòng

tin, cậy, mến. Những bài học đầu tiên về cầu nguyện, về mến Chúa, yêu người...

đều được học và dạy dưới mái ấm gia đình. Gia đình công giáo vì vậy, được

xem là hội thánh tại gia. Giáo hội công giáo Việt Nam cũng đã khẳng định "Gia

đình là hội thánh tại gia giữa lòng cộng đồng Kitô. Gia đình là trường học đầu

tiên. Cha mẹ là những người giáo dục đầu tiên. Sách giáo khoa đầu tiên là những

quan hệ trong gia đình giữa cha mẹ với nhau, giữa cha mẹ và con cái, giữa gia

đình này với gia đình khác" (Thư mục vụ của Hội đồng giám mục Việt Nam

ngày 17/10/1998). Điều này được thể hiện rất rõ trong thực tiễn đời sống của

cộng đồng giáo dân. Tình cảm của người công giáo được dựa trên mối liên hệ

với Chúa và gắn liền với những hành động. Tình cảm ấy xuất phát từ ngay chính

gia đình. Khi họ yêu mến tôn giáo thì luôn động viên, dạy dỗ con cái đi theo,

giành thời gian học hỏi về đạo. Qua khảo sát ở một số vùng giáo Nghệ An cho

thấy có gần 70% số giáo dân đến với tôn giáo do truyền thống gia đình, 15% số

giáo dân cho biết, họ theo đạo do hiểu biết về đạo, số còn lại là vì những lý do

khác nhau (như khi kết hôn với vợ hoặc chồng là người theo đạo thì họ cũng

nhập đạo thông qua các nghi lễ cần thiết để trở thành tín đồ công giáo). Như

vậy, số giáo dân đến với tôn giáo do truyền thống gia đình là rất lớn - điều này

cho thấy ngay từ khi còn nhỏ các em đã được gia đình nuôi dưỡng, giáo dục,

hình thành dần niềm tin tôn giáo. Trước 1 tuổi các em đã được tập những thói

quen như: chào Chúa, cúi đầu khoanh tay; còn khi mẹ hát: "Hoan hô, vinh danh

Chúa"... thì bé dơ 2 tay; ở 2 tuổi, bé được rèn dạy "Cảm ơn Chúa: vì ông mặt

trời, cô gió, cô mưa, hoa đẹp, chim hót hay... vui sống dưới cái nhìn âu yếm của

Chúa. Chúa nhìn thấy bé khoẻ đẹp, bé ăn hết chén cơm, Chúa vui quá!", “Chào

Chúa con ngủ, chúc Chúa ngủ ngon...". Như vậy, ngay khi còn nhỏ các em bé đã

được làm quen với hình ảnh, khái niệm và vai trò của Chúa từ những điều giản

53

dị nhất trong cuộc sống. Khi các em lớn lên, việc nuôi dưỡng, phát triển niềm tin

ấy được thể hiện ở việc giáo dục, dạy bảo làm theo những lời răn dạy của Chúa.

Nếu cầu nguyện là hành vi thể hiện khá rõ nét về niềm tin tôn giáo thì kết quả

khảo sát tìm hiểu hành vi của cha mẹ đối với việc cầu nguyện của con cái cho

thấy gần 80% giáo dân cho biết, họ thường xuyên thúc dục con em cầu nguyện.

Việc thúc dục con cái cầu nguyện của giáo dân có tính chất giáo dục con cái đi

theo niềm tin của cha mẹ, từ đó hình thành tình cảm đối với Chúa giống như tình

cảm của chính họ. Một nữ giáo dân cho biết: "Thúc dục con cháu cầu nguyện là

việc làm cần thiết, hình thành cho con cháu một thói quen trước khi con trẻ chưa

nhận ra được điều cần thiết của cầu nguyện, sau đó trẻ sẽ dần dần nhận thức ra

điều đó". Thậm chí ở các gia đình công giáo, các ông bố, bà mẹ còn tổ chức

những buổi cầu nguyện chung trong gia đình, ở đó họ vừa làm gương cho con

cháu, vừa định hướng và củng cố, phát triển niềm tin cho con cháu đối với tôn

giáo của mình. Việc cầu nguyện trong gia đình và việc kiểm điểm đời sống hàng

ngày làm cho gia đình yêu thương và sống hợp nhất. Chính bầu không khí yêu

thương đầm ấm trong gia đình: Vợ chồng chung thuỷ, con cái hiếu thảo, anh chị

em hoà thuận... là trường dạy yêu mến. Người ta học biết yêu thương nhờ được

yêu thương.

Truyền thống giáo dục trong gia đình công giáo một mặt có vai trò định

hướng niềm tin cho con cái, khuyên bảo con người sống hướng thiện, nhưng mặt

khác, nó lại hình thành thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học, và nếu

nói đó là truyền thống giáo dục trong gia đình thì đa số (nếu không muốn nói là

tuyệt đối) các em không có sự lựa chọn khác.

Với tư duy triết học biện chứng, chúng ta không phủ nhận những ảnh

hưởng tích cực của truyền thống giáo dục trong gia đình công giáo đối với việc

giữ gìn TT, ATXH vùng giáo. Ở đây, giữa đạo đức đạo Công giáo với chủ

trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta có nhiều nét tương đồng với nhau,

thể hiện rõ nhất là những qui định trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái, quan hệ

vợ - chồng.

- Thứ nhất, Nếu kinh thánh đạo Công giáo đã răn dạy "Con cái phải thảo

kính với cha mẹ" (Điều răn thứ 4), thảo kính cha mẹ từ trong ý nghĩ dẫn tới việc

54

làm cụ thể, phải thực hiện đủ 4 việc sau: Tôn kính bề trong bề ngoài, yêu mến

thật lòng, vâng lời chịu luỵ, và giúp đỡ phần xác. Đối với cha mẹ, con cái cần

phải nhân đức yêu thương, nhân đức hiêú thảo, kính trọng, yêu mến, vâng lời,

phụng dưỡng để đền đáp lại công lao sinh thành và nuôi dưỡng của cha mẹ.

Thảo kính cha mẹ cả trong trường hợp đặc biệt như khi cha mẹ lâm nạn, ốm

đau... Nếu không thảo kính cha mẹ, chẳng những phạm tội nghịch và điều răn

thứ 4 mà lại có khi nghịch với các điều răn khác nữa. Con cái có thể mắc tội

trọng hay nhẹ tuỳ theo từng biểu hiện; Thì, ở Điều 2 và 21 trong luật "Hôn nhân

và gia đình" do Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua

ngày 29/12/1986 cũng qui định: "Con cái có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi

dưỡng cha mẹ, lắng nghe những lời khuyên bảo của cha mẹ".

- Thứ hai, nếu giáo lý Công giáo nêu rõ cha mẹ phải có nghĩa vụ đối với

con cái, phải thương yêu, nuôi nấng, cho ăn mặc xứng bậc mình, coi sóc dạy dỗ

cho con biết các lễ cần trong đạo (như học kinh, xem lễ...) dạy cách làm ăn, lo

cho con ở bậc nào, cho vừa thánh ý Đức chúa trời. Không được căm ghét, chửi

rủa, hắt hủi con và cũng không được chiều chuộng con cái quá lẽ để con sinh hư

sa vào chơi bời cờ bạc, rượu chè, biếng nhác...Tóm lại cha mẹ phải là tấm gương

sáng cho con cái noi theo. Nếu cha mẹ không giáo dục được con, để con hư

hỏng thì các bậc làm cha làm mẹ ấy phải bị mắc tội, nặng hay nhẹ là tuỳ từng

trường hợp; Thì ở điều 2, chương I, luật hôn nhân gia đình trong nhà nước ta

cũng quy định: "Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành những công dân có ích

cho xã hội". Chương IV điều 19, quy định "Cha mẹ có nghĩa vụ thương yêu,

nuôi dưỡng, giáo dục con, chăm lo việc học tập và sự phát triển lành mạnh của

con về thể chất, trí tuệ và đạo đức". "Cha mẹ phải làm gương tốt cho con về mọi

mặt và phối hợp chặt chẽ với nhà trường và các tổ chức xã hội trong việc giáo

dục con cái.

Bên cạnh những quy định về mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái trong

gia đình, giáo lý Đạo công giáo còn quy định mặt quan hệ vợ - chồng trong gia

đình. Trong quan hệ này giữa đạo đức Công giáo và pháp luật Nhà nước ta cũng

có những điểm tương đồng sau:

- Thứ nhất, Nếu đạo Công giáo qui định mối quan hệ cư xử vợ chồng

55

trong gia đình rành mạch có lý có tình, vợ chồng mỗi người theo bổn phận của

mình phải sống chứng nhân cho tình yêu qua việc làm phép hôn phối trong nhà

thờ; nhờ bí tích của hôn nhân, người chồng đã hợp nhất với người vợ trong một

giao ước tình yêu, phải yêu thương vợ như "Chúa Kitô thương yêu Hội thánh",

người chồng phải là chứng nhân cho một tình yêu không vị kỷ, quên mình hy

sinh cho vợ như Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá cho Giáo hội. người

chồng phải là một người chồng tốt, không ghen ghét, chửi rủa những lời nặng nề

xấu xa. Nếu vợ có lỗi thì chồng được quở trách, sửa bảo bằng lời lẽ mà thôi.

Phải chịu khó làm lụng, không chơi bời du đãng, vung phá tiêu phí của cải trong

nhà vô ích để cho vợ con phải đói khát, rách rưới. Phải lo liệu cho vợ giữ lấy

đạo, đó là phép tắc đọc kinh, xem lễ, xưng tội, chịu lễ chính đáng. Ngược lại,

người vợ phải dịu hiền, sống hợp nhất với chồng, trao dâng trọn vẹn và không vị

lợi. Người vợ tốt, đó là một người mẹ gương mẫu, cùng chồng nuôi nấng, giáo

dục con trở thành nguồn hạnh phúc cho mọi tình cảm cha con, mẹ con và sự gắn

kết vợ chồng. Vợ phải biết kính nể, vâng lời, chịu luỵ chồng trong lẽ phải. Đối

với chồng không được khinh rẻ, cứng cổ, chửi rủa, bất trị. Phải coi sóc nhà cửa

và làm các việc cho xứng bậc mình; Thì, tại Điều 11, Chương III, Luật Hôn

nhân và gia đình quy định: "Vợ chồng có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi

mặt trong gia đình. Vợ chồng có nghĩa vụ chung thuỷ với nhau, thương yêu, quý

trọng, chăm sóc. giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, cùng nhau thực hiện sinh đẻ có kế

hoạch ".

- Thứ hai, cả luân lý đạo Công giáo và Luật pháp nước ta đều đề cao việc

thực hiện nghiêm túc chế độ hôn nhân một vợ một chồng, kịch liệt lên án nạn

bạo hành trong gia đình, lên án lối sống buông thả, "sống thử trước hôn nhân"...

Như vậy, luân lý đạo công giáo không có gì dị biệt với tiêu chí đạo đức, luân lý

giáo dục gia đình cổ truyền Việt Nam. Những lời răn dạy của Chúa đã trở thành

lời nhắc nhở hàng ngày, giúp giáo dân hướng tới sự trong sạch phần hồn, sống

tốt đời, đẹp đạo, làm vinh danh Thiên Chúa. Khi xem xét thực trạng đời sống gia

đình ở các xứ, họ đạo Nghệ An ta thấy, hầu như không có tình trạng ly hôn, rất ít

trường hợp vợ chồng ruồng rẫy và gần như không có nạn bạo hành trong gia

đình (nếu có xảy ra thì rất ít và nó sẽ ngay lập tức được cả cộng đồng và linh

56

mục can thiệp). Mặc dù đa số các gia đình giáo dân đời sống cọn gặp nhiều khó

khăn, nhưng con cái họ luôn được dạy dỗ, uốn nắn "đói cho sạch, rách cho

thơm", chấp hành đầy đủ các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của

Nhà nước. Vì vậy, nhìn chung ở các xứ, họ đạo tình trạng trẻ em vị thành niên vi

phạm pháp luật là rất ít, phần lớn các em sống nghiêm túc, giản dị và trong sáng.

đến nay toàn tỉnh có 30.000 hộ gia đình đạt gia đình văn hoá, 300 đơn vị là khu

dân cư tiêu biểu, 20 làng văn hoá cấp tỉnh, trình độ dân trí cũng ngày càng được

nâng cao. Tính đến đầu năm học 2007, toàn vùng giáo có 1423 con em đang

theo học các trường Đại học, Cao đẳng, nhiều gia đình có 2 - 3 con học đại học,

điển hình như gia đình ông Nguyễn Trọng Lô ở giáo họ Đông Phú, giáo xứ Phi

Lộc có 1 con học trên đại học, 5 con học đại học và 1 con học cao đẳng; gia đình

ông Hoàng Văn Châu ở giáo họ Đan Nhiệm, thị trấn Nam Đàn có 5 con học đại

học; gia đình bà Nguyễn thị Huệ ở giáo xứ Làng Rào huyện Tân Kỳ có 4 con

học đại học; đặc biệt gia đình ông Bùi Văn Toàn ở giáo xứ Cầu Rầm có em Bùi

thị Kim Dung đạt giải nhất môn Hoá trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia năm

2005…

Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực đó là chủ yếu thì vẫn còn tồn tại một

số hạn chế, biểu hiện rõ nhất là trong lĩnh vực Dân số kế hoạch hoá gia đình.

Với tư tưởng trong Kinh cựu ước khuyến khích các tín đồ của mình: "Hãy sinh

sôi nảy nở thật nhiều cho tràn đầy mặt đất và thống trị mặt đất" và việc sinh đẻ

là sự sắp đặt của Chúa... nên tỉ lệ sinh ở các vùng giáo vẫn cao hơn so với các

vùng khác và so với mặt bằng chung toàn xã hội, tỉ lệ sinh ở vùng giáo hiện nay

là 1,4%, tỷ lệ sinh con thứ 3 là 2,36%. Cá biệt vẫn có nhiều gia đình sinh quá

nhiều con (trên 3 con). Mặc dù hiện nay Giáo hội đã ý thức được việc tăng dân

số một cách thiếu kế hoạch sẽ dẫn đến nhiều hậu quả xấu cho xã hội, song họ

vẫn đặt ra những ràng buộc người giáo dân trong các biện pháp cụ thể. Chính

Giáo hội đã tuyên bố "Gia đình có quyền quyết định số lượng con cái sẽ có, phụ

thuộc vào khả năng chăm sóc và đảm bảo cho việc tiếp thu một nền giáo dục

tốt"; đặc biệt, Giáo hội còn cấm việc áp dụng phương pháp tránh thai nhân tạo,

vì nó vi phạm trật tự của Chúa trong việc tạo dựng con người.

Như vậy, mặc dù vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định nhưng nhìn

57

chung, truyền thống giáo dục trong gia đình của người công giáo đã có ảnh

hưởng tích cực khá rõ nét đến các mặt của việc giữ gìn TT, ATXH vùng giáo

nói riêng và cả xã hội nói chung. Những mặt đạo đức nhân bản mà đạo công

giáo cũng như nhiều tôn giáo khác gọi chung là "điều thiện" đã có những điểm

tích cực, phù hợp với đạo đức, luân lý truyền thống của ông cha ta cũng như

trong sự nghiệp xây dựng một xã hội mới: công bằng, bình đẳng, dân chủ, văn

minh. Giáo dục gia đình là sự thể hiện một khía cạnh của nền văn hoá quốc gia.

Đạo Công giáo đã có một số đóng góp đáng ghi nhận và chúng ta cần phát huy

những giá trị tích cực đó của đạo Công giáo trong suốt quá trình đồng hành cùng

Dân tộc.

