ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ THỦY
ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO CÔNG GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC
GIỮ GÌN TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI Ở VÙNG GIÁO
NGHỆ AN HIỆN NAY- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Người hướng dẫn: TS. Hoàng Xuân Lương
HÀ NỘI - 2007
MỤC LỤC Mở đầu ............................................................................................................. 4 1
Chương 1. Đạo Công giáo và tình hình trật tự, an toàn xã hội ở vùng giáo
Nghệ An............................................................................................... 9
1.1.Quá trình du nhập và phát triển Đạo công giáo ở Nghệ An ........................... 9
1.1.1. Khái niệm Đạo công giáo ...................................................................... 9
1.1.2. Những giai đoạn phát triển chủ yếu ..................................................... 13
1.2.Thực trạng tình hình TT, ATXH ở các vùng giáo Nghệ An ........................ 20
1.2.1.Thực trạng chấp hành pháp luật ............................................................ 20
1.2.2.Về tệ nạn xã hội .................................................................................... 26
1.2.3.Về đoàn kết cộng đồng ......................................................................... 29
Chương 2. Ảnh hưởng của đạo công giáo đối với việc giữ gìn trật tự, an
toàn xã hội ở vùng giáo Nghệ An hiện nay ...................................... 35
2.1. Những ảnh hưởng tích cực và mặt hạn chế của đạo Công giáo đối với việc
giữ gìn TT, ATXH ở vùng giáo 36
2.1.1.Về mặt niềm tin .................................................................................. 36
2.1.2.Về mặt giáo lý .................................................................................... 40
2.1.3. Về mặt tổ chức giáo hội ..................................................................... 45
2.1.4.Về truyền thống giáo dục trong gia đình ............................................. 50
2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với việc giữ gìn TT, ATXH ................................ 56
2.2.1.Kết hợp niềm tin tôn giáo với niềm tin xã hội tiến bộ ........................... 56
2.2.2. Kết hợp gíao lý với luật pháp ............................................................... 60
2.2.3. Kết hợp sống đẹp đạo, tốt đời .............................................................. 63
2.2.4. Kết hợp tốt vấn đề xưng tội với khắc phục các căn bệnh xã hội ........... 68
Chương 3. Một số giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực và khắc phục mặt
hạn chế của đạo công giáo đối với việc giữ gìn trật tự, an toàn xã
hội ở vùng giáo nghệ an hiện nay ..................................................... 72
3.1. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục đường lối của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước, nâng cao về mặt nhận thức ................................... 72
1
3.1.1. Đối với tầng lớp chức sắc, chức việc .................................................. 72
3.1.2. Đối với quần chúng giáo dân .............................................................. 74
3.2. Nghiên cứu vận dụng giáo lý, giáo luật đạo Công giáo vào công tác giữ gìn
TT, ATXH .......................................................................................... 78
3.3. Củng cố bộ máy cán bộ làm công tác tôn giáo, duy trì bảo vệ TT, ATXH
vùng giáo, chống địch lợi dụng đạo Công giáo ................................... 80
3.3.1. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần đấu tranh chống
hai xu hướng tả khuynh hoặc hữu khuynh .......................................... 82
3.3.2. Củng cố hoàn thiện bộ máy cán bộ làm công tác tôn giáo từ tỉnh xuống
cơ sở ................................................................................................... 85
3.4. Đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội ở vùng giáo, nâng cao đời sống cho
đồng bào có đạo.................................................................................. 86
3.4.1. Về kinh tế ........................................................................................... 87
3.4.2. Về văn hoá - xã hội ............................................................................. 88
Kết luận ........................................................................................................... 92
Danh mục tài liệu tham khảo ......................................................................... 98
2
Phụ lục ............................................................................................................ 99
CÁC CHỮ VIẾT TẮT ĐƯỢC DÙNG TRONG LUẬN VĂN
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
UBĐKCG Uỷ ban đoàn kết Công giáo
UBMT: Uỷ ban mặt trận
UBND: Uỷ ban nhân dân
TT, ATXH: Trật tự, an toàn xã hội
3
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với tư cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội, tôn giáo có
tác động mạnh mẽ đến tồn tại xã hội. Mặc dù phản ánh hư ảo đời sống xã hội,
nhưng với sức mạnh của đức tin, tôn giáo có vai trò đặc biệt trong việc liên kết,
tập hợp cộng đồng. Trong một chừng mực nhất định, tôn giáo như là một trong
những nhân tố góp phần ổn định trật tự xã hội đang tồn tại, dựa trên các hệ
thống giá trị và chuẩn mực chung mà nó hình thành.
Nghệ An là một tỉnh đa tôn giáo (hiện nay ở Nghệ An có ba tôn giáo
chính đó là Đạo công giáo, Tin lành và Phật giáo), hơn bao giờ hết, Đảng bộ,
Chính quyền tỉnh Nghệ An cần nhận thức, đánh giá đúng vai trò và ảnh hưởng
của các tôn giáo đối với trật tự xã hội, đặc biệt là ảnh hưởng của đạo Công giáo -
tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất trên địa bàn tỉnh Nghệ An hiện nay.
Đến nay, Nghệ An được coi là trung tâm vùng giáo Bắc miền Trung, toàn
tỉnh có 232.228 tín đồ, chiếm xấp xỉ 8% dân số. Đồng bào theo Đạo công giáo
sinh sống tại 184 xã, phường, thị trấn với trên 839 xóm; trong đó có 185 xóm
giáo toàn tòng. Sự du nhập của đạo Công giáo vào Nghệ An đã đem lại cho một
bộ phận dân chúng một niềm tin tôn giáo mới. Đó là tôn giáo có một bề dày lịch
sử với nền thần học cao siêu, những giáo lý chặt chẽ và nhất là một hệ thống đạo
đức giàu tính nhân văn, rất gần gũi với đạo lý đời thường cũng như có những
quan điểm chung với hệ thống đạo đức luân lý của các tôn giáo đang hiện diện ở
Việt Nam. Vì vậy, đánh giá về tác động của tôn giáo này đối với đời sống cộng
đồng xã hội chúng ta phải đứng trên lập trường CNDVBC, phải thấy được tác
động có tính hai mặt của nó; nghĩa là bên cạnh việc thừa nhận những ảnh hưởng
tích cực của đạo Công giáo, chúng ta cũng không phủ nhận, lảng tránh những
ảnh hưởng tiêu cực, hạn chế của tôn giáo này. Trong khuôn khổ của một luận
văn thạc sỹ, tác giả chỉ đề cập đến một khía cạnh của sự ảnh hưởng, đó là ảnh
hưởng của đạo Công giáo đối với việc giữ gìn TT, ATXH ở vùng giáo Nghệ An
4
hiện nay. Nhìn từ góc độ triết học thì đây chính là mối quan hệ biện chứng giữa
đạo Công giáo - một hình thái ý thức xã hội, đối với TT, ATXH - một lĩnh vực
thuộc tồn tại xã hội.
Nhìn chung, ở các vùng giáo tình hình TT, ATXH có phần ổn định hơn
so với các địa bàn khác trong toàn tỉnh, nhưng bên cạnh đó có một số phần tử
xấu đã và đang lợi dụng tôn giáo để thực hiện những hành vi gây rối, vi phạm
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đi ngược lại những giá trị đạo
đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc nói chung, của giáo lý đạo Công giáo nói
riêng, nổi lên hàng đầu hiện nay là vấn đề tranh chấp đất đai.
Đặc biệt trong hoàn cảnh phức tạp như hiện nay, khi mà các thế lực phản
động trong và ngoài nước đã, đang và sẽ lợi dụng vấn đề tôn giáo làm công cụ
cho chúng trong âm mưu "Diễn biến hoà bình" thì việc nghiên cứu ảnh hưởng
của đạo Công giáo đối với việc giữ gìn TT, ATXH vùng giáo không chỉ là
nhiệm vụ của riêng bất cứ một địa phương nào mà còn là nhiệm vụ chung của
toàn Đảng, toàn dân, góp thêm cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc hoàn thiện
chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, thực hiện một cách sáng tạo chính
sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của từng
địa phương.
Với ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc như vậy, nên Tôi quyết định
chọn đề tài "Ảnh hưởng của đạo công giáo đối với việc giữ gìn Trật tự an toàn
xã hội ở vùng giáo Nghệ An hiện nay - Thực trạng và giải pháp" làm luận văn
thạc sĩ triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước tới nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về tôn giáo nói
chung, đạo Công giáo nói riêng dưới các gióc độ và theo nhiều quan điểm tiếp
cận khác nhau. Các tác giả đã đi sâu phân tích ảnh hưởng của tôn giáo này đến
các mặt trong đời sống xã hội, trong đó có liên quan đến lĩnh vực TT, ATXH.
Tác giả luận văn xin tạm chia các công trình đó thành các nhóm sau đây:
- Nhóm các công trình nghiên cứu về vai trò của tôn giáo nói chung và ở
Việt Nam nói riêng, như: “Về tín ngưỡng và tôn giáo hiện nay” do GS Đặng
5
Nghiêm Vạn chủ biên; “Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con
người Việt Nam hiện nay” của GS Nguyễn Tài Thư; “Mười tôn giáo lớn trên thế
giới” do Hoàng Tâm Xuyên chủ biên; “Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo
ở Việt Nam” của Nxb Chính trị quốc gia; “Một số hiểu biết về tôn giáo. Tôn
giáo ở Việt Nam” của Nxb Quân đội nhân dân; “Mối quan hệ Thời đại - Dân tộc
- Tôn giáo” của PGS Bùi Thị Kim Quỳ; “Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn
giáo ở Việt Nam” của Viện nghiên cứu tôn giáo; “Vấn đề tôn giáo và chính sách
tôn giáo của Đảng cộng sản Việt Nam”; “Tôn giáo và đời sống hiện đại” của
Viện Thông tin Khoa học xã hội.
- Nhóm các công trình nghiên cứu vai trò của đạo Công giáo với tính chất
hai mặt vừa tích cực, vừa hạn chế, như: “Tìm hiểu nét đẹp văn hoá Thiên Chúa
giáo” của tác giả Hà Huy Tú; “Nghi lễ và lối sống công giáo trong văn hoá Việt
Nam” của Nxb Khoa học xã hội; “Sự du nhập của đạo Thiên Chúa vào Việt
Nam. Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX” của PGS Nguyễn Văn Kiệm; “Tìm hiểu
đạo đức trong kinh thánh” của tác giả Trương Như Vương; “Tên gọi đạo Thiên
Chúa ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Nghị đăng trên tạp chí Nghiên cứu Tôn
giáo (số 6, năm 2001).
- Nhóm các công trình, luận văn, bài viết nghiên cứu vai trò của đạo Công
giáo đối với TT, ATXH như: “Tổng kết lịch sử 60 năm đấu tranh chống địch lợi
dụng đạo Thiên Chúa ở Nghệ An (1954-2005)” của Công an tỉnh Nghệ An;
“Công tác an ninh trong quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt
Nam” của Nxb Công an nhân dân; “Công tác bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự
an toàn xã hội ở Nghệ An trong tiến trình đổi mới - Bài học và giải pháp” của
đồng tác giả Trần Phồn - Phạm Xuân Cần; “Điều tra các vụ án xâm phạm An
ninh quốc gia trong tình hình hiện nay ở Việt nam” của Nxb Công an nhân dân;
“Ảnh hưởng của giáo quyền đạo Công giáo đối với đời sống của cộng đồng giáo
dân ở tỉnh Nghệ An” - luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Văn Long, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; “Những giải pháp nâng cao vai trò, hiệu quả
lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức cơ sở Đảng xã, phường có đồng bào theo đạo
Công giáo ở Nghệ An” của Sở Khoa học công nghệ tỉnh Nghệ An; “Về tôn giáo
và đấu tranh chống hoạt động lợi dụng tôn giáo” của tác giả Trần Phồn - Công
6
an tỉnh Nghệ An;…
Như vậy, việc nghiên cứu đạo Công giáo ở Việt Nam nói chung, Nghệ An
nói riêng đã được đề cập tới trong nhiều tác phẩm. Các công trình này đã nghiên
cứu một cách hệ thống đạo Công giáo ở Việt Nam, ở Nghệ An và một số địa
phương; đề cập đến một số khía cạnh có liên quan đến TT, ATXH như niềm tin,
đạo đức, giáo dục gia đình, âm mưu của bọn phản động lợi dụng đạo Công
giáo… nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách trực tiếp, toàn
diện và có hệ thống việc nghiên cứu ảnh hưởng của đạo Công giáo đến TT,
ATXH. Trong luận văn này dựa trên cơ sở nguồn tài liệu cơ bản là qua điều tra
thực tế tại các địa bàn xã, phường, thị trấn ở tỉnh Nghệ An có đông đồng bào
theo đạo công giáo, tác giả mong muốn chỉ ra được những ảnh hưởng của đạo
Công giáo đối với lĩnh vực TT, ATXH ở vùng giáo để thông qua đó đề ra được
những giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực và khắc phục những hạn chế của sự
ảnh hưởng đó. Ngoài ra, đề tài cũng chọn lọc, sử dụng nhiều tài liệu báo cáo,
tổng kết, sơ kết ...về tình hình tôn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo; về tình
hình TT, ATXH ở vùng giáo của Ban Tôn giáo, Ban dân vận, Uỷ ban nhân dân
tỉnh Nghệ An, phòng PA38 công an tỉnh Nghệ An và các ngành có liên quan.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đạo công giáo ở Nghệ An (đi sâu vào nghiên cứu
ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với việc giữ gìn TT, ATXH).
- Phạm vi nghiên cứu: Chỉ nghiên cứu ảnh hưởng của đạo Công giáo đối
với việc giữ gìn TT, ATXH ở Nghệ An trong những năm đổi mới, không nghiên
cứu các lĩnh vực khác và ở các địa phương khác.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Làm rõ ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với việc giữ gìn
TT, ATXH ở Nghệ An, từ đó góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ở
vùng có đông đồng bào theo đạo Công giáo vì mục tiêu chung "Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
- Nhiệm vụ :
+ Làm rõ quá trình du nhập và phát triển đạo Công giáo ở Nghệ An và vai
7
trò của nó đối với việc giữ gìn TT, ATXH ở Nghệ An.
+ Phân tích thực trạng và lý giải một số vấn đề đặt ra đối với đạo Công
giáo ở Nghệ An trong việc phát huy vai trò giữ gìn TT, ATXH.
+ Đưa ra một số giải pháp để phát huy vai trò tích cực và khắc phục mặt
hạn chế của đạo Công giáo trong việc giữ gìn TT, ATXH ở vùng giáo Nghệ An
hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách Nhà nước ta về tôn giáo cũng như một số
công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về tôn giáo và công tác tôn giáo.
- Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử; phương pháp lịch sử và lôgíc, phương pháp phân tích và
tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra, khảo sát thực tế...
6. Đóng góp mới của đề tài
Nghiên cứu, phân tích ảnh hưởng đạo Công giáo ở Nghệ An dưới góc độ
để vận dụng, xây dựng giữ gìn TT, ATXH vùng giáo vững mạnh là vấn đề cấp
thiết có ảnh hưởng tích cực đối với công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta nói
chung và ở tỉnh Nghệ An nói riêng. Từ đó đặt ra những vấn đề cần phải giải
quyết đối với tình hình TT, ATXH vùng giáo.
Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của các cấp, các
ngành có liên quan.
Ngoài ra đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy và học tập lý luận về tôn giáo trong các trường Đại học, Cao đẳng.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo đề tài
gồm có 3 chương, 9 tiết.
Chương 1: Đạo công giáo và tình hình trật tự, an toàn xã hội ở vùng giáo
Nghệ An.
Chương 2: Ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với việc giữ gìn trật tự, an
8
toàn xã hội ở vùng giáo Nghệ An hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực và khắc phục
mặt hạn chế của đạo Công giáo đối với việc giữ gìn trật tự, an toàn xã hội ở
vùng giáo Nghệ An hiện nay.
Chương 1
ĐẠO CÔNG GIÁO VÀ TÌNH HÌNH TRẬT TỰ,
AN TOÀN XÃ HỘI Ở VÙNG GIÁO NGHỆ AN
1.1. Quá trình du nhập và phát triển đạo Công giáo ở Nghệ An
1.1.1. Khái niệm Đạo công giáo
Trong lịch sử, Thiên Chúa giáo là tôn giáo độc thần của những tín đồ tin
theo và thờ phượng Chúa trời. Với họ, đó là một lực lượng siêu nhiên, toàn
năng, tạo dựng, quản trị và quan phòng, nắm quyền hành điều khiển mọi trật tự
trong vũ trụ, trần thế. Hình thức thờ Chúa trời đầu tiên trong lịch sử loài người
là người Do Thái. Tôn giáo này vốn phát sinh từ đa thần giáo ngẫu tượng của
các bộ lạc Do Thái thời cổ. Từ thế kỷ thứ VII trước công nguyên trở thành tôn
giáo độc thần là thờ Thiên Chúa. Nguồn gốc giáo lý của đạo Do Thái là pho
thánh kinh cựu ước. Họ tin rằng Thiên Chúa là đấng duy nhất, siêu việt và vô
hình. Còn Đấng cứu thế (Kinh thánh Tân ước gọi là đức Giêsu Kitô) thì chưa
đến nhưng sẽ đến để cứu rỗi nhân loại.
Một tôn giáo khác cũng thờ phượng Chúa trời tuy giáo lý khác hơn, đó là
Hồi giáo còn gọi là đạo Islam hay là đạo Mahômét đấng thiên sứ, vị tổ phụ và là
nhà tiên tri của Hồi giáo, người được ơn Thiên chúa mạc khải và đã viết kinh
Coran với nội dung cũng dựa trên cơ sở thánh kinh cựu ước. Hồi giáo ra đời vào
9
thế kỷ thứ VII với giáo lý cho rằng Giêsu Kitô (ngôi hai trong Tân ước) không
được gọi là con Thiên Chúa, không chấp nhận sự kiện Giêsu chết và sống lại.
Thượng đế duy nhất của Hồi giáo là đấng Ala.
Một tôn giáo khác nữa cũng thờ phượng Thiên Chúa là đạo Kitô hay còn
gọi là đạo Cơ đốc. Ra đời từ những năm đầu công nguyên với truyền thuyết về
Giêsu Kitô là ngôi hai của Thiên Chúa được đầu thai làm người qua bà Maria.
Giêsu được coi là đấng cứu thế cho loài người, từ việc bị đóng đinh trên cây
thập giá, chết, táng xác, rồi sống lại sau 3 ngày. Vì vậy mà cùng với lễ giáng
sinh (nôen), lễ phục sinh được tín đồ Kitô giáo coi là lễ trọng nhất của Giáo hội.
Các nhà thần học cho rằng nếu không có sự kiện phục sinh tức Chúa Giêsu
không sống lại thì đức tin là vô ích.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, đạo Kitô đã bị phân hoá do những
bất đồng về giáo lý, giáo luật, nghi lễ phụng vụ và những mâu thuẫn trong nội
bộ giáo hội. Sự phân hoá đó đã sinh ra những tôn giáo mới, trong đó có Công
giáo và được biểu đạt qua sơ đồ sau:
Đạo Thiên Chúa
Đạo Do Thái Đạo Kitô Đạo Hồi
Công giáo Chính thống giáo Tin lành Anh giáo
Công giáo là một tôn giáo thuộc Kitô giáo - tôn giáo thờ Đức Chúa Giêsu
Kitô. Đạo xuất phát từ Đức Giêsu, người Nazareth, miền bắc xứ Palétxtin, vùng
Cận Đông. Đạo công giáo được hình thành qua hai sự biến động:
- Thứ nhất, sự ra đời của Kitô giáo gắn với cuộc đấu tranh chống đế quốc
La Mã thế kỷ thứ II TCN. Sự ra đời của Kitô giáo là sự kế thừa cải cách Do thái
10
giáo kết hợp với các tư tưởng triết học duy tâm, thần học Hy Lạp, La Mã cổ đại.
Đạo Kitô ra đời với hai trung tâm lớn là Rôme và Côngstantinôv cùng các
trung tâm khác như Antốt Gerusalem... Mâu thuẫn giữa hai trung tâm Rôme và
Côngstantinôv diễn ra trong quá trình đấu tranh giành ngôi vị độc tôn, chi phối
toàn bộ Giáo hội Kitô giáo. Mâu thuẫn dẫn đến năm 1054 (thế kỷ XI), trong
Kitô giáo diễn ra cuộc phân liệt thứ nhất và dẫn đến sự hình thành của Công
giáo - thế lực lớn nhất - thuộc phần tây đế chế La Mã và Chính thống giáo ở
Phương Đông.
Trong đó Công giáo thừa nhận quyền tối thượng của Giáo hoàng, giữ mối
liên hệ hiệp thông với toà thánh Vatican trong các vấn đề về giáo lý, giáo luật,
nghi lễ phụng tự và nền tảng của đức tin là bộ kinh thánh (Cựu ước và Tân ước).
Công giáo là giáo hội Tây phương hay thường gọi là giáo hội La Mã; còn Chính
thống giáo hay còn gọi là giáo hội Phương Đông lại không thừa nhận quyền tối
thượng của Giáo hoàng; dựa vào phúc âm Gioan họ chỉ tin đức chúa Thánh thần
(ngôi ba) bởi Chúa Cha (ngôi nhất mà ra chứ không phải từ cả ngôi hai (Giê su),
không công nhận ơn vô ngộ của Giáo hoàng mà chỉ cộng đồng chung mới có.
Tuy vẫn kính Đức mẹ nhưng không tin Maria là vô nhiễm nguyên tội.
- Thứ hai, đến thế kỷ XVI, giai cấp Tư sản ở Châu Âu xuất hiện đã đặt ra
yêu cầu cải cách Công giáo. Với những cải cách tôn giáo của Máctinluthơ (1483
- 1546) và GiăngCanVanh (1509-1546) đã dẫn đến sự xuất hiện của Giáo hội cải
cách gọi là Tin lành, đây là cuộc phân liệt thứ hai. Trong đó, giữa giáo lý Tin
lành và Công giáo có những điểm khác biệt cơ bản như: Tin lành không chấp
nhận quyền tối thượng của Giáo hoàng, không công nhận các bí tích giải tội và
thánh thể. Niềm tin duy nhất là kinh thánh. Ngày chủ nhật các tín đồ đến nhà thờ
nghe mục sư giảng kinh thánh rồi cầu nguyện, ăn năn thú tội trực tiếp với Chúa.
Cùng với cuộc cải cách dẫn đến sự ra đời của đạo Tin lành, ở nước Anh
vào thời kỳ này (1533) cũng nảy sinh mâu thuẫn giữa Vua Henry VIII với Giáo
hội dẫn đến sự ra đời của tôn giáo mới là Anh giáo. Tôn giáo này không chịu sự
chỉ đạo của Roma. Về mặt giáo lý, Anh giáo gần giống như Công giáo trừ việc
chối bỏ quyền tối thượng của Giáo hoàng và với phép truyền chức thì linh mục
11
hay giám mục không bị buộc phải sống độc thân.
Như vậy mỗi tôn giáo có một đặc điểm riêng biệt và chính tên gọi chỉ ra
đặc điểm riêng biệt đó. Tin lành giáo chỉ đặc điểm là tôn giáo này coi trọng
thánh kinh (theo họ, thánh kinh Tân ước chính là tin tốt lành nên gọi là Tin lành
giáo); Anh giáo chỉ đặc điểm ở tính chất địa phương (chỉ có tại nước Anh);
Chính thống giáo chỉ đặc điểm là cố lưu giữ những tính chất nguyên sơ ban đầu;
Công giáo chỉ đặc điểm là trung thành với giáo hội Rô ma với tính chất phổ quát
của nó là duy nhất, thánh thiện, công giáo, tông truyền. Theo ý nghĩa đó, Công
giáo - tên gọi được dịch từ chữ la tinh: Catholica, xuất hiện lần đầu tiên trong
một bức thư của Thánh Ignatiô tử đạo năm 107 gửi cho Giáo hội tại Smyrne:
"Ubi christus, ibi Catholica Ecclesia"(ở đâu có Đức Kitô, ở đó có hội thánh
Công giáo). Công giáo - như vậy là một thuộc tính của đạo xuất phát từ Đức
Kitô. Định nghĩa đầu tiên của thuộc tính "Công giáo" đã do Thánh Cyrillô thành
Giêrusalem đưa ra vào cuối thế kỷ II: "Giáo hội được gọi là Công giáo vì Giáo
hội lan tràn trên khắp thế giới từ đầu này đến đầu kia của trái đất, vì Giáo hội
giảng dạy một cách phổ biến, không loại trừ tất cả tín điều con người cần phải
biết và cũng vì Giáo hội muốn cho loài người, vua quan cũng như thường dân,
người thông thái cũng như kẻ dốt nát suy phục sự tôn sùng đích thực" [43,
tr.34]. Ở cách hiểu này, Công giáo được coi là đạo chung cho mọi người hay
quốc giáo.
Dù có những khác biệt nhưng điểm chung cơ bản nhất là cả bốn tôn giáo
này đều cho rằng Thiên Chúa là nhân vật tối cao của họ.
Đạo Thiên Chúa du nhập vào nước ta gồm có Kitô giáo và Hồi giáo (một
ít ở Miền Nam, cho đến nay tôn giáo này vẫn có mặt ở một số tỉnh Miền Nam
nước ta), trong Kitô giáo chỉ có Tin lành và Công giáo. Tuy vậy, tôn giáo này
khi được truyền vào Việt Nam (1553) đã được gọi bằng nhiều tên khác nhau,
như: Đạo Giatô, đạo Cơ đốc, Công giáo, Kitô giáo, Thiên Chúa giáo... Mỗi tên
gọi được giải thích khác nhau và nhấn mạnh vào một nội dung hoặc một khía
cạnh riêng của tôn giáo này, ví dụ tên gọi đạo Gia tô, Thiên Chúa giáo nhấn
mạnh vào đấng được gọi là Thiên Chúa, vị Chúa độc nhất, Đấng tạo hoá được
thờ kính trong tôn giáo này; Kitô giáo nhấn mạnh vào Đức Kitô, Đấng cứu thế;
12
Còn Công giáo có thể hiểu theo cả hai nghĩa này vì tín lý Công giáo là thờ Thiên
Chúa ba ngôi: Thiên Chúa - Chúa cha, Đức Giêsu Kitô - Chúa con và Chúa
thánh thần.
Thật ra, tại Việt Nam, các tên gọi này nhất là Thiên Chúa giáo, Kitô giáo,
Công giáo thường được dùng một cách lẫn lộn, ít có sự phân biệt rõ ràng và
chưa có một văn bản chính thức nào khẳng định nên gọi như thế nào cho phù
hợp. Tuy nhiên theo những căn cứ sau đây chúng ta có thể đi đến khẳng định
nên gọi như thế nào là phù hợp nhất:
Thứ nhất: Với tên gọi là Thiên Chúa giáo, cách gọi này có ý nghĩa chỉ ra
nhân vật tối cao được tôn thờ của Giáo hội là Thiên Chúa. Tuy nhiên trong lịch
sử có 3 tôn giáo khác nhau cùng thờ Chúa trời là Do thái giáo, Hồi giáo và Kitô
giáo. Do đó nếu gọi Thiên Chúa giáo thì có thể đúng với các tôn giáo nói trên và
chưa có sự phân biệt để chỉ ra đặc điểm riêng vốn có của mỗi tôn giáo này.
Thứ hai: Với tên gọi là Kitô giáo, tên gọi này chỉ ra nhân vật được thờ
phụng là Đức Kitô hay còn gọi là Giêsu, theo kinh Tân ước đó chính là nhân vật
đã sáng lập ra tôn giáo này. Tuy nhiên trong lịch sử phát triển do có sự xung đột,
mâu thuẫn trong nội bộ Giáo hội nên từ Kitô giáo đã có sự phân hoá, tách thành
4 tôn giáo khác nhau là Công giáo, Chính thống giáo, Tin lành và Anh giáo. Tín
đồ của cả 4 tôn giáo này đều có thể gọi là Kitô hữu. Vì vậy nếu gọi là Kitô giáo
thì chưa chỉ ra được đặc điểm riêng của cả 4 tôn giáo nói trên nên rất dễ nhầm
lẫn như cách gọi Thiên Chúa giáo.
Thứ ba: Với tên gọi là Công giáo được Giáo hội tôn giáo này giải thích ý
nghĩa là chỉ có tôn giáo của họ mới tính cách phổ quát cao nhất. Ba tôn giáo còn
lại (Chính thống giáo, Tin lành và Anh giáo) chẳng qua là những dị biệt, do sự
hiểu lầm đáng tiếc mà có. Và tôn giáo của họ mới có tính chất đại diện. Vì vậy
tên gọi này nó có tính phổ biến, được Giáo hội Vatican và Giáo hội các quốc
gia, trong đó có Việt Nam đồng tình thống nhất một tên gọi duy nhất là Công
giáo.
Thứ tư: Riêng ở Việt Nam, dù Công giáo không phải là tôn giáo chung
cho mọi người hay là quốc giáo nhưng đây lại là tôn giáo có số lượng tín đồ
đông, có khắp các miền đất nước. Và theo ý kiến của phần lớn các tín đồ của tôn
13
giáo này ở nước ta cũng muốn được gọi tên của tôn giáo mình là Công giáo.
Cách gọi này đã quy tụ được sự đồng thuận của đồng bào Công giáo Việt Nam
trong chiến lược đại đoàn kết toàn dân.
Từ những cách hiểu trên, đối với đạo Thiên Chúa ở Việt Nam (mà lâu nay
ta quen gọi) - một tôn giáo chịu sự chỉ đạo của Hội đồng giám mục Việt Nam và
toà thánh Vatican ở Rôma cần được gọi đúng tên riêng của nó là Công giáo.