2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với việc giữ gìn trật tự, an toàn xã hội

Chúng ta đã đi sâu phân tích những ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với

việc giữ gìn TT, ATXH ở vùng giáo Nghệ An hiện nay. Qua sự phân tích đó có

thể nhận thấy rằng tôn giáo này với hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi... chặt

chẽ, có nhiều yếu tố tích cực và nhiều mặt hạn chế đan xen nhau. Để phát huy

những yếu tố tích cực, những tư tưởng nhân văn tốt đẹp và khắc phục những hạn

chế của đạo công giáo đối với việc giữ gìn TT, ATXH ở vùng giáo, có một số

vấn đề cần đặt ra như sau:

2.2.1. Kết hợp niềm tin tôn giáo với niềm tin xã hội tiến bộ

Đối với những tín đồ công giáo, niềm tin tôn giáo chi phối mạnh mẽ đến

toàn bộ đời sống của họ, có thể làm thay đổi những động cơ, lối sống của họ

trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Với họ, bên cạnh cuộc sống

"Đạo" là cuộc sống "Đời", bên cạnh việc chu toàn bổn phận của một con chiên

trước Chúa là bổn phận của một công dân của đất nước..., quyền lợi, trách nhiệm

và nghĩa vụ giữa phần "Đạo" và phần "Đời" ấy đan xen vào nhau, tác động lẫn

nhau và bổ trợ cho nhau trong mỗi giáo dân cũng như trong cả cộng đồng giáo

dân. Chính vì vậy, Đảng ta với quan điểm: "Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh

thần của một bộ phận nhân dân" đã có chủ trương đúng đắn, không chỉ là đề ra

chính sách tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng chính đáng, mà còn động viên

khuyến khích, tạo diều kiện để các tôn giáo phát huy những giá trị đạo đức nhân

văn tốt đẹp của mình, vì lợi ích chung của cả cộng đồng dân tộc, phù hợp với

58

công cuộc xây dựng xã hội mới - xã hội XHCN - giai đoạn đầu của xã hội Cộng

sản văn minh. Những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta

đã tạo tâm lý tự tin, xoá bỏ những mặc cảm, định kiến, ngăn cách giữa đồng bào

có đạo và đồng bào không có đạo, xây dựng một bầu không khí cởi mở, đoàn kết

các tôn giáo, hoà hợp Đạo với Đời, tín đồ các tôn giáo ngày càng tin tưởng vào

vai trò lãnh đạo của ĐCSVN, phát huy sức mạnh đoàn kết lương - giáo, đoàn kết

tòan dân vì sự nghiệp chung "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,

văn minh".

Để có những thành công đó, trước hết chúng ta phải nhận thấy rằng giữa

niềm tin tôn giáo và niềm tin xã hội tiến bộ có những điểm tương đồng với nhau,

gần gũi nhau dù một bên là hữu thần và một bên là vô thần "Cộng sản vô thần,

tôn giáo hữu thần, thế nhưng cộng sản và công giáo có những chỗ giống nhau”

[42, tr.5]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định "Đức Thiên Chúa là tấm

gương hy sinh triệt để vì những người bị áp bức, vì những dân tộc bị đè nén, vì

hoà bình, vì công lý" [41, tr.13], Người khiêm tốn chỉ nhận mình là một học trò

nhỏ của Đức Giêsu. Tháng 3 năm 1955, khi nói chuyện với đại biểu Đại hội

Công giáo yêu nước toàn quốc tại Hà Nội, Bác tâm sự rất cởi mở: "Các cụ, các

cô, các chú biết Tôi là người không có đạo và là người cộng sản theo chủ nghĩa

Mác-Lênin, suốt đời hy sinh đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc, tự do cho

đồng bào. Nay nước nhà đã được giải phóng khỏi ách thực dân, nhân dân ta

được hoà bình, độc lập, tự do. Tôi và Đảng, Chính phủ lo cho nhân dân có cơm

ăn, áo mặc, các cháu được học hành, người ốm đau có thuốc, vào bệnh viện để

chữa bệnh, đời sống tinh thần vật chất ngày càng được ổn định và nâng cao, ...

Các cụ, các cô, các chú cùng với chúng tôi lo làm các việc đó có gì là mâu thuẫn

hay sai trái với giáo lý của Đạo, lời dạy của Chúa Giêsu không?...". Qua cách

biểu đạt đó chúng ta thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát hiện, thừa nhận và sử

dụng những yếu tố hợp lý của Công giáo, những yếu tố đó không có gì trái với

mục tiêu lý tưởng mà toàn Đảng, toàn dân ta đang ra sức phấn đấu thực hiện.

Như vậy, cả Công giáo và CNXH đều muốn xoá bỏ tình trạng áp bức, bóc

lột, bất công, đều mong muốn tất cả mọi người được sống trong hoà bình, hữu

nghị, bình đẳng - đó là một thế giới đại đồng, không có chế độ người bóc lột

59

người. Niềm tin, lý tưởng tôn giáo và niềm tin, lý tưởng về xã hội tiến bộ có

những điểm tương đồng nhất định. Điểm khác nhau ở đây là về mục đích. Đạo

công giáo muốn xây dựng Thiên đàng ở thế giới "bên kia", còn CNXH lại xây

dựng thiên đàng ở ngay trần thế; phương pháp của Công giáo là cầu khẩn, cứu

tế, cải lương, khuyên người làm điều lành để được lên thiên đường, còn phương

pháp của CNXH là làm cách mạng đánh đổ chế độ áp bức, bóc lột do chính bàn

tay và trí óc của con người mà dựng lên một trật tự mới, một trật tự công bằng

và bác ái hơn. "Chủ nghĩa cơ đốc đem sự giải phóng đó đặt vào mai sau, đặt

trong "đời sống" sau lúc chết, đặt ở trên trời. Còn CNXH thì đặt nó ngay trên thế

giới, trong sự cải tạo xã hội" [42, tr.5]. Như vậy là, khoảng cách giữa CNXH và

tôn giáo, giữa người có đạo và người không có đạo, chủ yếu chỉ là lòng tin hay

không tin vào một quan điểm ở "trên trời". Mà riêng vấn đề này, chính sách về

tôn giáo của Đảng ta đã khẳng định sự tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn

giáo, không hề ngăn trở bất cứ ai, sau khi đã tranh đấu hết mình cho giá trị thật

sự của mọi người ở trần gian, mong muốn được hoà vào trong cõi phiêu diêu

miền cực lạc. Bởi vì đối với những người cộng sản, vấn đề đặt ra chủ yếu không

phải có thần hay không có thần, có tín ngưỡng hay không có tín ngưỡng, mà là

vấn đề có yêu nước hay không yêu nước, có thật sự đứng trong cộng đồng cộng

đồng dân tộc hay đi ngược lại quyền lợi của toàn dân [29, tr.313].

Việc khai thác, phát hiện điểm tương đồng và khác biệt đó giúp chúng ta

phát huy những điểm tương đồng và khắc phục những điểm khác biệt của đạo

Công giáo trong công cuộc xây dựng xã hội mới. Rõ ràng là muốn đẩy lùi những

ước mơ về thiên đường hư ảo ở thế giới "bên kia" thì chúng ta phải từng bước

xây dựng một "thiên đường" có thực trên trần gian. Đó là quá trình lâu dài, gắn

liền với công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, nâng cao đời sống vật

chất, tinh thần và trí tuệ cho con người.

Hiện nay ở Nghệ An, các xứ, họ đạo đã có nhiều thay đổi theo hướng tích

cực trong đời sống và xã hội. Bà con giáo dân tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của

Đảng, quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò làm chủ của mình, gương mẫu

trong mọi hoạt động xây dựng xứ, họ đạo văn hoá theo đúng định hướng của

Đảng: "Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức lành mạnh, hướng thiện của tôn

60

giáo, phù hợp với truyền thống văn hoá dân tộc và đời sống xã hội, thực hiện

Tôn giáo gắn bó với dân tộc, đoàn kết, hoà hợp đồng bào các tôn giáo cùng toàn

dân xây dựng và bảo vệ tổ quốc" (Chỉ thị 37 ngày 02/07/1998 của Bộ chính trị

về công tác tôn giáo trong tình hình mới). Tuy nhiên, do đời sống của bà con

giáo dân Nghệ An còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí nói chung còn thấp, tỉ lệ

tăng dân số còn ở mức khá cao, một số còn mặc cảm, tự ti và phân biệt lương -

giáo... Bên cạnh đó, về mặt Chính quyền, chúng ta cũng phải nghiêm khắc thừa

nhận những mặt chưa làm được, do một số người không hiểu và không nắm

vững luật pháp hoặc làm sai luật pháp nên ở nơi này hoặc nơi khác, thời điểm

này hay thời điểm khác đã có hiện tượng xâm phạm đến quyền tự do tín ngưỡng

tôn giáo của giáo dân. Lợi dụng khó khăn, hạn chế này, một số phần tử xấu đã

cấu kết với lực lượng bên ngoài để tuyên truyền, xuyên tạc, bôi nhọ bản chất của

chế độ XHCN, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, kích

động quần chúng gây rối an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, bên

cạnh việc tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng thì đồng thời Đảng, Nhà nước và

Chính quyền địa phương cũng cần có những biện pháp xử lý hợp lý đối với các

phần tử cực đoan này, phát hiện, phòng ngừa ngăn chặn các tác động xấu, các

đối tượng có hoạt động chống đối, giải quyết dứt điểm các vụ việc gây rối trật tự

công cộng, vô hiệu hoá, phân hoá những chức sắc có thái độ hoạt động xấu.

Để làm được điều này, chúng ta phải nhận thức rõ hơn quan điểm cốt lõi

của công tác tôn giáo là vấn đề vận động quần chúng, phải thấy rõ vai trò to lớn

của quần chúng giáo dân để từ đó phát huy quyền làm chủ của quần chúng theo

phương châm "Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin", phải thật sự tin dân,

yêu dân, gần gũi dân, "ba cùng" với dân... làm cho quần chúng giáo dân cũng tin

Đảng, yêu Đảng, biết gợn đục khơi trong gạn lấy những giá trị cao đẹp của niềm

tin tôn giáo trong sáng, lành mạnh, thánh thiện, đấu tranh với những biểu hiện

sai trái không những vi phạm đạo đức công giáo mà còn là lực cản đối với cuộc

cách mạng xây dựng nền văn hóa mới, con người mới XHCN. Sự kết hợp biện

chứng giữa niềm tin tôn giáo với niềm tin xã hội tiến bộ sẽ tạo thành sức mạnh

tổng hợp, sức mạnh đoàn kết toàn dân mà không một thế lực đen tối nào phá vỡ

nổi. Lịch sử đã khẳng định, độc lập dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền tự do tín

61

ngưỡng tôn giáo và ngược lại. Trong Báo cáo Đại hội những người công giáo

yêu nước năm 1983, linh mục Võ Thành Trinh đã nhấn mạnh rằng, “Người công

giáo hết lòng kính Chúa phải là người công dân thiết tha yêu nước, người công

giáo làm sáng danh Chúa phải đấu tranh cho quyền lợi dân tộc”; Hoặc linh mục

Vương Đình Bích trong một bài viết trên báo Công giáo và Dân tộc số ngày 09

tháng 03 năm 1986 cũng đẫ khẳng định, "Hạnh phúc là cái chung. Cách mạng

XHCN không thể hoàn thành, bao lâu còn những bộ phận giáo hữu đứng bên lề.

Tin mừng của Đức Kitô không thể hoàn thành việc cứu độ, bao lâu còn những

người vô thần tiếp tục coi tôn giáo như kẻ thù của loài người. Chúng ta đang ở

giai đoạn đầu của sự nghiệp hạnh phúc chung".

Hiện nay, chúng ta đang phấn đấu xây dựng một đất nước Việt Nam "Dân

giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", đó là mục tiêu lớn lao

mang tính thời đại; đó cũng là một chủ trương đúng dắn, không một tôn giáo

nào lại không ủng hộ. Giáo hội công giáo Việt Nam lựa chọn con đường "sống

phúc âm giữa lòng dân tộc", "là hội thánh giữa lòng dân tộc Việt Nam, quyết

tâm gắn bó với vận mạng quê hương, noi theo truyền thống dân tộc, hoà mình

vào cuộc sống hiện tại của đất nước"… là hoàn toàn phù hợp với mục tiêu chung

của dân tộc, điều đó đã và đang được người công giáo Việt Nam nói chung,

người công giáo Nghệ An nói riêng thực thi bằng nếp sống lành mạnh với

phương châm "Kính Chúa, yêu nước", "sống tốt đời, đẹp đạo". Những người

Công giáo Việt Nam chân chính, thực sự yêu nước, tin đạo hơn bao giờ hết cần

phải có niềm tự hào dân tộc và tin tưởng rằng con đường làm sáng danh đạo

Chúa không phải là con đường nào khác mà thực chỉ có một con đường duy

nhất: đó là con đường thông qua đại đoàn kết, đại hoà hợp dân tộc để cùng nhau

xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, tự do, dân chủ, hạnh phúc, bình đẳng và

tiến bộ xã hội.

2.2.2 Kết hợp giáo lý với luật pháp

Nghị quyết 24/ BCT đã xác định: "Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài,

tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đạo đức tôn

giáo có nhiều điểm phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới" và ngay trong

Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta năm 1946 (Quốc hội thông qua ngày

62

09/11/1946) cho đến Hiến pháp năm 1960(31/12/1959), Hiến pháp 1980

(18/12/1980) và Hiến pháp 1992 (15/4/1992) đều thống nhất với tinh thần

chung: Công dân nước Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo hoặc

không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều có quyền bình đẳng trước pháp

luật,... không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng tôn giáo hoặc lợi dụng tín

ngưỡng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước ta. Gần đây

nhất, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (18/4/2006 - 25/4/2006)

tiếp tục khẳng định tư tưởng trên đồng thời nêu rõ: "... Phát huy những giá trị

văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Động viên, giúp đỡ đồng bào theo đạo

và các chức sắc tôn giáo sống "tốt đời đẹp đạo" [11, tr.123].

Như vậy, không phải ngẫu nhiên mà trải qua một chặng đường dài với

nhiều biến cố lịch sử khác nhau, Đảng ta vẫn nhất quán trước sau như một,

khẳng định tôn giáo đồng hành cùng dân tộc, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng

tôn giáo... mà vấn đề ở đây là Đảng ta đã tìm thấy điểm tương đồng giữa đạo

đức, giáo lý tôn giáo với đạo đức truyền thống và luật pháp của Nhà nước ta,

trong đó điểm tương đồng về mặt tinh thần là chủ nghĩa yêu nước chân chính; về

mặt văn hoá, tín ngưỡng, tâm linh là sự hướng thiện, tôn trọng những giá trị văn

hoá, đạo đức mang tính nhân bản.

Đạo công giáo là một trong những tôn giáo với hệ thống giáo lý, giáo luật

chặt chẽ có nhiều điểm tương đồng, phù hợp với pháp luật của Nhà nước ta.

Đảng, Nhà nước và Chính quyền đang phát huy vai trò tích cực của những điểm

tương đồng đó trong các chủ trương, chính sách và kể cả trong các vụ việc liên

quan đến vấn đề tôn giáo, đó là sự kết hợp của nhiều yếu tố trong đó không thể

không nói đến sự kết hợp giữa giáo lý và luật pháp. Trong đời sống của cộng

đồng giáo dân, giáo lý và luật pháp không mâu thuẫn với nhau mà đó là sự bổ

sung lẫn nhau nhằm điều chỉnh những hành vi của mỗi cá nhân trong cộng đồng

giáo dân. Trước hết, giáo lý Công giáo đã dành một phần đáng kể vận động giáo

dân phải biết làm những điều tốt lành thông qua một hệ thống khá phức tạp và

đa dạng với 10 điều răn của Thiên Chúa, 6 điều răn của Giáo hội, 7 phép bí tích,

7 mối tội đầu và 7 đức để cải tạo 7 mối, 8 mối phúc thật, 20 điều quy định về

nghĩa vụ trong quan hệ với linh hồn, đồng loại và bản thân... những điều răn

63

dạy, cấm đoán và nghi lễ đó có tác động quan trọng đến hành vi xã hội của mỗi

giáo dân và được thể hiện rõ nhất trong việc giữ gìn TT, ATXH ở các vùng giáo,

đấu tranh chống các loại tội phạm, bài trừ các tệ nạn xã hội... Đây chính là cơ sở

để giáo dân vừa thực hiện tốt giáo lý của tôn giáo mình vừa chấp hành đúng

pháp luật của Nhà nước, làm tròn trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của một

giáo dân, một công dân.

Qua khảo sát thực trạng TT, ATXH ở vùng giáo Nghệ An, chúng ta có thể

nhận thấy rằng trong giai đoạn mới hiện nay với những chính sách pháp luật phù

hợp, đúng đắn của Nhà nước ta, ở các vùng giáo đang có những chuyển biến

mới theo chiều hướng tích cực, những hoạt động thuần tuý tôn giáo, tuân thủ

giáo lý, giáo luật và luật pháp là cơ bản, hàng ngũ chức sắc chức việc có nhiều

chuyển biến tích cực, chấp hành pháp luật, tuân thủ Chính quyền hơn, ít cực

đoan hơn, nhiều chức sắc còn mạnh dạn tham gia vào các hoạt động xã hội, yêu

nước. Tiêu biểu như linh mục Hoàng Đức Luyến - chánh xứ Thanh Dạ, Quỳnh

Lưu; linh mục Nguyễn Đăng Điền - chánh xứ Nhân Hoà, Nghi Lộc; linh mục

Nguyễn Sỹ Nho - xứ Trang Cảnh, Nghi Xuân; ông Nguyễn Xuân Huê - trưởng

ban đoàn kết Công giáo huyện Hưng Nguyên… Những năm qua, Chính quyền,

Mặt trận Tổ quốc, Công an, các đoàn thể quần chúng, các linh mục, dòng tu, các

xứ, họ đạo của tỉnh nhà đã luôn luôn quan tâm, phối hợp để làm tốt công tác

tuyên truyền vận động nhân dân học tập các chủ trương, đường lối của Đảng,

pháp luật của Nhà nước. Các Bộ luật, pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo và Nghị

định 22NĐ/CP của Chính phủ về quy định các hoạt động tôn giáo; Đề án 01-138

của UBMTTQ Việt Nam về việc phát động toàn dân tham gia phòng ngừa, phát

hiện, tố giác tội phạm, cảm hoá, giáo dục, cải tạo người lầm lỗi tại cộng đồng

dân cư; Chỉ thị 07 của Ban thường vụ Tỉnh uỷ về phòng chống tội phạm ma

tuý…đã được phổ biến học tập và quán triệt trong các cộng đồng dân cư. Qua

học tập, nhận thức của nhân dân được nâng lên rõ rệt, 100% xứ, họ giáo ở Nghệ

An đã tổ chức ký cam kết thực hiện, góp phần giữ vững ổn định chính trị, TT,

ATXH trên địa bàn. Với sự phối hợp chặt chẽ và những hoạt động thiết thực đó,

quần chúng giáo dân tỉnh nhà đã phát huy tinh thần đoàn kết xây dựng quê

hương, mạnh dạn đóng góp ý kiến tham gia xây dựng quy ước, hương ước địa

64

phương, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ hoà giải, tổ tự

quản, từng bước ngăn chặn và đẩy lùi các loại tệ nạn xã hội, giảm bớt các vụ

việc mâu thuẫn phát sinh trong cộng đồng dân cư, xây dựng gia đình và khu dân

cư theo nếp sống văn hoá mới. Trong các xứ, họ đạo xuất hiện ngày càng nhiều

đơn vị có phong trào khá về an ninh trật tự, nhiều cá nhân đạt danh hiệu người

công giáo yêu nước... Tuy nhiên ở Nghệ An, giáo hội và một số giáo sỹ vẫn còn

bị ảnh hưởng khá sâu sắc sự chi phối, chỉ đạo của bên ngoài, vẫn còn tồn tại một

số hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật thậm chí có biểu hiện chống đối chế độ,

chính quyền.

Việc xử lý các sai phạm này rất khó khăn, phức tạp bởi thông thường giáo

hội tạo ra việc đã rồi mới báo cáo, hoặc không chấp hành sự xử lý của chính

quyền, có nơi còn lợi dụng việc xử lý của ta để kích động là "chính quyền ngăn

cản hoạt động tôn giáo" rồi tập hợp giáo dân, gây sức ép với chính quyền, gây

ảnh hưởng xấu về chính trị. Vụ việc xảy ra tại giáo xứ Làng Nghi ở xã Diễn

Hạnh, Diễn Châu tháng 04/1993 là một điển hình, hoặc cũng tại đây vào năm

1997 đã diễn ra vụ dựng tượng linh mục Bùi Nhật Nghiệm - một linh mục phản

động; vụ cất bốc mộ trái phép linh mục Nguyễn Châu và tập thể giáo hữu bị sát

đạo năm 1858 tại xứ đạo Trung Song, Diễn Thịnh, Diễn Châu kéo dài từ tháng 2

đến tháng 3 năm 2000, tạc bia ghi thánh tử đạo nhằm gợi lại hận thù dân tộc...

trước vụ việc này chính quyền đã đình chỉ nhưng dưới sự chỉ đạo của BHG, các

phần tử cực đoan vẫn tiếp tục chống đối, không thực hiện. Quần chúng giáo dân

tham gia các vụ xung đột này có thể là tự phát, là sự kích động nhất thời do

không hiểu biết về pháp luật và không nhận ra được bản chất thật sự của vấn đề,

nhưng khi tham gia đều ý thức là bảo vệ đức tin, bảo vệ tôn giáo... gây ra những

hậu quả nghiêm trọng và rất khó giải quyết.

Tình hình trên đòi hỏi chúng ta khi giải quyết các vụ việc phức tạp này

cần phải có những bước đi thích hợp, sáng suốt, bình tĩnh, nắm vững nguyên tắc

nhưng phải mềm dẻo, ứng xử linh hoạt, tế nhị, phải làm cho quần chúng giáo

dân phân biệt được đúng, sai, tranh thủ sự đồng tình và cô lập kẻ xấu. Trong

những trường hợp như vậy cách tốt nhất là phải biết vận dụng giáo lý, giáo luật

kết hợp với luật pháp tạo thành một công cụ hữu hiệu để giáo dục thuyết phục,

65

vận động quần chúng giáo dân, làm cho quần chúng giáo dân hiểu ra bản chất

của vấn đề và ủng hộ chính quyền địa phương trong việc xử lý các sai phạm

trên. Thực hiện điều này cũng chính là thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí

Minh kính yêu: "Chính quyền ta là chính quyền dân chủ, bất kỳ việc to, việc nhỏ

đều phải dựa vào lực lượng của nhân dân để phụng sự lợi ích của nhân dân. Việc

giữ gìn trật tự, an ninh càng phải dựa vào sáng kiến và lực lượng của nhân dân"

[27, tr.335].

2.2.3. Kết hợp sống tốt đời đẹp đạo

Công cuộc đổi mới hơn 20 năm qua với những thành tựu to lớn trên các

lĩnh vực của đời sống xã hội đã thật sự mang lại cho nhân dân ta một cuộc sống

phong phú cả về vật chất lẫn tinh thần. Hình ảnh một nước Việt Nam đổi mới,

đang trên đà phát triển, vững bước tiến vào thiên niên kỷ mới đã trở thành niềm tự

hào của mỗi người dânViệt Nam, không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc.

Thành quả đó có được là dựa trên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết

dân tộc, trong đó có sự đồng lòng đồng sức của hơn 5 triệu đồng bào công giáo

Việt Nam. Với tinh thần là Hội thánh giữa lòng dân tộc, người công giáo Việt

Nam quyết tâm gắn bó với vận mệnh quê hương, noi theo truyền thống của dân

tộc, hoà mình vào cuộc sống hiện tại của đất nước, sống tốt đời, đẹp đạo. Trong

đó, "Tốt đời" là mọi công dân, dù theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo nào

cũng phải góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc, phải tham gia tích cực phong

trào đền ơn đáp nghĩa, xoá đói giảm nghèo, xây dựng dân giàu, nước mạnh, xã

hội công bằng, dân chủ và văn minh, sống và làm việc theo pháp luật, tôn trọng tự

do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng; còn "Đẹp đạo" là tôn trọng và tạo điều

kiện thuận lợi để thực hiện tự do tín ngưỡng của những người có tín ngưỡng, đạo

gắn với đời, gắn với cộng đồng, gắn với dân tộc. Dân tộc có độc lập, tôn giáo mới

được tự do. Nước mất nhà tan, tôn giáo cũng trở thành nô lệ.

Trên cơ sở nhận thức sâu sắc vai trò và ý nghĩa của sự kết hợp giữa “Tốt

đời” với “Đẹp đạo”, UBĐKCG Việt Nam đã phát động cuộc vận động “Sống tốt

đời, đẹp đạo” và UBĐKCG tỉnh đã tích cực tiếp thu, triển khai thực hiện có hiệu

66

quả với những hướng dẫn cụ thể như:

Một là: Động viên đồng bào Công giáo phát huy truyền thống đoàn kết,

tích cực tham gia lao động sản xuất, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất nông

nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, phát triển nghành nghề truyền

thống góp phần tăng sản phẩm thiết yếu phục vụ đời sống. Huy động được nhiều

nguồn lực để phát triển sản xuất, tạo thêm việc làm, giúp nhau thực hiện xoá đói,

giảm nghèo, hướng tới đảm bảo cho mỗi xứ, họ đạo không còn gia đình giáo dân

thiếu đói, tăng số hộ khá và giàu.

Hai là: Tuyên truyền sâu rộng trong đồng bào Công giáo về các chính

sách, pháp luật của Nhà nước, mọi người đều sống và làm việc theo pháp luật,

phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương xã hội, chấp hành tốt các chính sách của

Đảng và Nhà nước.

Ba là: Phát huy truyền thống “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Lá lành đùm lá

rách” vận động đồng bào Công giáo quan tâm và có những hoạt động thiết thực

giúp đỡ các gia đình liệt sĩ, thương binh nặng và những người có công với nước.

Làm tốt công tác từ thiện xã hội theo tinh thần sống đạo tình thương, dành sự

quan tâm đặc biệt đến người tàn tật, người già cô đơn, trẻ em mồ côi, cơ nhỡ và

những người có hoàn cảnh bất hạnh khác.

Bốn là: Tích cực phòng chống các tệ nạn xã hội như nạn cờ bạc, trộm cắp,

ma tuý, mại dâm… Phấn đấu trong từng cơ sở xứ, họ đạo không có người vi

phạm; làm tốt công tác hoà giải trong nội bộ nhân dân, bảo vệ an ninh Tổ Quốc

và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân.

Năm là: Thực hiện tốt nếp sống văn hoá trong các sinh hoạt đạo - đời, đặc

biệt trong việc cưới, việc tang và các lễ hội Công giáo. Xây dựng nếp sống văn

hoá thể hiện cụ thể bằng nếp sống văn minh, lành mạnh tiến bộ. Tổ chức tốt các

điểm vui chơi, giải trí công cộng, thu hút thanh, thiếu niên vào các hoạt động

văn hoá, văn nghệ lành mạnh, tiến bộ.

Sáu là: Xây dựng gia đình hoà thuận “Ông bà mẫu mực, con cháu hiếu

thảo”, quan hệ tốt với những người xung quanh, nhất là người khác tôn giáo.

Cùng nhân dân địa phương tạo môi trường trong sạch, phấn đấu trong các xứ, họ

67

không còn nhà dột nát, có nhiều gia đình, xứ, họ đạo tiên tiến gương mẫu.

Bảy là: Quan tâm và đầu tư cho sự nghiệp giáo dục, trẻ em trong các gia

đình Công giáo đến tuổi phải được đi học 100%, không còn trẻ em bỏ học, nâng

cao trình độ dân trí, tích cực tham gia hoạt động trong lĩnh vực y tế, chăm sóc

sức khoẻ cộng đồng.

Tám là: Thực hiện tốt chương trình dân số kế hoạch hoá gia đình, sinh sản

có trách nhiệm và nuôi dạy con tốt. Mọi trẻ em phải được chăm sóc, bảo vệ

trong các điều kiện tốt nhất.

Chín là: Vận động đồng bào Công giáo ở từng độ tuổi nhiệt tình tham gia

vào các tổ chức, đoàn thể xã hội, góp phần xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh,

đoàn kết gắn bó với nhân dân trong khu dân cư.

Mười là: Xây dựng nếp sống đạo và thể hiện niềm tin tôn giáo bằng

những việc làm cụ thể hàng ngày, hoà nhập, gắn bó với dân tộc theo tinh thần

Thư chung năm 1980 của Hội đồng giám mục Việt Nam [15].

Để thực sự phát huy vai trò và trách nhiệm của đồng bào Công giáo trong

sự nghiệp đổi mới, để mỗi giáo dân yên tâm thờ phụng Thiên Chúa và cống hiến

cho đất nước,thực hiện tốt nội dung cuộc vận động thì Đảng, Nhà nước và Chính

quyền cần phải có những chính sách tôn giáo đúng đắn, có thái độ trước sau như

một với vấn đề tín ngưỡng thể hiện qua một số điểm như:

Thứ nhất, tôn trọng và bảo vệ tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn

giáo nào.

Thứ hai, thật sự đoàn kết và phát huy vai trò của đồng bào các tôn giáo

trong khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ công

dân, tích cực góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Thứ ba, cảnh giác, nhận rõ, kịp thời ngăn chặn và cương quyết đấu tranh,

xử lý mọi hình thức lợi dụng tôn giáo, vi phạm chính sách pháp luật, gây thiệt

hại cho cả Đạo và Đời, bài trừ mê tín dị đoan, nghiêm trị, loại trừ các âm mưu

68

và thế lực chống phá lợi ích của tổ quốc và nhân dân.

Thứ tư, Chăm lo phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống vật chất và

tinh thần cho đồng bào các tôn giáo để họ thật sự yên tâm với cuộc sống "ấm no

phần xác, thong dong phần hồn".

Với những chủ trương đúng đắn, những việc làm thiết thực sẽ tạo nên sự

gặp gỡ đồng cảm, đồng hành, chia sẻ giữa Công giáo và Dân tộc, giữa Đạo và

Đời.

Nhìn chung, những năm qua dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, Chính

quyền kết hợp với Giáo hội, ở các Xứ, Họ đạo, bà con giáo dân tích cực hưởng

ứng các phong trào có ý nghĩa thiết thực như: "Gương sáng tốt đời, đẹp đạo",

"Toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư" ... và đã thu được

nhiều kết quả tốt đẹp: đa số gia đình công giáo đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá,

ngày càng nhiều gương mặt điển hình cho gương tốt vùng giáo, tiêu biểu như chị

Nguyễn Thị Hiệp ở xóm 10, xã Hưng Xuân, huyện Hưng Nguyên, chị Nguyễn

Thị Tam xóm Xuân Trang, Nghi Xuân, Nghi Lộc là những gương mặt điển hình

cho phong trào thi đua "Phụ nữ tích cực học tập, lao động, sáng tạo, xây dựng

gia đình hạnh phúc"; chị Lê Thị Đức Hạnh nữ tu dòng Mến thánh giá Xã Đoài

cùng các nữ tu trong dòng đã giúp đỡ hàng trăm lượt người có hoàn cảnh khó

khăn với số tiền hỗ trợ lên tới 220 triệu đồng; anh Nguyễn Công Hùng - người

được phong tặng danh hiệu Hiệp sỹ công nghệ thông tin quê ở Xã Đoài - Nghi

Lộc, mặc dù bản thân bị tật nguyền nhưng với tinh thần ham học và giàu tính

sáng tạo, anh đã thành lập được trung tâm dạy tin học và đã đào tạo cho hàng

trăm con em trong và ngoài huyện có thêm kiến thức Khoa học kỹ thuật, Công

nghệ thông tin… Bên cạnh đó đa số chức sắc hoạt động tôn giáo tuân thủ pháp

luật, hàng chục linh mục hoạt động yêu nước tiến bộ, Uỷ ban đoàn kết công giáo

các cấp ngày càng được củng cố với 21 chức sắc, tu sỹ tham gia và phát huy vai

trò vận động giáo dân thực hiện cuộc sống tốt đời đẹp đạo, bộ mặt vùng giáo

Nghệ An ngày càng khởi sắc. Nhiều mô hình tiên tiến của giáo dân ở các xứ đạo

đang không ngừng vươn lên xoá đói, giảm nghèo, như: xã Nghi Phương - xã anh

hùng của các lực lượng vũ trang nhân dân; làng Vạn Xuân ở Nghi Vạn, Nghi

Lộc; làng Vạn Lộc, Nam Đàn; xã Xuân Bài ở Đô Lương... Nhiều trí thức công

giáo Nghệ An đang không ngừng nắm bắt những thành tựu mới của khoa học kỹ

69

thuật, phát triển sản xuất, góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.

Vừa qua, hoà chung trong không khí tưng bừng cả nước đi bầu cử quốc hội khoá

XII, 100% cử tri công giáo Nghệ An đã tích cực tham gia đi bầu cử ; 100%

thanh niên đến tuổi đăng ký nghĩa vụ quân sự và sẵn sàng lên đường nhập ngũ.

Bên cạnh đó các phong trào của quần chúng bảo vệ an ninh trật tự vùng giáo

cũng ngày càng phát triển sâu rộng và vững chắc. Thông qua các phong trào này

đã xây dựng và củng cố tốt hơn các tổ chức Đảng, Chính quyền, các đoàn thể

quần chúng, các tổ chức dân quân tự vệ, công an, tuần tra... từng bước tạo điều

kiện để nhân dân đảm nhiệm từng phần công tác giữ gìn TT, ATXH ở địa

phương.

Do được giáo dục tốt, quần chúng giáo dân ở nhiều nơi đã phát huy được

quyền làm chủ tập thể của mình, chủ động phát hiện và đấu tranh ngăn chặn

những hoạt động phạm pháp nhất là đối với những tên có hoạt động chống đối

cực đoan. Nhiều xã có phong trào quần chúng khá về mọi mặt, thực sự trở thành

pháo đài vững chắc cả về an ninh và quốc phòng. Thực tế ấy cho thấy, khi chúng

ta thật sự tin vào quần chúng giáo dân, phát huy được quyền làm chủ tập thể của

họ và khi đời sống của mọi người được đảm bảo thì giáo dân sẽ tự giác thực

hiện đúng đắn nghĩa vụ của mình, phát hiện và tích cực đấu tranh, vạch trần các

luận điệu xuyên tạc đường lối, chính sách của đảng và các hoạt động gây rối TT,

AT XH khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong buổi nói chuyện với đoàn Công an

Cu Ba vào tháng 8 năm 1966 đã nêu rõ: "Nếu giáo dục tốt thì giáo dân có thể

đấu tranh: Cha chỉ nói phần hồn thôi, còn phần đời thì để cho chính phủ. Một số

địa phương giáo dân có câu: Sống theo Đảng, chết theo Chúa. đối với người

cộng sản thì nếu họ nói chết rồi theo Chúa thì không sao”.