Trong luận văn này, tác giả cũng thống nhất cách gọi là đạo Công giáo.
1.1.2. Những giai đoạn phát triển chủ yếu
Ý định "Phúc âm hoá" các dân tộc, "Mở rộng nước chúa" trên trái đất của
Giáo hội Công giáo đã được thực hiện mạnh mẽ từ sau những phát kiến địa lý vĩ
đại thế kỷ XV. Sự gặp gỡ của hai ý định lớn: ý định của Giáo hội Công giáo
đem sự cứu rỗi của Chúa Kitô đến với mọi miền và ý định của giai cấp tư sản
mở rộng thị trường đã trở thành động lực thúc đẩy việc truyền bá đạo Công giáo
ra nhiều khu vực, trong đó có Đông Nam Á, Đông Dương và Việt Nam.
Từ thế kỷ XV - XVI đã lác đác có giáo sĩ phương tây đến nước ta. Sang
thế kỷ XVII, việc truyền bá đạo Công giáo vào Việt nam mới thực sự có kết quả
và có hệ thống.
Riêng với Nghệ An dưới thời phong kiến là mảnh đất nghèo khổ nhưng
nhân dân ở đây có truyền thống chống ngoại xâm rất oai hùng - Thực dân Pháp
biết rõ điều đó nên trong từng bước xâm lấn mảnh đất này, chúng đã triệt để lợi
dụng việc truyền giáo để từng bước thực hiện âm mưu xâm lược và nô dịch. Quá
trình du nhập và phát triển của tôn giáo này tại Nghệ An đã phản ánh đúng thực
trạng tình hình đó.
Nguyên nhân chủ yếu khiến cho đạo Công giáo phát triển ở Nghệ An nói
riêng và cả nước nói chung là nguyên nhân xã hội lúc bấy giờ. Một thời gian dài
đất nước không có chính quyền thống nhất. Các tập đoàn phong kiến không chú
ý đến phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân mà chỉ lo "xưng bá, xưng
hùng", Trịnh - Nguyễn phân tranh. Nhà Tây Sơn thống nhất quốc gia trong vinh
quang chống ngoại xâm nhưng chưa đủ thời gian để thực thi quốc sách, vả lại
còn lo đối phó với thù trong giặc ngoài. Triều Nguyễn không những không giải
quyết được những vấn đề lớn của xã hội mà còn đưa đất nước vào con đường bế
14
tắc, trì trệ, bảo thủ về mọi mặt. Hàng thế kỷ, người Việt Nam không còn cơ sở
để đặt niềm tin vào bộ máy cai trị của Nhà nước phong kiến. Tâm trạng hoang
mang, bế tắc không có đường ra là sự thực khá phổ biến trong nhiều tầng lớp
nhân dân. Tôn giáo bản địa (thờ cúng tổ tiên) không có hệ thống lý luận hoàn
chỉnh. Phật giáo và Nho giáo cũng ở vào tình trạng không làm nổi vai trò hướng
đạo cho số đông quần chúng lao khổ... Vì vậy, trong sự khủng khoảng về tư
tưởng đó thì những tác động của buổi đầu tiếp xúc với văn hoá văn minh
Phương Tây tất nhiên sẽ được đón nhận dưới nhiều hình thức và nội dung khác
nhau là điều dễ hiểu.
Ngoài ra, lợi dụng tâm lý phiếm thần và niềm tin tôn giáo của người nông
dân không có tính bền vững, hành động tôn giáo của họ mang tính thực dụng;
lợi dụng lòng khao khát đượcgiải phóng, nhu cầu đòi hỏi cấp bách để duy trì
cuộc sống "an bần lạc đạo" ở mức tối thiểu; sự bất mãn, phẫn uất vì chế độ hà
khắc của vương triều nhà Nguyễn... nên thực dân Pháp mà trực tiếp là bọn gián
điệp thầy tu trong Hội thừa sai Pari làm nhiệm vụ truyền giáo ở các nước Đông
Dương đã đẩy mạnh tuyên truyền lừa bịp họ bằng các đạo lý "Chúa cứu thế", "tử
vì đạo"... để mê hoặc nhân dân mất cảnh giác, buông lỏng ý thức dân tộc.
Trong bối cảnh chung đó, ở Nghệ An đạo Công giáo cũng bắt đầu được
du nhập và phát triển từ những năm 1629 - 1630. Cho đến nay, chúng ta có thể
tạm chia thành các giai đoạn sau:
- Giai đoạn từ 1630 đến 1846 (có giáo phận Vinh)
- Giai đoạn từ 1846 đến tháng 8/1945 (cách mạng tháng 8 thành công)
- Từ tháng 8/1945 đến nay.
1.1.2.1. Giai đoạn từ 1630 đến 1846
So với một số tỉnh Miền Bắc thì thời gian có người phương tây đến truyền
đạo ở Nghệ An chậm hơn. Theo An bum của Giáo phận Vinh do Toà Giám mục
Xã Đoài phát hành năm 1996 thì từ 1630, hai linh mục Alêxandrodes (Đắc Lộ)
và Mamarquez bị trục xuất khỏi Đàng ngoài, trên đường bị áp giải vào Đàng
trong để về Ma Cao, hai linh mục đã ghé vào cửa biển Nghệ -Tĩnh - Bình giảng
đạo. Trong vòng 6 tháng họ đã làm lễ rửa tội cho 600 người ở xứ Nghệ. Thủ
15
đoạn truyền đạo vẫn theo phương thức cổ truyền là thu phục nhân tâm bằng các
hoạt động như: chữa bệnh, cứu trợ từ thiện, tổ chức học chữ, học nghề... dần
giảng dạy giáo lý và làm phép.
Đến năm 1632, có một số thừa sai Dòng Tên tiếp tục đến Nghệ An để
truyền đạo. Tiêu biểu nhất là linh mục Magorica người Italia. Theo số liệu
không chính thức của một số thừa sai, vào cuối năm 1659, ở Nghệ An đã có tới
120 nhà thờ (trên tổng số 414 nhà thờ toàn Miền Bắc). Cũng năm 1659, hai địa
phận Đàng Trong và Đàng Ngoài được thành lập. Nghệ - Tĩnh - Bình là những
tỉnh cực nam của Đàng Ngoài, thuộc khu vực truyền giáo của các thừa sai người
Pháp. Đến năm 1668, linh mục xứ Nghệ đầu tiên được phong tại Thái Lan là
linh mục Bênêđiô Hiền. Năm 1679, xứ Nghệ đã có một toà giám mục giành cho
Đức giám mục phó để coi sóc giáo dân đặt tại Tràng Đen (Nam Đàn); đến 1792,
toà Phó giám mục được di chuyển xuống Thọ Kỳ (Đức Thọ, Hà Tĩnh) và đến
năm 1842, Đức cha Hậu II (Jean Denis Gauthier) Đức cha phó cuối cùng của
giáo phận Tây đàng ngoài coi sóc phần lãnh thổ này đã quyết định dời Toà giám
mục từ Thọ Kỳ ra làng Đoài (Xã Đoài, Nghi Diên, Nghi Lộc) và ổn định cho
đến ngày nay.
Đánh giá về thực trạng tình hình giáo hội Thiên Chúa giáo ở Nghệ Tĩnh
trong giai đoạn này, năm 1893, Giám mục Liêu (Mgr. retordd) đã viết trong báo
cáo gửi về Rôma rằng: "Tại Hà Tĩnh và Nghệ An có 45.364 bổn đạo, bổn đạo
trong hai tỉnh này là những bổn đạo sốt sắng nhất địa phận" [14, tr.396].
Như vậy, mặc dù về tổ chức cho mãi đến năm 1845 vẫn chưa có giáo
phận Vinh tồn tại độc lập, các hoạt động tôn giáo của các tín đồ Công giáo từ
năm 1679 trở về trước phụ thuộc vào giáo phận Đàng Ngoài, từ 1679 đến 1845
phụ thuộc vào giáo phận Tây Đàng Ngoài, nhưng các hoạt động về tôn giáo đã
diễn ra sôi nổi và liên tục. Về mặt tổ chức, các tổ chức bên dưới như: xứ, họ đã
hình thành một hệ thống cơ sở tương đối bền vững - đây là yếu tố hạt nhân, là cơ
sở hạ tầng đặc biệt quan trọng để Giáo hoàng cho phép thành lập Giáo phận
Vinh sau này.
16
1.1.2.2. Giai đoạn từ 1846 đến 1945
Trong thời gian này, Giáo hội Công giáo tại Nghệ An nói riêng và địa
phận Vinh nói chung đã hoàn chỉnh về tổ chức, phát triển nhanh, mạnh về lực
lượng và thực tế đã trở thành một lực lượng chính trị xã hội quan trọng trong đời
sống chính trị xã hội ở khu vực và địa phương.
Ngày 27/03/1846, Giáo hoàng Grêgôrox đã ban sắc chỉ thành lập giáo
phận Nam Đàng Ngoài (còn gọi là giáo phận Nam, từ năm 1924 gọi là giáo phận
Vĩnh, rồi sau gọi là Giáo phận Vinh cho đến nay) và bổ nhiệm Giám mục Ngô
Gia Hậu làm đại diện tổng toà giáo phận mới. Giám mục phó lúc này là ông
Masson Nghiêm. Cho đến thời điểm này (1848) theo thống kê của giáo phận
Vinh, toàn giáo phậnđã có: 1 giám mục, 1 giám mục phó, 4 linh mục thừa sai
Pháp, 35 linh mục Việt Nam, 75 thầy giảng, 18 giáo xứ, 66.350 giáo dân.
Như vậy, vượt qua bao dâu bể thăng trầm với những biến cố lịch sử chông
gai, mặc dù bị sự đàn áp của triều đình nhà Nguyễn nhưng đạo Công giáo vẫn
không ngừng phát triển về tổ chức và lực lượng.
Đến năm 1892, một sự kiện lịch sử đáng ghi nhận ở Giáo phận Vinh là
Giám mục Lpineau (tên thường gọi là Đức cha Trị) ra thư chung nhận lễ Mẹ lên
trời làm quan thầy Giáo phận và ngày dâng hiến Giáo phận cho Đức mẹ. Vào
thời điểm này, Giáo phận Vinh đã có 1 giám mục, 72 linh mục Việt Nam, 31
linh mục thừa sai, 12 giáo hạt, 51giáo xứ, 51 giáo họ, 300 nhà thờ, 88.227 giáo
dân... Đây là giai đoạn "sự đạo" ở Nghệ An nói riêng, Việt Nam nói chung được
ghi nhận là "khởi sắc nhất". Số linh mục Việt Nam một năm tăng xấp xỉ
1,33%,số giáo dân tăng hơn 1,22%, về tổ chức và cơ sở vật chất được tăng lên
không ngừng, cơ sở in ấn, phát hành các loại kinh bổn dần hoàn thiện...
Sau ngày tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945, ngày 27/8/1945 Đại hội linh
mục giáo phận Vinh đã được tiến hành càng khẳng định rõ hơn sự phát triển lớn
mạnh của giáo phận. Theo báo cáo của đại hội , cho đến thời điểm tiến hành đại
hội thì toàn giáo phận đã có: 178 linh mục Việt Nam, 194 chủng sinh, 200 nữ tu,
185.000 giáo dân... Đại hội đã cử linh mục Trần Hữu Đức làm tổng quản, tạm
quyền thay thế Giám mục Auêlêô Giuerla (tên thường gọi là Đức cha Bắc) lúc
17
này vì lý do sức khoẻ nên không làm việc được.
Như vậy, trong gần 100 năm tính từ ngày thành lập Giáo phận Vinh đến
cách mạng tháng 8 năm 1945, Giáo phận Vinh đã đạt được một số kết quả lớn
như: giành được thế và lực hợp pháp trong các hoạt động xã hội , hoàn chỉnh hệ
thống tổ chức từ Họ, Xứ đến Toà giám mục, phát triển nhanh lực lượng giáo sĩ
và giáo dân.
1.1.2.3. Từ 1945 đến nay
Sau năm 1945, Công giáo địa phận phát triển nhanh, mạnh. Việc chỉ đạo
cũng rất chặt chẽ từ trên xuống dưới qua các hệ thống của tôn giáo. Trong thời
kỳ này, toàn dân ta đang ra sức kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần
thứ hai, đại bộ phận người công giáo Việt Nam đã cảm nhận sâu sắc nỗi nhục
mất nước, tích cực tham gia, đóng góp sức mình vào sự nghiệp chung của Tổ
Quốc. Hàng nghìn thanh niên Công giáo yêu nước đã trực tiếp tham gia chiến
đấu trên tất cả các chiến trường với quyết tâm tất cả cho Tổ quốc quyết sinh.
Ngày 7/10/1945, hơn 30.000 đồng bào giáo dân cùng giáo sỹ đã kéo về sân vận
động Vinh dâng thánh lễ cầu nguyện cho Tổ quốc, nói lên quyết tâm bảo vệ Tổ
quốc bằng bất cứ giá nào. Trong thời gian này chúng ta cần ghi nhận công lao
đóng góp của một bộ phận không nhỏ đồng bào giáo dân và các linh mục tiến
bộ, yêu nước; tiêu biểu như linh mục Nguyễn Văn Tường, Đậu Quang Lĩnh, Lê
Đình Huân, Trần Đức Triều...
Thế nhưng bên cạnh đó vẫn có những thế lực đen tối cố tình khoét sâu
mâu thuẫn giữa vô thần và hữu thần, chia rẽ giáo dân với cách mạng, một số
chức sắc giáo hội đã đi theo đường lối chính trị, không đồng hành với dân tộc,
với nhân dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Thậm chí những
phần tử này còn liên kết với thực dân và các đối tượng ngăn cản, chống phá cách
mạng. Vì vậy sau 1954, Giáo phận Vinh tuy nằm trong vùng tự do nhưng vẫn bị
ảnh hưởng bởi các luận điệu tuyên truyền tâm lý chiến rằng "Việt minh cấm đạo,
cộng sản cấm đạo"... kết quả là có khoảng 61 linh mục, 27 chủng sinh, 52 tiểu
chủng sinh, 43 nữ tu và khoảng 45.000 giáo dân Nghệ An đã di cư vào Nam,
làm cho hoạt động công giáo của địa phận bị xáo trộn và trở nên rất nhạy cảm,
18
phức tạp.
Trong những năm 60-70, tình hình giáo phận Vinh tiếp tục có những thay
đổi, tình trạng thiếu linh mục cai quản các giáo xứ cũng là một trở ngại lớn đối
với việc khôi phục và củng cố giáo xứ, họ đạo. ở những vùng công giáo vốn
trước đây là toàn tòng nhưng về những năm sau đã có một số lượng khá đông
đồng bào ngoài công giáo ở các vùng xung quanh tới sinh sống. Trong những
thập kỷ gần đây, toà giám mục Xã Đoài, dưới sự chỉ đạo của toà thánh Vatican
và sự tác động của các thế lực bên ngoài nên đã có một số chuyển hướng hoạt
động: từ chỗ cực đoan không tuân thủ, thậm chí chống lại các cấp chính quyền
địa phương trước kia thì nay chuyển dần sang ôn hoà, tận dụng chủ trương dân
chủ để đổi mới từng bước, củng cố phát triển giáo hội, tìm mọi cách tách dần sự
quản lý của Nhà nước; tận dụng các ngày lễ trọng đại, các sự kiện lịch sử của
giáo hội để đẩy mạnh các hoạt động khuyếch trương thanh thế của Giáo hội,
củng cố đức tin cũng như để tuyên truyền, phát triển đạo.
Cho đến nay, Nghệ An có trên 23 vạn đồng bào công giáo, cư trú chủ yếu
ở 13 huyện, trong 184 xã, phường, thị trấn, 839 xóm vùng đồng bằng và núi
thấp. Toàn tỉnh có 2 xã và 185 xóm giáo toàn tòng, có 14 xã và 106 xóm, bản
xen đồng bào công giáo và đồng bào dân tộc thiểu số. Có toà giám mục Xã
Đoài, 9 hạt, 72 nhà thờ xứ, 245 nhà thờ họ, 1 giám mục, 76 linh mục. Các huyện
có đông đồng bào công giáo sinh sống là Nghi Lộc, Diễn Châu, Quỳnh Lưu,
Yên Thành, Hưng Nguyên. (Xem biểu tổng hợp 1).
Tóm lại, quá trình du nhập và phát triển đạo công giáo ở Nghệ An có
nhiều bước thăng trầm, để lại những dấu ấn khá rõ nét, thể hiện trên một số điểm
cơ bản như:
Một là, sau khi dòng tên bị Toà thánh giải thể, công cuộc truyền đạo tại
giáo phận Vinh hoàn toàn do các thừa sai của Hội thừa sai Pari đảm nhận.
Chúng ta cần hiểu rằng đối với các thừa sai này, việc thánh hoá nhân loại theo
tinh thần Phúc Âm và mở đường cho ách đô hộ của chế độ thực dân Pháp được
đặt ưu tiên ngang nhau. Chính vì thế tính vong bản của tôn giáo này thể hiện rất
rõ trong cộng đồng giáo dân Nghệ An.
Hai là, do tính cách có phần cực đoan của một bộ phận người dân xứ
19
Nghệ (theo nhận xét của nhiều học gỉả, trong đó có nhà văn hoá Phan Ngọc) nên
trong lòng cộng đồng này có những nét đặc trưng riêng dễ nảy sinh những mâu
thuẫn giữa những người đứng đầu tôn giáo truyền thống (thờ cúng tổ tiên) là các
nhà Nho, cả cộng đồng theo tôn giáo truyền thống này với đội ngũ chức sắc,
chức việc và giáo dân. Trong quá khứ, qua các thời kỳ cấm đạo của các triều đại
phong kiến thì Nghệ An là nơi thực hiện một cách triệt để nhất các chỉ dụ của
nhà Vua - điển hình nhất là cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn với khẩu hiệu
"Bình Tây sát Tả". Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, mặc dù khu
IV là chiến khu cách mạng song rất nhiều vấn đề phức tạp đã diễn ra, đã có
những xung đột dẫn đến đổ máu và chính trong thời kỳ di cư 1954, xấp xỉ 20%
tín đồ tại đây đã di cư vào Nam. Hiện nay, do thời gian, do các chính sách đúng
đắn của Đảng và Nhà nước nên những xung đột này đã được hoá giải, tình đoàn
kết lương - giáo được phát huy.
Ba là, người Nghệ có đức tính nhẫn nhục chịu đựng, tính cách này càng
thể hiện rõ hơn đối với giáo dân. Nếu chỉ quan sát những biểu hiện bên ngoài
mang tính hình thức thì nhiều lúc, nhiều địa phương lầm tưởng là mọi việc đã
được giải quyết êm thấm, thế nhưng chính vì nhẫn nhục chịu đựng nên các mâu
thuẫn thường bị tích tụ và một khi bùng phát thì rất khó kiểm soát (đặc điểm này
tác giả sẽ phân tích kỹ hơn ở phần thực trạng trật tự an toàn xã hội).
Bên cạnh đó một điểm nổi bật thể hiện sự tương đồng về ý thức dân tộc
của người công giáo nói chung, người công giáo Nghệ An nói riêng với toàn thể
dân tộc Việt Nam đó là phần lớn các tín đồ công giáo có lòng yêu nước, cần cù
lao động, đã góp phần cùng toàn dân tham gia phong trào đấu tranh giành độc
lập và bảo vệ tổ quốc. Qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ, đã có hàng ngàn thanh niên công giáo hăng hái ra chiến trường theo
tiếng gọi của tổ quốc, nhiều người đã hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, nhiều tín đồ, giáo sĩ đã thể hiện tinh
thần yêu nước, tham gia đầy đủ các hoạt động xã hội, vận động tín đồ thực hiện
đầy đủ các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, "sống tốt
đời, đẹp đạo", thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ công dân, đồng thời làm tròn bổn
phận của tín đồ theo tinh thần thư chung 1980 của Hội đồng giám mục Việt
20
Nam "Sống phúc âm giữa lòng dân tộc".
1.2. Thực trạng tình hình trật tự, an toàn xã hội ở các vùng giáo Nghệ
An
1.2.1 Thực trạng chấp hành pháp luật
Dưới ánh sáng của đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, toàn thể
đảng bộ, quân và dân Nghệ An đã tiến hành công cuộc đổi mới sâu rộng trên tất
cả các lĩnh vực, kể cả trong lĩnh vực tôn giáo và đã thu được nhiều thành tựu to
lớn. Bộ mặt tỉnh nhà nói chung , các Xứ, Họ đạo nói riêng thực sự có những
khởi sắc mới. Hầu hết giáo hội và giáo dân đều tỏ ra phấn khởi, tin tưởng vào
đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, yên tâm phụng đạo, sống kính Chúa
yêu nước.
Trong lĩnh vực công tác tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục thực hiện
NQ 24 của Bộ chính trị (1990), NĐ 69/CP (1991), NQ 26/CP (1999) của Chính
phủ, thực sự quan tâm đến nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo. Đặc biệt tháng 03/2003,
Đảng ta có Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII BCHTW Đảng khoá IX về “Phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; công tác dân tộc; công tác tôn giáo” và
Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo (2004),
Chính phủ ban hành Nghị định số 22/CP (2005) hướng dẫn thi hành một số điều
của Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo với nội dung tiếp tục đổi mới công tác tôn
giáo, quan tâm nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo hợp pháp, chính đáng. Chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước khẳng định tôn giáo là nhu cầu của một bộ
phận quần chúng nhân dân, còn tồn tại với Dân tộc trong quá trình xây dựng
CNXH. Nhiều nội dung mới được đề ra và giải quyết, như: vấn đề thành lập các
tổ chức tôn giáo hợp pháp, vấn đề tách - lập cơ sở tôn giáo... Tất cả những việc
làm thiết thực đó đem lại cho Giáo hội, giáo dân Nghệ An tâm lý phấn khởi, tin
tưởng vào vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong quá trình
"đồng hành" cùng dân tộc vì mục tiêu chung "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh".
Riêng ở Nghệ An, cấp uỷ, chính quyền các cấp cũng đã rất quan tâm đến
công tác tôn giáo, thực hiện đúng chính sách pháp luật, giải quyết đáp ứng kịp
thời các nhu cầu hoạt động tôn giáo chính đáng. UBND tỉnh, Tỉnh uỷ cũng đã
21
ban hành kịp thời các văn bản, chỉ thị sâu sát về công tác tôn giáo. Trên cơ sở đó
mỗi người công giáo tỉnh nhà đã nâng cao ý thức công dân nghiêm chỉnh chấp
hành các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như của
chính quyền địa phương. Đa số các linh mục, tu sĩ đã tích cực phối hợp với
UBMT Tổ quốc các cấp vận động bà con giáo dân tham gia học tập các chủ
trương chính sách của Nhà nước như: Nghị định số 36/CP của Chính phủ về
đảm bảo ATGT , Nghị định số 29/CP về thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, Nghị
định số 26/CP về các hoạt động tôn giáo vv... Đặc biệt trong cuộc bầu cử Đại
biểu Quốc hội Khoá XII, bà con giáo dân đã hăng hái đi bầu cử đạt tỷ lệ 100%
và hoàn thành cuộc bầu cử đúng thời gian quy định.
Ngoài ra với nhận thức bảo vệ và xây dựng tổ quốc XHCN là nghĩa vụ
thiêng liêng và cao cả, các linh mục, tu sĩ và đồng bào công giáo đã tích cực
tham gia các tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội, tham gia xây dựng chính quyền,
nêu cao tinh thần cảnh giác trước các âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng
tôn giáo nhằm gây chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân. Đồng thời tích
cực tham gia các phong trào giữ gìn trật tự tại địa phương, tham gia lực lượng
tuần tra, dân phòng, dân quân cơ sở. Hưởng ứng cuộc vận động "Toàn dân tham
gia phòng chống, phát hiện, tố giác tội phạm, cảm hoá, giáo dục, cải tạo những
người lầm lỗi tại gia đình và cộng đồng dân cư", nhiều giáo xứ đạt đảm bảo về
an toàn trật tự, không có các tệ nạn xã hội như: mại dâm , ma tuý vv. Con em
trong độ tuổi thi hành nghĩa vụ quân sự chấp hành nghiêm chỉnh đạt tỷ lệ 100%.
Từ khi có các cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở
khu dân cư”, “Sống tốt đời, đẹp đạo”, bà con giáo dân đã tích cực hưởng ứng
với nhiều hoạt động phong phú đa dạng, làm thay đổi đời sống ở khu dân cư
khơi dậy nếp sống lành mạnh, tạo không khí ấm áp tình làng nghĩa xóm. Việc
thực hiện nếp sống văn hoá, các sinh hoạt lễ nghi tôn giáo về cơ bản là đúng
theo quy định. Việc cưới hỏi, tang gia được tổ chức theo nếp sống mới, giữ gìn
và phát huy những giá trị truyền thống đạo đức nhân văn, loại bỏ những tập tục
lạc hậu. Các phong trào “Xây dựng gia đình công giáo gương mẫu”, “Xây dựng
xứ, họ tiên tiến”, “Học tập gương người tốt, việc tốt”… đã được các linh mục,
giáo dân quan tâm và tích cực hưởng ứng với kết quả đạt được rất đáng phấn
22
khởi: Năm 2002, toàn tỉnh chỉ có 19.860 gia đình giáo dân văn hoá, đến nay đã
tăng lên gần 30.000 gia đình; Số khu dân cư tiên tiến xuất sắc năm 2002 có 276
đơn vị, nay tăng lên 500 đơn vị; Số làng văn hoá năm 2002 là 24 đơn vị, nay
tăng lên gần 50 đơn vị (Theo Báo cáo của Đại hội người Công giáo tỉnh Nghệ
An khoá V, nhiệm kỳ 2007-2012).
Tuy nhiên do bị tác động của kẻ địch bên ngoài, do nhận thức quan điểm
sai trái nên vẫn còn một số giáo sĩ có thái độ hoạt động cố tình vi phạm Luật
pháp, xem thường chính quyền trong hoạt động tôn giáo, gây hậu quả xấu về an
ninh trật tự. Ở một số xứ, họ đạo do trình độ nhận thức của giáo dân còn thấp,
diều kiện sinh hoạt còn nghèo nàn, lạc hậu nên họ dễ bị kích động dến cuồng tín
đã bị linh mục, BHG lợi dụng lôi kéo tham gia vào các hoạt động tôn giáo trái
Pháp luật, biểu hiện trên một số hoạt động sau:
Một là: Lợi dụng củng cố đức tin, phát triển đạo, tiến hành các hoạt động
tôn giáo vi phạm quy định của Pháp luật gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự.
Nổi lên là các hoạt động đòi lại đất đai cơ sở cũ, lấn chiếm, chuyển
nhượng đất trái phép. Điển hình như vụ đòi lại đất dòng Phanxico Vinh, nhà thờ
họ Đan Nhiệm (Nam Đàn)...Trong đó có một số vụ từ đòi đất đến chiếm giữ đất
trái phép và kích động gây rối công cộng như: vụ đòi lại 2,7 ha đất nhà thờ Cầu
Rầm (phường Cửa Nam, thành phố Vinh), lợi dụng sơ hở của ta trong việc thi
công xây dựng Công viên Hồ Cá ở khu vực đất Cầu Rầm cũ vào ngày
26/5/1998, ngày 27/5/1998 các phần tử cực đoan đã kích động tập hợp một số
giáo dân kéo đến cản trở thi công, tiếp đó họ huy động lực lượng chiếm giữ đất
xây dựng nhà tạm, đặt lán trại, tổ chức lực lượng thường trực canh giữ. Cao hơn
họ đặt Thánh giá tượng đức mẹ Maria, có lúc họ tập hợp hơn 1000 giáo dân dọa
biểu tình phản đối (vụ việc kéo dài đến 5 tháng). Hoặc gần đây nổi lên các vụ
việc như: một số phần tử xứ Lưu Mỹ, xứ Thanh Tân (Đô lương) đã kích động 80
giáo dân lên trụ sở UBND tỉnh yêu sách đòi lại đất đai cũ trái phép (2004); Ở xứ
Ngọc Long (Công Thành, Yên Thành) một số chức sắc tôn giáo đã chỉ đạo giáo
dân xây dựng nơi cầu hồn (ở nghĩa địa) trái phép bị Chính quyền xử lý đã kích
động giáo dân gây rối trật tự công cộng, bao vây trụ sở chính quyền, giữ người
trái pháp luật. Nguy hiểm hơn là từ tháng 3/2005 đến nay, họ tiếp tục vận động
23
giáo dân không đóng các loại thuế, yêu sách đòi kỷ luật cán bộ một cách sai trái
làm cho tình hình TTATXH tại địa bàn thêm phức tạp. Tiếp đó là vụ đòi lại đất
đai sai trái dẫn tới lấn chiếm 5776m2 đất tại giáo xứ Trung Hoà (Thanh Hoà-
Thanh Chương) xảy ra từ 25/9/2005, kích động hàng nghìn giáo dân kéo lên trụ
sở Chính quyền tỉnh, trụ sở tiếp dân Trung ương để khiếu kiện. Đặc biệt, linh
mục quản xứ ở đây đã vận động giáo dân không chấp hành pháp luật, rao giảng
cho rằng Chính quyền đàn áp tôn giáo, chia rẽ khối đoàn kết lương - giáo, gây
nên tình hình căng thẳng, kéo dài ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự ở các xã
thuộc cụm Cát Ngạn huyện Thanh Chương.