Ngày hôm nay, trên các Xứ, Họ đạo ở Nghệ An vẫn vang lên lời thánh ca

trìu mến "Trước khi là người công giáo tôi đã là người Việt Nam" - lời thánh ca

đó đã thể hiện một cách thân thương tấm lòng và trách nhiệm của người Công

giáo đối với đất nước. Là con em của dân tộc Việt Nam, chủ nhân của đất nước

Việt Nam, đối với người Công giáo, lòng yêu tổ quốc, yêu đồng bào không chỉ

đòi hỏi của đạo đức Thiên Chúa mà còn là tình cảm tự nhiên mọi người Việt

Nam phải có, đó cũng là tinh thần chung của Giáo hội công giáo Việt Nam gửi

70

đến các tín đồ công giáo "Yêu tổ quốc, yêu đồng bào đối với người công giáo

Việt Nam không phải là những tình cảm tự nhiên phải có, mà còn là một đòi hỏi

phúc âm, lòng yêu nước của chúng ta phải thiết thực, nghĩa là chúng ta phải ý

thức những vấn đề hiện tại của quê hương, phải hiểu biết chính sách pháp luật

của Nhà nước, tích cực cùng đồng bào cả nước góp phần xây dựng đất nước

Việt Nam giàu mạnh, tự do, hạnh phúc"(Thư chung Hội đồng giám mục Việt

Nam năm 1980).

2.2.4. Kết hợp tốt vấn đề xưng tội với khắc phục các căn bệnh xã hội

Để cộng đồng giáo dân thực sự "sống phúc âm giữa lòng dân tộc", bên

cạnh việc cần thiết phải có sự kết hợp giữa niềm tin tôn giáo với niềm tin xã hội

tiến bộ, giữa đẹp đạo với tốt đời, giữa giáo lý và luật pháp thì chúng ta cũng cần

đánh giá cao tác dụng của sự kết hợp giữa hành vi xưng tội với việc khắc phục

các căn bệnh xã hội trong công tác giữ gìn TT, AT XH ở vùng giáo. Giữa hành

vi xưng tội và việc khắc phục các căn bệnh xã hội có nhiều điểm tương đồng

thậm chí tương hỗ với nhau, cùng tác động tích cực đến hành vi của mỗi giáo

dân, giúp họ nhận ra lỗi lầm của mình, ăn năn sửa lỗi, ngày càng tiến bộ hơn

trong cuộc sống và trong cộng đồng, mọi người sống đoàn kết, yêu thương nhau

hơn, biết kết hợp hài hoà giữa lợi ích của cá nhân, cộng đồng và xã hội.

Theo người công giáo, xưng tội là tự kể lại tội lỗi mà giáo dân đã phạm

phải trước linh mục với một thái độ, tinh thần hết sức trung thực để mong được

tha thứ. Thú nhận tội lỗi là con người nhìn thẳng vào các tội lỗi mình đã phạm

phải và tự nhận trách nhiệm về các tội lỗi đó. Hành động này giúp cá nhân xem

xét, nhìn nhận lại mình, tìm cho mình một hướng đi, một hành động đúng đắn

hơn với mong muốn hoàn thiện bản thân theo lương tâm hoặc các chuẩn mực

mà mình hướng tới. Xét về mặt tâm lý, xưng tội đã ảnh hưởng tích cực đến đời

sống tinh thần của người công giáo. Mọi giáo dân đều cho rằng sau khi xưng tội

họ như trút bỏ được nỗi lo lắng, sợ hãi, mặc cảm, họ cảm thấy tự tin, thanh thản

hơn, sống hoà mình và gần gũi với mọi người hơn. Trong hành vi này, linh mục

đóng vai trò là người đại diện cho Thiên Chúa, giúp các giáo dân có thể gột rửa,

trút bỏ tội lỗi. Linh mục được xem như là người nhận tội và sau khi giáo dân

xưng tội xong, linh mục cho họ những lời khuyên răn, chỉ bảo và thay mặt Thiên

71

Chúa để tha tội cho họ (tất nhiên là tuỳ mức độ phạm tội để định đoạt xem tội lỗi

đó được tha hay còn phải qua thời gian thử thách chứ không phải bất cứ tội lỗi

nào sau khi xưng tội xong cũng được tha thứ, nếu như vậy thì tính chất linh

thiêng, giáo dục của hành vi xưng tội sẽ không còn mấy giá trị). Như vậy, xét ở

góc độ nào đó , xưng tội mang một ý nghĩa giáo dục quan trọng, bởi qua hành vi

xưng tội của giáo dân, linh mục có thể uốn nắn, răn dạy các giáo dân tránh sa

vào tội lỗi, hoặc nếu lỡ vi phạm thì phải nghiêm túc sửa chữa tội lỗi của mình để

sống kính Chúa, yêu người hơn. Đây là điểm tương đồng, tương hỗ lớn nhất

giữa hành vi xưng tội với hoạt động tuyên truyền đấu tranh, khắc phục các căn

bệnh xã hội mà Đảng, Nhà nước và Chính quyền địa phương phát động. Ý kiến

của số đông giáo dân Nghệ An khi được hỏi về vai trò của mối quan hệ này đã

cho biết: giữa hành vi xưng tội và việc khắc phục các căn bệnh xã hội có quan

hệ mật thiết với nhau, bởi lẽ theo họ, xưng tội là trút bỏ tội lỗi, tránh được tính

hư tật xấu, hoặc "khi phạm tội dù lớn hay nhỏ, nặng hay nhẹ là đều phạm đến

lòng yêu thương của Chúa, vì vậy chúng tôi phải đi xưng tội để được sạch tội

với Chúa và để xin lại lòng thương đó. Tóm lại là, lúc phạm tội là làm mất lòng

Chúa còn khi xưng tội là được làm hoà cùng Chúa" (ý kiến của một giáo dân

nam ở Hưng Tây, Hưng Nguyên). Theo Công giáo, tiêu chuẩn để đánh giá tội

của giáo dân là các đạo luật, điều răn của Chúa; trong đó có 10 điểm cốt yếu

trong giáo lý (10 điều răn của Thiên Chúa), nếu giáo dân nào vi phạm thì coi

như mắc tội với Chúa. Theo các tiêu chuẩn này, giá trị cao nhất và tuyệt đối là

kính Chúa. Thực ra, có kính Chúa, có tin vào sự "quan phòng" của Chúa thì giáo

dân mới nghiêm túc thực hiện tốt các điều răn còn lại cũng như thực hiện các

nghi lễ tôn giáo, trong đó có hành vi xưng tội. Theo quy định của công giáo, một

năm mỗi giáo dân phải đi xưng tội ít nhất là một lần, còn lại là tuỳ thuộc vào số

lần phạm tội, mức độ phạm tội và ý thức tôn giáo của họ. Qua khảo sát 2 xã giáo

toàn tòng ở Nghệ An là Nam Lộc - Nam Đàn và Quỳnh Thanh - Quỳnh Lưu cho

thấy, trung bình một năm giáo dân xưng tội 2 đến 3 lần và giáo dân nữ thường

có nhu cầu xưng tội nhiều hơn.

Hiện nay, ở đa số địa phương vùng giáo các linh mục tiến bộ đã góp phần

to lớn vào phong trào đấu tranh chống các loại tệ nạn xã hội, bước đầu có sự

72

phối hợp, cộng tác, giúp đỡ Chính quyền trong việc đấu tranh chống các loại tội

phạm, ngăn chặn và khắc phục các căn bệnh xã hội. Thông qua hành vi xưng tội

của tín đồ các linh mục đã giáo dục, khuyên bảo hoặc với những tín đồ đã phạm

tội thì tích cực cảm hoá, động viên họ tự giác ra đầu thú, nhận tội trước Chính

quyền, Chính vì vậy, nhìn chung ở các xứ, họ đạo Nghệ An tình trạng công dân

giáo dân vi phạm các tệ nạn xã hội là rất ít và xét trên tổng thể thì dường như

các xứ, họ đạo đã làm rất tốt công tác bài trừ các loại tệ nạn xã hội: nói không

với ma tuý, mại dâm, HIV/ASD, cờ bạc, rượu chè... điều này cũng hoàn toàn

phù hợp với đường hướng của giáo hội Việt Nam nói chung, giáo hội Nghệ An

nói riêng trong phong trào xây dựng xứ, họ đạo an toàn, làm chủ, không có tệ

nạn xã hội, xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa.

Vừa qua trong không khí tưng bừng của Đại hội những người Công giáo

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc khoá V của tỉnh nhà, Đại hội đã nhất trí đề ra

Nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể cho UBĐKCG tỉnh và UBĐKCG các huyện nhiệm

kỳ 2007-2012 với những nội dung cụ thể như sau:

1. Động viên đồng bào Công giáo phát huy truyền thống đoàn kết, tích

cực tham gia lao động sản xuất, đặc biệt trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp,

công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Phát triển nghành nghề truyền thống góp

phần làm tăng sản phẩm thiết yếu phục vụ đời sống. Huy động được nhiều

nguồn lực để phát triển sản xuất, tạo việc làm, giúp nhau thực hiện xoá đói giảm

nghèo. Hướng tới bảo đảm mỗi xứ, họ không còn gia đình giáo dân thiếu đói,

tăng tỷ lệ hộ khá và giàu từ 33,6% lên trên 50%, giảm tỷ lệ hộ đói nghèo xuống

dưới 17%.

2. Tuyên truyền sâu rộng trong đồng bào Công giáo về các chủ trương,

chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, mọi người đều sống và làm việc

theo pháp luật. Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương xã hội, chấp hành tốt các

chính sách của Đảng và Nhà nước.

3. Phát huy truyền thống “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Lá lành đùm lá

rách” vận động đồng bào Công giáo có những hoạt động thiết thực giúp đỡ các

gia đình liệt sĩ, thương binh nặng và những người có công với nước. Làm tốt

73

công tác từ thiện xã hội theo tinh thần sống đạo tình thương, dành sự quan tâm

đặc biệt đến người tàn tật, người già cô đơn, trẻ em mồ côi, cơ nhỡ và những

người có hoàn cảnh bất hạnh khác.

4. Tích cực phòng chống các tệ nạn xã hội. Phấn đấu trong từng xứ, họ

đạo không có người vi phạm; làm tốt công tác hoà giải trong nội bộ nhân dân,

bảo vệ an ninh Tổ Quốc và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân.

5. Thực hiện tốt nếp sống văn hoá trong các sinh hoạt đạo và đời, đặc biệt

trong việc cưới, việc tang và các lễ hội. Xây dựng nếp sống văn hoá thể hiện cụ

thể bằng nếp sống văn minh, lành mạnh tiến bộ. Tổ chức tốt các điểm vui chơi,

giải trí công cộng, thu hút thanh, thiếu niên vào các hoạt động văn hoá, văn nghệ

bổ ích.

6. Xây dựng gia đình hoà thuận “Ông bà mẫu mực, con cháu hiếu thảo”,

quan hệ tốt với những người xung quanh. Cùng nhân dân địa phương tạo môi

trường xanh sạch đẹp đường làng ngõ xóm; phấn đấu trong các xứ, họ có nhiều

gia đình được công nhận gia đình văn hoá, xứ, họ tiên tiến gương mẫu, cụ thể

mỗi năm tăng khoảng 1800-2000 gia đình văn hoá.

7. Quan tâm và đầu tư cho sự nghiệp giáo dục, trẻ em đến tuổi phải được

đi học 100%, không có trẻ em bỏ học; có nhiều hình thức quan tâm giúp đỡ trẻ

em nghèo, chú trọng tài năng trẻ; số học sinh thi đỗ vào các trường cao đẳng, đại

học đạt tỷ lệ năm sau cao hơn năm trước; tích cực tham gia hoạt động trong lĩnh

vực y tế, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.

8. Thực hiện tốt chương trình dân số gia đình và trẻ em, sinh sản có trách

nhiệm và nuôi dạy con tốt. Mọi trẻ em phải được chăm sóc, bảo vệ trong các

điều kiện tốt nhất. Phấn đấu hạ tỷ lệ phát triển dân số xuống dưới 1%.

9. Vận động đồng bào ở từng độ tuổi nhiệt tình tham gia vào các tổ chức,

đoàn thể xã hội, góp phần xây dựng cơ sở vững mạnh, đoàn kết gắn bó với nhân

dân trong khu dân cư.

10. Xây dựng nếp sống đạo và thể hiện niềm tin tôn giáo bằng những việc

làm cụ thể hàng ngày; hoà nhập, gắn bó với Dân tộc theo tinh thần Thư chung

của Hội đồng giám mục Việt Nam.

74

Chương 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY MẶT TÍCH CỰC VÀ KHẮC PHỤC MẶT HẠN CHẾ CỦA ĐẠO CÔNG GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC GIỮ GÌN TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI Ở VÙNG GIÁO NGHỆ AN HIỆN NAY

Trên cơ sở phân tích thực trạng TT, ATXH ở vùng giáo Nghệ An hiện

nay và ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với việc giữ gìn TT, ATXH chúng ta

thấy rõ tính chất hai mặt của sự ảnh hưởng này. Đó là, bên cạnh những ảnh

hưởng tích cực, đáng ghi nhận và phát huy thì vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại cần

khắc phục. Việc phát huy mặt tích cực và khắc phục những hạn chế đó là công

việc lâu dài cần có những giải pháp đúng đắn, phù hợp với "ý Đảng, lòng dân".

Trong khuôn khổ của một luận văn cao học, tác giả đề xuất một số giải

pháp sau:

3.1 Tăng cường tuyên truyền, giáo dục đường lối của Đảng, chính

sách và pháp luật của Nhà nước, nâng cao về mặt nhận thức

Tại Đại hội những người Công giáo xây dựng và bảo vệ Tổ quốc khoá V

tỉnh nhà được tổ chức vào đầu tháng 10 năm 2007, Đại hội đã đưa ra một hệ

thống các giải pháp nhằm thực hiện tốt những nhiệm vụ và mục tiêu đề ra, trong

đó giải pháp đầu tiên được đề cập đến là: “Tăng cường công tác tuyên truyền

phổ biến các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, nâng cao

nhận thức để bà con thực hiện tốt đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và

pháp luật của Nhà nước, thực hiện những quy định về các hoạt động tín ngưỡng,

tôn giáo. Đồng thời thực hiện tốt tôn chỉ mục đích trong Điều lệ của UBĐKCG

Việt Nam quy định”. Tác giả hoàn toàn thống nhất với giải pháp trên của Đại

hội và cụ thể hoá giải pháp đó như sau:

3.1.1. Đối với tầng lớp chức sắc, chức việc

Trong cộng dồng giáo dân, chức sắc, chức việc là những người có uy tín,

có tiếng nói rất quan trọng trong một số lĩnh vực đời sống xã hội, mà trước hết

phải kể đến là công tác giữ gìn TT, ATXH ở vùng giáo. Hàng ngũ này hiện nay

có 4 xu hướng sau: Một là, tiến bộ vì lợi ích dân tộc; Hai là, ôn hoà tuân thủ

pháp luật; Ba là, thích nghi; Bốn là, chống đối cực đoan. Trên cơ sở nắm tình

75

hình, phân loại thái độ chính trị của hàng ngũ chức sắc, chức việc để có phương

pháp vận động, tranh thủ hàng ngũ này và những người có uy tín trong cộng

đồng giáo dân tham gia xây dựng và phát triển phong trào giữ gìn TT, ATXH

bằng nhiều hình thức khác nhau. Làm tốt công tác này sẽ tạo ảnh hưởng lớn đối

với đông đảo quần chúng giáo dân. Càng tranh thủ được nhiều sự ủng hộ của

chức sắc, chức việc đối với chính quyền thì càng thêm sức mạnh và đạt hiệu quả

cao trong công tác giữ gìn TT, ATXH.