Về chuyển nhượng, lấn chiếm đất trái phép đã xảy ra ở 57 điểm nhằm mở
rộng khuôn viên, lập cơ sở tôn giáo mới... Đáng chú ý là hầu hết các sai phạm
này linh mục và BHG không chấp hành Pháp luật đất đai (Thông tư liên tịch
1646/TTLT-TCĐC-TGCP (2001) và chỉ thị số 32 của UBND tỉnh), không chấp
hành sự xử lý của Chính quyền. Theo Báo cáo của Tỉnh uỷ Nghệ An, năm 2003
số điểm vi phạm tranh chấp đất đai, địa giới hành chính là 137 điểm; đến năm
2005 số điểm tranh chấp này là 110 điểm, như vậy thời gian gần đây đã có xu
hướng giảm.
Bên cạnh đó nhiều Xứ, Họ đạo còn tổ chức rước sách trái phép, dựng
cổng chào ngoài khuôn viên... một số vụ việc xảy ra gần đây như: ở xứ Bố Sơn
(Nghi Vạn, Nghi Lộc), xứ Yên Đại (Nghi Phú, thành phố Vinh), xứ Quan Lãng
(Tường Sơn, Anh Sơn), Xứ Tràng Nứa (Hưng Yên, Hưng Nguyên) ... Đây là các
hoạt động của Giáo hội nhằm phô trương thanh thế, đề cao vai trò của Giáo hội
công giáo và lấn lướt chính quyền. Giáo hội còn chủ trương thành lập các hội
đoàn, hội dòng trong đó có nhiều hội đoàn, hội dòng trái phép - như Hội "Khôi
Bình" ở xứ xã Đoài với hơn 3000 người tham gia; Hội "Sinh viên nhà Chúa" với
hơn 200 sinh viên công giáo ở các trường Đại học, Cao đẳng thành phố Vinh
tham gia; Hội "Gia đình thánh tâm";... Việc thành lập các hội đoàn, hội dòng này
nhằm tập hợp quần chúng nhất là lớp trẻ, qua đó củng cố đức tin, vừa xây dựng
lực lượng để đối trọng với Chính quyền, vừa kích động yêu sách các vấn đề sai
trái. Thậm chí lợi dụng chủ trương đi học du học tự túc, xuất khẩu lao động của
Nhà nước ta, Giáo hội đã đề ra mục tiêu" Tích cực đào tạo nhân tài, xây dựng
24
lực lượng nòng cốt, đưa sinh viên đi du học, đào tạo các học sinh, sinh viên có
năng lực và khả năng chỉ huy quần chúng". Những năm qua giáo hội Vinh đã
đưa hàng chục em là sinh viên, học sinh công giáo ra nước ngoài tu học. Theo
Báo cáo của Ban tôn giáo tỉnh thì trong thời gian từ 1996 - 2005 có 42 em đi tu
học theo diện này.
Hai là: Tuyên truyền, phục hồi phát triển đạo trái phép nhất là truyền đạo
vào vùng dân tộc thiểu số, o ép đảng viên gốc giáo, ép buộc số khô nhạt đạo trở
lại đạo.
Đây là chủ trương lớn của Giáo hội nhằm củng cố phát triển đạo. Một số
linh mục đã đích thân đi khảo sát các địa phương và yêu cầu chính quyền cho
phục hồi lại các xứ đạo ở vùng miền núi dân tộc như: Tương Dương, Anh Sơn,
Quế Phong. Ví dụ như linh mục Trần Thanh Hương quản xứ Lãng Điền (Quan
Lãng, Anh Sơn), Ông đã lôi kéo hơn 200 người Thái ở Anh Sơn trở lại đạo và
theo đạo. Trong dịp kỷ niệm "Năm thánh truyền giáo" 2004, "Năm thánh thể"
2005, Toà giám mục đã chỉ đạo cho các linh mục phải lôi kéo số giáo dân khô
nhạt đạo trở lại đạo trong đó có cả Đảng viên gốc giáo. Tại xứ Xã Đoài, giám
mục và các linh mục đã trực tiếp mời hơn 200 giáo dân khô nhạt đạo để giảng
giải, kêu gọi và cả ép buộc họ trở lại đạo. Ở nhiều Xứ, Họ đạo linh mục đến
từng gia đình đã khô nhạt đạo, gia đình có hoàn cảnh neo đơn, khó khăn để tác
động kéo họ trở lại theo đạo. 10 năm qua, tại Nghệ An, Giáo hội đã lôi kéo được
hơn 700 người trở lại đạo và theo đạo. Tuy nhiên, Giáo hội vẫn lo ngại những
tác động xấu của cơ chế thị trường, của tệ nạn ma tuý, văn hoá phẩm độc hại vào
giáo hội gây ra tình trạng giảm sút đức tin, khô nhạt đạo, bỏ đạo trong giáo dân
ngày càng nhiều; hàng ngũ linh mục sa sút phẩm hạnh.
Ba là: Gợi lại hận thù quá khứ, kích động giáo dân không thực hiện đầy
đủ chính sách pháp luật, yêu sách đòi tự do tôn giáo.
Lợi dụng việc củng cố đức tin, một số linh mục thường xuyên nêu gương
các thánh tử vì đạo, tổ chức xây, bốc mộ cho một số linh mục, giáo dân bị chết
trong phong trào "Bình Tây, sát Tả" thời nhà Nguyễn, trong các trại cải tạo của
ta thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ... qua đó gợi lại hận thù, chia rẽ
khối đại đoàn kết dân tộc; như, vụ cất bốc mộ trái phép linh mục Nguyễn Châu
25
và tập thể giáo hữu bị sát đạo năm 1858 tại xứ đạo Trung Song (Diễn Thịnh,
Diễn Châu) kéo dài từ tháng 2 đến tháng 3 năm 2000, tạc bia ghi Thánh tử đạo
nhằm gợi lại hận thù dân tộc, mặc dù bị Chính quyền đình chỉ nhưng cố tình
chống lại không thực hiện.
Bên cạnh đó, lợi dụng một số sơ hở, thiếu sót, sự non kém, lúng túng
trong công tác quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo ở cơ sở, một số linh mục
có biểu hiện chống đối cực đoan đã kích động giáo dân đưa ra những yêu sách
sai trái, nguy hiểm hơn là bao vây trụ sở chính quyền, kéo đông người khiếu
kiện lên tỉnh. Điển hình như vụ gây rối trật tự an ninh tại xứ Làng Nghi xã Diễn
Hạnh, Diễn Châu trong dịp lễ Chầu lượt từ ngày 23/4/1993 đến ngày 25/4/1993.
Tại đây, BHG xứ dự định biểu diễn vở kịch "Chiếc khăn mang tên Mẹ", họ đã tổ
chức tập luyện và báo cáo xin phép Chính quyền. Nhưng vì vở kịch có nội dung
xấu, trái cả pháp luật và giáo luật nên Chính quyền không đồng ý. Tiếc rằng lệnh
đình chỉ của Chính quyền huyện ra quá chậm, đúng vào ngày diễn ra lễ. Các
phần tử xấu đã lợi dụng sơ hở đó vào đêm 23/4/1993 khi đã tập trung đông đủ
giáo dân, họ đọc lệnh đình chỉ diễn kịch và kích động giáo dân là "Chính quyền
ngăn cản tự do tín ngưỡng". Bọn chúng đã biến buổi lễ thành vụ gây rối trật tự
với hàng nghìn người tham gia, nguy hiểm hơn là kích động giáo dân kéo nhau
đi biểu tình trên đường làng và hô khẩu hiệu phản động. Vụ gây rối này đã gây
ra tình hình phức tạp về TT, ATXH trên địa bàn.
Trước những vụ việc phức tạp đó, Chính quyền các cấp đã bình tĩnh giải
quyết đúng chính sách pháp luật, tranh thủ được số đông giáo sĩ và từng bước
vận động tuyên truyền nâng cao nhận thức hiểu biết pháp luật đến tận giáo dân,
giáo dục mọi người sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, sống có trật
tự, kỷ cương từ gia đình đến xã hội.
Như vậy, nhìn một cách toàn cảnh thực trạng chấp hành pháp luật ở các
vùng giáo Nghệ An chúng ta có thể thấy rằng bên cạnh đa số chức sắc và đông
đảo giáo dân có nhận thức, quan điểm đúng đắn, tin tưởng vào đường lối đổi
mới, hoạt động tôn giáo tuân thủ luật pháp, tích cực xây dựng cuộc sống tốt đời
đẹp đạo, giữ gìn TT, ATXH thì vẫn còn một số đối tượng bị tác động của bên
26
ngoài, có nhận thức quan điểm sai trái nên đã có thái độ và hoạt động tôn giáo vi
phạm pháp luật, gây ảnh hưởng xấu trong cộng đồng giáo dân nói riêng và cả xã
hội nói chung.
1.2.2. Về tệ nạn xã hội
Dưới ảnh hưởng của niềm tin tôn giáo, của hệ thống giáo lý, giáo luật chặt
chẽ cũng như của các tổ chức hội đoàn công giáo khác nhau nên trong đời sống
cộng đồng giáo dân Nghệ An việc vi phạm tệ nạn xã hội là rất ít. Đây là điểm
tích cực đáng ghi nhận ở các vùng giáo.Theo kết quả điều tra và nhận xét của Sở
Công an tỉnh Nghệ An thì “Vấn đề trọng tâm an ninh, trật tự vùng giáo không
phải là các vấn đề trật tự, an toàn xã hội như tội phạm hình sự hay tệ nạn xã hội.
Về khía cạnh này, nhìn chung vùng giáo ít phức tạp hơn vùng lương” [27,
tr.418].
Theo thống kê của Ban tôn giáo tỉnh, tính đến thời điểm đầu năm 2006,
toàn vùng giáo Nghệ An có 822 người tiêm chích, nghiện hút ma tuý (năm 2003
là 879 người); 18 người buôn bán ma tuý và 58 người đánh bạc, 1047 đối tượng
phạm pháp (năm 2003 là 1060), trong đó vùng giáo có nhiều đối tượng tiêm
chích, sử dụng ma tuý và phức tạp về mọi mặt nhất là vùng giáo Nghi Phú -
Thành phố Vinh. Như vậy, mặc dù vẫn còn một số giáo dân phạm tội nhưng xét
theo tỷ lệ phần trăm thì đây là con số khá khiêm tốn. Bên cạnh đó, nhiều Xứ, Họ
đạo đã từng bước thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, xoá
bỏ các tập tục lạc hậu, các hình thức mê tín dị đoan. Các tổ tự quản, tổ hoà giải
được thành lập và hoạt động có hiệu quả trên địa bàn. Điển hình như vùng giáo
huyện Quỳnh Lưu thời gian qua đã hoà giải thành công 205 vụ việc, cảm hoá
148 người lầm lỗi trở về với cộng đồng; vùng giáo huyện Đô lương cũng đã
phối hợp để giáo dục, cảm hoá, hoà giảI tại cơ sở được 25 vụ việc; toàn huyện
năm 2002 có 19 đối tượng nghiện ma tuý thì nay chỉ còn 4 người .. Việc đấu
tranh phòng chống các loại tội phạm, các tệ nạn xã hội được các giáo xứ tiến
hành một cách tích cực và triệt để. Nhiều nơi bà con giáo dân đã cung cấp cho
công an các cấp hàng trăm nguồn tin có giá trị góp phần đấu tranh chống tội
phạm, tệ nạn xã hội có hiệu quả, thực hiện tốt chỉ thị 07/CT-TU của tỉnh uỷ,
kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng buôn bán, hút hít, tiêm chích ma
27
tuý...
Thông qua việc triển khai Quy chế dân chủ ở cơ sở, nhiều xứ, họ đạo đã
xây dựng các qui ước, hương ước và được giáo dân chấp nhận. Một số nơi bà
con giáo dân và linh mục góp tiền, công sức cùng với chính quyền địa phương
xây dựng các công trình phúc lợi tập thể phục vụ đời sống của nhân dân, góp
phần làm đẹp quê hương.
Để có được những kết quả tốt đẹp đó, chúng ta phải thấy được vai trò
quan trọng của các linh mục, người chăn dắt các giáo dân, là chỗ dựa tinh thần,
người khuyên bảo, dìu dắt họ trong cả đời sống đạo và đời. Với trách nhiệm là
người thay mặt cho Giáo hội, đa số các linh mục đã sử dụng uy tín của mình
phối hợp với Hội đồng mục vụ các xứ, họ đạo gặp gỡ trao đổi với Chính quyền
và MTTQ các cấp để có sự phối hợp thống nhất trong công tác tuyên truyền và
ký cam kết phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội. Khi xảy ra những vụ việc vi
phạm làm ảnh hưởng đến trật tự an ninh nông thôn thì kịp thời giải quyết thấu
tình đạt lý, phù hợp với đạo đức giáo lý của người Công giáo và quy định,
hương ước của địa phương.Từ đó tại các buổi lễ ở nhà thờ, các linh mục đã
giành thời gian để tuyên truyền nói rõ tác hại của tệ nạn xã hội và cách phòng
tránh, nói rõ trách nhiệm của các bậc phụ huynh cùng xã hội để giáo dục cho
con cái. Nhiều linh mục đã có những biện pháp, những chế tài phạt nặng đối với
các giáo dân vi phạm các tệ nạn xã hội và như vậy là vi phạm các điều răn của
Chúa. Thậm chí có những linh mục không quản ngại vất vả đêm hôm tự tìm đến
những nơi tụ tập cờ bạc để khuyên nhủ giáo dân tránh xa những đam mê tội lỗi.
Những mâu thuẫn trong nội bộ giáo dân thường được các linh mục giải quyết
êm thấm, hợp tình hợp lý. Sự nỗ lực đó của các linh mục kết hợp với sự quan
tâm, tạo điều kiện đầu tư, hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện chính sách
tôn giáo đảm bảo quyền tự do sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật của
Đảng, Nhà nước và Chính quyền địa phương đã tạo tâm lý phấn khởi, khích lệ
đồng bào công giáo nâng cao ý thức trong phong trào xây dựng xứ, họ đạo, khu
dân cư an toàn làm chủ không có tệ nạn xã hội. Tiêu biểu như vùng giáo huyện
Thanh Chương năm 2001 có 51/58 khu dân cư đạt tiêu chuẩn khu dân cư an toàn
28
làm chủ; hoặc xã Nam Lộc, huyện Nam Đàn nhiều năm liền là lá cờ đầu của
phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, được Bộ công an tặng cờ đơn vị xuất sắc về
an toàn xã hội.
Điều đáng tiếc là bên cạnh những gương mặt điển hình, những hoạt động
thiết thực, tích cực trên thì ở một số vùng giáo vẫn còn tồn tại một số giáo dân đi
lầm đường lạc lối. Dưới tác động hai mặt của kinh tế thị trường họ đã không làm
chủ dược mình sa vào những cám dỗ, tiêm nhiễm những thói hư tật xấu, vi phạm
luân lý đạo Công giáo cũng như đạo đức của dân tộc Việt Nam. Ngay trong
hàng ngũ linh mục (chúng tôi không tiện nêu tên) cũng có người bị sa sút phẩm
hạnh, tự hạ thấp uy tín của mình và làm mất đi vẻ đẹp tôn nghiêm, thánh thiện
đáng quý của đạo Công giáo.
Trước thực trạng đó, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh đã ban hành chỉ thị 07/CT-TU
và chỉ thị 50/CT-UB ngày 01/10/2001 , đồng thời tuyên truyền, giáo dục, vận
động, nâng cao nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự của đội ngũ chức
sắc, chức việc và của cả giáo dân. Kết quả cho thấy ý thức của giáo dân về vai
trò, nhiệm vụ của mình trong công tác bảo vệ an ninh trật tự cộng đồng được
nâng cao rõ rệt, nhiều chức sắc, chức việc và giáo dân sẵn sàng cung cấp các
thông tin liên quan đến an ninh trật tự và giúp đỡ các cấp có thẩm quyền giải
quyết các vụ việc phức tạp. Chính vì vậy, tình hình TT, ATXH ở các xứ, họ đạo
Nghệ An cơ bản là ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã
hội.
Vừa qua, trong không khí sôi nổi của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta
mừng Đảng quang vinh vừa tròn 77 tuổi, hưởng ứng tích cực cuộc vận động
"Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", tiếp tục đẩy mạnh cuộc
vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư", sống tốt
đời đẹp đạo, lập thành tích chào mừng Đại hội đại biểu những người công giáo
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của tỉnh nhà được tổ chức vào tháng 10/2007,…
Ban đoàn kết công giáo huyện Nghi Lộc - là nơi có số lượng tín đồ công giáo
đông nhất trên toàn tỉnh (với 24/34 xã có đạo công giáo, 8.495 hộ giáo dân,
45.783 tín đồ, 54 họ giáo, 16 xứ giáo và 32 linh mục trong đó có 4 linh mục
đang đi du học) đã gương mẫu đi đầu đăng ký Giao ước thi đua "Xây dựng xứ,
29
họ đạo 4 gương mẫu" với các nội dung cơ bản như:
- Gương mẫu trong lao động sản xuất, tham gia tích cực phong trào xoá
đói giảm nghèo, tăng hộ giàu trong các xứ, họ đạo.
- Gương mẫu chấp hành chính sách pháp luật của Nhà nước, hương ước
của địa phương, hoàn thành nghĩa vụ công dân, phấn đấu 100% họ giáo không
có người vi phạm pháp luật và các tệ nạn xã hội (ma tuý, mại dâm, số đề, cờ
bạc), 100% gia đình giáo dân hoàn thành thuế Nhà nước, quỹ địa phương.
- Gương mẫu xây dựng nếp sống văn hoá, phấn đấu có 72% số hộ gia
đình giáo dân đạt danh hiệu gia đình văn hoá, 100% học sinh trong độ tuổi đi
học được đến trường; thực hiện tốt quyết định 01 của UBND tỉnh về việc cưới,
việc tang, lễ hội... 30% xóm giáo đạt tiêu chuẩn làng văn hoá.
- Gương mẫu tham gia sinh hoạt trong các tổ chức trong hệ thống chính
trị và chính trị xã hội. Có 80% số người trong độ tuổi tham gia sinh hoạt các tổ
chức xã hội và các đoàn thể; phấn đấu 70% các tổ chức đạt danh hiệu trong
sạch, vững mạnh. Tham gia tích cực vào công tác xây dựng Đảng, chính quyền,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Có thể nói những điểm cơ bản trong Giao ước thi đua này cũng là tâm tư,
nguyện vọng của cả cộng đồng giáo dân Nghệ An, hoàn toàn phù hợp với những
giá trị đạo đức của giáo lý đạo công giáo cũng như những giá trị đạo đức của chế
độ XHCN mà chúng ta đang ra sức xây dựng.
1.2.3. Về đoàn kết cộng đồng
Cộng đồng giáo dân là một cộng đồng cố kết chặt chẽ, là mối liên kết tâm
linh giữa những người đồng đạo với nhau. Cộng đồng giáo dân do khu biệt cư
trú thành Giáp đạo, Họ đạo, Xứ đạo, làng công giáo... nên họ được ở gần nhau
thành những cộng đồng có thể là to nhỏ khác nhau. Cộng đồng ấy cùng chung
một thánh quan thày, một nhà thờ - ngôi nhà chung nên khiến họ dễ gắn bó, liên
kết với nhau [25, tr.340].
Riêng ở Nghệ An tín đồ công giáo có trên 23 vạn, chiếm 55% giáo dân
toàn giáo phận Vinh, cư trú chủ yếu ở 13 huyện, trong 184 xã, phường, thị trấn,
30
839 khối, xóm vùng đồng bằng và núi thấp. Với đặc điểm và điều kiện cư trú
như vậy nên tính đoàn kết của cộng đồng giáo dân Nghệ An rất cao không chỉ
bó hẹp trong phạm vi một xứ, họ đạo mà còn mở rộng mối liên hệ mật thiết,
đoàn kết giữa các xứ đạo, họ đạo với nhau. Trên cơ sở tinh thần chung "Sống
phúc âm giữa lòng dân tộc", "đồng hành" cùng dân tộc, hơn bao giờ hết, Giáo
hội Nghệ An rất chú trọng xây dựng và phát huy tình đoàn kết của cộng đồng
giáo dân. Bằng nhiều biện pháp, chủ trương dưới các hình thức khác nhau, vừa
mang tính tự nguyện vừa bắt buộc nhằm liên kết, ràng buộc họ trong một hệ
thống giáo lý, giáo luật và lễ nghi chặt chẽ. Nổi lên hàng đầu là chủ trương
thành lập các hội đoàn công giáo theo tinh thần chung của Giáo hội Việt Nam
"Đoàn ngũ hóa giáo dân theo từng tầng lớp" (Điều 7, Chương trình kỷ niệm
hướng tới năm thánh 2000).
Từ thực tế đó, với các tổ chức, hội đoàn tôn giáo được thành lập và hoạt
động với mục đích lành mạnh sẽ làm tăng cường mối liên kết bền chặt, tương
thân tương ái, chia sẻ những kinh nghiệm sống đời và sống đạo trong cộng đồng
giáo dân. Ở nhiều vùng giáo, giáo dân chủ động đứng ra thành lập các phường,
hội, các câu lạc bộ với những hình thức sinh hoạt phong phú như: CLB Dâu hiền
rể thảo, CLB Bà nội, Bà ngoại gương mẫu, CLB chị em không sinh con thứ
ba...; các phường, hội như: phường tiền, phường lúa nhằm giúp vốn cho chị em
nghèo cùng phát triển kinh tế xã hội, phấn đấu tăng hộ khá, giảm hộ nghèo, xoá
hộ đói. Riêng địa bàn huyện Nghi Lộc, bà con giáo dân đã thành lập 537 phường
các loại (chủ yếu là phường tiền) với tổng số vốn huy động lên đến 2 tỷ đồng.
Các huyện khác đều có những hình thức tương tự. Có những giáo dân năng động
đã biết phát huy thế mạnh của cộng đồng là mối quan hệ bền chặt, tin tưởng lẫn
nhau giữa các giáo họ, giáo xứ, giáo phận... trong và ngoài tỉnh nên nhanh chóng
vươn lên làm giàu. Điển hình như giáo họ Phi Lộc - Diễn Châu, đã hình thành
21 tổ xây dựng thu hút 300 lao động; Anh Phạm Công Hải ở giáo xứ Bảo Nham
- Yên Thành đã đầu tư trên một tỉ đồng để xây dựng và phát triển mô hình trang
trại; Anh Nguyễn Hồng Toan, Nguyễn Văn Đô ở giáo xứ Cầu Rầm - Vinh đã
đầu tư vốn để phát triển nhiều ngành nghề đem lại hiệu quả kinh tế cao, cho thu
31
nhập hàng năm trên 500 triệu đồng…
Với tinh thần hăng say lao động sản xuất, những năm qua đời sống của
giáo dân Nghệ An được cải thiện rõ rệt, thu nhập bình quân đầu người từ 3,9
triệu đồng năm 2003 tăng lên 5,2 triệu đồng năm 2005; một số xã, phường vùng
giáo ở Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Cửa Lò có thu nhập bình quân đầu người từ 5,5
đến 7 triệu đồng/ năm.
Bên cạnh đó, với tình cảm cao quý và truyền thống cao đẹp "uống nước
nhớ nguồn", "thương người như thể thương thân" của dân tộc Việt Nam nói
chung, của người công giáo nói riêng, những năm qua các xứ, họ đạo ở Nghệ An
đã thường xuyên quan tâm vận động giáo dân tham gia các phong trào đền ơn
đáp nghĩa, thăm hỏi tặng quà các gia đình thương binh liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam
anh hùng. Tổ chức các cuộc vận động tình nghĩa biên giới, hải đảo; ủng hộ vùng
nghèo, xã nghèo, người nghèo... Các phong trào, vận động này đã thu hút đông
đảo bà con giáo dân tích cực tham gia và được bà con giáo dân coi đây là việc
làm hợp lẽ đời, đúng lẽ đạo. Chính vì vậy, 5 năm qua, cùng với phong trào
chung của đồng bào trong tỉnh, riêng cộng đồng giáo dân toàn tỉnh đã tham gia
đóng góp xây dựng, tu sửa trên 30 nghĩa trang liệt sỹ, ủng hộ xây dựng, tu sửa
trên 3.000 ngôi nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết, ủng hộ trên 30.000 ngày công
và gần 20 tấn gạo cùng các đồ dùng, vật tư khác giá trị trên 7 tỷ đồng. Điển hình
như: giáo dân huyện Thanh Chương đã tu bổ 18 nghĩa trang liệt sĩ, xây tặng 12
ngôi nhà tình nghĩa, ủng hộ 28 cuốn sổ tiết kiệm, đóng góp hàng ngàn ngày công
giúp các gia đình chính sách. Hoặc giáo dân huyện Nghi Lộc trong 5 năm qua đã
ủng hộ Quỹ vì người nghèo, quỹ đền ơn đáp nghĩa, đồng bào bị thiên tai với số
tiền 1,4 tỷ đồng. Cha Nguyễn Đăng Điền - Hạt trưởng, chánh xứ Nhân Hoà đã
chăm nuôi 20 cháu tật nguyền, ủng hộ hàng chục triệu đồng giúp hộ nghèo và
học sinh nghèo. Chị em dòng tu mến thánh giá Xã Đoài cũng có nhiều việc làm
từ thiện, tình nghĩa, như giúp đỡ bệnh nhân trại phong Quỳnh Lập, trường câm
điếc Nghi Phú, lớp khuyết tật Nghi Diên..., phát động phong trào xây dựng quỹ
khuyến học góp phần nâng cao trình độ văn hoá cho con em giáo dân, động viên
con em nghèo khó vươn lên trong học tập. Các hoạt động văn hoá văn nghệ, thể
dục thể thao cũng được phát triển rộng khắp và có sự giao lưu giữa các xứ, họ
32
đạo, nhằm mở rộng quan hệ đoàn kết, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau.
Đặc biệt, để giải quyết tốt các mâu thuẫn nội bộ nảy sinh trong các gia
đình hoặc giữa các gia đình và xứ, họ đạo với nhau thì các tổ hoà giải, tổ tự quản
đã được thành lập và hoạt động rất có hiệu quả. Điển hình như vùng giáo huyện
Nghi Lộc, với những hình thức tuyên truyền, phối hợp giáo dục, cảm hoá đã
giúp cho hàng trăm thanh niên có quá khứ vi phạm pháp luật trở thành người có
ích cho xã hội, tiêu biểu như anh Phùng Bá Trị xóm Bắc Thạch - Nghi Thạch,
anh Mai Văn Nguyễn ở xứ Trang Cảnh - Nghi Xuân... từ những thanh niên có
quá khứ vi phạm, sau khi được các ban, nghành, đoàn thể phối hợp với gia đình,
xứ, họ giáo dục, cảm hoá đã phấn đấu trở thành người tốt, trở thành những tấm
gương làm kinh tế giỏi.Từ những việc làm thiết thực và đạt hiệu quả cao đó đã
củng cố mối quan hệ bề chặt trong cộng đồng, tình làng nghĩa xóm được vun
đắp, tối lửa tắt đèn có nhau, cùng nhau vượt qua khó khăn xây dựng xứ, họ đạo
đoàn kết, vững mạnh. Không những thế tình đoàn kết giữa đồng bào có đạo và
đồng bào không có đạo cũng được đề cao, phát huy dựa trên cơ sở tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng. Điều này thể hiện rất rõ ở các địa phương có đồng bào
lương - giáo sống xen nhau. Đến nay, ở huyện Nghi Lộc 97% giáo xứ, giáo họ,
xóm giáo không có tụ điểm phức tạp về ma tuý và tệ nạn xã hội. Năm 2006 toàn
huyện có 6.072 hộ giáo được công nhận gia đình văn hoá và tính đến giữa năm
2007 toàn huyện có 79 khu dân cư tiên tiến, 15 xóm giáo được công nhận làng
văn hoá. Tại Đại hội người Công giáo xây dựng và bảo vệ Tổ quốc khoá V,
nhiệm kỳ 2007-2012 của tỉnh nhà, UBĐKCG huyện Nghi Lộc đã vinh dự được
trao tặng bằng khen công nhận đạt danh hiệu xuất sắc trong phong troà thi đua
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”.
Mặc dù truyền thống đoàn kết là nét nổi bật trong cộng đồng giáo dân
Nghệ An, nhưng qua khảo sát tại một số xứ, họ đạo ở Nghệ An hiện nay đang
nổi lên một số vấn đề đáng lo ngại. Theo tác giả có hai vấn đề nổi cộm sau:
- Thứ nhất, bên cạnh những hội đoàn công giáo được thành lập với mục
đích lành mạnh nêu trên thì vẫn tồn tại một số hội đoàn mượn danh nghĩa tôn
giáo được bí mật thành lập và có những hoạt động trái pháp luật, đặc biệt là đối
với những hội đoàn được xây dựng trong tầng lớp học sinh, sinh viên (như, hội
33
Sinh viên nhà Chúa), bởi những thành viên của các hội đoàn này thuộc tầng lớp
trí thức, đã có nhận thức nhưng độ chín của nhận thức ấy chưa đủ để nhận diện
mặt tốt, mặt chưa tốt nên rất dễ bị lôi kéo vào những hoạt động không đúng với
tôn chỉ và mục đích ban đầu. Hơn nữa, những hội đoàn này được những người
rất có uy tín, có khả năng trong giáo hội chịu trách nhiệm điều hành và có sự đầu
tư rất đặc biệt.
Đánh giá về mục đích thành lập và vai trò của các hội đoàn tôn giáo này
tác giả hoàn toàn đồng ý với ý kiến của GS nguyễn Tài Thư: "Các hình thức tổ
chức hoạt động Thiên chúa giáo đa dạng, phong phú, hấp dẫn thanh thiếu nhi,
lôi cuốn đông đảo tuổi trẻ vào các loại hình: toạ đàm, thuyết giảng, cầu nguyện,
dạy nghề, hoạt động văn hoá nghệ thuật, hoạt động từ thiện, thăm hỏi cứu trợ
người nghèo, người cô đơn không nơi nương tựa, phần khác xác lập thế giới
quan hữu thần về hệ tư tưởng tôn giáo. Bên cạnh hướng thiếu nhi làm điều nhân
nghĩa, ý thức hướng thiện, Thiên chúa giáo xác lập thế giới quan, hệ tư tưởng,
niềm tin vào những tín điều mù quáng, truyền bá lối sống thụ động, phản khoa
học và ý thức mê tín dị đoan trói buộc tâm linh lớp trẻ vào những luật lệ, lễ nghi
hà khắc, nhằm kiến tạo đức tin vào Chúa” [34, tr.217-218]. Hệ tư tưởng tôn giáo
ngày nay đang được tuyên truyền sâu rộng và gây tác động mạnh trong thế hệ trẻ
xác lập niềm tin tôn giáo, biến họ thành con chiên ngoan đạo, lực lượng tin cậy
của nhà thờ vào mục tiêu của cuộc đấu tranh giữa hệ tư tưởng vô thần và hữu
thần, giữa dân tộc và giáo hội" [34, tr. 221].
- Thứ hai là quan hệ giữa đảng viên gốc giáo và cộng đồng giáo dân trên
địa bàn họ sinh sống. Hầu hết đảng viên gốc giáo (đa số là kết nạp trước đổi
mới) không còn tham gia sinh hoạt tôn giáo. Ví dụ như, trong tổng số 62 đảng
viên tại Đô Lương chỉ có 14 đảng viên tham gia sinh hoạt tôn giáo. Thực trạng
này đã tạo nên trong cộng đồng giáo dân một nhận thức sai lệch rằng giữa Đảng
và tôn giáo của họ không thể chung sống một cách hoà thuận, người theo đạo
công giáo không thể là người cộng sản "một tôi không thể thờ hai chủ". Chính vì
lý do này nên đại đa số đảng viên giáo dân rất khó có mối quan hệ thật sự thân
thiện với cộng đồng, thậm chí có nhiều địa phương gần như có xu hướng giáo
dân cô lập đảng viên, vận động gia đình, họ hàng thuyết phục để các đảng viên
34
này trở lại tham gia sinh hoạt tôn giáo. Hầu như các đảng viên giáo dân rất e
ngại trong việc tiếp xúc với linh mục và các chức việc trong giáo hội vì họ sợ bị
hiểu lầm, bị đánh giá là không giữ vững lập trường... Từ những nguyên nhân
trên làm cho giáo dân hiểu không đúng về người đảng viên là giáo dân, coi họ
như là những kẻ phản đạo, ngược lại người đảng viên ở đây cũng rất khó phát
huy vai trò của mình trong cộng đồng. Vì vậy, hiện nay ở Nghệ An còn 66 xóm
giáo chưa có chi bộ, 76 xóm chưa có đảng viên. Cho đến hôm nay, mặc dù Đảng
đã cho phép đảng viên tham gia sinh hoạt tôn giáo để thoả mãn nhu cầu tín
ngưỡng của mình nhưng vẫn còn rất nhiều vấn đề khiến cho các đảng bộ, đảng
viên rất boăn khoăn. Có rất nhiều đảng viên giáo dân, thậm chí cả những thanh
niên là đối tượng đảng rất muốn gia nhập tổ chức đảng nhưng trong họ lý tưởng
của Đảng và hồng ân của Chúa đều cao trọng như nhau. Vấn đề này nếu không
sớm được giải quyết sẽ tạo nên những khó khăn không đáng có đối với đảng
viên giáo dân và với chính cộng đồng của họ, tạo điều kiện cho một số phần tử
cực đoan lợi dụng dân chủ tuyên truyền, xuyên tạc kích động gây mâu thuẫn,
chia rẽ trong nội bộ cộng đồng cũng như gây cản trở trong việc kết nạp đảng
viên mới cho chi bộ vùng giáo...
Như vậy, nhìn chung mặc dù vẫn còn nhiều bất cập, nhiều hạn chế cần
phải đấu tranh, khắc phục nhưng ở các vùng giáo Nghệ An truyền thống đoàn
kết cộng đồng được giữ gìn và phát huy hơn bất cứ cộng đồng nào khác. Các
chủ trương yêu thương đoàn kết giúp nhau thi đua phát triển kinh tế xoá đói
giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, xây dựng cơ sở an toàn
làm chủ, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, xây dựng làng, xóm, họ tộc, gia đình
hoà thuận yên vui... đã được các xứ, họ đạo ở Nghệ An tích cực hưởng ứng bằng
những việc làm thiết thực, mang ý nghĩa nhân văn cao cả, thể hiện tinh thần Thư
chung của Hội đồng giám mục Việt Nam “Sống phúc âm giữa lòng dân tộc để
phục vụ hạnh phúc của đồng bào” và thực thi lời khuyên của Thánh Phaolô
“Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được để sống hoà thuận với mọi
35
người”.
Chương 2
ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO CÔNG GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC GIỮ GÌN
TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI Ở VÙNG GIÁO NGHỆ AN HIỆN NAY
Tôn giáo là hệ thống những quan niệm tín ngưỡng, sùng bái một hay
nhiều vị thần linh và những hình thức nghi lễ thể hiện sự sùng bái ấy. Trong tác
phẩm "Chống Đuy Rinh", Ph. ĂngGhen đã viết: "Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua
chỉ là sự phản ánh hư áo - vào trong đầu óc con người - của những lực lượng bên
ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những
lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế" [20,
tr.437]. Sự bất lực của quần chúng trong đời sống hiện thực đã dẫn họ tới sự
nương tựa vào lực lượng siêu nhiên, khi mà thực tiễn chưa đủ sức xua tan thần
bí thì họ lại đến với thánh thần, gửi gắm những nguyện ước tương lai dù ở cõi
trần gian hay sau này "về bên kia thế giới".
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, về bản chất, tôn giáo chỉ là một hình
36
thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội. Nếu tạm gác sự lợi dụng tôn giáo của
các thế lực chính trị sang một bên thì tôn giáo có tác dụng hai mặt đối với xã
hội, vừa tích cực lại vừa hạn chế, đó là:
- Thứ nhất, một mặt tôn giáo phản ánh khát vọng của con người, sự trăn
trở của họ về một thế giới tốt đẹp hơn; mặt khác, tôn giáo là sự kìm hãm quá
trình hiện thực hoá khát vọng đó bởi nó phản ánh hiện thực một cách hoang
đường, hư ảo.
- Thứ hai, một mặt tôn giáo làm tăng sự liên kết xã hội ; mặt khác, cũng là
nguy cơ của sự rạn nứt do sự sùng tín hay tính cục bộ cố hữu của nó.
- Thứ ba, một mặt tôn giáo hướng con người về những giá trị cao cả, đạo
đức, hướng thiện...; mặt khác, lại làm tăng tính thụ động của họ theo những giáo
điều có sẵn và bất di bất dịch.
- Thứ tư, một mặt tôn giáo gợi lên những suy tư tìm tòi, hướng tới xã hội
cao đẹp trên trời; mặt khác, lại ngăn cản sự phát triển của khoa học.
- Thứ năm, một mặt tôn giáo góp phần tạo dựng, tham gia sáng tạo các giá
trị văn hoá của dân tộc; mặt khác, lại kìm hãm sự sáng tạo hiện thực của con
người [40, tr.23-24].
Trong phạm vi cho phép của một luận văn, tác giả chỉ đi vào nghiên cứu,
phân tích sự ảnh hưởng hai mặt đó của đạo Công giáo - tôn giáo có số lượng tín
đồ đông nhất trên địa bàn tỉnh Nghệ An hiện nay đối với việc giữ gìn TT, ATXH
ở vùng giáo.
2.1. Những ảnh hưởng tích cực và mặt hạn chế của đạo công giáo đối
với việc giữ gìn trật tự, an toàn xã hội ở vùng giáo
2.1.1. Về mặt niềm tin
Niềm tin là một biểu tượng của định hướng giá trị được xác định vững
chắc trong nhận thức và chi phối hành động của con người. Niềm tin không chỉ
tác động đến trí tuệ mà còn tác động đến tình cảm. Nó có thể làm thay đổi động
cơ và lối sống của cá nhân.
Niềm tin tôn giáo là toàn bộ nhận thức thái độ của cá nhân đối với một
37
thực thể tối cao, đó là một niềm tin đặc biệt bởi lẽ đối tượng của niềm tin là các
lực lượng siêu nhiên, là thế giới không hiện thực mà con người chỉ có thể cảm
nhận được qua niềm tin và sự sùng kính.
Niềm tin của tín đồ càng mạnh mẽ thì tác động của ý chí trong việc kiểm
soát suy nghĩ, điều chỉnh hành vi và thực hiện các chuẩn mực tôn giáo, chuẩn
mực xã hội của tín đồ càng lớn, hay mức độ kiểm soát hành vi càng mạnh.
Chính vì vậy, niềm tin tôn giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ đến toàn bộ đời sống của
các tín đồ và cả cộng đồng của họ mà biểu hiện rõ nét nhất là trong việc giữ gìn
TT, ATXH.
Đạo công giáo - một trong những tôn giáo lớn của thế giới có khả năng
thực hiện rất thành công chức năng trên thông qua một hệ thống khá phức tạp,
đa dạng những điều răn dạy và cấm đoán trong giáo lý, giáo luật và các nghi lễ
tôn giáo.
So với các tôn giáo khác thì tâm thức tôn giáo của các giáo dân công giáo
là cao hơn, dường như đời sống tôn giáo hàng ngày gắn liền với họ, họ sống
trong tôn giáo. Mỗi chủ nhật, các tín đồ đến nhà thờ tham dự thánh lễ, cầu
nguyện và nghe linh mục giảng đạo. Đó cũng là nơi hàng ngày các tín đồ có thể
đến để học giáo lý, để cầu nguyện, để gặp gỡ "đấng linh thiêng" và để thực hiện
các nghi lễ tôn giáo khác như cưới xin, rửa tội ...
Đối với các tín đồ công giáo ở Nghệ An sống trong một điều kiện thiên
nhiên khá khắc nghiệt: hết giông bão lại hạn hán, chưa mưa đã úng, chưa nắng
đã hạn, đời sống vật chất còn nhiều khó khăn... điều đó đã góp phần rèn đúc
nhiều đức tính quý báu cho người giáo dân Nghệ An: kiên vững trong đức tin,
khiêm nhường, vị tha trong đời sống. Dường như trong khó khăn, niềm tin về
một thế giới ở bên kia vẫn là mơ ước của họ, vì thế qua khảo sát một số vùng
giáo ở Nghệ An cho thấy giáo dân không chỉ đi lễ nhà thờ vào Chủ nhật (đi lễ
vào thứ 7 hoặc chủ nhật là bắt buộc) mà hàng ngày, sau những khoảng thời gian
làm việc, buổi tối họ lại đến nhà thờ để cầu nguyện và thực hiện một số nghi lễ
tôn giáo khác.
Về mặt niềm tin, giáo lý, lễ nghi đạo công giáo luôn hướng con người tới
38
Chân - Thiện - Mỹ, như: không được bất hiếu với Cha mẹ, không được giết
người, không được dâm dục, không được gian tham lấy của người khác, không
được ham muốn vợ hoặc chồng người khác, không được làm chứng dối, không
được ham muốn của cải trái lẽ... Những tín đồ công giáo với đức tin "Chúa quan
phòng", họ cho rằng Chúa sẽ trừng phạt những người có tội lỗi vì không có hành
vi đạo đức hoặc vô đạo đức nào của con người mà Chúa không biết, "Thiên
Chúa là đấng hoàn hảo, toàn năng, hằng có đời đời, ở khắp mọi nơi, trọn tốt trọn
lành, thông biết mọi sự, nhân từ và công bằng vô cùng" [48, tr.61-62]. Vì vậy, ở
một góc độ nào đó, niềm tin tôn giáo này đã góp phần ngăn chặn các hành vi vô
đạo đức, trái luân thường đạo lý của các tín đồ công giáo.
Có thể nói rằng, trong đời sống đạo đức xã hội, trước một hành vi (kể cả
suy nghĩ) tín đồ công giáo đã nhìn nhận trách nhiệm của mình và như vậy trên
thực tế họ đã tham gia vào lợi ích xã hội do hành vi đạo đức cá nhân mang lại.
Tất nhiên ở đây chúng ta cũng phải thấy rằng mục tiêu của mọi hoạt động đạo
đức của các giáo dân suy cho cùng là vì lợi ích của chính bản thân cá nhân họ:
mong được Chúa ban phước lành, được Chúa chọn vào nước Trời trong ngày tận
thế để được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu nơi thiên đường. Còn lợi ích xã hội, lợi
ích cộng đồng có được mang lại chăng thì chỉ là hệ quả chứ không phải là mục
tiêu trực tiếp. Mục tiêu này kết hợp với đức tin "Chúa quan phòng" đã tạo cho
tín đồ sự tuân thủ các quy phạm đạo đức một cách đầy đủ hơn, thực hiện nghiêm
ngặt các lề luật mà Chúa đã phán dạy.
Niềm tin và nếp sống đạo đức đó thấm sâu vào trong tâm thức của mỗi tín
đồ, tạo nên cuộc sống thực sự đoàn kết, yêu thương nhân ái trong cộng đồng nói
chung và nếp sống gia phong, tôn ti trật tự, trên kính dưới nhường, thảo kính
Cha Mẹ trong mỗi gia đình nói riêng. Điều đó có ảnh hưởng tích cực tới việc giữ
gìn TT, ATXH. Giáo hội nói chung và giáo hội địa phương nói riêng, luôn khích
lệ các tín đồ của mình hãy thực hiện các đức tính nhân bản vì điều đó phù hợp
với đạo lý con người. Đây cũng là cơ sở khoa học để Đảng, Nhà nước ta hoạch
định và kiên trì với chính sách tôn giáo, càng khẳng định tính đúng đắn trong
quan điểm "đạo đức tôn giáo có nhiều điểm phù hợp với công cuộc xây dựng xã
39
hội mới".
Tuy vậy, với những tín đồ chân chính, tiến bộ, biết khai thác yếu tố tích
cực, hợp lý của đạo đức công giáo thì sẽ góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
Ngược lại, với những kẻ còn "mượn danh Thiên Chúa để làm những điều phàm
tục, tầm thường", hoặc có những kẻ vì cuồng tín mà tuân phục một cách máy
móc, mù quáng, vì đức tin làm lu mờ lý trí... thì sẽ mang lại hậu quả xấu cho
cộng đồng xã hội, gây mất ổn định về an ninh chính trị và phá rối TT, ATXH ở
vùng giáo nói riêng và toàn tỉnh nói chung. Vụ việc Cầu Rầm (Vinh), Thanh
Hoà (Thanh Chương), Công Thành (Yên Thành), vụ Chúa Giêsu chảy máu ở
Nghi Phú (T hành phố Vinh)... là những ví dụ điển hình.
Hạn chế này được thể hiện rõ hơn trong việc chấp hành pháp luật. Đó là
trong khi đại đa số đồng bào công giáo rất có ý thức, gương mẫu chấp hành
đúng chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kết hợp hài hoà
giữa niềm tin tôn giáo với niềm tin xã hội tiến bộ... thì ở một số Xứ, Họ đạo do
trình độ dân trí của giáo dân còn thấp, đức tin dễ bị chuyển hoá thành cuồng tín
nên họ đã bị một số linh mục, BHG có ý đồ lợi dụng, lôi kéo họ tham gia vào
các hoạt động vi phạm pháp luật, như : đòi lại đất đai cơ sở cũ, lấn chiếm,
chuyển nhượng đất trái phép, tiếp tay tuyên truyền, phát triển đạo trái phép hoặc
đề ra các yêu sách đòi tự do tôn giáo vượt ra ngoài khuôn khổ của pháp luật.
Thật vậy, đối với các giáo dân, niềm tin tôn giáo chủ đạo của họ là hướng
đến Thiên Chúa mà người đại diện cho Chúa, có quan hệ trực tiếp nhất, ảnh
hưởng trực tiếp nhất đối với họ chính là linh mục. Ở Nghệ An, có những xứ, họ
đạo giáo quyền công giáo đè nặng lên đời sống của giáo dân, lời nói của linh
mục có sức nặng to lớn đối với họ. Rất đáng mừng là, với vai trò, uy tín đó, đa
số các linh mục đã biết phát huy thế mạnh của mình trong cộng đồng, dùng lời
hay lẽ phải để thay mặt Chúa khuyên nhủ các giáo dân biết giữ đạo và sống đạo,
kết hợp tốt giữa việc đạo và việc đời, sống có kỷ cương, tình thương, trách
nhiệm... nhưng cũng thật đáng tiếc là bên cạnh đó vẫn còn một số linh mục do
lập trường chính trị không vững vàng, có quan điểm sai trái hoặc do bị tác động
của kẻ địch bên ngoài nên đã có thái độ, hoạt động cố tình vi phạm pháp luật. Tệ
hại hơn, các cá nhân cá biệt này còn lợi dụng niềm tin tôn giáo của các tín đồ để
40
lôi kéo họ vào những việc làm sai trái của mình.
Đồng thời với sự ảnh hưởng của niềm tin đến việc chấp hành pháp luật thì
niềm tin tôn giáo cũng có ảnh hưởng rõ nét đến việc bài trừ các tệ nạn xã hội và
phát huy tình đoàn kết cộng đồng. Trước hết đã là tín đồ công giáo thì điều đầu
tiên cần phải biết và ghi nhớ là 10 điều răn của Thiên Chúa - xác định rõ trong
quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, việc nào nên
làm, được làm và việc nào không nên làm, không được làm. Trong đó có 6/10
điều răn trực tiếp đề cập đến việc tránh xa các tệ nạn xã hội. Để thực hiện tốt
những điều răn dạy, cấm đoán này của Chúa, các tín đồ phải thực sự có niềm tin
vào Thiên Chúa và kính Chúa trên hết mọi sự, có như vậy con người mới thoát
khỏi những ham muốn trần tục, tầm thường, mới xây dựng được một cộng đồng
"mình vì mọi người và mọi người vì mình". Những điều răn dạy, những quy
phạm đạo đức trên rất gần gũi và cần thiết với chủ trương xây dựng khu dân cư
văn hoá, an toàn làm chủ, không có tệ nạn xã hội. Thực tế cho thấy, ở các vùng
giáo tinh thần đoàn kết cộng đồng được phát huy cao hơn so với các địa phương
khác. Đặc biệt, các tệ nạn xã hội thì rất ít bắt gặp. Có những tín đồ phạm tội,
được sự khuyên nhủ chân thành của linh mục, sự tác động của gia đình và sự
động viên của cộng đồng nên đã biết ăn năn hối cải, trở thành những công dân -
giáo dân tốt, tiến bộ, có ích cho gia đình, cộng đồng và xã hội; thậm chí có
những trường hợp tín đồ phạm tội, qua xưng tội hoặc qua một số kênh thông tin,
dư luận trong cộng đồng, linh mục đã đến tận nơi động viên, khuyên nhủ họ tự
giác ra đầu thú, nhận tội trước chính quyền.
Như vậy chúng ta không thể phủ nhận những giá trị đạo đức của đạo công
giáo mà thông qua sức mạnh của niềm tin tôn giáo đã tác động to lớn đến phong
trào giữ gìn TT, ATXH. Để phát huy cao hơn nữa ảnh hưởng tích cực này chúng
ta cũng cần phải kiên quyết đấu tranh chống lại những kẻ mượn danh Thiên
Chúa để lợi dụng sự sùng kính của tín đồ nhằm mưu lợi ích cho cá nhân, cho
một cộng đồng hạn hẹp và thực hiện ý đồ bành trướng ảnh hưởng trên tất cả các
lĩnh vực khác của đời sống.
2.1.2. Về mặt giáo lý
Giáo lý là hệ thống lý luận, hệ tư tưởng của một tôn giáo bao gồm những
41
quy định, tín điều, lề luật, lễ nghi... thể hiện quan điểm, tư tưởng về thế giới
quan và nhân sinh quan của tôn giáo đó. Trong đó, kinh thánh được coi là nền
tảng của giáo lý.
Bất cứ tôn giáo nào cũng có Giáo lý riêng của mình, mang tính chất vừa
giáo dục, vừa ràng buộc các tín đồ, buộc các tín đồ phải học, hiểu và thể hiện sự
hiểu biết đó trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình cả về phần Đạo và phần Đời.
Đạo công giáo là một tôn giáo có hệ thống giáo lý rất chặt chẽ và phức
tạp. Nội dung giáo lý gồm nhiều quan điểm triết học và thần học siêu hình được
xây dựng có hệ thống từ đơn giản để giành cho tín đồ đến những học thuyết kinh
viện. Sự cụ thể hoá đó còn thể hiện ở giáo lý đạo Công giáo được biên soạn theo
từng bộ sách giáo lý giành cho từng lứa tuổi khác nhau, như Giáo lý phổ thông,
Giáo lý vào đời, Giáo lý hôn phối... Ý thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của
giáo lý đối với các tín đồ nên Giáo hội nói chung và Giáo hội Nghệ An nói tiêng
đã có những việc làm cụ thể để nâng cao nhận thức, tầm hiểu biết của các tín đồ
về giáo lý của tôn giáo mình. Qua khảo sát cho thấy, những sai lầm, tính chất
cuồng tín của các tín đồ chỉ có thể hình thành khi họ không hiểu đạo một cách
thấu đáo, trong lúc đó thực tế số đông thanh thiếu niên công giáo lại khá lười
nhác, không ham thích học giáo lý và đội ngũ giáo lý viên thì không đủ năng lực
để đáp ứng được đòi hỏi đề ra. Chính vì vậy Giáo hội Nghệ An đã hết sức quan
tâm và đầu tư một lượng không nhỏ thời gian, tiền bạc và công sức để tổ chức
các lớp học tập giáo lý. Các lớp giáo lý này được tổ chức theo từng năm và theo
lứa tuổi chia thành 4 khối, tương ứng với độ tuổi ở cấp học phổ thông của Bộ
giáo dục và đào tạo: Khối sơ cấp (Rước lễ, tuổi từ 7-8) tương ứng với lớp 1, 2,
3; Khối lớp căn bản (thêm sức, tuổi từ 9-12) tương ứng với lớp 4, 5, 6; Khối lớp
kinh thánh (tuổi từ 13-15) tương ứng với lớp 7, 8, 9; Khối lớp vào đời (tuổi từ
16-18) tương ứng với lớp 10, 11, 12. Cuối khối giáo lý vào đời có khối giáo lý
Hôn phối (giáo lý về hôn nhân và gia đình) với độ tuổi có thể kéo dài quá qui
định từ 18-25 tuổi, nghĩa là khi lập gia đình mới chính thức kết thúc giáo lý vào
đời của mỗi giáo dân. Ngoài các cấp học trên, còn có một lớp giáo lý đặc biệt
gọi là "Giáo lý dự tòng" chỉ dành riêng cho những người gia nhập kitô giáo,
bước đầu là giúp họ "thiết lập quan hệ mật thiết với Thiên Chúa" và cuối cùng
42
thực hiện "Nghi thức gia nhập kitô giáo". ở các lớp giáo lý này, nội dung học tập
được nghiên cứu rất công phu nhằm phù hợp với tâm lý, nhận thức, trình độ của
từng lứa tuổi và chú trọng đến đời sống đạo đức thường nhật chứ không quá
nặng về giáo lý (nhất là các lớp dưới 12 tuổi). Đặc biệt sự khô khan trong giáo lý
đã được "hoá giải" một cách khá khôn ngoan và biết dựa vào học vấn có sẵn của
các em ở nhà trường phổ thông để lý giải cho kinh thánh. Chính vì vậy, hệ tư
tưởng của đạo công giáo thông qua các lớp học giáo lý đã và đang được tuyên
truyền sâu rộng, gây tác động mạnh trong thế hệ trẻ, xác lập niềm tin tôn giáo,
biến họ thành con chiên ngoan đạo.
Tuy vậy, nói về ảnh hưởng của giáo lý đạo Công giáo đối với việc giữ gìn
TT, ATXH ở vùng giáo thì chúng ta phải thừa nhận mặt tích cực nhiều hơn là
hạn chế. Giáo lý đạo công giáo đã giành một phần đáng kể vận động giáo dân
biết làm những điều tốt lành thông qua một hệ thống khá phức tạp và đa dạng
những điều răn dạy, cấm đoán, những lời giáo huấn... Ngay trong giáo luật đạo
công giáo cũng đã qui định rõ nhiệm vụ chủ chốt của giáo dân là phải thực hiện
10 điều răn của Chúa trời, 6 điều răn của hội thánh, 20 điều qui định nghĩa vụ
trong quan hệ với linh hồn, đồng loại và bản thân, 7 mối tội đầu và 7 đức cải tạo
7 mối, 8 mối phúc thật, 7 phép bí tích... Giáo dân phải học hỏi giáo lý, phải đọc
kinh cầu nguyện theo những qui định rất cụ thể. Tất cả những điều đó có tác
động quan trọng đến hành vi xã hội của con người, thể hiện trước hết trong việc
đấu tranh phòng chống các loại tội phạm, các tệ nạn xã hội, thực hiện tốt chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Trước hết, giáo lý đạo Công giáo đã truyền bá cho các tín đồ 10 điều răn
của Thiên Chúa:
Một, Phải thờ kính Chúa trên hết mọi sự
Hai, Không được kêu tên Chúa vô cớ
Ba, Giữ ngày chủ nhật
Bốn, Thảo kính cha mẹ
Năm, Không được giết người
Sáu, Không được dâm dục
43
Bảy, Không được gian tham lấy của người khác
Tám, Không được làm chứng dối, che dấu sự dối trá
Chín, Không được ham muốn vợ (chồng) người khác
Mười, Không được ham muốn của cải trái lẽ.
Ở đây ta thấy có 6/10 điều răn có ảnh hưởng trực tiếp tới việc giữ gìn TT,
ATXH vùng giáo và có nhiều điểm phù hợp với luật pháp của Nhà nước ta (từ
điều răn thứ 4 đến điều răn thứ 10), như:
Điều răn của Chúa Luật hình sự của nước CHXHCNVN
Điều 4, Thảo kính cha Chương XV, Điều 151 quy định “Tội ngược đãi
mẹ hành hạ ông bà, cha mẹ,… người có công nuôi
dưỡng mình”.
Điều 5, không được giết Chương XII, Điều 93, quy định “Tội giết người”.
người
Điều 6, không được dâm Chương XII, Điều 111 quy định “Tội hiếp dâm”;
dục Điều 113 quy định “Tội cưỡng dâm”…
Điều 7, không được gian Chương XIV, Điều 133 quy định “Tội cướp tài
tham lấy của người khác sản”; Điều 135 quy định “Tội cưỡng đoạt tài sản”;
Điều 138 quy định “Tội trộm cắp tài sản”;
Điều 139 quy định “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản”;
Điều 8, không được làm Chương XXII, Điều 313 quy định “Tội che dấu tội
chứng dối, che dấu sự phạm”;
dối trá Điều 314 quy định “Tội không tố giác tội phạm”.
Điều 9, không được ham Chương XV, Điều 147 quy định “Tội vi phạm chế
muốn vợ (chồng) người độ một vợ, một chồng”.
khác
Điều10, không được ham Chương XVI, Điều 153 quy định “Tội buôn lậu”;
của cải trái lẽ Điều 155 quy định “Tội sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, buôn bán hàng cấm”;
44
Điều 156 quy định “Tội sản xuất, buôn bán hàng
giả”;
Chương XXI, Điều 278 quy định “Tội tham ô tài
sản”; Điều 279 quy định “Tội nhận hối lộ”…
Hoặc tại điều răn thứ 2 "không được kêu tên Chúa vô cớ" cũng có điểm
tương đồng với chỉ thị 37/CTTW ngày 02/07/1998 của Bộ chính trị "Mọi hành
vi lợi dụng hoạt động tôn giáo để làm mất trật tự an toàn xã hội, phương hại đến
nền độc lập dân tộc, phá hoại chính sách đoàn kết toàn dân, chống lại Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gây tổn hại các giá trị đạo đức, lối sống,
văn hoá của dân tộc, ngăn cản tín đồ, chức sắc các tôn giáo thực hiện nghĩa vụ
công dân đều bị xử lý theo pháp luật. Hoạt động mê tín phải bị phê phán và loại
bỏ".
Ngoài 10 điều răn của Thiên chúa, Giáo hội cũng có 6 điều răn và 7 phép
bí tích nhưng chủ yếu là để ràng buộc tín đồ vào các nghi lễ tôn giáo và củng cố
đức tin. Gần hơn với sự điều chỉnh hành vi của các tín đồ, giáo hội đã có 20 điều
qui định nghĩa vụ trong quan hệ với linh hồn, đồng loại và bản thân, 20 điều qui
định này cũng có ảnh hưởng tích cực khá rõ nét đối với việc giữ gìn TT, ATXH
ở vùng giáo, đặc biệt trong vấn đề phát huy tình đoàn kết cộng đồng, đó là: Lấy
điều thiện mà khuyên người; Hướng dẫn cho kẻ mê muội; Tha thứ cho kẻ khinh
rẻ mình; Nhịn kẻ xúc phạm đến mình; Răn bảo kẻ tội lỗi; An ủi người lo âu; Cầu
nguyện cho người sống và người chết; Cho kẻ đói ăn; Cho kẻ khát uống; Cho kẻ
rách mặc; Cho khách ở nhờ; Cho người làm thuê; Thăm viếng người hoạn nạn;
Chôn táng người chết; Khiêm nhường; Không hà tiện; Đoan chính; Không tị
hiềm; Siêng năng; Ăn uống điều độ.