Để làm tốt công tác này, trước hết cần phải tuyên truyền giáo dục tín đồ

chức sắc tôn giáo phát huy chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết của người

Việt Nam nói chung và của tín đồ Công giáo nói riêng. Bên cạnh đó, cần năng

cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên chức sắc tín đồ về chủ trương của Đảng,

chính sách và pháp luật của Nhà nước đối với tôn giáo. Mọi công dân cần ý thức

rằng: Đảng và Nhà nước luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và tự

do không tín ngưỡng tôn giáo. Giữa đạo đức công giáo và đạo đức XHCN có

nhiều điểm tương đồng cần phát huy, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng

một xã hội tốt đẹp hơn. Các bước để thực hiện giải pháp này như sau:

Một là, đưa các văn bản của Đảng, Nhà nước và Chính quyền về công tác

tôn giáo thực thi trong cuộc sống. Thông qua đó các chức sắc, chức việc và quần

chúng giáo dân hiểu rõ hơn về nội dung, ý nghĩa và nhất là những quy định về

quản lý Nhà nước của những văn bản đó. Cập nhật những thông tin mới nhất về

chính sách tôn giáo và cụ thể hoá một cách đầy đủ, rõ ràng sự tôn trọng của xã

hội đối với quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của mọi người, tạo hành lang pháp

lý để đấu tranh ngăn chặn chống lại mọi hoạt động lợi dụng tôn giáo chống phá

chế độ xã hội, chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Hai là, Kiên trì tranh thủ tình cảm, tạo niềm tin tiến tới vận động thuyết

phục đội ngũ chức sắc, chức việc ủng hộ việc thực hiện các chủ trương, chính

sách của Đảng và Chính quyền địa phương.

Qua thực tế ở nhiều địa phương, nhiều linh mục và các chức sắc tôn giáo

đã thể hiện rõ sự đồng tình ủng hộ các phong trào chung của tỉnh nhà, số đông

đã hợp tác với Chính quyền địa phương để tháo gỡ những bức xúc, vướng mắc

liên quan đến chính sách tôn giáo, vận động tín đồ thực hiện tốt nghĩa vụ công

76

dân, bài trừ các tệ nạn xã hội, nâng cao trách nhiệm gia đình, giáo dục con em

không phạm tội và tệ nạn xã hội, góp phần xây dựng các xứ, họ đạo đoàn kết, an

toàn, văn hoá.

Ba là, Chính quyền các cấp thường xuyên gặp gỡ, nắm bắt tâm tư, nguyện

vọng, cố gắng đến mức cao nhất trong việc đáp ứng các nhu cầu chính đáng

trong cuộc sống của chính quyền giáo dân.

Đây là một việc làm thiết thực thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, tính hơn

hẳn về trách nhiệm trước dân của chính quyền cách mạng so với bất kỳ chế độ

nào khác. Làm tốt công tác này sẽ là sự tác động cơ bản, hợp quy luật, làm phát

sinh những tình cảm tốt đẹp với chế độ xã hội, làm hình thành, củng cố sâu sắc

hơn tình cảm gắn bó với cách mạng, với dân tộc, với CNXH trong lòng những

người theo đạo, gắn kết niềm tin tôn giáo với niềm tin xã hội tiến bộ.

Bốn là, cần phải nắm vững tư tưởng, thái độ của đội ngũ chức sắc, chức

việc để kịp thời tuyên truyền, động viên, khuyến khích những cá nhân có đóng

góp tích cực cho phong trào giữu gìn TT, ATXH; đồng thời với những chức sắc,

chức việc có những hoạt động tôn giáo sai trái, gây ảnh hưởng xấu đối với TT,

ATXH ở vùng giáo nói riêng và xã hội nói chung thì chính quyền các cấp cũng

cần kịp thời trao đổi, nhắc nhở tuỳ cấp độ, tính chất của từng vụ việc.Với những

vụ việc có tính chất nghiêm trọng thì cần phải tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng

hộ của quần chúng giáo dân để đấu tranh, tác động đến đội ngũ chức sắc, chức

việc này.

3.1.2. Đối với quần chúng giáo dân

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Chính quyền ta là chính quyền dân chủ,

bất kỳ việc to, việc nhỏ đều phải dựa vào lực lượng của nhân dân để phụng sự

lợi ích của nhân dân. Việc giữ gìn trật tự an ninh càng phải dựa vào lực lượng

của nhân dân". Thật vậy, trong mọi hoạt động nói chung, trong phong trào giữ

gìn TT, ATXH nói riêng thì quần chúng giáo dân chính là động lực chính và là

động lực mạnh, "dễ vạn lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng

xong". Muốn phát huy được sức mạnh của lực lượng cách mạng đông đảo này,

77

chúng ta cần quán triệt một số vấn đề sau:

Trước hết phải xoá bỏ mặc cảm phân biệt đồng bào có đạo và đồng bào

không có đạo, xác định giáo dân trước hết cũng là công dân. Trên cơ sở đó đến

với tín đồ một cách cởi mở, tin cậy, gần gũi và tôn trọng. Qua đó, tuyên truyền,

giáo dục cho họ hiểu đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước nhất là các

nội dung về tự do, tín ngưỡng.

Hai là, Phải hết sức quan tâm, làm tốt việc phổ biến, giải thích đường lối,

chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, nhất là chính sách đối

với tôn giáo để quần chúng hiểu rõ. Cần lấy thực tiễn để chứng minh rằng, Đảng

và Nhà nước ta từ trước đến nay luôn đặt lợi ích dân tộc, lợi ích của nhân dân

lên trên hết, mọi chủ trương chính sách của Đảng đều nhằm chăm lo đến hạnh

phúc, đời sống của nhân dân trong đó có đồng bào theo đạo. Bên cạnh đó cần

nhắc nhở quần chúng đề cao cảnh giác, tỉnh táo, phân biệt giữa hoạt động tôn

giáo bình thường với những hoạt động sai trái để quần chúng không nghe, không

làm theo những chủ trương mang tính chất chính trị, phản động của những phần

tử xấu. Phải phân tích để họ thấy được hoạt động của những phần tử xấu núp

dưới bóng giáo hội không những gây hại cho cách mạng, chia rẽ khối đại đoàn

kết toàn dân, mà còn làm ảnh hưởng xấu đến Giáo hội. Chính chúng là kẻ đã gây

khó khăn cho những sinh hoạt tôn giáo bình thường. Chỉ có làm cho quần chúng

hiểu chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhận rõ âm mưu của những

phần tử xấu trong giáo hội thì quần chúng mới đồng tình, ủng hộ các chủ trương,

biện pháp đấu tranh của ta, thậm chí họ còn tự giác đứng lên đấu tranh, phê phán

những việc làm sai trái của bọn phản động cũng như của Giáo hội.

Ba là, phải tin vào quần chúng, dựa vào quần chúng, xác lập và phát huy

quyền làm chủ tập thể của quần chúng, thực hiện đầy đủ quy chế dân chủ ở cơ

sở. Thực tiễn cho thấy, khi chúng ta thật sự tin vào quần chúng, phát huy được

quyền làm chủ tập thể của họ thì chắc chắn giáo dân sẽ tự giác thực hiện đúng

đắn nghĩa vụ của mình, phát hiện và tích cực đấu tranh với mọi hoạt động vi

phạm TT, ATXH, ủng hộ chính quyền phòng ngừa và xử lý các hoạt động lợi

dụng tôn giáo. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng khẳng định: "Khi nhân dân

hiểu rõ nghĩa vụ công dân của mình, khi công an được nhân dân giúp sức thì lũ

78

gian tế không thể lọt lưới và trị an trật tự sẽ được hoàn toàn" (Công báo. Nhân

dân, ngày 18/08/1955). Bên cạnh đó, cần thực hiện đầy đủ quy chế dân chủ ở cơ

sở - nghĩa là, phải tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để giáo dân giám nói lên suy

nghĩ của mình về Đảng, Chính quyền, về đường lối, chủ trương, chính sách của

Đảng, Nhà nước cũng như những tâm tư, nguyện vọng của họ. Đây chính là cơ

sở để xây dựng, tuyên truyền và tìm ra các phương thức phù hợp thực hiện các

chủ trương của Đảng và chính sách, luật pháp của Nhà nước nhằm nâng cao đời

sống mọi mặt của cộng đồng này.

Bốn là, song song với việc tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ về chính trị,

phải thực sự chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và các quyền lợi thiết thực

khác của quần chúng.

Năm là, vận động, tập hợp, tổ chức quần chúng giáo dân vào các đoàn thể

cách mạng, không để quần chúng bị lôi kéo vào các tổ chức hội, đoàn tôn giáo

nhất là những hội đoàn mang tính chất phản động.

Trong tình hình hiện nay, khi quần chúng giáo dân có nhu cầu tham gia

sinh hoạt các hội đoàn tôn giáo thì chúng ta cũng không nên dùng mệnh lệnh

hành chính cấm đoán. Song cũng không vì vậy mà để mặc cho Giáo hội tổ chức,

phát triển hội đoàn một cách tự do, tràn lan. Vấn đề là cần tổ chức ra các đoàn

thể cách mạng và phát huy vai trò của các đoàn thể này trong cộng đồng. Đối

với thanh, thiếu niên, phụ nữ, phụ lão, ngoài yêu cầu, nội dung vận động đã nêu

trên ta cần có những yêu cầu, nội dung, hình thức giáo dục, vận động phù hợp

với lứa tuổi và giới tính của họ.

- Đối với thanh - thiếu niên: Cần dìu dặt họ tiến bộ về tư tưởng, không để

họ trở thành những người lạc hậu, cuồng tín, chống đối cách mạng. Phải tổ chức

thanh - thiếu niên thành lực lượng nòng cốt trong các hoạt động văn hoá, văn

nghệ, thể dục thể thao; phải là những người tích cực đấu tranh với những tập tục

lạc hậu trong sinh hoạt tôn giáo. Phải tập hợp họ vào các tổ chức đoàn thanh

niên, đội thiếu niên để thông qua sinh hoạt của các tổ chức này nâng cao giác

ngộ chính trị, giảm bớt những sinh hoạt tôn giáo. Muốn vậy, phải xây dựng,

củng cố tổ chức đoàn thanh niên, đội thiếu niên trong các nhà trường, làng xã

vững mạnh với các nội dung, hình thức sinh hoạt nhẹ nhàng nhưng phong phú,

79

hợp với tuổi trẻ vùng giáo.

- Đối với phụ nữ: Cần làm cho các bà, các chị không bị ảnh hưởng, tác

động của các phần tử xấu trong giáo hội. Không gây cản trở chồng, con tham gia

các hoạt động chính trị - xã hội yêu nước, không thúc ép chồng con phải bỏ sinh

hoạt Đảng, đoàn thể để đi lễ, xưng tội, tham gia các tổ chức do giáo hội lập ra.

Động viên chị em tích cực lao động sản xuất phát triển kinh tế, thực hiện nếp

sống văn minh, gia đình văn hoá mới, sinh đẻ có kế hoạch.

- Đối với phụ lão: Do vai trò, uy tín của phụ lão đối với gia đình, xã hội

và giáo hội nên cần quan tâm đến đời sống, sức khoẻ của các cụ, nhất là các cụ

già neo đơn không nơi nương tựa, các cụ thuộc gia đình chính sách. Qua đó,

động viên các cụ tích cực động viên con cháu hăng hái lao động sản xuất, tham

gia các phong trào ở địa phương, làm nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc. Vận động các cụ

gương mẫu bỏ bớt các tập tục lạc hậu, rườm rà, tốn kém trong sinh hoạt tôn

giáo; đấu tranh, phê phán với những việc làm sai chính sách, pháp luật của các

linh mục, của giáo hội.

Thời gian qua, công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng giáo dân ở

Nghệ An được tổ chức đa dạng, phong phú và bám sát mục tiêu: vận động đồng

bào có đạo đoàn kết lương - giáo, đoàn kết dân tộc, đẩy mạnh sản xuất, thực

hiện tốt chính sách pháp luật của đảng và nhà nước, các quy định về sinh hoạt

tôn giáo, phát huy tinh thần "kính Chúa, yêu nước", thực hiện tốt 10 nội dung

cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư",

"sống tốt đời, đẹp đạo", góp phần giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh

quốc gia và trật tự an toàn xã hội, làm thất bại âm mưu "Diễn biến hoà bình" của

các thế lực thù địch. Các văn bản của Đảng, Nhà nước về công tác tôn giáo được

các địa phương, đơn vị chủ động xây dựng kế hoạch, tổ chức triển khai kịp thời

cho các cán bộ, đảng viên, chức sắc, chức việc và đồng bào giáo dân học tập,

thực hiện.

Các đoàn thể phụ nữ, cựu chiến binh đã cử cán bộ phụ trách công tác tôn

giáo xuống tận cơ sở để vừa tuyên truyền, vừa tổ chức tập huấn cho cán bộ, hội

viên của mình. Riêng Công an tỉnh đã tổ chức tập huấn nghiệp vụ về công tác

tôn giáo cho cán bộ, chiến sỹ, trưởng, phó công an xã làm cônng tác tôn giáo từ

80

tỉnh đến cơ sở. Theo báo cáo của Công an tỉnh thì có gần 300 cán bộ, chiến sỹ

đã tham gia các lớp tập huấn này và đạt kết quả cao. Chính quyền các địa

phương thông qua hệ thống truyền thanh cơ sở, các cụm liên gia tự quản về an

ninh trật tự, các đoàn thể thông qua sinh hoạt để lồng ghép vào nội dung tuyên

truyền. Đặc biệt một số địa phương đã tổ chức các đợt tuyên truyền, vận động

tập trung tại các địa bàn có đông đồng bào theo đạo như: Nam Đàn tổ chức tại

xã Hồng Long, Anh Sơn tổ chức tại xã Hùng Sơn, Hội phụ nữ thị xã Cửa Lò tổ

chức tại phường Nghi Tân, Nghi Thuỷ ... Đội ngũ báo cáo viên đã thể hiện được

tinh thần trách nhiệm, chuyển tải các nội dung đến địa bàn khu dân cư.

Nhờ sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa Mặt trận, các nghành, đoàn thể...

nên 10 năm qua đã có hơn 1.550 lượt chức sắc trong ban hành giáo và gần 24

vạn lượt giáo dân được tuyên truyền về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà

nước đối với tôn giáo và công tác bảo vệ an ninh trật tự trong vùng giáo. Thông

qua công tác tuyên truyền, trình độ nhận thức của các tín đồ, các chức sắc được

nâng lên một bước, nhiều linh mục đã đồng tình hợp tác với Chính quyền để tiến

hành phát động phong trào quần chúng bảo vệ TT, ATXH vùng giáo.

3.2. Nghiên cứu vận dụng giáo lý, giáo luật đạo Công giáo vào công

tác giữ gìn trật tự, an toàn xã hội

Theo tư duy triết học biện chứng, muốn tác động, cải tạo khách thể thì

trước hết chúng ta phải hiểu biết về khách thể, đó là đòi hỏi, là yêu cầu tất yếu

trong bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào. Với đạo Công giáo cũng vậy. Để phát huy

những ảnh hưởng tích cực và khắc phục những hạn chế của đạo Công giáo đối

với việc giữ gìn TT, ATXH ở vùng giáo thì trước hết chúng ta phải có những

hiểu biết sâu sắc về hệ thống giáo lý, giáo luật của đạo Công giáo. Yêu cầu này

bắt nguồn từ một số lý do cơ bản sau:

Một là, giữa giáo lý của đạo Công giáo với những quan điểm đạo đức

XHCN, pháp lụât của Nhà nước ta có nhiều điểm tương đồng, tương hỗ cho

nhau (điều này tác giả đã trình bày ở tiểu tiết 2.1.2 và 2.1.4). Ngay cả trong giáo

luật - là sự thể chế hoá mối quan hệ đời sống tôn giáo giữa các tín hữu với nhau

giữa tín hữu với giáo hội - bao gồm 7 quyển với 1752 điều cũng có rất ít nội

81

dung mâu thuẫn với pháp luật của Nhà nước ta. Vì vậy, trong công tác tôn giáo,

chúng ta cần đặc biệt phát huy điểm tương đồng này, tạo tâm lý gần gũi, gắn kết

giữa niềm tin tôn giáo với niềm tin xã hội tiến bộ. Phải bằng mọi cách để giáo

dân thấy được kính Chúa và yêu nước là không mâu thuẫn, đúng như lời dạy của

Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Những việc chính phủ làm, nhân dân làm đều hợp với

tinh thần phúc âm, cho nên đồng bào công giáo làm tròn chính sách của chính

phủ cũng là làm tròn tinh thần của Chúa Cơ Đốc". Ngược lại, với những hoạt

động làm sai chính sách pháp luật của Nhà nước, thông thường cũng đi ngược

lại bản chất tôn giáo và trái với kinh thánh. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay

cần phải chú ý giáo dục, giải thích cho quần chúng tín đồ hiểu được các quy

định của pháp luật trong quản lý các hoạt động có liên quan đến tôn giáo, làm

cho họ hiểu rằng, bất kỳ hoạt động nào trong xã hội cũng phải tuân thủ pháp

luật, hoạt động tôn giáo cũng vậy. Những giáo dân ngoan đạo, sùng kính Chúa

vẫn có thể là những công dân tốt hoạt động tích cực cho đời sống kinh tế, văn

hoá, khoa học - kỹ thuật... sống hoà cùng xã hội, cùng dân tộc và CNXH.