Bên cạnh đó giáo lý đạo Công giáo đã dạy về sự tội cùng những sự dữ bởi
tội mà ra. Trong đó nêu rõ, Tội là sự phạm lề luật Đức Chúa Trời và có hai
giống tội, một là tội tổ tông truyền - tức là tội ông Ađam và bà Eva phạm xưa vì
chẳng vâng lời Đức Chúa Trời răn cấm và con người do một tổ tông ấy mà sinh
ra thì cũng mắc phải tội ấy; hai là tội riêng ta phạm - nghĩa là "khi ta động lòng
lo, miệng nói, mình làm sự gì lỗi lề luật Đức Chúa Trời, hay là bỏ những việc ta
45
phải làm". Tội thì có tội nặng và tội nhẹ. Những tội ấy, giáo lý đạo Công giáo
tóm lại thành 7 mối, gọi là 7 mối tội đầu, đó là những nết xấu của con người mà
cần phải tránh và là cội rễ sinh ra nhiều tội khác: Kiêu ngạo, hà tiện, mê tà dâm,
ghen tuông, mê ăn uống, nóng giận, lười biếng. Để cải tạo 7 mối tội đầu này thì
cần có 7 đức, đó là: khiêm nhường chớ kiêu ngạo, rộng rãi chớ hà tiện, giữ mình
sạch sẽ chớ mê dâm dục, hay nhịn chớ hờn giận, kiêng bớt chớ mê ăn uống, yêu
người chớ ghen ghét, siêng năng việc Đức Chúa Trời chớ làm biếng. Cùng đồng
thời tác động đến hành vi của các tín đồ công giáo, giáo lý đạo Công giáo đã đưa
ra 8 mối phúc thật vừa thể hiện tính chất giáo dục hướng con người đến với cái
thiện lại vừa thể hiện sự đề cao vai trò tuyệt đối của Đức Chúa Trời, đó là:
Thứ nhất, ai có lòng khó khăn ấy là phúc thật vì chứng nước Đức Chúa
Trời là của mình vậy.
Thứ hai, ai hiền lành ấy là phúc thật vì chứng đất Đức Chúa Trời là của
mình vậy
Thứ ba, ai khóc lóc ấy là phúc thật vì chứng sẽ được an ủi vậy
Thứ tư, ai khao khát nhân đức lòng lành ấy là phúc thật vì chứng sẽ được
no đủ vậy
Thứ năm, ai thương xót người ấy là phúc thật vì chứng mình sẽ được
thương xót vậy
Thứ sáu, ai giữ lòng sạch sẽ ấy là phúc thật vì chứng sẽ được thấy mặt
Đức Chúa Trời vậy
Thứ bảy, ai làm cho người hoà thuận ấy là phúc thật vì chứng sẽ được gọi
là con Đức Chuá Trời vậy
Thứ tám, ai chịu khốn nạn vì đạo ngay ấy là phúc thật vì chứng đất Đức
Chúa Trời là của mình vậy.
Những nội dung này hoàn toàn phù hợp với ý bài giảng đầu tiên trên núi
của Chúa kitô là: "Mối phúc nước trời dành cho người nghèo khó, hiền lành, sầu
khổ, công chính, thương người, trong sạch bảo vệ Chúa và công chính" [16, tr.1850].
Như vậy, giáo lý hội thánh đã giành một phần khá lớn những lời răn dạy
đối với các tín đồ để họ trở thành những con người công chính. Trong gần 160
đề mục trong Tân ước có 21 đề mục hoàn toàn dành cho việc răn dạy con người
46
điều chỉnh hành vi cho phải lẽ trong đời sống cộng đồng. Chính sự quan tâm
thích đáng đó đã góp phần tạo nên tâm thức tốt đẹp cho các tín đồ luôn tự ý thức
điều chỉnh mình. Một người tốt là một người biết yêu thương đồng loại, hiền
lành, chất phác, biết tránh xa các đam mê tội lỗi, giữ gìn bản thân mình... Có thể
nói, tất cả những điều răn dạy này rất gần gũi, thiết thực đối với mỗi con người
trong cuộc sống và mang đậm nét nhân văn cao cả trong đời sống cộng đồng.
2.1.3 Về mặt tổ chức giáo hội
Giáo hội công giáo có một hệ thống tổ chức hoàn bị, chặt chẽ nhất trong
các tôn giáo. Hệ thống tổ chức này là sự tinh lọc, thừa kế các mẫu tổ chức Nhà
nước mà tôn giáo đó đã từng biết trong các chế độ khác nhau, trong các thời
điểm lịch sử khác nhau. Tính chặt chẽ của nó còn đựoc sự hỗ trợ tích cực của
giáo lý, lễ nghi và giáo luật. Hệ thống tổ chức của giáo hội công giáo đem lại sự
thống nhất cao từ người có quyền lực cao nhất là Giáo hoàng đến các tín đồ.
Thông qua nó, mọi tín điều đều được "cố định hoá", "ổn định hoá" theo ý muốn
của chính Giáo hoàng và các chủ chăn. Giáo lý hội thánh công giáo luôn tìm
mọi cách đề cao vai trò tuyệt đối của Thiên Chúa mà kẻ đại diện nơi trần thế là
Giáo hội.
Trục cơ bản của tổ chức giáo hội Rôma là: Giáo hoàng - Giám mục - Linh
mục - Phó tế - đó là những người đại diện cho Thiên Chúa có quyền lực tối cao.
Quyền lực này không chỉ vì sự khoa học trong cách phân bố mà nguyên do căn
bản là nó được giáo lý, giáo luật, lễ nghi suy tôn và khẳng định. Mọi tín đồ công
giáo đều chịu áp lực từ tất cả các bộ phận của hệ thống một cách có chủ ý từ
tầng lớp giáo sỹ. Vòng cương toả đó điều chỉnh mọi hành vi, ý nghĩ, những sự
kiện lớn trong đời người và nó tạo ấn tượng sâu đậm trong các tín đồ. Khó tìm ra
một tôn giáo nào mà trong bộ máy của nó có đủ cả 3 bộ phận của một Nhà nước.
Bộ máy "Hành pháp" (từ Giáo hoàng đến linh mục quản xứ), "Lập pháp" (Giáo
hoàng và các thánh bộ, văn phòng), "Tư pháp" (Giáo hoàng và toà án tôn giáo).
Là một bộ phận của giáo hội Công giáo hoàn vũ, giáo hội Công giáo Việt
Nam về cơ bản mang những đặc điểm chung về hệ thống tổ chức, hoạt động tôn
giáo. Song trong từng thời kỳ lịch sử truyền giáo phát triển đạo mà hệ thống tổ
chức, sinh hoạt tôn giáo của Công giáo Việt Nam có những biểu hiện đặc thù
riêng.
Giáo hội Việt Nam được tổ chức theo hệ thống dọc từ trên (phạm vi quốc
47
gia) đến cơ sở (xã), đó là hệ thống hết sức chặt chẽ. Đứng đầu là Hội đồng giám
mục (phạm vi quốc gia) gồm Chủ tịch Hội đồng và Phó chủ tịch; Tiếp đến là
Địa phận (phạm vi ở một số Tỉnh tổ chức thành địa phận); Rồi đến Hạt (bao
gồm nhiều Xứ - phạm vi giáo dân trong huyện hoặc lân cận - có linh mục quản
Hạt); Sau đó đến Xứ (gồm nhiều Họ thành Xứ, bao gồm: xã hoặc một số xã - có
Ban hành giáo hoặc Hội đồng giáo xứ, Ban chánh trương xứ điều hành); Cuối
cùng là đến Họ (gồm nhiều gia đình có cùng tên thánh - có Ban chùm điều
hành). Ngoài hệ thống tổ chức trên, có nơi còn tổ chức dưới Họ, như: Giáp (liên
xóm), Lân (Xóm), Dâu (Ngõ, cụm dân cư), Tích (nhóm dân cư).
Hệ thống tổ chức của giáo hội Công giáo Việt Nam được thể hiện theo sơ
đồ sau: GIÁO HỘI VIỆT NAM
Hội đồng Giám mục
GIÁO TỈNH Tổng Giám mục
GIÁO PHẬN Giám mục
GIÁO HẠT Linh mục quản hạt
GIÁO XỨ Linh mục chính xứ
Riêng giáo phận Vinh hiện có 14 giáo hạt, 141 giáo xứ - trong đó trên địa
bàn tỉnh Nghệ An có 9 giáo hạt và 68 giáo xứ, 323 họ đạo, 304 nhà thờ, 1 giám
mục, 1 phó giám mục và 76 linh mục. Toà giám mục nằm trên địa bàn Xã Đoài,
huyện Nghi Lộc. Giáo hội Nghệ An hiện có 297 hội đoàn, tập hợp được 5.299
giáo dân trong đó có 59 hội đoàn với 2901 giáo dân mang tính chất chính trị - xã
48
hội, như: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội cao niên... các hội này được tổ chức
và chỉ đạo hoạt động thống nhất từ phía Giáo hội và người chịu trách nhiệm
chính là Linh mục.
Với tổ chức chặt chẽ và rộng rãi đó, đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời
sống của cộng đồng giáo dân. Đối với mỗi giáo dân, về mặt tổ chức họ thuộc
một giáo phận mà người đứng đầu là Giám mục, người có quyền tuyệt đối đối
với họ. Trong giáo xứ, họ được sự chăn dắt của các linh mục quản xứ. Linh mục
là chỗ dựa tinh thần, là người dìu dắt khuyên bảo họ trong cả cách sống Đạo và
Đời. Nấc thang cuối cùng kiểm soát họ là Ban hành giáo - bộ phận giúp việc của
linh mục với người đứng đầu là Chánh trương, trùm họ hay trưởng ban hành
giáo. Bộ giáo luật qui định rõ thân phận của tín đồ với tinh thần chủ đạo là phải
tuyệt đối vâng lời tầng lớp giáo sỹ và góp phần mở mang nước Chúa. Để đạt
được điều đó, họ được giảng dạy giáo lý từ khi còn thơ ấu, khi chưa hiểu được ý
nghĩa của những lời dạy đó và hàng tuần, cùng các ngày lễ buộc phải có mặt ở
Nhà thờ để được nghe lời cắt nghĩa của linh mục. Lời giảng dạy của linh mục là
lời Chúa, giáo dân chỉ được phép nghe và làm theo bởi họ không có đặc ân hiệp
thông với Chúa để có thể có đủ khả năng hiểu hết ý nghĩa sâu xa của Thánh
kinh. Họ tin tưởng đặt niềm tin vào linh mục. Vì vậy, với những linh mục có tư
cách đạo đức tốt, tư tưởng tiến bộ thì sẽ ảnh hưởng tốt đối với cộng đồng giáo
dân và ngược lại, với những linh mục bị thoái hoá biến chất, sống theo xu hướng
"thế tục hoá" sẽ ảnh hưởng xấu đến cộng đồng giáo dân, đặc biệt là đến một bộ
phận tín đồ có nhận thức thấp kém, kích động họ làm những việc trái pháp luật,
gây mất ổn định về TT, ATXH ở vùng giáo nói riêng và của cả xã hội nói
chung.
Cùng với ảnh hưởng của tổ chức giáo hội đối với niềm tin tôn giáo, trong
việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
Giáo hội cũng rất chú trọng gây ảnh hưởng ở mức tối đa nhất. Ở đây, giáo hội đã
bày tỏ công khai quan điểm của mình "Trước mắt chấp hành các chủ trương của
Nhà nước Việt Nam để đạt được quan hệ ngoại giao giữa Vaticăng và Việt
Nam" (Điều 3, thuộc Chương trình hướng tới kỷ niệm năm thánh 2000). Đối với
các chủ trương, chính sách phù hợp với lợi ích của giáo hội, các chức sắc vận
49
động giáo dân thực hiện một cách triệt để; Ngược lại, đối với những chủ trương,
chính sách mang tính nghĩa vụ hoặc chưa mang đến lợi ích trước mắt, họ thường
thực hiện một cách nửa vời. Đặc biệt, có một số chức sắc tôn giáo có biểu hiện
xa lánh chính quyền, trên các giáo đường họ khôn khéo nêu lên những hạn chế,
cách đối xử thiếu công bằng đối với công giáo với một tinh thần thiếu ý thức xây
dựng. Trong khi Đảng đang phát động phong trào chỉnh đốn Đảng, làm trong
sạch bộ máy chính quyền và mạnh dạn nêu lên những khuyết điểm của mình thì
tại các giáo đường, các linh mục tìm cách nhắc lại vấn đề này để làm xói mòn
niềm tin vào Đảng nơi quần chúng. Theo báo cáo của Ban dân vận các huyện thì
vẫn còn một số linh mục có những biểu hiện chống đối ngấm ngầm và khôn
khéo. Họ thường đặt Chính quyền vào tình thế giải quyết các vụ việc khi nó đã
xảy ra, như một số vụ việc mà chúng ta đã nêu ở phần thực trạng.
Bên cạnh đó, giáo hội còn tích cực kêu gọi sự đóng góp của giáo dân
(thực chất là bắt buộc, nghĩa vụ) để tiến hành xây dựng lại cơ sở vật chất thờ tự
với quy mô rất lớn. So với thu nhập của ngừơi nông dân thì những đóng góp này
không phải là nhỏ và có tác động xấu đến đời sống của bà con giáo dân. Đây là
vấn đề khá nhạy cảm và tế nhị, bởi dù khoản đóng góp lớn hay nhỏ, dù hoàn
cảnh gia đình khó khăn đến mức độ nào thì bà con giáo dân vẫn tìm mọi cách
đóng đủ và đúng thời hạn. Xin đơn cử một ví dụ: tại một số giáo xứ thuộc huyện
Yên Thành, hàng năm giáo dân phải đóng góp các khoản như sau: nuôi linh mục
mỗi khẩu 1kg thóc/năm, đóng góp cho giáo họ 5kg thóc/năm, đóng góp cho giáo
xứ 1kg thóc/năm, các ngày lễ trong giáo xứ 6.000 đồng/khẩu, xây dựng nhà thờ:
100.000 - 500.000 đồng/ hộ. Trong vấn đề này, thực ra Chính quyền vẫn chưa
thể tìm ra phương pháp hợp lý nào để can thiệp. Qua đó chúng ta càng nhận rõ
sức mạnh của tín lý, đức tin và quyền lực của giáo hội cũng như những ảnh
hưởng to lớn của nó đối với đời sống của bà con giáo dân. Ngay trong chương
trình hoạt động kỷ niệm năm thánh 2000, giáo hội công giáo Việt Nam cũng đã
đặt ra mục tiêu "Quyết tâm xây dựng bằng được tầng lớp giáo dân tuyệt đối
vâng lệnh Chúa, trung thành với giáo luật, thực hiện mọi chủ trương của
Vaticăng". Rõ ràng để đạt được mục tiêu đó thì hơn ai hết, giáo hội phải hiểu
rằng cần phải có cộng đồng giáo dân đông đảo về số lượng, mạnh về chất lượng
50
cả trong phần Đạo và phần Đời. Như vậy, với tham vọng không ngừng củng cố
và mở rộng ảnh hưởng của mình đối với cộng đồng giáo dân, mở rộng nước
Chúa... vô hình chung, tham vọng này lại có ảnh hưởng tích cực đối với việc xây
dựng một cộng đồng giáo dân mạnh về kinh tế, đoàn kết về tinh thần và tuyệt
đối không có tệ nạn xã hội. Đức cố Giám mục Phêrô Gioan Trần Xuân Hạp,
Giám mục địa phận Vinh đã khẳng định: "Để tránh xuống cấp về luân lý do ảnh
hưởng của các trào lưu văn hoá độc hại từ ngoài vào thì người kitô hữu chúng ta
có thể đưa ra vài phương hướng chung để cộng tác và tương trợ, hầu góp phần
gạn đục khơi trong các nguồn văn hoá nói trên, nhằm tránh sự xuống cấp về đạo
đức phong hoá. Trước tiên: chúng ta cần tích cực tham gia vào việc ngăn ngừa
các tệ nạn, đẩy lùi mọi tư tưởng lệch lạc, giải thích cho mọi người thấy được hậu
quả đen tối đang ẩn nấp đằng sau những lớp vỏ hào nhoáng của các nền văn hoá
từ ngoài vào. Giữa muôn vàn cái tốt và cái xấu lẫn lộn, chúng ta cần cố gắng
dùng lý trí của mình, đặc biệt là lý trí được soi sáng bởi mạc khải của Thiên
Chúa để lượng định vấn đề cho đúng đắn" [14, tr.179-180]. Đồng thời, khi nói
về mô hình giáo xứ lý tưởng, Giám mục Trần Xuân Hạp cũng khẳng định một
trong những tiêu chuẩn đó là "Một cộng đoàn sống bác ái, yêu thương, tương trợ
nhau. Trong đó, mỗi cá nhân trong giáo xứ phải cố gắng thực thi công bình và
bác ái; Mỗi gia đình trong giáo xứ phải sống yêu thương, thuận hoà, cha mẹ
chăm lo giáo dục con cái. Trong giáo xứ phải loại bỏ mọi bất đồng, dị biệt, đoàn
kết nên một. Tích cực hợp tác, đóng góp công của để phát triển cộng đồng,
thăng tiến giáo dục, dứt bỏ tệ nạn xã hội. Giáo xứ có quỹ tình thương để giúp đỡ
người già cả neo đơn, gia đình bị hoạn nạn, giúp đỡ các học sinh nghèo" [14,
tr.178-179].
Có thể khẳng định rằng, nếu nói về ảnh hưởng của tổ chức giáo hội đối
với vấn đề tệ nạn xã hội và đoàn kết cộng đồng thì đó chính là ảnh hưởng tích
cực. Một cộng đồng giáo dân đoàn kết, khoẻ mạnh cả về vật chất lẫn tinh thần sẽ
là nền tảng vững chắc cho sự khẳng định vị trí của tổ chức giáo hội trong cộng
đồng chung cả xã hội.
Tuy nhiên, ở đây có một vấn đề chúng ta cần quan tâm là Giáo hội đã và
đang có chủ trương tập hợp giáo dân vào các hội đoàn theo lứa tuổi và giới tính
51
"Đoàn ngũ hoá giáo dân theo từng tầng lớp" (Điều 7, chương trình kỷ niệm năm
thánh 2000). Theo khảo sát của Ban tôn giáo tỉnh tại một số xã ở huyện Nghi
Lộc, Quỳnh Lưu, Tân Kỳ, Đô Lương, được biết tuy năng lực của những người
đứng đầu các tổ chức này chưa cao song hầu như giáo dân đều tham gia sinh
hoạt rất tích cực. Các buổi sinh hoạt được ấn định vào những thời điểm cụ thể
trong tuần và thường xuyên được tổ chức (có những địa phương gần như đều
đặn mỗi tuần sinh hoạt một lần). Nội dung các buổi sinh hoạt không chỉ bó hẹp
trong phạm vi tôn giáo mà đề cập một cách rất cụ thể đến phát triển sản xuất,
xoá đói giảm nghèo, giáo dục, tránh các tệ nạn xã hội... Hoạt động của các hội
đoàn rất được các linh mục quan tâm và động viên kịp thời nên phát huy hiệu
quả khá rõ. Nếu chỉ xét đơn thuần về mặt tác dụng của nó đối với đời sống vật
chất và tinh thần của giáo dân thì rõ ràng là các hội đoàn có ảnh hưởng rất lớn và
lẽ dĩ nhiên ảnh hưởng này ở một mức độ nào đó đã có phần lấn lướt Chính
quyền. Giáo hội đang cố tình tự tổ chức cuộc sống cho họ mà không cần đến tác
động của Đảng và Chính quyền. Đây chính là chủ trương lớn mà giáo hội công
giáo đang tìm mọi cách để thực hiện học thuyết xã hội công giáo, xây dựng xã
hội công giáo song song với xã hội đang tồn tại. Nếu cứ để tình trạng này tiếp
tục tái diễn sẽ có rất nhiều vấn đề phức tạp xảy ra một khi có những biến động
lớn trong đời sống chính trị của các địa phương này. Mặc dù trong thời điểm
hiện nay, Giáo hội Việt Nam nói chung, Giáo hội Nghệ An nói riêng đã có nhiều
cải cách và đổi mới trong quan điểm, thế nhưng trên nguyên tắc vẫn có rất nhiều
vấn đề chưa giải quyết được, ở địa phương này hay địa phương khác, lúc này
hay lúc khác vẫn còn tồn tại nhiều hiện tượng vi phạm pháp luật, tạo ảnh hưởng
không nhỏ đến tiến trình hoà nhập, đồng hành cùng dân tộc.
2.1.4 Về truyền thống giáo dục trong gia đình
Trong xã hội, gia đình được coi là cộng đồng đầu tiên và là tế bào để tạo
nên xã hội loài người. Gia đình cũng là nơi đầu tiên phát sinh và nuôi dưỡng
những nhu cầu, tình cảm, khuynh hướng của con người. Vì vậy, từ cổ chí kim,
việc tạo lập nên một gia đình tốt đẹp cùng với những quan hệ đúng dắn trong đó
đã được đề cập đến nhiều trong pháp luật của các quốc gia và cả trong các tôn
giáo khác nhau. Mặc dù còn nhiều hạn chế về mặt thế giới quan và nhân sinh
52
quan nhưng các tôn giáo dựa trên các học thuyết duy tâm đều muốn khuyên răn
con người hướng thiện, tránh những lầm lạc ở cuộc sống trần gian và thoát khỏi
sự trừng phạt ở thế giới bên kia.
Đạo công giáo - một trong những tôn giáo lớn của thế giới đã rất chú
trọng dến gia đình và truyền thống giáo dục trong gia đình, bởi đó là cái nôi nuôi
dưỡng, giáo dục tín hữu sống đạo và sống đời, là nơi thể hiện và phát triển lòng
tin, cậy, mến. Những bài học đầu tiên về cầu nguyện, về mến Chúa, yêu người...
đều được học và dạy dưới mái ấm gia đình. Gia đình công giáo vì vậy, được
xem là hội thánh tại gia. Giáo hội công giáo Việt Nam cũng đã khẳng định "Gia
đình là hội thánh tại gia giữa lòng cộng đồng Kitô. Gia đình là trường học đầu
tiên. Cha mẹ là những người giáo dục đầu tiên. Sách giáo khoa đầu tiên là những
quan hệ trong gia đình giữa cha mẹ với nhau, giữa cha mẹ và con cái, giữa gia
đình này với gia đình khác" (Thư mục vụ của Hội đồng giám mục Việt Nam
ngày 17/10/1998). Điều này được thể hiện rất rõ trong thực tiễn đời sống của
cộng đồng giáo dân. Tình cảm của người công giáo được dựa trên mối liên hệ
với Chúa và gắn liền với những hành động. Tình cảm ấy xuất phát từ ngay chính
gia đình. Khi họ yêu mến tôn giáo thì luôn động viên, dạy dỗ con cái đi theo,
giành thời gian học hỏi về đạo. Qua khảo sát ở một số vùng giáo Nghệ An cho
thấy có gần 70% số giáo dân đến với tôn giáo do truyền thống gia đình, 15% số
giáo dân cho biết, họ theo đạo do hiểu biết về đạo, số còn lại là vì những lý do
khác nhau (như khi kết hôn với vợ hoặc chồng là người theo đạo thì họ cũng
nhập đạo thông qua các nghi lễ cần thiết để trở thành tín đồ công giáo). Như
vậy, số giáo dân đến với tôn giáo do truyền thống gia đình là rất lớn - điều này
cho thấy ngay từ khi còn nhỏ các em đã được gia đình nuôi dưỡng, giáo dục,
hình thành dần niềm tin tôn giáo. Trước 1 tuổi các em đã được tập những thói
quen như: chào Chúa, cúi đầu khoanh tay; còn khi mẹ hát: "Hoan hô, vinh danh
Chúa"... thì bé dơ 2 tay; ở 2 tuổi, bé được rèn dạy "Cảm ơn Chúa: vì ông mặt
trời, cô gió, cô mưa, hoa đẹp, chim hót hay... vui sống dưới cái nhìn âu yếm của
Chúa. Chúa nhìn thấy bé khoẻ đẹp, bé ăn hết chén cơm, Chúa vui quá!", “Chào
Chúa con ngủ, chúc Chúa ngủ ngon...". Như vậy, ngay khi còn nhỏ các em bé đã
được làm quen với hình ảnh, khái niệm và vai trò của Chúa từ những điều giản
53
dị nhất trong cuộc sống. Khi các em lớn lên, việc nuôi dưỡng, phát triển niềm tin
ấy được thể hiện ở việc giáo dục, dạy bảo làm theo những lời răn dạy của Chúa.
Nếu cầu nguyện là hành vi thể hiện khá rõ nét về niềm tin tôn giáo thì kết quả
khảo sát tìm hiểu hành vi của cha mẹ đối với việc cầu nguyện của con cái cho
thấy gần 80% giáo dân cho biết, họ thường xuyên thúc dục con em cầu nguyện.
Việc thúc dục con cái cầu nguyện của giáo dân có tính chất giáo dục con cái đi
theo niềm tin của cha mẹ, từ đó hình thành tình cảm đối với Chúa giống như tình
cảm của chính họ. Một nữ giáo dân cho biết: "Thúc dục con cháu cầu nguyện là
việc làm cần thiết, hình thành cho con cháu một thói quen trước khi con trẻ chưa
nhận ra được điều cần thiết của cầu nguyện, sau đó trẻ sẽ dần dần nhận thức ra
điều đó". Thậm chí ở các gia đình công giáo, các ông bố, bà mẹ còn tổ chức
những buổi cầu nguyện chung trong gia đình, ở đó họ vừa làm gương cho con
cháu, vừa định hướng và củng cố, phát triển niềm tin cho con cháu đối với tôn
giáo của mình. Việc cầu nguyện trong gia đình và việc kiểm điểm đời sống hàng
ngày làm cho gia đình yêu thương và sống hợp nhất. Chính bầu không khí yêu
thương đầm ấm trong gia đình: Vợ chồng chung thuỷ, con cái hiếu thảo, anh chị
em hoà thuận... là trường dạy yêu mến. Người ta học biết yêu thương nhờ được
yêu thương.
Truyền thống giáo dục trong gia đình công giáo một mặt có vai trò định
hướng niềm tin cho con cái, khuyên bảo con người sống hướng thiện, nhưng mặt
khác, nó lại hình thành thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học, và nếu
nói đó là truyền thống giáo dục trong gia đình thì đa số (nếu không muốn nói là
tuyệt đối) các em không có sự lựa chọn khác.
Với tư duy triết học biện chứng, chúng ta không phủ nhận những ảnh
hưởng tích cực của truyền thống giáo dục trong gia đình công giáo đối với việc
giữ gìn TT, ATXH vùng giáo. Ở đây, giữa đạo đức đạo Công giáo với chủ
trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta có nhiều nét tương đồng với nhau,
thể hiện rõ nhất là những qui định trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái, quan hệ
vợ - chồng.
- Thứ nhất, Nếu kinh thánh đạo Công giáo đã răn dạy "Con cái phải thảo
kính với cha mẹ" (Điều răn thứ 4), thảo kính cha mẹ từ trong ý nghĩ dẫn tới việc
54
làm cụ thể, phải thực hiện đủ 4 việc sau: Tôn kính bề trong bề ngoài, yêu mến
thật lòng, vâng lời chịu luỵ, và giúp đỡ phần xác. Đối với cha mẹ, con cái cần
phải nhân đức yêu thương, nhân đức hiêú thảo, kính trọng, yêu mến, vâng lời,
phụng dưỡng để đền đáp lại công lao sinh thành và nuôi dưỡng của cha mẹ.
Thảo kính cha mẹ cả trong trường hợp đặc biệt như khi cha mẹ lâm nạn, ốm
đau... Nếu không thảo kính cha mẹ, chẳng những phạm tội nghịch và điều răn
thứ 4 mà lại có khi nghịch với các điều răn khác nữa. Con cái có thể mắc tội
trọng hay nhẹ tuỳ theo từng biểu hiện; Thì, ở Điều 2 và 21 trong luật "Hôn nhân
và gia đình" do Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua
ngày 29/12/1986 cũng qui định: "Con cái có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi
dưỡng cha mẹ, lắng nghe những lời khuyên bảo của cha mẹ".
- Thứ hai, nếu giáo lý Công giáo nêu rõ cha mẹ phải có nghĩa vụ đối với
con cái, phải thương yêu, nuôi nấng, cho ăn mặc xứng bậc mình, coi sóc dạy dỗ
cho con biết các lễ cần trong đạo (như học kinh, xem lễ...) dạy cách làm ăn, lo
cho con ở bậc nào, cho vừa thánh ý Đức chúa trời. Không được căm ghét, chửi
rủa, hắt hủi con và cũng không được chiều chuộng con cái quá lẽ để con sinh hư
sa vào chơi bời cờ bạc, rượu chè, biếng nhác...Tóm lại cha mẹ phải là tấm gương
sáng cho con cái noi theo. Nếu cha mẹ không giáo dục được con, để con hư
hỏng thì các bậc làm cha làm mẹ ấy phải bị mắc tội, nặng hay nhẹ là tuỳ từng
trường hợp; Thì ở điều 2, chương I, luật hôn nhân gia đình trong nhà nước ta
cũng quy định: "Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành những công dân có ích
cho xã hội". Chương IV điều 19, quy định "Cha mẹ có nghĩa vụ thương yêu,
nuôi dưỡng, giáo dục con, chăm lo việc học tập và sự phát triển lành mạnh của
con về thể chất, trí tuệ và đạo đức". "Cha mẹ phải làm gương tốt cho con về mọi
mặt và phối hợp chặt chẽ với nhà trường và các tổ chức xã hội trong việc giáo
dục con cái.
Bên cạnh những quy định về mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái trong
gia đình, giáo lý Đạo công giáo còn quy định mặt quan hệ vợ - chồng trong gia
đình. Trong quan hệ này giữa đạo đức Công giáo và pháp luật Nhà nước ta cũng
có những điểm tương đồng sau:
- Thứ nhất, Nếu đạo Công giáo qui định mối quan hệ cư xử vợ chồng
55
trong gia đình rành mạch có lý có tình, vợ chồng mỗi người theo bổn phận của
mình phải sống chứng nhân cho tình yêu qua việc làm phép hôn phối trong nhà
thờ; nhờ bí tích của hôn nhân, người chồng đã hợp nhất với người vợ trong một
giao ước tình yêu, phải yêu thương vợ như "Chúa Kitô thương yêu Hội thánh",
người chồng phải là chứng nhân cho một tình yêu không vị kỷ, quên mình hy
sinh cho vợ như Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá cho Giáo hội. người
chồng phải là một người chồng tốt, không ghen ghét, chửi rủa những lời nặng nề
xấu xa. Nếu vợ có lỗi thì chồng được quở trách, sửa bảo bằng lời lẽ mà thôi.
Phải chịu khó làm lụng, không chơi bời du đãng, vung phá tiêu phí của cải trong
nhà vô ích để cho vợ con phải đói khát, rách rưới. Phải lo liệu cho vợ giữ lấy
đạo, đó là phép tắc đọc kinh, xem lễ, xưng tội, chịu lễ chính đáng. Ngược lại,
người vợ phải dịu hiền, sống hợp nhất với chồng, trao dâng trọn vẹn và không vị
lợi. Người vợ tốt, đó là một người mẹ gương mẫu, cùng chồng nuôi nấng, giáo
dục con trở thành nguồn hạnh phúc cho mọi tình cảm cha con, mẹ con và sự gắn
kết vợ chồng. Vợ phải biết kính nể, vâng lời, chịu luỵ chồng trong lẽ phải. Đối
với chồng không được khinh rẻ, cứng cổ, chửi rủa, bất trị. Phải coi sóc nhà cửa
và làm các việc cho xứng bậc mình; Thì, tại Điều 11, Chương III, Luật Hôn
nhân và gia đình quy định: "Vợ chồng có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi
mặt trong gia đình. Vợ chồng có nghĩa vụ chung thuỷ với nhau, thương yêu, quý
trọng, chăm sóc. giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, cùng nhau thực hiện sinh đẻ có kế
hoạch ".
- Thứ hai, cả luân lý đạo Công giáo và Luật pháp nước ta đều đề cao việc
thực hiện nghiêm túc chế độ hôn nhân một vợ một chồng, kịch liệt lên án nạn
bạo hành trong gia đình, lên án lối sống buông thả, "sống thử trước hôn nhân"...
Như vậy, luân lý đạo công giáo không có gì dị biệt với tiêu chí đạo đức, luân lý
giáo dục gia đình cổ truyền Việt Nam. Những lời răn dạy của Chúa đã trở thành
lời nhắc nhở hàng ngày, giúp giáo dân hướng tới sự trong sạch phần hồn, sống
tốt đời, đẹp đạo, làm vinh danh Thiên Chúa. Khi xem xét thực trạng đời sống gia
đình ở các xứ, họ đạo Nghệ An ta thấy, hầu như không có tình trạng ly hôn, rất ít
trường hợp vợ chồng ruồng rẫy và gần như không có nạn bạo hành trong gia
đình (nếu có xảy ra thì rất ít và nó sẽ ngay lập tức được cả cộng đồng và linh
56
mục can thiệp). Mặc dù đa số các gia đình giáo dân đời sống cọn gặp nhiều khó
khăn, nhưng con cái họ luôn được dạy dỗ, uốn nắn "đói cho sạch, rách cho
thơm", chấp hành đầy đủ các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước. Vì vậy, nhìn chung ở các xứ, họ đạo tình trạng trẻ em vị thành niên vi
phạm pháp luật là rất ít, phần lớn các em sống nghiêm túc, giản dị và trong sáng.
đến nay toàn tỉnh có 30.000 hộ gia đình đạt gia đình văn hoá, 300 đơn vị là khu
dân cư tiêu biểu, 20 làng văn hoá cấp tỉnh, trình độ dân trí cũng ngày càng được
nâng cao. Tính đến đầu năm học 2007, toàn vùng giáo có 1423 con em đang
theo học các trường Đại học, Cao đẳng, nhiều gia đình có 2 - 3 con học đại học,
điển hình như gia đình ông Nguyễn Trọng Lô ở giáo họ Đông Phú, giáo xứ Phi
Lộc có 1 con học trên đại học, 5 con học đại học và 1 con học cao đẳng; gia đình
ông Hoàng Văn Châu ở giáo họ Đan Nhiệm, thị trấn Nam Đàn có 5 con học đại
học; gia đình bà Nguyễn thị Huệ ở giáo xứ Làng Rào huyện Tân Kỳ có 4 con
học đại học; đặc biệt gia đình ông Bùi Văn Toàn ở giáo xứ Cầu Rầm có em Bùi
thị Kim Dung đạt giải nhất môn Hoá trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia năm
2005…
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực đó là chủ yếu thì vẫn còn tồn tại một
số hạn chế, biểu hiện rõ nhất là trong lĩnh vực Dân số kế hoạch hoá gia đình.
Với tư tưởng trong Kinh cựu ước khuyến khích các tín đồ của mình: "Hãy sinh
sôi nảy nở thật nhiều cho tràn đầy mặt đất và thống trị mặt đất" và việc sinh đẻ
là sự sắp đặt của Chúa... nên tỉ lệ sinh ở các vùng giáo vẫn cao hơn so với các
vùng khác và so với mặt bằng chung toàn xã hội, tỉ lệ sinh ở vùng giáo hiện nay
là 1,4%, tỷ lệ sinh con thứ 3 là 2,36%. Cá biệt vẫn có nhiều gia đình sinh quá
nhiều con (trên 3 con). Mặc dù hiện nay Giáo hội đã ý thức được việc tăng dân
số một cách thiếu kế hoạch sẽ dẫn đến nhiều hậu quả xấu cho xã hội, song họ
vẫn đặt ra những ràng buộc người giáo dân trong các biện pháp cụ thể. Chính
Giáo hội đã tuyên bố "Gia đình có quyền quyết định số lượng con cái sẽ có, phụ
thuộc vào khả năng chăm sóc và đảm bảo cho việc tiếp thu một nền giáo dục
tốt"; đặc biệt, Giáo hội còn cấm việc áp dụng phương pháp tránh thai nhân tạo,
vì nó vi phạm trật tự của Chúa trong việc tạo dựng con người.
Như vậy, mặc dù vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định nhưng nhìn
57
chung, truyền thống giáo dục trong gia đình của người công giáo đã có ảnh
hưởng tích cực khá rõ nét đến các mặt của việc giữ gìn TT, ATXH vùng giáo
nói riêng và cả xã hội nói chung. Những mặt đạo đức nhân bản mà đạo công
giáo cũng như nhiều tôn giáo khác gọi chung là "điều thiện" đã có những điểm
tích cực, phù hợp với đạo đức, luân lý truyền thống của ông cha ta cũng như
trong sự nghiệp xây dựng một xã hội mới: công bằng, bình đẳng, dân chủ, văn
minh. Giáo dục gia đình là sự thể hiện một khía cạnh của nền văn hoá quốc gia.
Đạo Công giáo đã có một số đóng góp đáng ghi nhận và chúng ta cần phát huy
những giá trị tích cực đó của đạo Công giáo trong suốt quá trình đồng hành cùng
Dân tộc.
2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với việc giữ gìn trật tự, an toàn xã hội
Chúng ta đã đi sâu phân tích những ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với
việc giữ gìn TT, ATXH ở vùng giáo Nghệ An hiện nay. Qua sự phân tích đó có
thể nhận thấy rằng tôn giáo này với hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi... chặt
chẽ, có nhiều yếu tố tích cực và nhiều mặt hạn chế đan xen nhau. Để phát huy
những yếu tố tích cực, những tư tưởng nhân văn tốt đẹp và khắc phục những hạn
chế của đạo công giáo đối với việc giữ gìn TT, ATXH ở vùng giáo, có một số
vấn đề cần đặt ra như sau:
2.2.1. Kết hợp niềm tin tôn giáo với niềm tin xã hội tiến bộ
Đối với những tín đồ công giáo, niềm tin tôn giáo chi phối mạnh mẽ đến
toàn bộ đời sống của họ, có thể làm thay đổi những động cơ, lối sống của họ
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Với họ, bên cạnh cuộc sống
"Đạo" là cuộc sống "Đời", bên cạnh việc chu toàn bổn phận của một con chiên
trước Chúa là bổn phận của một công dân của đất nước..., quyền lợi, trách nhiệm
và nghĩa vụ giữa phần "Đạo" và phần "Đời" ấy đan xen vào nhau, tác động lẫn
nhau và bổ trợ cho nhau trong mỗi giáo dân cũng như trong cả cộng đồng giáo
dân. Chính vì vậy, Đảng ta với quan điểm: "Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh
thần của một bộ phận nhân dân" đã có chủ trương đúng đắn, không chỉ là đề ra
chính sách tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng chính đáng, mà còn động viên
khuyến khích, tạo diều kiện để các tôn giáo phát huy những giá trị đạo đức nhân
văn tốt đẹp của mình, vì lợi ích chung của cả cộng đồng dân tộc, phù hợp với
58
công cuộc xây dựng xã hội mới - xã hội XHCN - giai đoạn đầu của xã hội Cộng
sản văn minh. Những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta
đã tạo tâm lý tự tin, xoá bỏ những mặc cảm, định kiến, ngăn cách giữa đồng bào
có đạo và đồng bào không có đạo, xây dựng một bầu không khí cởi mở, đoàn kết
các tôn giáo, hoà hợp Đạo với Đời, tín đồ các tôn giáo ngày càng tin tưởng vào
vai trò lãnh đạo của ĐCSVN, phát huy sức mạnh đoàn kết lương - giáo, đoàn kết
tòan dân vì sự nghiệp chung "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh".
Để có những thành công đó, trước hết chúng ta phải nhận thấy rằng giữa
niềm tin tôn giáo và niềm tin xã hội tiến bộ có những điểm tương đồng với nhau,
gần gũi nhau dù một bên là hữu thần và một bên là vô thần "Cộng sản vô thần,
tôn giáo hữu thần, thế nhưng cộng sản và công giáo có những chỗ giống nhau”
[42, tr.5]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định "Đức Thiên Chúa là tấm
gương hy sinh triệt để vì những người bị áp bức, vì những dân tộc bị đè nén, vì
hoà bình, vì công lý" [41, tr.13], Người khiêm tốn chỉ nhận mình là một học trò
nhỏ của Đức Giêsu. Tháng 3 năm 1955, khi nói chuyện với đại biểu Đại hội
Công giáo yêu nước toàn quốc tại Hà Nội, Bác tâm sự rất cởi mở: "Các cụ, các
cô, các chú biết Tôi là người không có đạo và là người cộng sản theo chủ nghĩa
Mác-Lênin, suốt đời hy sinh đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc, tự do cho
đồng bào. Nay nước nhà đã được giải phóng khỏi ách thực dân, nhân dân ta
được hoà bình, độc lập, tự do. Tôi và Đảng, Chính phủ lo cho nhân dân có cơm
ăn, áo mặc, các cháu được học hành, người ốm đau có thuốc, vào bệnh viện để
chữa bệnh, đời sống tinh thần vật chất ngày càng được ổn định và nâng cao, ...
Các cụ, các cô, các chú cùng với chúng tôi lo làm các việc đó có gì là mâu thuẫn
hay sai trái với giáo lý của Đạo, lời dạy của Chúa Giêsu không?...". Qua cách
biểu đạt đó chúng ta thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát hiện, thừa nhận và sử
dụng những yếu tố hợp lý của Công giáo, những yếu tố đó không có gì trái với
mục tiêu lý tưởng mà toàn Đảng, toàn dân ta đang ra sức phấn đấu thực hiện.
Như vậy, cả Công giáo và CNXH đều muốn xoá bỏ tình trạng áp bức, bóc
lột, bất công, đều mong muốn tất cả mọi người được sống trong hoà bình, hữu
nghị, bình đẳng - đó là một thế giới đại đồng, không có chế độ người bóc lột
59
người. Niềm tin, lý tưởng tôn giáo và niềm tin, lý tưởng về xã hội tiến bộ có
những điểm tương đồng nhất định. Điểm khác nhau ở đây là về mục đích. Đạo
công giáo muốn xây dựng Thiên đàng ở thế giới "bên kia", còn CNXH lại xây
dựng thiên đàng ở ngay trần thế; phương pháp của Công giáo là cầu khẩn, cứu
tế, cải lương, khuyên người làm điều lành để được lên thiên đường, còn phương
pháp của CNXH là làm cách mạng đánh đổ chế độ áp bức, bóc lột do chính bàn
tay và trí óc của con người mà dựng lên một trật tự mới, một trật tự công bằng
và bác ái hơn. "Chủ nghĩa cơ đốc đem sự giải phóng đó đặt vào mai sau, đặt
trong "đời sống" sau lúc chết, đặt ở trên trời. Còn CNXH thì đặt nó ngay trên thế
giới, trong sự cải tạo xã hội" [42, tr.5]. Như vậy là, khoảng cách giữa CNXH và
tôn giáo, giữa người có đạo và người không có đạo, chủ yếu chỉ là lòng tin hay
không tin vào một quan điểm ở "trên trời". Mà riêng vấn đề này, chính sách về
tôn giáo của Đảng ta đã khẳng định sự tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn
giáo, không hề ngăn trở bất cứ ai, sau khi đã tranh đấu hết mình cho giá trị thật
sự của mọi người ở trần gian, mong muốn được hoà vào trong cõi phiêu diêu
miền cực lạc. Bởi vì đối với những người cộng sản, vấn đề đặt ra chủ yếu không
phải có thần hay không có thần, có tín ngưỡng hay không có tín ngưỡng, mà là
vấn đề có yêu nước hay không yêu nước, có thật sự đứng trong cộng đồng cộng
đồng dân tộc hay đi ngược lại quyền lợi của toàn dân [29, tr.313].
Việc khai thác, phát hiện điểm tương đồng và khác biệt đó giúp chúng ta
phát huy những điểm tương đồng và khắc phục những điểm khác biệt của đạo
Công giáo trong công cuộc xây dựng xã hội mới. Rõ ràng là muốn đẩy lùi những
ước mơ về thiên đường hư ảo ở thế giới "bên kia" thì chúng ta phải từng bước
xây dựng một "thiên đường" có thực trên trần gian. Đó là quá trình lâu dài, gắn
liền với công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần và trí tuệ cho con người.
Hiện nay ở Nghệ An, các xứ, họ đạo đã có nhiều thay đổi theo hướng tích
cực trong đời sống và xã hội. Bà con giáo dân tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của
Đảng, quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò làm chủ của mình, gương mẫu
trong mọi hoạt động xây dựng xứ, họ đạo văn hoá theo đúng định hướng của
Đảng: "Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức lành mạnh, hướng thiện của tôn
60
giáo, phù hợp với truyền thống văn hoá dân tộc và đời sống xã hội, thực hiện
Tôn giáo gắn bó với dân tộc, đoàn kết, hoà hợp đồng bào các tôn giáo cùng toàn
dân xây dựng và bảo vệ tổ quốc" (Chỉ thị 37 ngày 02/07/1998 của Bộ chính trị
về công tác tôn giáo trong tình hình mới). Tuy nhiên, do đời sống của bà con
giáo dân Nghệ An còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí nói chung còn thấp, tỉ lệ
tăng dân số còn ở mức khá cao, một số còn mặc cảm, tự ti và phân biệt lương -
giáo... Bên cạnh đó, về mặt Chính quyền, chúng ta cũng phải nghiêm khắc thừa
nhận những mặt chưa làm được, do một số người không hiểu và không nắm
vững luật pháp hoặc làm sai luật pháp nên ở nơi này hoặc nơi khác, thời điểm
này hay thời điểm khác đã có hiện tượng xâm phạm đến quyền tự do tín ngưỡng
tôn giáo của giáo dân. Lợi dụng khó khăn, hạn chế này, một số phần tử xấu đã
cấu kết với lực lượng bên ngoài để tuyên truyền, xuyên tạc, bôi nhọ bản chất của
chế độ XHCN, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, kích
động quần chúng gây rối an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, bên
cạnh việc tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng thì đồng thời Đảng, Nhà nước và
Chính quyền địa phương cũng cần có những biện pháp xử lý hợp lý đối với các
phần tử cực đoan này, phát hiện, phòng ngừa ngăn chặn các tác động xấu, các
đối tượng có hoạt động chống đối, giải quyết dứt điểm các vụ việc gây rối trật tự
công cộng, vô hiệu hoá, phân hoá những chức sắc có thái độ hoạt động xấu.
Để làm được điều này, chúng ta phải nhận thức rõ hơn quan điểm cốt lõi
của công tác tôn giáo là vấn đề vận động quần chúng, phải thấy rõ vai trò to lớn
của quần chúng giáo dân để từ đó phát huy quyền làm chủ của quần chúng theo
phương châm "Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin", phải thật sự tin dân,
yêu dân, gần gũi dân, "ba cùng" với dân... làm cho quần chúng giáo dân cũng tin
Đảng, yêu Đảng, biết gợn đục khơi trong gạn lấy những giá trị cao đẹp của niềm
tin tôn giáo trong sáng, lành mạnh, thánh thiện, đấu tranh với những biểu hiện
sai trái không những vi phạm đạo đức công giáo mà còn là lực cản đối với cuộc
cách mạng xây dựng nền văn hóa mới, con người mới XHCN. Sự kết hợp biện
chứng giữa niềm tin tôn giáo với niềm tin xã hội tiến bộ sẽ tạo thành sức mạnh
tổng hợp, sức mạnh đoàn kết toàn dân mà không một thế lực đen tối nào phá vỡ
nổi. Lịch sử đã khẳng định, độc lập dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền tự do tín
61
ngưỡng tôn giáo và ngược lại. Trong Báo cáo Đại hội những người công giáo
yêu nước năm 1983, linh mục Võ Thành Trinh đã nhấn mạnh rằng, “Người công
giáo hết lòng kính Chúa phải là người công dân thiết tha yêu nước, người công
giáo làm sáng danh Chúa phải đấu tranh cho quyền lợi dân tộc”; Hoặc linh mục
Vương Đình Bích trong một bài viết trên báo Công giáo và Dân tộc số ngày 09
tháng 03 năm 1986 cũng đẫ khẳng định, "Hạnh phúc là cái chung. Cách mạng
XHCN không thể hoàn thành, bao lâu còn những bộ phận giáo hữu đứng bên lề.
Tin mừng của Đức Kitô không thể hoàn thành việc cứu độ, bao lâu còn những
người vô thần tiếp tục coi tôn giáo như kẻ thù của loài người. Chúng ta đang ở
giai đoạn đầu của sự nghiệp hạnh phúc chung".
Hiện nay, chúng ta đang phấn đấu xây dựng một đất nước Việt Nam "Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", đó là mục tiêu lớn lao
mang tính thời đại; đó cũng là một chủ trương đúng dắn, không một tôn giáo
nào lại không ủng hộ. Giáo hội công giáo Việt Nam lựa chọn con đường "sống
phúc âm giữa lòng dân tộc", "là hội thánh giữa lòng dân tộc Việt Nam, quyết
tâm gắn bó với vận mạng quê hương, noi theo truyền thống dân tộc, hoà mình
vào cuộc sống hiện tại của đất nước"… là hoàn toàn phù hợp với mục tiêu chung
của dân tộc, điều đó đã và đang được người công giáo Việt Nam nói chung,
người công giáo Nghệ An nói riêng thực thi bằng nếp sống lành mạnh với
phương châm "Kính Chúa, yêu nước", "sống tốt đời, đẹp đạo". Những người
Công giáo Việt Nam chân chính, thực sự yêu nước, tin đạo hơn bao giờ hết cần
phải có niềm tự hào dân tộc và tin tưởng rằng con đường làm sáng danh đạo
Chúa không phải là con đường nào khác mà thực chỉ có một con đường duy
nhất: đó là con đường thông qua đại đoàn kết, đại hoà hợp dân tộc để cùng nhau
xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, tự do, dân chủ, hạnh phúc, bình đẳng và
tiến bộ xã hội.
2.2.2 Kết hợp giáo lý với luật pháp
Nghị quyết 24/ BCT đã xác định: "Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài,
tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đạo đức tôn
giáo có nhiều điểm phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới" và ngay trong
Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta năm 1946 (Quốc hội thông qua ngày
62
09/11/1946) cho đến Hiến pháp năm 1960(31/12/1959), Hiến pháp 1980
(18/12/1980) và Hiến pháp 1992 (15/4/1992) đều thống nhất với tinh thần
chung: Công dân nước Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo hoặc
không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều có quyền bình đẳng trước pháp
luật,... không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng tôn giáo hoặc lợi dụng tín
ngưỡng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước ta. Gần đây
nhất, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (18/4/2006 - 25/4/2006)
tiếp tục khẳng định tư tưởng trên đồng thời nêu rõ: "... Phát huy những giá trị
văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Động viên, giúp đỡ đồng bào theo đạo
và các chức sắc tôn giáo sống "tốt đời đẹp đạo" [11, tr.123].
Như vậy, không phải ngẫu nhiên mà trải qua một chặng đường dài với
nhiều biến cố lịch sử khác nhau, Đảng ta vẫn nhất quán trước sau như một,
khẳng định tôn giáo đồng hành cùng dân tộc, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng
tôn giáo... mà vấn đề ở đây là Đảng ta đã tìm thấy điểm tương đồng giữa đạo
đức, giáo lý tôn giáo với đạo đức truyền thống và luật pháp của Nhà nước ta,
trong đó điểm tương đồng về mặt tinh thần là chủ nghĩa yêu nước chân chính; về
mặt văn hoá, tín ngưỡng, tâm linh là sự hướng thiện, tôn trọng những giá trị văn
hoá, đạo đức mang tính nhân bản.
Đạo công giáo là một trong những tôn giáo với hệ thống giáo lý, giáo luật
chặt chẽ có nhiều điểm tương đồng, phù hợp với pháp luật của Nhà nước ta.
Đảng, Nhà nước và Chính quyền đang phát huy vai trò tích cực của những điểm
tương đồng đó trong các chủ trương, chính sách và kể cả trong các vụ việc liên
quan đến vấn đề tôn giáo, đó là sự kết hợp của nhiều yếu tố trong đó không thể
không nói đến sự kết hợp giữa giáo lý và luật pháp. Trong đời sống của cộng
đồng giáo dân, giáo lý và luật pháp không mâu thuẫn với nhau mà đó là sự bổ
sung lẫn nhau nhằm điều chỉnh những hành vi của mỗi cá nhân trong cộng đồng
giáo dân. Trước hết, giáo lý Công giáo đã dành một phần đáng kể vận động giáo
dân phải biết làm những điều tốt lành thông qua một hệ thống khá phức tạp và
đa dạng với 10 điều răn của Thiên Chúa, 6 điều răn của Giáo hội, 7 phép bí tích,
7 mối tội đầu và 7 đức để cải tạo 7 mối, 8 mối phúc thật, 20 điều quy định về
nghĩa vụ trong quan hệ với linh hồn, đồng loại và bản thân... những điều răn
63
dạy, cấm đoán và nghi lễ đó có tác động quan trọng đến hành vi xã hội của mỗi
giáo dân và được thể hiện rõ nhất trong việc giữ gìn TT, ATXH ở các vùng giáo,
đấu tranh chống các loại tội phạm, bài trừ các tệ nạn xã hội... Đây chính là cơ sở
để giáo dân vừa thực hiện tốt giáo lý của tôn giáo mình vừa chấp hành đúng
pháp luật của Nhà nước, làm tròn trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của một
giáo dân, một công dân.
Qua khảo sát thực trạng TT, ATXH ở vùng giáo Nghệ An, chúng ta có thể
nhận thấy rằng trong giai đoạn mới hiện nay với những chính sách pháp luật phù
hợp, đúng đắn của Nhà nước ta, ở các vùng giáo đang có những chuyển biến
mới theo chiều hướng tích cực, những hoạt động thuần tuý tôn giáo, tuân thủ
giáo lý, giáo luật và luật pháp là cơ bản, hàng ngũ chức sắc chức việc có nhiều
chuyển biến tích cực, chấp hành pháp luật, tuân thủ Chính quyền hơn, ít cực
đoan hơn, nhiều chức sắc còn mạnh dạn tham gia vào các hoạt động xã hội, yêu
nước. Tiêu biểu như linh mục Hoàng Đức Luyến - chánh xứ Thanh Dạ, Quỳnh
Lưu; linh mục Nguyễn Đăng Điền - chánh xứ Nhân Hoà, Nghi Lộc; linh mục
Nguyễn Sỹ Nho - xứ Trang Cảnh, Nghi Xuân; ông Nguyễn Xuân Huê - trưởng
ban đoàn kết Công giáo huyện Hưng Nguyên… Những năm qua, Chính quyền,
Mặt trận Tổ quốc, Công an, các đoàn thể quần chúng, các linh mục, dòng tu, các
xứ, họ đạo của tỉnh nhà đã luôn luôn quan tâm, phối hợp để làm tốt công tác
tuyên truyền vận động nhân dân học tập các chủ trương, đường lối của Đảng,
pháp luật của Nhà nước. Các Bộ luật, pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo và Nghị
định 22NĐ/CP của Chính phủ về quy định các hoạt động tôn giáo; Đề án 01-138
của UBMTTQ Việt Nam về việc phát động toàn dân tham gia phòng ngừa, phát
hiện, tố giác tội phạm, cảm hoá, giáo dục, cải tạo người lầm lỗi tại cộng đồng
dân cư; Chỉ thị 07 của Ban thường vụ Tỉnh uỷ về phòng chống tội phạm ma
tuý…đã được phổ biến học tập và quán triệt trong các cộng đồng dân cư. Qua
học tập, nhận thức của nhân dân được nâng lên rõ rệt, 100% xứ, họ giáo ở Nghệ
An đã tổ chức ký cam kết thực hiện, góp phần giữ vững ổn định chính trị, TT,
ATXH trên địa bàn. Với sự phối hợp chặt chẽ và những hoạt động thiết thực đó,
quần chúng giáo dân tỉnh nhà đã phát huy tinh thần đoàn kết xây dựng quê
hương, mạnh dạn đóng góp ý kiến tham gia xây dựng quy ước, hương ước địa
64
phương, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ hoà giải, tổ tự
quản, từng bước ngăn chặn và đẩy lùi các loại tệ nạn xã hội, giảm bớt các vụ
việc mâu thuẫn phát sinh trong cộng đồng dân cư, xây dựng gia đình và khu dân
cư theo nếp sống văn hoá mới. Trong các xứ, họ đạo xuất hiện ngày càng nhiều
đơn vị có phong trào khá về an ninh trật tự, nhiều cá nhân đạt danh hiệu người
công giáo yêu nước... Tuy nhiên ở Nghệ An, giáo hội và một số giáo sỹ vẫn còn
bị ảnh hưởng khá sâu sắc sự chi phối, chỉ đạo của bên ngoài, vẫn còn tồn tại một
số hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật thậm chí có biểu hiện chống đối chế độ,
chính quyền.
Việc xử lý các sai phạm này rất khó khăn, phức tạp bởi thông thường giáo
hội tạo ra việc đã rồi mới báo cáo, hoặc không chấp hành sự xử lý của chính
quyền, có nơi còn lợi dụng việc xử lý của ta để kích động là "chính quyền ngăn
cản hoạt động tôn giáo" rồi tập hợp giáo dân, gây sức ép với chính quyền, gây
ảnh hưởng xấu về chính trị. Vụ việc xảy ra tại giáo xứ Làng Nghi ở xã Diễn
Hạnh, Diễn Châu tháng 04/1993 là một điển hình, hoặc cũng tại đây vào năm
1997 đã diễn ra vụ dựng tượng linh mục Bùi Nhật Nghiệm - một linh mục phản
động; vụ cất bốc mộ trái phép linh mục Nguyễn Châu và tập thể giáo hữu bị sát
đạo năm 1858 tại xứ đạo Trung Song, Diễn Thịnh, Diễn Châu kéo dài từ tháng 2
đến tháng 3 năm 2000, tạc bia ghi thánh tử đạo nhằm gợi lại hận thù dân tộc...
trước vụ việc này chính quyền đã đình chỉ nhưng dưới sự chỉ đạo của BHG, các
phần tử cực đoan vẫn tiếp tục chống đối, không thực hiện. Quần chúng giáo dân
tham gia các vụ xung đột này có thể là tự phát, là sự kích động nhất thời do
không hiểu biết về pháp luật và không nhận ra được bản chất thật sự của vấn đề,
nhưng khi tham gia đều ý thức là bảo vệ đức tin, bảo vệ tôn giáo... gây ra những
hậu quả nghiêm trọng và rất khó giải quyết.
Tình hình trên đòi hỏi chúng ta khi giải quyết các vụ việc phức tạp này
cần phải có những bước đi thích hợp, sáng suốt, bình tĩnh, nắm vững nguyên tắc
nhưng phải mềm dẻo, ứng xử linh hoạt, tế nhị, phải làm cho quần chúng giáo
dân phân biệt được đúng, sai, tranh thủ sự đồng tình và cô lập kẻ xấu. Trong
những trường hợp như vậy cách tốt nhất là phải biết vận dụng giáo lý, giáo luật
kết hợp với luật pháp tạo thành một công cụ hữu hiệu để giáo dục thuyết phục,
65
vận động quần chúng giáo dân, làm cho quần chúng giáo dân hiểu ra bản chất
của vấn đề và ủng hộ chính quyền địa phương trong việc xử lý các sai phạm
trên. Thực hiện điều này cũng chính là thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh kính yêu: "Chính quyền ta là chính quyền dân chủ, bất kỳ việc to, việc nhỏ
đều phải dựa vào lực lượng của nhân dân để phụng sự lợi ích của nhân dân. Việc
giữ gìn trật tự, an ninh càng phải dựa vào sáng kiến và lực lượng của nhân dân"
[27, tr.335].