Hai là, xét trong cộng đồng giáo dân ta thấy, đối với các giáo sỹ (nhất là

từ hàng ngũ linh mục trở lên) là những nhà trí thức công giáo có trình độ thần

học, có sự hiểu biết sâu về nguyên tắc và phong cách ứng xử giao tiếp, nắm chắc

giáo lý, giáo luật... vì vậy khi tiếp xúc với họ, nếu chúng ta không nghiên cứu kỹ

giáo lý, giáo luật để vận dụng trong công tác giáo dục, thuyết phục, tranh thủ sự

đồng tình... thì sẽ khó đạt kết quả cao.

Ba là, đối với quần chúng giáo dân, đa số do đời sống còn gặp nhiều khó

khăn, trình độ dân trí thấp nên sự hiểu biết của quần chúng về giáo lý và đặc biệt

là giáo luật còn hết sức sơ lược, thậm chí mơ hồ. Lợi dụng hạn chế này của quần

chúng giáo dân, một số phần tử xấu đã kích động lôi kéo họ vào những hoạt

động tôn giáo không những trái với chủ trương, chính sách của đảng và Nhà

nước mà còn trái với đạo đức, giáo lý, giáo luật của đạo công giáo. Trong trường

hợp này, quần chúng giáo dân tham gia với một ý thức rất bồng bột là để "bảo

vệ đức tin, bảo vệ đạo". Điều này cho thấy sự cần thiết phải nghiên cứu kỹ giáo

lý, giáo luật để vận dụng vào công tác vận động, giải thích cho quần chúng giáo

82

dân hiểu rõ thực chất những việc làm của bề trên, của BHG trong rất nhiều

trường hợp là vi phạm giáo lý, giáo luật. Từ đó tranh thủ sự đồng tình ủng hộ

hoặc chí ít không chống lại việc xử lý của chính quyền. Cao hơn, việc này giúp

quần chúng phân biệt được đâu là hoạt động tôn giáo thuần tuý, đâu là lợi dụng

tôn giáo để đề cao tinh thần cảnh giác, đấu tranh với những hoạt động sai trái.

Các phần tử lợi dụng tôn giáo sẽ mất chỗ dựa tinh thần để lừa mị giáo dân chống

lại chính quyền.

Bốn là, thực tế cho thấy, đa số cán bộ "tôn giáo vận" còn ít am hiểu về

giáo lý, giáo luật, do đó thường xảy ra những việc đáng tiếc đối với uy tín và uy

thế của chính quyền. Đồng bào giáo dân vừa là công dân, vừa là tín đồ. Vận

động tín đồ phải bằng chính những mặt tích cực của giáo lý, đạo đức tôn giáo.

Người cán bộ am hiểu giáo lý, giáo luật sẽ thuận lợi trong việc tiếp xúc với tín

đồ, chức sắc, dễ dàng vượt qua rào cản bất đồng tôn giáo, gây được cảm tình với

họ, từ đó gắn được nội dung cần vận động với những nội dung tích cực của giáo

lý, giáo luật, hiệu quả vận động sẽ cao. Điều này đòi hỏi, các cấp chính quyền,

các nghành, đoàn thể và cán bộ làm công tác tôn giáo ngoài việc nhận thức đúng

về tôn giáo và nắm vững chủ trương, chính sách của đảng, Nhà nước về công tác

tôn giáo còn phải nắm vững giáo lý, giáo luật, hiểu biết đầy đủ, đúng các yếu tố

nội tại của tôn giáo. Các cán bộ chuyên trách ở vùng giáo phải được tập huấn về

giáo lý, giáo luật. Cần tìm những người có trình độ cao, am hiểu vấn đề giúp

Tỉnh trong công việc đó.

Như vậy, việc nghiên cứu vận dụng giáo lý, giáo luật vào công tác giữ gìn

TT, ATXH ở vùng giáo chính là một hướng tiếp cận linh động, nhạy bén và đạt

hiệu quả cao. Qua đó chúng ta sẽ có tri thức tổng quát về khía cạnh xã hội trần

thế của giáo hội. Tín hữu công giáo có quyền lợi và nghĩa vụ chấp hành giáo lý,

giáo luật trong sống đạo và hành đạo. Vì vậy, tìm hiểu, vận dụng giáo lý, giáo

luật giúp chúng ta nắm được điều quy định tín hữu được làm và không được làm

để vận dụng vào công tác quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo và vận động

quần chúng có đạo, chức sắc tôn giáo chấp hành tốt nghĩa vụ công dân, sống tốt

83

đời, đẹp đạo.

3.3. Củng cố bộ máy cán bộ làm công tác tôn giáo, duy trì bảo vệ trật

tự, an toàn xã hội vùng giáo, chống địch lợi dụng đạo Công giáo

Tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề hết sức nhạy cảm, đòi hỏi những người

làm công tác tôn giáo phải thực sự có kiến thức về tôn giáo, có lòng nhiệt huyết

và cách nhìn nhận khách quan, khoa học về tôn giáo. Riêng ở Nghệ An, đội ngũ

cán bộ làm công tác này còn rất nhiều bất cập, đa số các đồng chí có vốn kiến

thức chuyên môn về lĩnh vực của mình khá khiêm tốn bới trước đây hầu hết họ

được đào tạo các nghành nghề khác và đã từng công tác ở các lĩnh vực ít liên

quan đến tôn giáo, hoặc có những đồng chí làm công tác tôn giáo chỉ là "kiêm

nhiệm" mà thôi. Điều này đã làm cho đội ngũ cán bộ làm công tác này của tỉnh

nhà vốn đã mỏng lại thêm yếu. Thêm vào đó, sự quan tâm, đánh giá về đội ngũ

này chưa thực sự đặt ra đúng mức, điều này cũng gây ảnh hưởng tâm lý không

tốt đối với các cán bộ tôn giáo, làm cho họ chưa thật sự toàn tâm toàn ý với công

việc... Tất cả những hạn chế trên đã trở thành lực cản, gây rất nhiều khó khăn

cho công tác tôn giáo, đặc biệt là trong việc tiếp xúc, vận động, thuyết phục các

chức sắc, chức việc và quần chúng giáo dân khi có các hoạt động tôn giáo vi

phạm TT, ATXH.

Qua số liệu khảo sát tại Đề án của Ban tổ chức Tỉnh uỷ năm 2003 cho

thấy trong số 617 uỷ viên thường vụ đảng uỷ của các xã có đồng bào theo đạo

công giáo thì chỉ có 4 đồng chí uỷ viên thường vụ gốc giáo. Đây là một con số

chưa tương xứng với số lượng cộng đồng giáo dân trong tỉnh. Hơn nữa cán bộ

chủ chốt cấp xã gốc giáo so với số lượng đảm nhận các cương vị quan trọng là

không đáng kể. Điều này được nhận thấy qua thống kê của Ban tổ chức Tỉnh uỷ

với số liệu sau: Bí thư đảng uỷ xã: 2/161 bí thư đảng uỷ (tại hai xã giáo toàn

tòng); 1/161 chủ tịch uỷ ban nhân dân xã; 1/161 phó chủ tịch uỷ ban nhân dân

xã; 1/161 chủ tịch hội đồng nhân dân; 2/161 phó chủ tịch hội đồng nhân dân;

28/780 trưởng các đoàn thể lại càng không tương xứng; cùng với điều đó số

đảng viên giáo dân đảm nhận các cương vị quan trọng tại huyện uỷ, uỷ ban nhân

dân huyện và ở tỉnh hầu như không có. Đây cũng là một trong những nguyên

84

nhân quan trọng khiến cho cộng đồng giáo dân chưa tin tưởng vào thiện chí của

Đảng và Nhà nước và gây ra không ít khó khăn trong công tác vận động quần

chúng tín đồ.

Đánh giá về năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo tỉnh nhà

hiện nay, Ban tôn giáo tỉnh đã tiến hành điều tra xã hội học và thu được kết quả

sau đây:

(Kết quả rút ra từ 500 phiếu dành cho cán bộ, đảng viên và 300 phiếu

dành cho bà con giáo dân)

Về năng lực Cán bộ, đảng viên Bà con giáo dân đánh

đánh giá giá

Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)

Đáp ứng yêu cầu 185 37 56 18,6

Có đáp ứng nhưng hạn chế 21 4,4 20 7,0

Không đáp ứng yêu cầu 290 57,9 210 69,8

Không có ý kiến 4 0,8 14 4,7

Kết quả trên cho thấy rằng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo của tỉnh

nhà còn quá yếu. Có tới 57,9% cán bộ, đảng viên và 69,8% bà con giáo dân cho

rằng năng lực của đội ngũ này không đáp ứng yêu cầu công việc. Điều này có

nghĩa là các cấp lãnh đạo tỉnh nhà chưa thật sự quan tâm tới công tác đào tạo và

đạo tạo lại đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo đồng thời cũng chứng tỏ vai trò

lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức cơ sở đảng vùng giáo còn rất yếu kém

Thực tiễn đó đã đặt ra yêu cầu, muốn tôn giáo thực sự "đồng hành" cùng

dân tộc, muốn phát huy những giá trị đạo đức cao đẹp và khắc phục những hạn

chế của đạo công giáo... phụ thuộc phần nào vào chất lượng của bộ máy cán bộ

làm công tác tôn giáo.Với ý nghĩa đó, ở giải pháp này, tác giả xin nêu ra hai vấn

85

đề cần chú trọng sau:

3.3.1. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần đấu tranh

chống hai xu hướng hoặc tả khuynh hoặc hữu khuynh

Yêu cầu trước hết ở đây là cần phải có cách nhìn nhận, đánh giá khách

quan và khoa học về tôn giáo - nhất là đạo Công giáo - tôn giáo được du nhập

vào Việt Nam cùng với bước chân xâm lược của thực dân Pháp nên không tránh

khỏi những định kiến, thiếu thiện cảm đối với tôn giáo này trong cộng đồng xã

hội chung. Chúng ta cần phải thấy rằng, trong quá khứ cũng như hiện tại, không

phải bao giờ Công giáo cũng là tay sai của Chủ nghĩa thực dân đế quốc, không

phải khi nào Công giáo cũng mâu thuẫn với Dân tộc, mà trạng thái mâu thuẫn đó

chỉ xảy ra ở một số nơi, một số thời điểm lịch sử nhất định và mâu thuẫn này

sớm, muộn đã và sẽ được hoá giải. Trong hai cuộc trường kỳ kháng chiến chống

Pháp và chống Mỹ, phong trào yêu nước của người Công giáo đã phát triển

mạnh với nhiều hình thức hoạt động phong phú, như: thành lập các tổ chức

Công giáo kháng chiến nhằm vận động người Công giáo tham gia công cuộc

kháng chiến, kiến quốc (Hội Công giáo kháng chiến Nam Bộ với nòng cốt là các

linh mục Hồ Thành Biên, Võ Thành Trinh; Uỷ ban liên lạc Công giáo kháng

chiến khu Ba, Khu Tả Ngạn với nòng cốt là các linh mục Vũ Xuân Kỷ, Nguyễn

Thế Vịnh, Phạm Quang Phước…); phát hành các tờ báo “Vì Chúa vì Tổ Quốc”

ở Nam Bộ, báo “Sáng danh Chúa” ở Bắc Bộ để tuyên truyền phát huy lòng yêu

nước trong đồng bào Công giáo vì mục tiêu giải phóng dân tộc. Riêng ở Nghệ

An trong kháng chiến chống Pháp có tổ chức “Hội liên lạc Công giáo kháng

chiến” do cố linh mục Nguyễn Văn Khâm làm hội trưởng; trong kháng chiến

chống Mỹ có tổ chức “Đoàn thường trực Công giáo yêu nước” do cố linh mục

Nguyễn Văn Ngôn làm chủ tịch, kế tiếp là cố linh mục Phạm Văn Hậu làm chủ

tịch, sau đó được đổi tên thành “Hội đồng thi đua yêu nước” do cố linh mục

Nguyễn Văn Sáng làm chủ tịch. Sau khi hợp nhất hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh

lại thành một tỉnh Nghệ Tĩnh thì tổ chức này do cố linh mục Vương Đình Ái làm

chủ tịch. Bên cạnh đó phát huy mạnh mẽ lòng yêu nước, nhận thức sâu sắc âm

mưu và thủ đoạn thâm độc của các thế lực thực dân, đế quốc, các thế lực thù

địch, hàng nghìn người con Công giáo Nghệ An đã tình nguyện lên đường nhập

86

ngũ vì sự nghiệp chung giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà; hàng nghìn bà

mẹ đã lau nước mắt tiễn con ra chiến trường mà không giám mong chờ có ngày

gặp lại. Sự hy sinh lớn lao đó, sự đồng cảm, gặp gỡ cao đẹp đó giữa Công giáo

và Dân tộc là điều không ai có thể phủ định. Trong công cuộc đổi mới hiện nay,

khi Công giáo cũng như các tôn giáo khác đang hoà mình đồng hành cùng Dân

tộc, khi niềm tin tôn giáo dang góp phần xây dựng thành công niềm tin về một

xã hội tiến bộ vì mục tiêu chung "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân

chủ, văn minh" thì hơn bao giờ hết chúng ta cần phải đánh giá đúng "động lực

mạnh" đó của tôn giáo, phát huy điểm tương đồng, gặp gỡ giữa Công giáo và

Dân tộc, phát huy những giá trị văn hoá đạo đức lành mạnh, hướng thiện của

Công giáo, phục vụ tích cực cho phong trào giữ gìn TT, ATXH ở vùng giáo nói

riêng và cả xã hội nói chung.

Để làm được điều này, bên cạnh những chủ trương, đường lối, chính sách

đúng đắn của Đảng và Nhà nước thì còn phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ cán bộ

làm công tác tôn giáo. Vì vậy, để phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ tôn giáo,

trong nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta cần đấu tranh với những khuynh

hướng tư tưởng sai lầm, có ảnh hưởng không tốt đối với công tác tôn giáo, đó là:

- Một là xu hướng tả khuynh: đây là xu hướng cực đoan, hành chính,

mệnh lệnh, thường giải quyết vấn đề tôn giáo với một quan điểm "cứng", chưa

thoát khỏi những mặc cảm cũ về đạo công giáo hoặc những định kiến, tư duy cũ

để lại, làm cho tín đồ đạo công giáo thiếu tin tưởng vào đường lối, chính sách về

tôn giáo của Đảng và Nhà nước, tạo sơ hở cho kẻ địch và bọn phản động tuyên

truyền luận điệu "cộng sản chống tôn giáo", tập hợp, lôi kéo quần chúng giáo

dân thực hiện chiến lược "Diễn biến hoà bình" chống lại chính quyền, chống lại

cách mạng nước ta.

- Hai là xu hướng hữu khuynh: đây là xu hướng né tránh, buông xuôi,

ngại va chạm, không giám đấu tranh trước những sai phạm của các hoạt động

tôn giáo vi phạm pháp luật. Xu hướng này là sự biểu hiện buông lỏng quản lý,

giải quyết các vụ việc, công việc về tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo một

cách xuôi chiều cho xong việc, thiếu cân nhắc, thận trọng, không lường hết

những hậu quả xấu. Đây cũng là cơ hội cho những hoạt động tôn giáo lấn lướt

87

chính quyền, ngấm ngầm chống phá cách mạng.

Ngoài hai xu hướng trên, chúng ta cũng cần khắc phục với tư tưởng né

tránh giải quyết các vụ việc về tôn giáo hoặc có liên quan đến tôn giáo, dây dưa

kéo dài hoặc đùn đẩy lên cấp trên, không làm hết chức năng thẩm quyền được

giao, gây những tác hại không kém các biểu hiện "cứng nhắc" hoặc "buông

lỏng" nói trên.

Thực tiễn này cho thấy, trong vấn đề quản lý đối với tôn giáo chúng ta

không nên đặt vấn đề giải quyết một cách cứng rắn hay mềm mỏng, tả khuynh

hay hữu khuynh mà cần phải có cách giải quyết biện chứng trên cơ sở đảm bảo

các yêu cầu sau:

- Trước hết, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng hoặc không tín ngưỡng tôn

giáo.

- Thứ hai, đúng pháp luật

- Thứ ba, Tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của quần chúng

- Thứ tư, Kín kẽ, để kẻ địch và các phần tử xấu không thể lợi dụng được.

3.3.2. Củng cố hoàn thiện bộ máy cán bộ làm công tác tôn giáo từ tỉnh

xuống cơ sở

Từ sự phân tích thực trạng và ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với việc

giữ gìn TT, ATXH ở vùng giáo cho thấy việc xây dựng một đội ngũ cán bộ làm

công tác tôn giáo vững mạnh cả về phẩm chất và năng lực có ý nghĩa đặc biệt

quan trọng. Đội ngũ này có vai trò to lớn trong việc triển khai, thực hiện đường

lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo, tham mưu cho

các cấp uỷ về các hình thức, biện pháp công tác vận động tín đồ và là cầu nối

giữa cấp uỷ đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể với các chức sắc tín đồ.

Vì vậy, trong thời gian tới, để thực hiện tốt giải pháp này, tác giả xin đề xuất

một số ý kiến sau:

Trước hết cần phải đặt ra những tiêu chuẩn cụ thể về cán bộ làm công tác

tôn giáo, như: phải có lập trường, tư tưởng, quan điểm, bản lĩnh chính trị vững

vàng, đặc biệt nhạy cảm về chúnh trị; phải có tư cách đạo đức tốt, trong sáng,

công tâm, không thành kiến, thường xuyên gần gũi quần chúng, kiên nhẫn, chịu

88

khó, chịu khổ; phải nắm vững giáo lý, giáo luật, hệ thống tổ chức tôn giáo và

phong tục tập quán địa phương mình phụ trách; phải có nghệ thuật vận động

quần chúng tín đồ.

Thứ hai, tích cực đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ vùng giáo, đặc biệt

ưu tiên cán bộ gốc giáo, từng bước giao trách nhiệm cho cán bộ và đảng viên là

giáo dân vì không ai khác ngoài họ có thể hiểu biết một cách sâu sắc, bản chất

các vấn đề cần phải giải quyết, ý nguyện, tâm tư chính đáng của giáo dân. Tăng

cường bồi dưỡng, tổ chức các lớp tập huấn ngắn hạn cho đội ngũ làm công tác

tôn giáo các cấp một cách thường xuyên hơn. Cần phải mạnh dạn thay thế

những cán bộ phụ trách tôn giáo yếu kém.

Thứ ba, Cần xem xét chuẩn bị công tác đào tạo đội ngũ kế cận có đủ trình

độ, kinh nghiệm và nhiệt tình công tác cho tất cả các cấp. Thực hiện tốt công tác

luân chuyển cán bộ, đưa các cán bộ công chức trẻ, có triển vọng về rèn luyện

thử thách qua cơ sở. Tích cực thu hút sinh viên tốt nghiệp về công tác ở các xã

vùng giáo. Các cơ quan quân sự, biên phòng, công an hàng năm giành một số

chỉ tiêu nghĩa vụ để tuyển con em giáo dân nhằm rèn luyện, tạo nguồn cán bộ

cốt cán cho địa phương. Bố trí kịp thời, đầy đủ công chức chuyên trách tôn giáo

theo quyết định số 100/ QĐ-UB của UBND tỉnh, cho phép những xã có 1.000

giáo dân trở lên bố trí 01 phó chủ tich mặt trận làm công tác tôn giáo theo chế độ

bán chuyên trách. Phấn đấu có tỉ lệ cán bộ gốc giáo phù hợp hơn trong hệ thống

chính trị cơ sở và cấp trên cơ sở.

Thứ tư, tiếp tục cải tiến chế độ, chính sách cho cán bộ cơ sở vùng giáo.

Xây dựng chế độ thăm hỏi phù hợp đối với đảng viên cốt cán vùng giáo. Trợ cấp

khó khăn cho cán bộ cơ sở gốc giáo, đảng viên trung kiên, già yếu, bệnh tật, có

hoàn cảnh khó khăn.

Tóm lại, cán bộ làm công tác tôn giáo dù ở bất kỳ cương vị nào, cơ quan

ban nghành nào cũng cần ý thức rằng "nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là

công tác vận động quần chúng", "làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của hệ

thống chính trị", do đó giữa các ban, nghành và từng cán bộ cụ thể phải có sự

89

phối hợp chặt chẽ trong công việc để giải quyết tốt công tác tôn giáo toàn tỉnh.

3.4. Đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội ở vùng giáo, nâng cao đời

sống cho đồng bào có đạo

Để giữ vững TT, ATXH vùng giáo, phát huy vai trò chủ động, tích cực

của quần chúng giáo dân trong công tác này thì một trong những điều kiện cơ

bản, quan trọng nhất cần phải có là phát triển kinh tế-xã hội ở vùng giáo, nâng

cao đời sống cho đồng bào có đạo. Bởi một lẽ đương nhiên là TT, AT XH có

được đảm bảo, ổn định thì mới tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế-

xã hội và ngược lại, khi đời sống vật chất và tinh thần được đảm bảo, kinh tế

phát triển thì nó chính là cơ sở, nền tảng để xây dựng phong trào bảo vệ, giữ gìn

TT, ATXH được tốt hơn. Rõ ràng, khi nhận thức của giáo dân được nâng cao thì

các hoạt động tôn giáo vi phạm đạo đức công giáo, vi phạm pháp luật cũng dễ bị

phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh và đẩy lùi. Ở đây, quyền làm chủ tập thể của

quần chúng có được phát huy hay không, TT, ATXH ở vùng giáo tốt hay xấu

phụ thuộc phần lớn vào đời sống kinh tế và văn hoá tinh thần của nhân dân. Vì

thế, để giữ gìn TT, ATXH vùng giáo, đi đôi với việc giáo dục về chính trị, cần

phải hết sức quan tâm đến điều kiện kinh tế-xã hội, từng bước nâng cao đời sống

cho đồng bào giáo dân, đưa các vùng giáo thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn

lên làm chủ cuộc đời mình.

Để thực hiện tốt giải pháp này, tác giả đề xuất một số kiến nghị cụ thể sau:

3.4.1. Về kinh tế

- Tích cực xoá đói giảm nghèo, khuyến khích làm giàu chính đáng. Khơi

dậy nội lực, ý chí vươn lên của cán bộ, đảng viên, giáo dân, không cam chịu đói

nghèo, lạc hậu. Tạo điều kiện cho các hộ nghèo vay vốn để sản xuất kinh doanh

bằng nhiều hình thức khác nhau (vay ngân hàng, lập các phường-hội như

phường tiền, phường lúa... để cùng nhau góp vốn và trao đổi kinh nghiệm làm

kinh tế). Tạo điều kiện cho nhân dân tiếp cận, ứng dụng khoa học công nghệ vào

sản xuất. Ở đây, các địa phương cần có sự phối hợp với chức sắc, chức việc

trong giáo hội để triển khai nhiệm vụ phát triển kinh tế trên địa bàn (bởi dội ngũ

chức sắc, chức việc này là những người có tiếng nói quan trọng trong cộng

đồng), đấu tranh chống các biểu hiện huy động giáo dân góp tiền của trái với

90

quy định của Nhà nước và sai với quy định của giáo luật.

- Cần khảo sát thực trạng, phân tích đặc thù của từng địa phương, từng

cộng đồng giáo dân cụ thể. Trên cơ sở đó tìm ra những giải pháp phù hợp để tác

động vào khâu quan trọng nhất, kích thích phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ

sự hỗ trợ cần thiết và hợp lý để đưa kinh tế cộng đồng địa phương đi lên một

cách bền vững.

- Các cấp chính quyền chú trọng đầu tư tạo điều kiện cho địa bàn cải tạo

và nâng cấp cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm) với phương châm "Nhà

nước và nhân dân cùng làm". Cùng với nguồn vốn do trên cấp, cần khuyến

khích bà con đóng góp công sức, một phần kinh phí; bên cạnh đó có thể tranh

thủ sự hỗ trợ từ phía giáo hội trên cơ sở giữ vững các nguyên tắc về tài chính,

chính trị.

- Tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn vùng giáo theo các

bước cụ thể như:

+ Thay đổi giống cây, con phù hợp với địa phương và có giá trị trên thị

trường.

+ Chú trọng dịch vụ chế biến nông, lâm, ngư và dịch vụ hàng hoá (tuỳ

thuộc vào từng địa bàn).

+ Củng cố, phát triển, hiện đại hoá các nghành nghề truyền thống, tìm

kiếm, phát triển nghành nghề mới, giải quyết tình trạng bán thất nghiệp trên địa

bàn.

Thực tế phát triển kinh tế ở các vùng giáo Nghệ An hiện nay cho thấy, với

các bước đi phù hợp, đã và sẽ tạo điều kiện cho hàng ngàn hộ giáo dân ở Nghệ

An thoát nghèo. Với phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", được Nhà

nước hỗ trợ nguyên vật liệu, nhân đóng góp kinh phí, công lao động nên các địa

phương đã xây dựng được cơ sở hạ tầng kiên cố như: kênh mương tưới tiêu,

đường liên thôn, liên xóm, kinh tế gia đình ngày một nâng cao. Theo báo cáo

của Ban tôn giáo tỉnh, hiện nay số hộ giàu ở vùng giáo có 3.063 hộ, có 11.144

hộ khá, 13.415 hộ trung bình và 3.236 hộ nghèo (giảm gần 3.000 hộ so với

trước). Vấn đề là trên cơ sở những gì chúng ta đã đạt được cần phải cố gắng phát

91

huy hơn nữa để nâng cao đời sống vật chất cho bà con, tiến tới xoá hẳn hộ đói,

giảm hộ nghèo, tạo điều kiện để bà con, tin tưởng vào đường lối, chủ trương,

chính sách của Đảng và Nhà nước, yên tâm lao động sản xuất, đóng góp sức

mình vào phong trào giữ gìn TT, ATXH của vùng giáo cũng như của toàn xã

hội.

3.4.2. Về văn hoá - xã hội

- Trước hết cần thay đổi quan điểm nhìn nhận và đánh giá các hoạt động

nghi lễ của đạo Công giáo. Trong giai đoạn đổi mới hiện nay chúng ta cần quan

niệm những sinh hoạt tôn giáo lành mạnh và thuần tuý như là một bộ phận của

các hoạt động văn hoá tinh thần trên địa bàn. Chính quyền các cấp cần quan tâm,

tạo điều kiện cho những hoạt động này diễn ra một cách thuận lợi trong khuôn

khổ các quy định pháp luật. Đối với những sinh hoạt tôn giáo mang màu sắc

chính trị ảnh hưởng đến tình hình TT, ATXH trên địa bàn cần phải tuyên truyền,

vận động để đồng bào giáo dân nhận thức rõ sự thật và tự nguyện không tham

gia hoặc đấu tranh để các hoạt động đó không xảy ra trên địa bàn. Việc quan tâm

đến các hoạt động nghi lễ phải được thể hiện một cách cụ thể như: đến chia sẻ,

động viên tinh thần và vật chất (nếu có) với giáo hội và các gia đình có hoàn

cảnh đặc biệt khó khăn vào những dịp lễ trọng. Trong những điều kiện đặc biệt,

dựa trên đặc thù của từng địa phương, Chính quyền cần linh động giải quyết một

số vướng mắc trong việc hành lễ thể theo nguyện vọng của tín đồ và không ảnh

hưởng đến trật tự an ninh trên địa bàn như: rước lễ ngoài khuôn viên nếu khuôn

viên nhà thờ quá chật hẹp; ủng hộ bằng cách cho mượn cơ sở vật chất phục vụ

ngày lễ... Nếu thấy cần thiết và theo yêu cầu của Giáo hội, các đoàn thể có thể

chủ động tổ chức các sinh hoạt văn hoá cùng góp vui trong ngày lễ với bà con

giáo dân.

- Chính quyền cần chỉ đạo tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể

dục, thể thao trên địa bàn không trùng với lịch sinh hoạt tôn giáo để toàn thể

cộng đồng có thể chung vui. Không nên tổ chức các hoạt động này trong các

ngày lễ trọng bên cạnh nhà thờ nhằm lôi kéo thanh niên ra khỏi các hoạt động

của họ. Cần nhận thức rằng các hoạt động văn hoá, văn nghệ nhằm nâng cao đời

sống văn hoá tinh thần cho quần chúng chứ không chỉ nhằm mục đích "cạnh

92

tranh với nhà thờ và giáo hội".

- Bên cạnh thực hiện các cuộc vận động xây dựng đời sống văn hoá

chung trong toàn tỉnh như: cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống

văn hoá ở khu dân cư (của UBMTTQ); gia đình nông dân văn hoá (của Hội

nông dân); tuổi trẻ sống đẹp (của đoàn thanh niên); nuôi con khoẻ, dạy con

ngoan (của hội phụ nữ)... thì cần tiến hành các chương trình văn hoá mang đặc

thù riêng trong cộng đồng, như: Tiếng hát người công giáo yêu nước; tổ chức

Hội trại Thanh niên Công giáo sống đẹp; liên hoan biểu dương điển hình giáo

dân tiên tiến; xây dựng xứ, họ đạo văn hoá... nhằm tạo tính "cạnh tranh lành

mạnh" giữa cộng đồng giáo dân và những cộng đồng còn lại.

- Cùng với việc thực hiện các cuộc vận động xây dựng và nâng cao đời

sống văn hoá cần đồng thời tiến hành công tác phòng chống và đẩy lùi các tệ

nạn xã hội như: cờ bạc, rượu chè, ma tuý, gây gổ đánh nhau, mâu thuẫn gia

đình, hàng xóm, láng giềng... Trên thực tế, những việc này đã được giáo hội rất

quan tâm và giải quyết rất có hiệu quả, tuy nhiên cấp uỷ, đảng viên, Chính

quyền các cấp không nên dừng lại ở những thành tích đã đạt được mà cần thắt

chặt hơn nữa mối quan hệ với các tổ chức giáo hội nhằm tìm ra giải pháp giải

quyết dứt điểm và triệt để các tệ nạn nói trên. Để làm được điều này cấp uỷ,

đảng viên trong chi bộ chỉ đạo các đoàn thể và trực tiếp tham gia phối hợp với

ban hành giáo xứ, họ, linh mục để họ tham gia ý kiến vào các "quy ước",

"hương ước" của xóm nhằm phát huy hiệu quả cao nhất. Vận động linh mục

tham gia vào tổ chức hoà giải, tham gia tuyên truyền phòng chống các tệ nạn xã

hội thông qua các buổi rao giảng trong nhà thờ, thông qua các buổi gặp gỡ tại

gia đình, qua các buổi xưng tội. Trong công tác cần có các hình thức động viên

kịp thời để khuyến khích giáo dân, chức sắc, chức việc tham gia một cách tích

cực nhất.

- Bên cạnh đó, cần chú trọng phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, bởi

đây là công cụ chủ yếu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo xây dựng đội ngũ, nguồn

nhân lực cho đất nước nói chung và cho chính vùng giáo nói riêng. Làm tốt công

tác này sẽ trang bị cho giáo dân và đặc biệt là giới trẻ những kiến thức về khoa

học, truyền thống dân tộc, hình thành một thế giới quan khoa học hơn, hạn chế

93

tính chất cuồng tín, mê muội trong nhận thức về tôn giáo.

- Chăm lo công tác y tế, dân số và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân vùng

giáo. Hoạt động này không chỉ thực hiện nhiệm vụ khám, chữa bệnh và chăm

sóc sức khoẻ cho nhân dân một cách đơn thuần mà còn góp phần tích cực cho

công tác tư tưởng. Những tín đồ cuồng tín những khi ốm đau, bệnh tật, tai hoạ

thường liên tưởng đến một lực lượng siêu nhân nào đó chi phối và nếu họ cầu

nguyện thì Thiên chúa sẽ ban phước cho tai qua nạn khỏi. Nếu chúng ta thật sự

quan tâm chăm sóc bà con giáo dân bằng các biện pháp y học tiên tiến là một

điều minh chứng khoa học có thể đem đến cho họ sức khoẻ, sự sống, từ đó dần

chuyển đổi về nhận thức Chúa không phải là tất cả.

Khó khăn lớn nhất hiện nay trong vùng giáo là việc thực hiện chương

trình dân số, kế hoạch hoá gia đình. Từ lâu các linh mục đã nhận ra tác hại của

việc sinh đẻ vô kế hoạch đối với cộng đồng và đã khuyên giáo dân không nên

sinh đẻ nhiều. Giáo hội Công giáo Việt Nam cũng đưa ra lời giáo huấn về Sinh

đẻ có trách nhiệm: “Mỗi tín hữu có trách nhiệm và quyền lợi của một công dân

trong việc thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước. Đồng thời có nhiệm vụ

phải thực hiện lời khuyên dạy của Chúa và các đấng bậc, việc định đoạt số con

phải là trách nhiệm của bố mẹ, mỗi khi đã thấu hiểu vấn đề. Trách nhiệm ấy họ

nhận lấy trước Thiên Chúa, đối với nhau, đối với những đứa con đã được sinh ra

và đối với cộng đoàn liên hệ với họ”. Tuy nhiên cái khó ở đây là nhiều linh mục

không thể tuyên truyền việc tránh thai bằng phương pháp nhân tạo mà chỉ dùng

biện pháp tự nhiên, nghĩa là giáo dân phải dùng khả năng tự kiềm chế ham muốn

tình dục, tính toán theo chu kỳ. Đây là yêu cầu quá lớn đối với những vùng nông

thôn hầu như không có hoạt động giải trí nào có thể thu hút giáo dân. Trường

hợp vỡ kế hoạch, việc nạo phá thai là cấm kỵ đối với các tín đồ. Vì vậy, để thực

hiện được công tác tuyên truyền dân số trong cộng đồng giáo dân, chúng ta cần

triệt để vận dụng quan điểm “Sinh đẻ có trách nhiệm” của Giáo hội. Cần phân

tích cho giáo dân rõ là sinh sản có trách nhiệm không chỉ là sau khi sinh đảm

bảo cho con mình đủ ăn, đủ mặc (điều này cũng không hoàn toàn đơn giản) mà

cần phải tạo cho con được hưởng một nền giáo dục đầy đủ để con có nhận thức

tốt nhất về xã hội, được đào tạo nghề nghiệp và có cuộc sống tương xứng sau

94

này.