2.2.3. Kết hợp sống tốt đời đẹp đạo
Công cuộc đổi mới hơn 20 năm qua với những thành tựu to lớn trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội đã thật sự mang lại cho nhân dân ta một cuộc sống
phong phú cả về vật chất lẫn tinh thần. Hình ảnh một nước Việt Nam đổi mới,
đang trên đà phát triển, vững bước tiến vào thiên niên kỷ mới đã trở thành niềm tự
hào của mỗi người dânViệt Nam, không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc.
Thành quả đó có được là dựa trên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết
dân tộc, trong đó có sự đồng lòng đồng sức của hơn 5 triệu đồng bào công giáo
Việt Nam. Với tinh thần là Hội thánh giữa lòng dân tộc, người công giáo Việt
Nam quyết tâm gắn bó với vận mệnh quê hương, noi theo truyền thống của dân
tộc, hoà mình vào cuộc sống hiện tại của đất nước, sống tốt đời, đẹp đạo. Trong
đó, "Tốt đời" là mọi công dân, dù theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo nào
cũng phải góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc, phải tham gia tích cực phong
trào đền ơn đáp nghĩa, xoá đói giảm nghèo, xây dựng dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ và văn minh, sống và làm việc theo pháp luật, tôn trọng tự
do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng; còn "Đẹp đạo" là tôn trọng và tạo điều
kiện thuận lợi để thực hiện tự do tín ngưỡng của những người có tín ngưỡng, đạo
gắn với đời, gắn với cộng đồng, gắn với dân tộc. Dân tộc có độc lập, tôn giáo mới
được tự do. Nước mất nhà tan, tôn giáo cũng trở thành nô lệ.
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc vai trò và ý nghĩa của sự kết hợp giữa “Tốt
đời” với “Đẹp đạo”, UBĐKCG Việt Nam đã phát động cuộc vận động “Sống tốt
đời, đẹp đạo” và UBĐKCG tỉnh đã tích cực tiếp thu, triển khai thực hiện có hiệu
66
quả với những hướng dẫn cụ thể như:
Một là: Động viên đồng bào Công giáo phát huy truyền thống đoàn kết,
tích cực tham gia lao động sản xuất, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, phát triển nghành nghề truyền
thống góp phần tăng sản phẩm thiết yếu phục vụ đời sống. Huy động được nhiều
nguồn lực để phát triển sản xuất, tạo thêm việc làm, giúp nhau thực hiện xoá đói,
giảm nghèo, hướng tới đảm bảo cho mỗi xứ, họ đạo không còn gia đình giáo dân
thiếu đói, tăng số hộ khá và giàu.
Hai là: Tuyên truyền sâu rộng trong đồng bào Công giáo về các chính
sách, pháp luật của Nhà nước, mọi người đều sống và làm việc theo pháp luật,
phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương xã hội, chấp hành tốt các chính sách của
Đảng và Nhà nước.
Ba là: Phát huy truyền thống “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Lá lành đùm lá
rách” vận động đồng bào Công giáo quan tâm và có những hoạt động thiết thực
giúp đỡ các gia đình liệt sĩ, thương binh nặng và những người có công với nước.
Làm tốt công tác từ thiện xã hội theo tinh thần sống đạo tình thương, dành sự
quan tâm đặc biệt đến người tàn tật, người già cô đơn, trẻ em mồ côi, cơ nhỡ và
những người có hoàn cảnh bất hạnh khác.
Bốn là: Tích cực phòng chống các tệ nạn xã hội như nạn cờ bạc, trộm cắp,
ma tuý, mại dâm… Phấn đấu trong từng cơ sở xứ, họ đạo không có người vi
phạm; làm tốt công tác hoà giải trong nội bộ nhân dân, bảo vệ an ninh Tổ Quốc
và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Năm là: Thực hiện tốt nếp sống văn hoá trong các sinh hoạt đạo - đời, đặc
biệt trong việc cưới, việc tang và các lễ hội Công giáo. Xây dựng nếp sống văn
hoá thể hiện cụ thể bằng nếp sống văn minh, lành mạnh tiến bộ. Tổ chức tốt các
điểm vui chơi, giải trí công cộng, thu hút thanh, thiếu niên vào các hoạt động
văn hoá, văn nghệ lành mạnh, tiến bộ.
Sáu là: Xây dựng gia đình hoà thuận “Ông bà mẫu mực, con cháu hiếu
thảo”, quan hệ tốt với những người xung quanh, nhất là người khác tôn giáo.
Cùng nhân dân địa phương tạo môi trường trong sạch, phấn đấu trong các xứ, họ
67
không còn nhà dột nát, có nhiều gia đình, xứ, họ đạo tiên tiến gương mẫu.
Bảy là: Quan tâm và đầu tư cho sự nghiệp giáo dục, trẻ em trong các gia
đình Công giáo đến tuổi phải được đi học 100%, không còn trẻ em bỏ học, nâng
cao trình độ dân trí, tích cực tham gia hoạt động trong lĩnh vực y tế, chăm sóc
sức khoẻ cộng đồng.
Tám là: Thực hiện tốt chương trình dân số kế hoạch hoá gia đình, sinh sản
có trách nhiệm và nuôi dạy con tốt. Mọi trẻ em phải được chăm sóc, bảo vệ
trong các điều kiện tốt nhất.
Chín là: Vận động đồng bào Công giáo ở từng độ tuổi nhiệt tình tham gia
vào các tổ chức, đoàn thể xã hội, góp phần xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh,
đoàn kết gắn bó với nhân dân trong khu dân cư.
Mười là: Xây dựng nếp sống đạo và thể hiện niềm tin tôn giáo bằng
những việc làm cụ thể hàng ngày, hoà nhập, gắn bó với dân tộc theo tinh thần
Thư chung năm 1980 của Hội đồng giám mục Việt Nam [15].
Để thực sự phát huy vai trò và trách nhiệm của đồng bào Công giáo trong
sự nghiệp đổi mới, để mỗi giáo dân yên tâm thờ phụng Thiên Chúa và cống hiến
cho đất nước,thực hiện tốt nội dung cuộc vận động thì Đảng, Nhà nước và Chính
quyền cần phải có những chính sách tôn giáo đúng đắn, có thái độ trước sau như
một với vấn đề tín ngưỡng thể hiện qua một số điểm như:
Thứ nhất, tôn trọng và bảo vệ tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn
giáo nào.
Thứ hai, thật sự đoàn kết và phát huy vai trò của đồng bào các tôn giáo
trong khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ công
dân, tích cực góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Thứ ba, cảnh giác, nhận rõ, kịp thời ngăn chặn và cương quyết đấu tranh,
xử lý mọi hình thức lợi dụng tôn giáo, vi phạm chính sách pháp luật, gây thiệt
hại cho cả Đạo và Đời, bài trừ mê tín dị đoan, nghiêm trị, loại trừ các âm mưu
68
và thế lực chống phá lợi ích của tổ quốc và nhân dân.
Thứ tư, Chăm lo phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho đồng bào các tôn giáo để họ thật sự yên tâm với cuộc sống "ấm no
phần xác, thong dong phần hồn".
Với những chủ trương đúng đắn, những việc làm thiết thực sẽ tạo nên sự
gặp gỡ đồng cảm, đồng hành, chia sẻ giữa Công giáo và Dân tộc, giữa Đạo và
Đời.
Nhìn chung, những năm qua dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, Chính
quyền kết hợp với Giáo hội, ở các Xứ, Họ đạo, bà con giáo dân tích cực hưởng
ứng các phong trào có ý nghĩa thiết thực như: "Gương sáng tốt đời, đẹp đạo",
"Toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư" ... và đã thu được
nhiều kết quả tốt đẹp: đa số gia đình công giáo đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá,
ngày càng nhiều gương mặt điển hình cho gương tốt vùng giáo, tiêu biểu như chị
Nguyễn Thị Hiệp ở xóm 10, xã Hưng Xuân, huyện Hưng Nguyên, chị Nguyễn
Thị Tam xóm Xuân Trang, Nghi Xuân, Nghi Lộc là những gương mặt điển hình
cho phong trào thi đua "Phụ nữ tích cực học tập, lao động, sáng tạo, xây dựng
gia đình hạnh phúc"; chị Lê Thị Đức Hạnh nữ tu dòng Mến thánh giá Xã Đoài
cùng các nữ tu trong dòng đã giúp đỡ hàng trăm lượt người có hoàn cảnh khó
khăn với số tiền hỗ trợ lên tới 220 triệu đồng; anh Nguyễn Công Hùng - người
được phong tặng danh hiệu Hiệp sỹ công nghệ thông tin quê ở Xã Đoài - Nghi
Lộc, mặc dù bản thân bị tật nguyền nhưng với tinh thần ham học và giàu tính
sáng tạo, anh đã thành lập được trung tâm dạy tin học và đã đào tạo cho hàng
trăm con em trong và ngoài huyện có thêm kiến thức Khoa học kỹ thuật, Công
nghệ thông tin… Bên cạnh đó đa số chức sắc hoạt động tôn giáo tuân thủ pháp
luật, hàng chục linh mục hoạt động yêu nước tiến bộ, Uỷ ban đoàn kết công giáo
các cấp ngày càng được củng cố với 21 chức sắc, tu sỹ tham gia và phát huy vai
trò vận động giáo dân thực hiện cuộc sống tốt đời đẹp đạo, bộ mặt vùng giáo
Nghệ An ngày càng khởi sắc. Nhiều mô hình tiên tiến của giáo dân ở các xứ đạo
đang không ngừng vươn lên xoá đói, giảm nghèo, như: xã Nghi Phương - xã anh
hùng của các lực lượng vũ trang nhân dân; làng Vạn Xuân ở Nghi Vạn, Nghi
Lộc; làng Vạn Lộc, Nam Đàn; xã Xuân Bài ở Đô Lương... Nhiều trí thức công
giáo Nghệ An đang không ngừng nắm bắt những thành tựu mới của khoa học kỹ
69
thuật, phát triển sản xuất, góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
Vừa qua, hoà chung trong không khí tưng bừng cả nước đi bầu cử quốc hội khoá
XII, 100% cử tri công giáo Nghệ An đã tích cực tham gia đi bầu cử ; 100%
thanh niên đến tuổi đăng ký nghĩa vụ quân sự và sẵn sàng lên đường nhập ngũ.
Bên cạnh đó các phong trào của quần chúng bảo vệ an ninh trật tự vùng giáo
cũng ngày càng phát triển sâu rộng và vững chắc. Thông qua các phong trào này
đã xây dựng và củng cố tốt hơn các tổ chức Đảng, Chính quyền, các đoàn thể
quần chúng, các tổ chức dân quân tự vệ, công an, tuần tra... từng bước tạo điều
kiện để nhân dân đảm nhiệm từng phần công tác giữ gìn TT, ATXH ở địa
phương.
Do được giáo dục tốt, quần chúng giáo dân ở nhiều nơi đã phát huy được
quyền làm chủ tập thể của mình, chủ động phát hiện và đấu tranh ngăn chặn
những hoạt động phạm pháp nhất là đối với những tên có hoạt động chống đối
cực đoan. Nhiều xã có phong trào quần chúng khá về mọi mặt, thực sự trở thành
pháo đài vững chắc cả về an ninh và quốc phòng. Thực tế ấy cho thấy, khi chúng
ta thật sự tin vào quần chúng giáo dân, phát huy được quyền làm chủ tập thể của
họ và khi đời sống của mọi người được đảm bảo thì giáo dân sẽ tự giác thực
hiện đúng đắn nghĩa vụ của mình, phát hiện và tích cực đấu tranh, vạch trần các
luận điệu xuyên tạc đường lối, chính sách của đảng và các hoạt động gây rối TT,
AT XH khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong buổi nói chuyện với đoàn Công an
Cu Ba vào tháng 8 năm 1966 đã nêu rõ: "Nếu giáo dục tốt thì giáo dân có thể
đấu tranh: Cha chỉ nói phần hồn thôi, còn phần đời thì để cho chính phủ. Một số
địa phương giáo dân có câu: Sống theo Đảng, chết theo Chúa. đối với người
cộng sản thì nếu họ nói chết rồi theo Chúa thì không sao”.
Ngày hôm nay, trên các Xứ, Họ đạo ở Nghệ An vẫn vang lên lời thánh ca
trìu mến "Trước khi là người công giáo tôi đã là người Việt Nam" - lời thánh ca
đó đã thể hiện một cách thân thương tấm lòng và trách nhiệm của người Công
giáo đối với đất nước. Là con em của dân tộc Việt Nam, chủ nhân của đất nước
Việt Nam, đối với người Công giáo, lòng yêu tổ quốc, yêu đồng bào không chỉ
đòi hỏi của đạo đức Thiên Chúa mà còn là tình cảm tự nhiên mọi người Việt
Nam phải có, đó cũng là tinh thần chung của Giáo hội công giáo Việt Nam gửi
70
đến các tín đồ công giáo "Yêu tổ quốc, yêu đồng bào đối với người công giáo
Việt Nam không phải là những tình cảm tự nhiên phải có, mà còn là một đòi hỏi
phúc âm, lòng yêu nước của chúng ta phải thiết thực, nghĩa là chúng ta phải ý
thức những vấn đề hiện tại của quê hương, phải hiểu biết chính sách pháp luật
của Nhà nước, tích cực cùng đồng bào cả nước góp phần xây dựng đất nước
Việt Nam giàu mạnh, tự do, hạnh phúc"(Thư chung Hội đồng giám mục Việt
Nam năm 1980).
2.2.4. Kết hợp tốt vấn đề xưng tội với khắc phục các căn bệnh xã hội
Để cộng đồng giáo dân thực sự "sống phúc âm giữa lòng dân tộc", bên
cạnh việc cần thiết phải có sự kết hợp giữa niềm tin tôn giáo với niềm tin xã hội
tiến bộ, giữa đẹp đạo với tốt đời, giữa giáo lý và luật pháp thì chúng ta cũng cần
đánh giá cao tác dụng của sự kết hợp giữa hành vi xưng tội với việc khắc phục
các căn bệnh xã hội trong công tác giữ gìn TT, AT XH ở vùng giáo. Giữa hành
vi xưng tội và việc khắc phục các căn bệnh xã hội có nhiều điểm tương đồng
thậm chí tương hỗ với nhau, cùng tác động tích cực đến hành vi của mỗi giáo
dân, giúp họ nhận ra lỗi lầm của mình, ăn năn sửa lỗi, ngày càng tiến bộ hơn
trong cuộc sống và trong cộng đồng, mọi người sống đoàn kết, yêu thương nhau
hơn, biết kết hợp hài hoà giữa lợi ích của cá nhân, cộng đồng và xã hội.
Theo người công giáo, xưng tội là tự kể lại tội lỗi mà giáo dân đã phạm
phải trước linh mục với một thái độ, tinh thần hết sức trung thực để mong được
tha thứ. Thú nhận tội lỗi là con người nhìn thẳng vào các tội lỗi mình đã phạm
phải và tự nhận trách nhiệm về các tội lỗi đó. Hành động này giúp cá nhân xem
xét, nhìn nhận lại mình, tìm cho mình một hướng đi, một hành động đúng đắn
hơn với mong muốn hoàn thiện bản thân theo lương tâm hoặc các chuẩn mực
mà mình hướng tới. Xét về mặt tâm lý, xưng tội đã ảnh hưởng tích cực đến đời
sống tinh thần của người công giáo. Mọi giáo dân đều cho rằng sau khi xưng tội
họ như trút bỏ được nỗi lo lắng, sợ hãi, mặc cảm, họ cảm thấy tự tin, thanh thản
hơn, sống hoà mình và gần gũi với mọi người hơn. Trong hành vi này, linh mục
đóng vai trò là người đại diện cho Thiên Chúa, giúp các giáo dân có thể gột rửa,
trút bỏ tội lỗi. Linh mục được xem như là người nhận tội và sau khi giáo dân
xưng tội xong, linh mục cho họ những lời khuyên răn, chỉ bảo và thay mặt Thiên
71
Chúa để tha tội cho họ (tất nhiên là tuỳ mức độ phạm tội để định đoạt xem tội lỗi
đó được tha hay còn phải qua thời gian thử thách chứ không phải bất cứ tội lỗi
nào sau khi xưng tội xong cũng được tha thứ, nếu như vậy thì tính chất linh
thiêng, giáo dục của hành vi xưng tội sẽ không còn mấy giá trị). Như vậy, xét ở
góc độ nào đó , xưng tội mang một ý nghĩa giáo dục quan trọng, bởi qua hành vi
xưng tội của giáo dân, linh mục có thể uốn nắn, răn dạy các giáo dân tránh sa
vào tội lỗi, hoặc nếu lỡ vi phạm thì phải nghiêm túc sửa chữa tội lỗi của mình để
sống kính Chúa, yêu người hơn. Đây là điểm tương đồng, tương hỗ lớn nhất
giữa hành vi xưng tội với hoạt động tuyên truyền đấu tranh, khắc phục các căn
bệnh xã hội mà Đảng, Nhà nước và Chính quyền địa phương phát động. Ý kiến
của số đông giáo dân Nghệ An khi được hỏi về vai trò của mối quan hệ này đã
cho biết: giữa hành vi xưng tội và việc khắc phục các căn bệnh xã hội có quan
hệ mật thiết với nhau, bởi lẽ theo họ, xưng tội là trút bỏ tội lỗi, tránh được tính
hư tật xấu, hoặc "khi phạm tội dù lớn hay nhỏ, nặng hay nhẹ là đều phạm đến
lòng yêu thương của Chúa, vì vậy chúng tôi phải đi xưng tội để được sạch tội
với Chúa và để xin lại lòng thương đó. Tóm lại là, lúc phạm tội là làm mất lòng
Chúa còn khi xưng tội là được làm hoà cùng Chúa" (ý kiến của một giáo dân
nam ở Hưng Tây, Hưng Nguyên). Theo Công giáo, tiêu chuẩn để đánh giá tội
của giáo dân là các đạo luật, điều răn của Chúa; trong đó có 10 điểm cốt yếu
trong giáo lý (10 điều răn của Thiên Chúa), nếu giáo dân nào vi phạm thì coi
như mắc tội với Chúa. Theo các tiêu chuẩn này, giá trị cao nhất và tuyệt đối là
kính Chúa. Thực ra, có kính Chúa, có tin vào sự "quan phòng" của Chúa thì giáo
dân mới nghiêm túc thực hiện tốt các điều răn còn lại cũng như thực hiện các
nghi lễ tôn giáo, trong đó có hành vi xưng tội. Theo quy định của công giáo, một
năm mỗi giáo dân phải đi xưng tội ít nhất là một lần, còn lại là tuỳ thuộc vào số
lần phạm tội, mức độ phạm tội và ý thức tôn giáo của họ. Qua khảo sát 2 xã giáo
toàn tòng ở Nghệ An là Nam Lộc - Nam Đàn và Quỳnh Thanh - Quỳnh Lưu cho
thấy, trung bình một năm giáo dân xưng tội 2 đến 3 lần và giáo dân nữ thường
có nhu cầu xưng tội nhiều hơn.
Hiện nay, ở đa số địa phương vùng giáo các linh mục tiến bộ đã góp phần
to lớn vào phong trào đấu tranh chống các loại tệ nạn xã hội, bước đầu có sự
72
phối hợp, cộng tác, giúp đỡ Chính quyền trong việc đấu tranh chống các loại tội
phạm, ngăn chặn và khắc phục các căn bệnh xã hội. Thông qua hành vi xưng tội
của tín đồ các linh mục đã giáo dục, khuyên bảo hoặc với những tín đồ đã phạm
tội thì tích cực cảm hoá, động viên họ tự giác ra đầu thú, nhận tội trước Chính
quyền, Chính vì vậy, nhìn chung ở các xứ, họ đạo Nghệ An tình trạng công dân
giáo dân vi phạm các tệ nạn xã hội là rất ít và xét trên tổng thể thì dường như
các xứ, họ đạo đã làm rất tốt công tác bài trừ các loại tệ nạn xã hội: nói không
với ma tuý, mại dâm, HIV/ASD, cờ bạc, rượu chè... điều này cũng hoàn toàn
phù hợp với đường hướng của giáo hội Việt Nam nói chung, giáo hội Nghệ An
nói riêng trong phong trào xây dựng xứ, họ đạo an toàn, làm chủ, không có tệ
nạn xã hội, xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa.
Vừa qua trong không khí tưng bừng của Đại hội những người Công giáo
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc khoá V của tỉnh nhà, Đại hội đã nhất trí đề ra
Nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể cho UBĐKCG tỉnh và UBĐKCG các huyện nhiệm
kỳ 2007-2012 với những nội dung cụ thể như sau:
1. Động viên đồng bào Công giáo phát huy truyền thống đoàn kết, tích
cực tham gia lao động sản xuất, đặc biệt trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp,
công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Phát triển nghành nghề truyền thống góp
phần làm tăng sản phẩm thiết yếu phục vụ đời sống. Huy động được nhiều
nguồn lực để phát triển sản xuất, tạo việc làm, giúp nhau thực hiện xoá đói giảm
nghèo. Hướng tới bảo đảm mỗi xứ, họ không còn gia đình giáo dân thiếu đói,
tăng tỷ lệ hộ khá và giàu từ 33,6% lên trên 50%, giảm tỷ lệ hộ đói nghèo xuống
dưới 17%.
2. Tuyên truyền sâu rộng trong đồng bào Công giáo về các chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, mọi người đều sống và làm việc
theo pháp luật. Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương xã hội, chấp hành tốt các
chính sách của Đảng và Nhà nước.
3. Phát huy truyền thống “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Lá lành đùm lá
rách” vận động đồng bào Công giáo có những hoạt động thiết thực giúp đỡ các
gia đình liệt sĩ, thương binh nặng và những người có công với nước. Làm tốt
73
công tác từ thiện xã hội theo tinh thần sống đạo tình thương, dành sự quan tâm
đặc biệt đến người tàn tật, người già cô đơn, trẻ em mồ côi, cơ nhỡ và những
người có hoàn cảnh bất hạnh khác.
4. Tích cực phòng chống các tệ nạn xã hội. Phấn đấu trong từng xứ, họ
đạo không có người vi phạm; làm tốt công tác hoà giải trong nội bộ nhân dân,
bảo vệ an ninh Tổ Quốc và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
5. Thực hiện tốt nếp sống văn hoá trong các sinh hoạt đạo và đời, đặc biệt
trong việc cưới, việc tang và các lễ hội. Xây dựng nếp sống văn hoá thể hiện cụ
thể bằng nếp sống văn minh, lành mạnh tiến bộ. Tổ chức tốt các điểm vui chơi,
giải trí công cộng, thu hút thanh, thiếu niên vào các hoạt động văn hoá, văn nghệ
bổ ích.
6. Xây dựng gia đình hoà thuận “Ông bà mẫu mực, con cháu hiếu thảo”,
quan hệ tốt với những người xung quanh. Cùng nhân dân địa phương tạo môi
trường xanh sạch đẹp đường làng ngõ xóm; phấn đấu trong các xứ, họ có nhiều
gia đình được công nhận gia đình văn hoá, xứ, họ tiên tiến gương mẫu, cụ thể
mỗi năm tăng khoảng 1800-2000 gia đình văn hoá.
7. Quan tâm và đầu tư cho sự nghiệp giáo dục, trẻ em đến tuổi phải được
đi học 100%, không có trẻ em bỏ học; có nhiều hình thức quan tâm giúp đỡ trẻ
em nghèo, chú trọng tài năng trẻ; số học sinh thi đỗ vào các trường cao đẳng, đại
học đạt tỷ lệ năm sau cao hơn năm trước; tích cực tham gia hoạt động trong lĩnh
vực y tế, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.
8. Thực hiện tốt chương trình dân số gia đình và trẻ em, sinh sản có trách
nhiệm và nuôi dạy con tốt. Mọi trẻ em phải được chăm sóc, bảo vệ trong các
điều kiện tốt nhất. Phấn đấu hạ tỷ lệ phát triển dân số xuống dưới 1%.
9. Vận động đồng bào ở từng độ tuổi nhiệt tình tham gia vào các tổ chức,
đoàn thể xã hội, góp phần xây dựng cơ sở vững mạnh, đoàn kết gắn bó với nhân
dân trong khu dân cư.
10. Xây dựng nếp sống đạo và thể hiện niềm tin tôn giáo bằng những việc
làm cụ thể hàng ngày; hoà nhập, gắn bó với Dân tộc theo tinh thần Thư chung
của Hội đồng giám mục Việt Nam.
74
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY MẶT TÍCH CỰC VÀ KHẮC PHỤC MẶT HẠN CHẾ CỦA ĐẠO CÔNG GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC GIỮ GÌN TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI Ở VÙNG GIÁO NGHỆ AN HIỆN NAY
Trên cơ sở phân tích thực trạng TT, ATXH ở vùng giáo Nghệ An hiện
nay và ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với việc giữ gìn TT, ATXH chúng ta
thấy rõ tính chất hai mặt của sự ảnh hưởng này. Đó là, bên cạnh những ảnh
hưởng tích cực, đáng ghi nhận và phát huy thì vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại cần
khắc phục. Việc phát huy mặt tích cực và khắc phục những hạn chế đó là công
việc lâu dài cần có những giải pháp đúng đắn, phù hợp với "ý Đảng, lòng dân".
Trong khuôn khổ của một luận văn cao học, tác giả đề xuất một số giải
pháp sau:
3.1 Tăng cường tuyên truyền, giáo dục đường lối của Đảng, chính
sách và pháp luật của Nhà nước, nâng cao về mặt nhận thức
Tại Đại hội những người Công giáo xây dựng và bảo vệ Tổ quốc khoá V
tỉnh nhà được tổ chức vào đầu tháng 10 năm 2007, Đại hội đã đưa ra một hệ
thống các giải pháp nhằm thực hiện tốt những nhiệm vụ và mục tiêu đề ra, trong
đó giải pháp đầu tiên được đề cập đến là: “Tăng cường công tác tuyên truyền
phổ biến các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, nâng cao
nhận thức để bà con thực hiện tốt đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước, thực hiện những quy định về các hoạt động tín ngưỡng,
tôn giáo. Đồng thời thực hiện tốt tôn chỉ mục đích trong Điều lệ của UBĐKCG
Việt Nam quy định”. Tác giả hoàn toàn thống nhất với giải pháp trên của Đại
hội và cụ thể hoá giải pháp đó như sau:
3.1.1. Đối với tầng lớp chức sắc, chức việc
Trong cộng dồng giáo dân, chức sắc, chức việc là những người có uy tín,
có tiếng nói rất quan trọng trong một số lĩnh vực đời sống xã hội, mà trước hết
phải kể đến là công tác giữ gìn TT, ATXH ở vùng giáo. Hàng ngũ này hiện nay
có 4 xu hướng sau: Một là, tiến bộ vì lợi ích dân tộc; Hai là, ôn hoà tuân thủ
pháp luật; Ba là, thích nghi; Bốn là, chống đối cực đoan. Trên cơ sở nắm tình
75
hình, phân loại thái độ chính trị của hàng ngũ chức sắc, chức việc để có phương
pháp vận động, tranh thủ hàng ngũ này và những người có uy tín trong cộng
đồng giáo dân tham gia xây dựng và phát triển phong trào giữ gìn TT, ATXH
bằng nhiều hình thức khác nhau. Làm tốt công tác này sẽ tạo ảnh hưởng lớn đối
với đông đảo quần chúng giáo dân. Càng tranh thủ được nhiều sự ủng hộ của
chức sắc, chức việc đối với chính quyền thì càng thêm sức mạnh và đạt hiệu quả
cao trong công tác giữ gìn TT, ATXH.
Để làm tốt công tác này, trước hết cần phải tuyên truyền giáo dục tín đồ
chức sắc tôn giáo phát huy chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết của người
Việt Nam nói chung và của tín đồ Công giáo nói riêng. Bên cạnh đó, cần năng
cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên chức sắc tín đồ về chủ trương của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước đối với tôn giáo. Mọi công dân cần ý thức
rằng: Đảng và Nhà nước luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và tự
do không tín ngưỡng tôn giáo. Giữa đạo đức công giáo và đạo đức XHCN có
nhiều điểm tương đồng cần phát huy, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng
một xã hội tốt đẹp hơn. Các bước để thực hiện giải pháp này như sau:
Một là, đưa các văn bản của Đảng, Nhà nước và Chính quyền về công tác
tôn giáo thực thi trong cuộc sống. Thông qua đó các chức sắc, chức việc và quần
chúng giáo dân hiểu rõ hơn về nội dung, ý nghĩa và nhất là những quy định về
quản lý Nhà nước của những văn bản đó. Cập nhật những thông tin mới nhất về
chính sách tôn giáo và cụ thể hoá một cách đầy đủ, rõ ràng sự tôn trọng của xã
hội đối với quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của mọi người, tạo hành lang pháp
lý để đấu tranh ngăn chặn chống lại mọi hoạt động lợi dụng tôn giáo chống phá
chế độ xã hội, chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Hai là, Kiên trì tranh thủ tình cảm, tạo niềm tin tiến tới vận động thuyết
phục đội ngũ chức sắc, chức việc ủng hộ việc thực hiện các chủ trương, chính
sách của Đảng và Chính quyền địa phương.