Trong giai đoạn mới hiện nay, khi các thế lực thù địch vẫn không ngừng

chống phá phong trào cách mạng nước ta, chúng có thể sử dụng mọi thủ đoạn để

đạt được mục đích trong đó việc lợi dụng chiêu bài tôn giáo đã và đang được

chúng sử dụng một cách triệt để nhất nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân -

động lực to lớn của cách mạng nước ta. Trên thực tế chiêu bài này của chúng đã

tỏ ra có hiệu quả đối với một số địa phương trong đó có Nghệ An, nơi được coi

là trung tâm vùng giáo Bắc miền trung. Để đấu tranh chống lại các âm mưu, ý

đồ lợi dụng tôn giáo vào mục đích chính trị này của các thế lực thù địch , phản

động, hơn bao giờ hết chúng ta cần đánh giá đúng vai trò của tôn giáo đặc biệt là

của đạo Công giáo - tôn giáo dễ bị lợi dụng nhất do có những hiểu lầm, định

kiến trong lịch sử giữa đồng bào bên lương và đồng bào bên giáo - trong đời

sống của cộng đồng giáo dân nói riêng và cả xã hội nói chung nhằm phát huy tối

đa những ảnh hưởng tích cực của đạo Công giáo và khắc phục những hạn chế

của nó trên mọi lĩnh vực mà trước hết, trực tiếp nhất là trong phong trào bảo vệ,

đảm bảo An ninh chính trị và TT, ATXH ở vùng giáo, xây dựng các xứ, họ đạo

văn hoá, đạt danh hiệu an toàn làm chủ về an ninh trật tự, góp phần to lớn vào

việc xây dựng nền văn hoá mới, con người mới XHCN. Để đạt được điều đó thì

việc đề ra và thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp nêu trên là điều cần thiết

và có ý nghĩa thực tiễn rất cao.

KẾT LUẬN

Công giáo là một trong những tôn giáo lớn ở Việt Nam. Nếu tính từ năm

95

1533, năm có giáo sĩ đầu tiên đến truyền đạo ở Việt Nam đến nay lịch sử truyền

giáo và phát triển Công giáo ở Việt Nam đã trải qua gần 5 thế kỷ với số lượng

tín đồ lên đến 5 triệu người.

Riêng ở Nghệ An, với hơn 2,3 vạn tín đồ, chiếm 8% dân số toàn tỉnh,

Công giáo đang có tác động nhiều chiều vừa tích cực, vừa tiêu cực đối với cuộc

sống trực tiếp nhất là tới việc giữ gìn TT, ATXH ở vùng giáo. Trong đó với

những yếu tố hợp lý, những giá trị đạo đức phù hợp với công cuộc xây dựng xã

hội mới hiện nay ở nước ta kết hợp với tâm lý tự tôn cộng đồng buộc người

công giáo phải sống mẫu mực. Vì vậy có thể nói trong các xứ, họ đạo, làng

Công giáo, tình hình TT, ATXH thường không phức tạp, ít có ly dị, ít xô xát,

đặc biệt là ít tệ nạn xã hội và trọng án. Những ảnh hưởng tích cực này đã góp

phần vào việc thực hiện các chủ trương, chính sách xây dựng phát triển kinh tế,

văn hoá, xã hội trong cộng đồng, tích cực tham gia vào tiến trình xây dựng

CNXH trên quê hương mình.

Tuy nhiên, nếu quan niệm đơn giản TT, ATXH chỉ là những vấn đề về tội

phạm hình sự hay tệ nạn xã hội thì chưa đủ mà còn cần phải thấy rõ mối quan hệ

khăng khít, ranh giới mỏng manh giữa việc vi phạm TT, ATXH với An ninh

chính trị vùng giáo. Đây là vấn đề rất nhạy cảm, đòi hỏi việc giải quyết nó phải

bằng tư duy nhạy bén, sắc sảo, linh hoạt. Thực tiễn ở một số vùng giáo cho thấy,

trước sự tác động tiêu cực từ nhiều phía của các thế lực thù địch; những vấn đề

phức tạp nảy sinh trong quá trình đổi mới về tư duy, về cơ chế quản lý kinh tế,

xã hội của Đảng và Nhà nước ta… đã làm cho ở những vùng giáo này đang có

những hoạt động cụ thể vi phạm pháp luật Nhà nước, thông thường là những vi

phạm trong xây dựng cơ sở vật chất, tổ chức nghi lễ tôn giáo, tuyên truyền văn

hoá phẩm của tôn giáo, tổ chức và phát triển hội đoàn tôn giáo, hoạt động xã hội

hoặc các hoạt động gây rối, gây xung đột vì lý do tôn giáo hoặc dưới danh nghĩa

tôn giáo. Trong các hoạt động này, quần chúng giáo dân đang ở vào vị thế trung

tâm, họ là đối tượng mà các thế lực lợi dụng tôn giáo đang tìm mọi cách để

giành giật, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đối với chính sách đại đoàn kết toàn

dân của Đảng và Nhà nước ta.

Nhận thức rõ sự tác động nhiều chiều này của đạo Công giáo, trên cơ sở

96

khảo sát, phân tích thực trạng tình hình TT, ATXH ở vùng giáo Nghệ An, tác

giả đã cố gắng nêu bật những vấn đề đang đặt ra hiện nay, như: cần kết hợp giữa

niềm tin tôn giáo với niềm tin xã hội tiến bộ, giữa giáo lý với luật pháp, giữa đẹp

đạo với tốt đời, giữa hành vi xưng tội với tích cực bài trừ các tệ nạn xã hội, từ đó

tác giả mạnh dạn đưa ra một hệ thống các giải pháp nhằm phát huy những ảnh

hưởng tích cực và khắc phục mặt hạn chế của đạo Công giáo đối với việc giữ

gìn TT, ATXH ở vùng giáo Nghệ An cũng như của toàn xã hội. Những giải

pháp này cần được nhận thức và thực hiện đồng bộ, không chỉ trước mắt mà còn

lâu dài trong suốt quá trình tôn giáo đồng hành cùng dân tộc và một khi tôn giáo

vẫn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân thì việc đề ra và thực hiện

các giải pháp đúng đắn cho công tác tôn giáo sẽ có ý nghĩa thực tiễn rất lớn đối

với sự nghiệp chung của toàn dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu “Dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, “Đến năm 2020 đưa nước ta cơ

bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” dựa trên cơ sở nền

tảng động lực đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân tộc.

Quán triệt tinh thần đó nên mặc dù trong điều kiện hiện nay, khi đời sống

của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, song Đảng bộ, Chính quyền ở nhiều xã,

phường vùng giáo đã vững vàng lãnh đạo quần chúng đưa phong trào cách mạng

ở địa phương vượt khó đi lên, giữ vững lòng tin của đồng bào đối với tiền đồ đất

nước, đối với Đảng và Nhà nước ta. Trên cơ sở thực tiễn với những việc chúng

ta đã làm được và đang làm cho sự phát triển bền vững của các vùng giáo, chúng

ta có thể khẳng định tuyệt đại bộ phận nhân dân vùng giáo Nghệ An đã thật sự

tin tưởng vào chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng, gắn bó với công cuộc đổi

mới của đất nước, yên tâm lao động sản xuất, thanh thản phần hồn, chăm lo xây

dựng xứ, họ đạo văn hoá, thực hiện tốt phương châm "sống tốt đời, đẹp đạo",

"kính Chúa, yêu nước", chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp

luật của Nhà nước. Các phong trào xây dựng gia đình an toàn, khu phố tự quản,

vùng giáo tiên tiến phát triển khắp ở các xứ, họ đạo và đã có những điển hình tốt

ở vùng giáo có thể coi là những điểm sáng cho các nơi học tập. Nhiều nơi quần

chúng đã phân biệt giữa tự do tín ngưỡng với những hành vi lợi dụng tôn giáo,

lợi dụng tín ngưỡng để phát hiện, đấu tranh có hiệu quả với các phần tử xấu có ý

97

đồ lợi dụng tôn giáo. Các phong trào quản lý, cảm hoá đối tượng tại cộng đồng,

giáo dục thanh thiếu niên chậm tiến, vận động đầu thú, tự báo cũng được nhân

rộng trên khắp các vùng giáo, phát huy được những mặt tích cực, góp phần giữ

vững và ổn định chính trị, đảm bảo TT, ATXH, tăng cường khối đại đoàn kết

toàn dân.. Những thành tựu đó đã tạo môi trường, điều kiện thuận lợi, động lực

to lớn cho công cuộc đổi mới hiện nay của tỉnh nhà nói riêng và cả nước nói

98

chung.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Công an - Công an tỉnh Nghệ An (2000), Công an Nghệ An trong tiến

trình đổi mới, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

2. Bộ Công an - Công an tỉnh Nghệ An (2000), Xung đột xã hội - Lý luận và

thực tiễn, Hà Nội.

3. Báo cáo tổng kết của UBĐKCG các huyện Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Quỳnh

Lưu, Yên Thành, Nam Đàn từ năm 2003 đến 6 tháng đầu năm 2007.

4. Báo Công giáo và Dân tộc (09/3/1986).

5. Bộ giáo luật 1983 (2004), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.

6. Bộ luật hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000),

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Công an tỉnh Nghệ An (2006), Tổng kết lịch sử 60 năm đấu tranh chống

địch lợi dụng đạo thiên chúa ở Nghệ An (1945 - 2005).

8. Công báo, Nhân dân (09/10/ 1945), (230).

9. Công tác an ninh trong quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt

Nam (2002), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Điều tra các vụ án xâm phạm ANQG trong tình hình hiện nay ở Việt Nam

(2006), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

13. Giáo phận Buôn Mê Thuột, giáo xứ Châu Sơn (2003), Thánh hoá các gia

đình sống đạo.

14. Phêrô Gioan Trần Xuân Hạp (1995), Hỏi đáp 150 câu về giáo phận Vinh,

Toà giám mục Xã Đoài.

15. Hướng dẫn thực hiện nội dung cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng

đời sống văn hoá ở khu dân cư, sống tốt đời đẹp đạo (22/02/1999), số

99

45/HD-UB của UBĐKCG tỉnh Nghệ An.

16. Kinh thánh trọn bộ Cựu ước và Tân ước (1998), Nxb. Thành phố Hồ Chí

Minh.

17. Nguyễn Văn Kiệm, Sự du nhập của đạo Thiên chúa giáo vào Việt Nam. Từ

thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX.

18. Nguyễn Văn Long (2001), Ảnh hưởng của giáo quyền đạo công giáo đối

với đời sống của cộng đồng giáo dân ở tỉnh Nghệ An, Luận văn thạc sỹ

khoa học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

19. Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam (2003), Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

20. C.Mác và Ph. Ăng ghen (1991), Toàn tập, tập 20, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

21. Một số hiểu biết về tôn giáo. Tôn giáo ở Việt Nam (1998), Nxb. Quân đội

nhân dân, Hà Nội.

22. Nhiều tác giả (2005), Những gương sống tốt đời đẹp đạo, tập I, Nxb. Tôn

giáo, Hà Nội.

23. Nhiều tác giả (2005), Những gương sống tốt đời đẹp đạo, tập II, Nxb. Tôn

giáo, Hà Nội.

24. Nhiều tác giả (2005), Những gương sống tốt đời đẹp đạo, tập III, Nxb. Tôn

giáo, Hà Nội.

25. Nghi lễ và lối sống công giáo trong văn hoá Việt Nam (2001), Nxb. Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

26. Nguyễn Nghị (2001), “Tên gọi đạo Thiên Chúa ở Việt Nam”, Tạp chí

Nghiên cứu Tôn giáo, (6).

27. Trần Phồn, Viện khoa học công an (1996), Về tôn giáo và đấu tranh chống

hoạt động lợi dụng tôn giáo, Hà nội.

28. Trần Phồn - Phạm Xuân Cần (1998), Công tác bảo vệ ANQG và TTATXH ở

Nghệ An trong tiến trình đổi mới - Bài học và giải pháp, Đề tài NCKH cấp

Bộ.

29. Bùi Thị Kim Quỳ (2002), Mối quan hệ Thời đại - Dân tộc - Tôn giáo, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

100

30. Sách Giáo lý viên, khối sơ cấp và căn bản (1996), Ipzimatur Nha Trang.

31. Sở Khoa học Công nghệ Nghệ An (2003), Những giải pháp nâng cao vai

trò, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức cơ sở Đảng xã, phường, có

đồng bào theo đạo công giáo ở Nghệ An.

32. Tài liệu phục vụ Hội nghị Ban thường vụ tỉnh uỷ (8/2006), Nghệ An.

33. Thư chung Hội đồng giám mục Việt Nam (1980).

34. Nguyễn Tài Thư (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối

với con người Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Toà giám mục Vinh (1995), Bộ giáo lý giành cho chương trình phổ thông,

Nxb. Thuận Hoá, Nha Trang.

36. Toà giám mục Sài Gòn (1997), Giáo lý Hội thánh công giáo, Nxb. Thành

phố Hồ Chí Minh.

37. Trường Đại học Vinh, Sở khoa học - Công nghệ và Môi trường Nghệ An

(1998), Một số vấn đề xã hội và nhân văn của đồng bào các dân tộc thiểu

số và đồng bào các tôn giáo ở Nghệ An.

38. Hà Huy Tú, Tìm hiểu nét đẹp văn hoá thiên chúa giáo, Nxb. Văn hoá thông

tin, Hà Nội.

39. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên, 1998), Về tín ngưỡng và tôn giáo hiện nay,

Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

40. Vấn đề tôn giáo và chính sách tôn giáo của Đảng cộng sản Việt Nam,

(2002), Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội.

41. Viện nghiên cứu tôn giáo (1996), Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo tín

ngưỡng, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

42. Viện Nghiên cứu Tôn giáo (2001), Tạp chí nghiên cứu tôn giáo, (2).

43. Viện Nghiên cứu Tôn giáo (2001), Tạp chí nghiên cứu tôn giáo, (6).

44. Viện Nghiên cứu Tôn giáo (1998), Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn

giáo ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

45. Viện Thông tin Khoa học xã hội (1997), Tôn giáo và đời sống hiện đại,

Tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

46. Viện Thông tin Khoa học xã hội (1997), Tôn giáo và đời sống hiện đại,

101

Tập 2, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

47. Viện Thông tin Khoa học xã hội (1997), Tôn giáo và đời sống hiện đại,

Tập 3, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

48. Trương Như Vương (2005), Tìm hiểu đạo đức trong kinh thánh, Nxb. Tôn

giáo, Hà Nội.

49. Hoàng Tâm Xuyên (chủ biên, 1999), Mười tôn giáo lớn trên thế giới, Nxb.

102

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

PHỤ LỤC

Tổng hợp xã, phường, thị trấn, khối, xóm vùng giáo ở Nghệ An

(Tính đến 31/12/2005)

Trong đó

TT Đơn vị Dân số

Trong đó có số giáo dân Số xã, phường, thị trấn có giáo dân Giáo toàn tòng Trong đó có giáo dân Tổng số khối, xóm

33 191716 9754 9 1 Nghĩa Đàn 32 5 431

69 111079 7522 4 Anh Sơn 2 20 13 240

57 136583 6205 3 Tân Kỳ 3 22 11 264

63 35 366433 44968 4 Quỳnh Lưu 43 20 536

59 195132 7369 1 Đô Lương 5 32 14 367

72 233999 7045 1 Thanh 6 38 16 464

Chương

54 157257 12800 15 Nam Đàn 7 24 13 331

82 121479 22347 27 Hưng 8 23 15 261

Nguyên

27 237206 1998 3 T.P Vinh 9 20 5 284

14 48991 6006 1 10 T.X Cửa Lò 7 3 71

144 42 219877 45783 11 Nghi Lộc 34 23 515

15 60 291343 27223 12 Diễn Châu 39 22 448

29 105 270398 33208 13 Yên Thành 37 24 488

103

Tổng cộng 371 184 4700 839 185 2581493 232228