Qua thực tế ở nhiều địa phương, nhiều linh mục và các chức sắc tôn giáo
đã thể hiện rõ sự đồng tình ủng hộ các phong trào chung của tỉnh nhà, số đông
đã hợp tác với Chính quyền địa phương để tháo gỡ những bức xúc, vướng mắc
liên quan đến chính sách tôn giáo, vận động tín đồ thực hiện tốt nghĩa vụ công
76
dân, bài trừ các tệ nạn xã hội, nâng cao trách nhiệm gia đình, giáo dục con em
không phạm tội và tệ nạn xã hội, góp phần xây dựng các xứ, họ đạo đoàn kết, an
toàn, văn hoá.
Ba là, Chính quyền các cấp thường xuyên gặp gỡ, nắm bắt tâm tư, nguyện
vọng, cố gắng đến mức cao nhất trong việc đáp ứng các nhu cầu chính đáng
trong cuộc sống của chính quyền giáo dân.
Đây là một việc làm thiết thực thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, tính hơn
hẳn về trách nhiệm trước dân của chính quyền cách mạng so với bất kỳ chế độ
nào khác. Làm tốt công tác này sẽ là sự tác động cơ bản, hợp quy luật, làm phát
sinh những tình cảm tốt đẹp với chế độ xã hội, làm hình thành, củng cố sâu sắc
hơn tình cảm gắn bó với cách mạng, với dân tộc, với CNXH trong lòng những
người theo đạo, gắn kết niềm tin tôn giáo với niềm tin xã hội tiến bộ.
Bốn là, cần phải nắm vững tư tưởng, thái độ của đội ngũ chức sắc, chức
việc để kịp thời tuyên truyền, động viên, khuyến khích những cá nhân có đóng
góp tích cực cho phong trào giữu gìn TT, ATXH; đồng thời với những chức sắc,
chức việc có những hoạt động tôn giáo sai trái, gây ảnh hưởng xấu đối với TT,
ATXH ở vùng giáo nói riêng và xã hội nói chung thì chính quyền các cấp cũng
cần kịp thời trao đổi, nhắc nhở tuỳ cấp độ, tính chất của từng vụ việc.Với những
vụ việc có tính chất nghiêm trọng thì cần phải tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng
hộ của quần chúng giáo dân để đấu tranh, tác động đến đội ngũ chức sắc, chức
việc này.
3.1.2. Đối với quần chúng giáo dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Chính quyền ta là chính quyền dân chủ,
bất kỳ việc to, việc nhỏ đều phải dựa vào lực lượng của nhân dân để phụng sự
lợi ích của nhân dân. Việc giữ gìn trật tự an ninh càng phải dựa vào lực lượng
của nhân dân". Thật vậy, trong mọi hoạt động nói chung, trong phong trào giữ
gìn TT, ATXH nói riêng thì quần chúng giáo dân chính là động lực chính và là
động lực mạnh, "dễ vạn lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng
xong". Muốn phát huy được sức mạnh của lực lượng cách mạng đông đảo này,
77
chúng ta cần quán triệt một số vấn đề sau:
Trước hết phải xoá bỏ mặc cảm phân biệt đồng bào có đạo và đồng bào
không có đạo, xác định giáo dân trước hết cũng là công dân. Trên cơ sở đó đến
với tín đồ một cách cởi mở, tin cậy, gần gũi và tôn trọng. Qua đó, tuyên truyền,
giáo dục cho họ hiểu đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước nhất là các
nội dung về tự do, tín ngưỡng.
Hai là, Phải hết sức quan tâm, làm tốt việc phổ biến, giải thích đường lối,
chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, nhất là chính sách đối
với tôn giáo để quần chúng hiểu rõ. Cần lấy thực tiễn để chứng minh rằng, Đảng
và Nhà nước ta từ trước đến nay luôn đặt lợi ích dân tộc, lợi ích của nhân dân
lên trên hết, mọi chủ trương chính sách của Đảng đều nhằm chăm lo đến hạnh
phúc, đời sống của nhân dân trong đó có đồng bào theo đạo. Bên cạnh đó cần
nhắc nhở quần chúng đề cao cảnh giác, tỉnh táo, phân biệt giữa hoạt động tôn
giáo bình thường với những hoạt động sai trái để quần chúng không nghe, không
làm theo những chủ trương mang tính chất chính trị, phản động của những phần
tử xấu. Phải phân tích để họ thấy được hoạt động của những phần tử xấu núp
dưới bóng giáo hội không những gây hại cho cách mạng, chia rẽ khối đại đoàn
kết toàn dân, mà còn làm ảnh hưởng xấu đến Giáo hội. Chính chúng là kẻ đã gây
khó khăn cho những sinh hoạt tôn giáo bình thường. Chỉ có làm cho quần chúng
hiểu chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhận rõ âm mưu của những
phần tử xấu trong giáo hội thì quần chúng mới đồng tình, ủng hộ các chủ trương,
biện pháp đấu tranh của ta, thậm chí họ còn tự giác đứng lên đấu tranh, phê phán
những việc làm sai trái của bọn phản động cũng như của Giáo hội.
Ba là, phải tin vào quần chúng, dựa vào quần chúng, xác lập và phát huy
quyền làm chủ tập thể của quần chúng, thực hiện đầy đủ quy chế dân chủ ở cơ
sở. Thực tiễn cho thấy, khi chúng ta thật sự tin vào quần chúng, phát huy được
quyền làm chủ tập thể của họ thì chắc chắn giáo dân sẽ tự giác thực hiện đúng
đắn nghĩa vụ của mình, phát hiện và tích cực đấu tranh với mọi hoạt động vi
phạm TT, ATXH, ủng hộ chính quyền phòng ngừa và xử lý các hoạt động lợi
dụng tôn giáo. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng khẳng định: "Khi nhân dân
hiểu rõ nghĩa vụ công dân của mình, khi công an được nhân dân giúp sức thì lũ
78
gian tế không thể lọt lưới và trị an trật tự sẽ được hoàn toàn" (Công báo. Nhân
dân, ngày 18/08/1955). Bên cạnh đó, cần thực hiện đầy đủ quy chế dân chủ ở cơ
sở - nghĩa là, phải tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để giáo dân giám nói lên suy
nghĩ của mình về Đảng, Chính quyền, về đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước cũng như những tâm tư, nguyện vọng của họ. Đây chính là cơ
sở để xây dựng, tuyên truyền và tìm ra các phương thức phù hợp thực hiện các
chủ trương của Đảng và chính sách, luật pháp của Nhà nước nhằm nâng cao đời
sống mọi mặt của cộng đồng này.
Bốn là, song song với việc tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ về chính trị,
phải thực sự chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và các quyền lợi thiết thực
khác của quần chúng.
Năm là, vận động, tập hợp, tổ chức quần chúng giáo dân vào các đoàn thể
cách mạng, không để quần chúng bị lôi kéo vào các tổ chức hội, đoàn tôn giáo
nhất là những hội đoàn mang tính chất phản động.
Trong tình hình hiện nay, khi quần chúng giáo dân có nhu cầu tham gia
sinh hoạt các hội đoàn tôn giáo thì chúng ta cũng không nên dùng mệnh lệnh
hành chính cấm đoán. Song cũng không vì vậy mà để mặc cho Giáo hội tổ chức,
phát triển hội đoàn một cách tự do, tràn lan. Vấn đề là cần tổ chức ra các đoàn
thể cách mạng và phát huy vai trò của các đoàn thể này trong cộng đồng. Đối
với thanh, thiếu niên, phụ nữ, phụ lão, ngoài yêu cầu, nội dung vận động đã nêu
trên ta cần có những yêu cầu, nội dung, hình thức giáo dục, vận động phù hợp
với lứa tuổi và giới tính của họ.
- Đối với thanh - thiếu niên: Cần dìu dặt họ tiến bộ về tư tưởng, không để
họ trở thành những người lạc hậu, cuồng tín, chống đối cách mạng. Phải tổ chức
thanh - thiếu niên thành lực lượng nòng cốt trong các hoạt động văn hoá, văn
nghệ, thể dục thể thao; phải là những người tích cực đấu tranh với những tập tục
lạc hậu trong sinh hoạt tôn giáo. Phải tập hợp họ vào các tổ chức đoàn thanh
niên, đội thiếu niên để thông qua sinh hoạt của các tổ chức này nâng cao giác
ngộ chính trị, giảm bớt những sinh hoạt tôn giáo. Muốn vậy, phải xây dựng,
củng cố tổ chức đoàn thanh niên, đội thiếu niên trong các nhà trường, làng xã
vững mạnh với các nội dung, hình thức sinh hoạt nhẹ nhàng nhưng phong phú,
79
hợp với tuổi trẻ vùng giáo.
- Đối với phụ nữ: Cần làm cho các bà, các chị không bị ảnh hưởng, tác
động của các phần tử xấu trong giáo hội. Không gây cản trở chồng, con tham gia
các hoạt động chính trị - xã hội yêu nước, không thúc ép chồng con phải bỏ sinh
hoạt Đảng, đoàn thể để đi lễ, xưng tội, tham gia các tổ chức do giáo hội lập ra.
Động viên chị em tích cực lao động sản xuất phát triển kinh tế, thực hiện nếp
sống văn minh, gia đình văn hoá mới, sinh đẻ có kế hoạch.
- Đối với phụ lão: Do vai trò, uy tín của phụ lão đối với gia đình, xã hội
và giáo hội nên cần quan tâm đến đời sống, sức khoẻ của các cụ, nhất là các cụ
già neo đơn không nơi nương tựa, các cụ thuộc gia đình chính sách. Qua đó,
động viên các cụ tích cực động viên con cháu hăng hái lao động sản xuất, tham
gia các phong trào ở địa phương, làm nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc. Vận động các cụ
gương mẫu bỏ bớt các tập tục lạc hậu, rườm rà, tốn kém trong sinh hoạt tôn
giáo; đấu tranh, phê phán với những việc làm sai chính sách, pháp luật của các
linh mục, của giáo hội.
Thời gian qua, công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng giáo dân ở
Nghệ An được tổ chức đa dạng, phong phú và bám sát mục tiêu: vận động đồng
bào có đạo đoàn kết lương - giáo, đoàn kết dân tộc, đẩy mạnh sản xuất, thực
hiện tốt chính sách pháp luật của đảng và nhà nước, các quy định về sinh hoạt
tôn giáo, phát huy tinh thần "kính Chúa, yêu nước", thực hiện tốt 10 nội dung
cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư",
"sống tốt đời, đẹp đạo", góp phần giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh
quốc gia và trật tự an toàn xã hội, làm thất bại âm mưu "Diễn biến hoà bình" của
các thế lực thù địch. Các văn bản của Đảng, Nhà nước về công tác tôn giáo được
các địa phương, đơn vị chủ động xây dựng kế hoạch, tổ chức triển khai kịp thời
cho các cán bộ, đảng viên, chức sắc, chức việc và đồng bào giáo dân học tập,
thực hiện.
Các đoàn thể phụ nữ, cựu chiến binh đã cử cán bộ phụ trách công tác tôn
giáo xuống tận cơ sở để vừa tuyên truyền, vừa tổ chức tập huấn cho cán bộ, hội
viên của mình. Riêng Công an tỉnh đã tổ chức tập huấn nghiệp vụ về công tác
tôn giáo cho cán bộ, chiến sỹ, trưởng, phó công an xã làm cônng tác tôn giáo từ
80
tỉnh đến cơ sở. Theo báo cáo của Công an tỉnh thì có gần 300 cán bộ, chiến sỹ
đã tham gia các lớp tập huấn này và đạt kết quả cao. Chính quyền các địa
phương thông qua hệ thống truyền thanh cơ sở, các cụm liên gia tự quản về an
ninh trật tự, các đoàn thể thông qua sinh hoạt để lồng ghép vào nội dung tuyên
truyền. Đặc biệt một số địa phương đã tổ chức các đợt tuyên truyền, vận động
tập trung tại các địa bàn có đông đồng bào theo đạo như: Nam Đàn tổ chức tại
xã Hồng Long, Anh Sơn tổ chức tại xã Hùng Sơn, Hội phụ nữ thị xã Cửa Lò tổ
chức tại phường Nghi Tân, Nghi Thuỷ ... Đội ngũ báo cáo viên đã thể hiện được
tinh thần trách nhiệm, chuyển tải các nội dung đến địa bàn khu dân cư.
Nhờ sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa Mặt trận, các nghành, đoàn thể...
nên 10 năm qua đã có hơn 1.550 lượt chức sắc trong ban hành giáo và gần 24
vạn lượt giáo dân được tuyên truyền về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước đối với tôn giáo và công tác bảo vệ an ninh trật tự trong vùng giáo. Thông
qua công tác tuyên truyền, trình độ nhận thức của các tín đồ, các chức sắc được
nâng lên một bước, nhiều linh mục đã đồng tình hợp tác với Chính quyền để tiến
hành phát động phong trào quần chúng bảo vệ TT, ATXH vùng giáo.
3.2. Nghiên cứu vận dụng giáo lý, giáo luật đạo Công giáo vào công
tác giữ gìn trật tự, an toàn xã hội
Theo tư duy triết học biện chứng, muốn tác động, cải tạo khách thể thì
trước hết chúng ta phải hiểu biết về khách thể, đó là đòi hỏi, là yêu cầu tất yếu
trong bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào. Với đạo Công giáo cũng vậy. Để phát huy
những ảnh hưởng tích cực và khắc phục những hạn chế của đạo Công giáo đối
với việc giữ gìn TT, ATXH ở vùng giáo thì trước hết chúng ta phải có những
hiểu biết sâu sắc về hệ thống giáo lý, giáo luật của đạo Công giáo. Yêu cầu này
bắt nguồn từ một số lý do cơ bản sau:
Một là, giữa giáo lý của đạo Công giáo với những quan điểm đạo đức
XHCN, pháp lụât của Nhà nước ta có nhiều điểm tương đồng, tương hỗ cho
nhau (điều này tác giả đã trình bày ở tiểu tiết 2.1.2 và 2.1.4). Ngay cả trong giáo
luật - là sự thể chế hoá mối quan hệ đời sống tôn giáo giữa các tín hữu với nhau
giữa tín hữu với giáo hội - bao gồm 7 quyển với 1752 điều cũng có rất ít nội
81
dung mâu thuẫn với pháp luật của Nhà nước ta. Vì vậy, trong công tác tôn giáo,
chúng ta cần đặc biệt phát huy điểm tương đồng này, tạo tâm lý gần gũi, gắn kết
giữa niềm tin tôn giáo với niềm tin xã hội tiến bộ. Phải bằng mọi cách để giáo
dân thấy được kính Chúa và yêu nước là không mâu thuẫn, đúng như lời dạy của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Những việc chính phủ làm, nhân dân làm đều hợp với
tinh thần phúc âm, cho nên đồng bào công giáo làm tròn chính sách của chính
phủ cũng là làm tròn tinh thần của Chúa Cơ Đốc". Ngược lại, với những hoạt
động làm sai chính sách pháp luật của Nhà nước, thông thường cũng đi ngược
lại bản chất tôn giáo và trái với kinh thánh. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay
cần phải chú ý giáo dục, giải thích cho quần chúng tín đồ hiểu được các quy
định của pháp luật trong quản lý các hoạt động có liên quan đến tôn giáo, làm
cho họ hiểu rằng, bất kỳ hoạt động nào trong xã hội cũng phải tuân thủ pháp
luật, hoạt động tôn giáo cũng vậy. Những giáo dân ngoan đạo, sùng kính Chúa
vẫn có thể là những công dân tốt hoạt động tích cực cho đời sống kinh tế, văn
hoá, khoa học - kỹ thuật... sống hoà cùng xã hội, cùng dân tộc và CNXH.
Hai là, xét trong cộng đồng giáo dân ta thấy, đối với các giáo sỹ (nhất là
từ hàng ngũ linh mục trở lên) là những nhà trí thức công giáo có trình độ thần
học, có sự hiểu biết sâu về nguyên tắc và phong cách ứng xử giao tiếp, nắm chắc
giáo lý, giáo luật... vì vậy khi tiếp xúc với họ, nếu chúng ta không nghiên cứu kỹ
giáo lý, giáo luật để vận dụng trong công tác giáo dục, thuyết phục, tranh thủ sự
đồng tình... thì sẽ khó đạt kết quả cao.
Ba là, đối với quần chúng giáo dân, đa số do đời sống còn gặp nhiều khó
khăn, trình độ dân trí thấp nên sự hiểu biết của quần chúng về giáo lý và đặc biệt
là giáo luật còn hết sức sơ lược, thậm chí mơ hồ. Lợi dụng hạn chế này của quần
chúng giáo dân, một số phần tử xấu đã kích động lôi kéo họ vào những hoạt
động tôn giáo không những trái với chủ trương, chính sách của đảng và Nhà
nước mà còn trái với đạo đức, giáo lý, giáo luật của đạo công giáo. Trong trường
hợp này, quần chúng giáo dân tham gia với một ý thức rất bồng bột là để "bảo
vệ đức tin, bảo vệ đạo". Điều này cho thấy sự cần thiết phải nghiên cứu kỹ giáo
lý, giáo luật để vận dụng vào công tác vận động, giải thích cho quần chúng giáo
82
dân hiểu rõ thực chất những việc làm của bề trên, của BHG trong rất nhiều
trường hợp là vi phạm giáo lý, giáo luật. Từ đó tranh thủ sự đồng tình ủng hộ
hoặc chí ít không chống lại việc xử lý của chính quyền. Cao hơn, việc này giúp
quần chúng phân biệt được đâu là hoạt động tôn giáo thuần tuý, đâu là lợi dụng
tôn giáo để đề cao tinh thần cảnh giác, đấu tranh với những hoạt động sai trái.
Các phần tử lợi dụng tôn giáo sẽ mất chỗ dựa tinh thần để lừa mị giáo dân chống
lại chính quyền.
Bốn là, thực tế cho thấy, đa số cán bộ "tôn giáo vận" còn ít am hiểu về
giáo lý, giáo luật, do đó thường xảy ra những việc đáng tiếc đối với uy tín và uy
thế của chính quyền. Đồng bào giáo dân vừa là công dân, vừa là tín đồ. Vận
động tín đồ phải bằng chính những mặt tích cực của giáo lý, đạo đức tôn giáo.
Người cán bộ am hiểu giáo lý, giáo luật sẽ thuận lợi trong việc tiếp xúc với tín
đồ, chức sắc, dễ dàng vượt qua rào cản bất đồng tôn giáo, gây được cảm tình với
họ, từ đó gắn được nội dung cần vận động với những nội dung tích cực của giáo
lý, giáo luật, hiệu quả vận động sẽ cao. Điều này đòi hỏi, các cấp chính quyền,
các nghành, đoàn thể và cán bộ làm công tác tôn giáo ngoài việc nhận thức đúng
về tôn giáo và nắm vững chủ trương, chính sách của đảng, Nhà nước về công tác
tôn giáo còn phải nắm vững giáo lý, giáo luật, hiểu biết đầy đủ, đúng các yếu tố
nội tại của tôn giáo. Các cán bộ chuyên trách ở vùng giáo phải được tập huấn về
giáo lý, giáo luật. Cần tìm những người có trình độ cao, am hiểu vấn đề giúp
Tỉnh trong công việc đó.
Như vậy, việc nghiên cứu vận dụng giáo lý, giáo luật vào công tác giữ gìn
TT, ATXH ở vùng giáo chính là một hướng tiếp cận linh động, nhạy bén và đạt
hiệu quả cao. Qua đó chúng ta sẽ có tri thức tổng quát về khía cạnh xã hội trần
thế của giáo hội. Tín hữu công giáo có quyền lợi và nghĩa vụ chấp hành giáo lý,
giáo luật trong sống đạo và hành đạo. Vì vậy, tìm hiểu, vận dụng giáo lý, giáo
luật giúp chúng ta nắm được điều quy định tín hữu được làm và không được làm
để vận dụng vào công tác quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo và vận động
quần chúng có đạo, chức sắc tôn giáo chấp hành tốt nghĩa vụ công dân, sống tốt
83
đời, đẹp đạo.
3.3. Củng cố bộ máy cán bộ làm công tác tôn giáo, duy trì bảo vệ trật
tự, an toàn xã hội vùng giáo, chống địch lợi dụng đạo Công giáo
Tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề hết sức nhạy cảm, đòi hỏi những người
làm công tác tôn giáo phải thực sự có kiến thức về tôn giáo, có lòng nhiệt huyết
và cách nhìn nhận khách quan, khoa học về tôn giáo. Riêng ở Nghệ An, đội ngũ
cán bộ làm công tác này còn rất nhiều bất cập, đa số các đồng chí có vốn kiến
thức chuyên môn về lĩnh vực của mình khá khiêm tốn bới trước đây hầu hết họ
được đào tạo các nghành nghề khác và đã từng công tác ở các lĩnh vực ít liên
quan đến tôn giáo, hoặc có những đồng chí làm công tác tôn giáo chỉ là "kiêm
nhiệm" mà thôi. Điều này đã làm cho đội ngũ cán bộ làm công tác này của tỉnh
nhà vốn đã mỏng lại thêm yếu. Thêm vào đó, sự quan tâm, đánh giá về đội ngũ
này chưa thực sự đặt ra đúng mức, điều này cũng gây ảnh hưởng tâm lý không
tốt đối với các cán bộ tôn giáo, làm cho họ chưa thật sự toàn tâm toàn ý với công
việc... Tất cả những hạn chế trên đã trở thành lực cản, gây rất nhiều khó khăn
cho công tác tôn giáo, đặc biệt là trong việc tiếp xúc, vận động, thuyết phục các
chức sắc, chức việc và quần chúng giáo dân khi có các hoạt động tôn giáo vi
phạm TT, ATXH.
Qua số liệu khảo sát tại Đề án của Ban tổ chức Tỉnh uỷ năm 2003 cho
thấy trong số 617 uỷ viên thường vụ đảng uỷ của các xã có đồng bào theo đạo
công giáo thì chỉ có 4 đồng chí uỷ viên thường vụ gốc giáo. Đây là một con số
chưa tương xứng với số lượng cộng đồng giáo dân trong tỉnh. Hơn nữa cán bộ
chủ chốt cấp xã gốc giáo so với số lượng đảm nhận các cương vị quan trọng là
không đáng kể. Điều này được nhận thấy qua thống kê của Ban tổ chức Tỉnh uỷ
với số liệu sau: Bí thư đảng uỷ xã: 2/161 bí thư đảng uỷ (tại hai xã giáo toàn
tòng); 1/161 chủ tịch uỷ ban nhân dân xã; 1/161 phó chủ tịch uỷ ban nhân dân
xã; 1/161 chủ tịch hội đồng nhân dân; 2/161 phó chủ tịch hội đồng nhân dân;
28/780 trưởng các đoàn thể lại càng không tương xứng; cùng với điều đó số
đảng viên giáo dân đảm nhận các cương vị quan trọng tại huyện uỷ, uỷ ban nhân
dân huyện và ở tỉnh hầu như không có. Đây cũng là một trong những nguyên
84
nhân quan trọng khiến cho cộng đồng giáo dân chưa tin tưởng vào thiện chí của
Đảng và Nhà nước và gây ra không ít khó khăn trong công tác vận động quần
chúng tín đồ.
Đánh giá về năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo tỉnh nhà
hiện nay, Ban tôn giáo tỉnh đã tiến hành điều tra xã hội học và thu được kết quả
sau đây:
(Kết quả rút ra từ 500 phiếu dành cho cán bộ, đảng viên và 300 phiếu
dành cho bà con giáo dân)
Về năng lực Cán bộ, đảng viên Bà con giáo dân đánh
đánh giá giá
Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)
Đáp ứng yêu cầu 185 37 56 18,6
Có đáp ứng nhưng hạn chế 21 4,4 20 7,0
Không đáp ứng yêu cầu 290 57,9 210 69,8
Không có ý kiến 4 0,8 14 4,7
Kết quả trên cho thấy rằng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo của tỉnh
nhà còn quá yếu. Có tới 57,9% cán bộ, đảng viên và 69,8% bà con giáo dân cho
rằng năng lực của đội ngũ này không đáp ứng yêu cầu công việc. Điều này có
nghĩa là các cấp lãnh đạo tỉnh nhà chưa thật sự quan tâm tới công tác đào tạo và
đạo tạo lại đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo đồng thời cũng chứng tỏ vai trò
lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức cơ sở đảng vùng giáo còn rất yếu kém
Thực tiễn đó đã đặt ra yêu cầu, muốn tôn giáo thực sự "đồng hành" cùng
dân tộc, muốn phát huy những giá trị đạo đức cao đẹp và khắc phục những hạn
chế của đạo công giáo... phụ thuộc phần nào vào chất lượng của bộ máy cán bộ
làm công tác tôn giáo.Với ý nghĩa đó, ở giải pháp này, tác giả xin nêu ra hai vấn
85
đề cần chú trọng sau:
3.3.1. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần đấu tranh
chống hai xu hướng hoặc tả khuynh hoặc hữu khuynh
Yêu cầu trước hết ở đây là cần phải có cách nhìn nhận, đánh giá khách
quan và khoa học về tôn giáo - nhất là đạo Công giáo - tôn giáo được du nhập
vào Việt Nam cùng với bước chân xâm lược của thực dân Pháp nên không tránh
khỏi những định kiến, thiếu thiện cảm đối với tôn giáo này trong cộng đồng xã
hội chung. Chúng ta cần phải thấy rằng, trong quá khứ cũng như hiện tại, không
phải bao giờ Công giáo cũng là tay sai của Chủ nghĩa thực dân đế quốc, không
phải khi nào Công giáo cũng mâu thuẫn với Dân tộc, mà trạng thái mâu thuẫn đó
chỉ xảy ra ở một số nơi, một số thời điểm lịch sử nhất định và mâu thuẫn này
sớm, muộn đã và sẽ được hoá giải. Trong hai cuộc trường kỳ kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ, phong trào yêu nước của người Công giáo đã phát triển
mạnh với nhiều hình thức hoạt động phong phú, như: thành lập các tổ chức
Công giáo kháng chiến nhằm vận động người Công giáo tham gia công cuộc
kháng chiến, kiến quốc (Hội Công giáo kháng chiến Nam Bộ với nòng cốt là các
linh mục Hồ Thành Biên, Võ Thành Trinh; Uỷ ban liên lạc Công giáo kháng
chiến khu Ba, Khu Tả Ngạn với nòng cốt là các linh mục Vũ Xuân Kỷ, Nguyễn
Thế Vịnh, Phạm Quang Phước…); phát hành các tờ báo “Vì Chúa vì Tổ Quốc”
ở Nam Bộ, báo “Sáng danh Chúa” ở Bắc Bộ để tuyên truyền phát huy lòng yêu
nước trong đồng bào Công giáo vì mục tiêu giải phóng dân tộc. Riêng ở Nghệ
An trong kháng chiến chống Pháp có tổ chức “Hội liên lạc Công giáo kháng
chiến” do cố linh mục Nguyễn Văn Khâm làm hội trưởng; trong kháng chiến
chống Mỹ có tổ chức “Đoàn thường trực Công giáo yêu nước” do cố linh mục
Nguyễn Văn Ngôn làm chủ tịch, kế tiếp là cố linh mục Phạm Văn Hậu làm chủ
tịch, sau đó được đổi tên thành “Hội đồng thi đua yêu nước” do cố linh mục
Nguyễn Văn Sáng làm chủ tịch. Sau khi hợp nhất hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh
lại thành một tỉnh Nghệ Tĩnh thì tổ chức này do cố linh mục Vương Đình Ái làm
chủ tịch. Bên cạnh đó phát huy mạnh mẽ lòng yêu nước, nhận thức sâu sắc âm
mưu và thủ đoạn thâm độc của các thế lực thực dân, đế quốc, các thế lực thù
địch, hàng nghìn người con Công giáo Nghệ An đã tình nguyện lên đường nhập
86
ngũ vì sự nghiệp chung giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà; hàng nghìn bà
mẹ đã lau nước mắt tiễn con ra chiến trường mà không giám mong chờ có ngày
gặp lại. Sự hy sinh lớn lao đó, sự đồng cảm, gặp gỡ cao đẹp đó giữa Công giáo
và Dân tộc là điều không ai có thể phủ định. Trong công cuộc đổi mới hiện nay,
khi Công giáo cũng như các tôn giáo khác đang hoà mình đồng hành cùng Dân
tộc, khi niềm tin tôn giáo dang góp phần xây dựng thành công niềm tin về một
xã hội tiến bộ vì mục tiêu chung "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh" thì hơn bao giờ hết chúng ta cần phải đánh giá đúng "động lực
mạnh" đó của tôn giáo, phát huy điểm tương đồng, gặp gỡ giữa Công giáo và
Dân tộc, phát huy những giá trị văn hoá đạo đức lành mạnh, hướng thiện của
Công giáo, phục vụ tích cực cho phong trào giữ gìn TT, ATXH ở vùng giáo nói
riêng và cả xã hội nói chung.
Để làm được điều này, bên cạnh những chủ trương, đường lối, chính sách
đúng đắn của Đảng và Nhà nước thì còn phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ cán bộ
làm công tác tôn giáo. Vì vậy, để phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ tôn giáo,
trong nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta cần đấu tranh với những khuynh
hướng tư tưởng sai lầm, có ảnh hưởng không tốt đối với công tác tôn giáo, đó là:
- Một là xu hướng tả khuynh: đây là xu hướng cực đoan, hành chính,
mệnh lệnh, thường giải quyết vấn đề tôn giáo với một quan điểm "cứng", chưa
thoát khỏi những mặc cảm cũ về đạo công giáo hoặc những định kiến, tư duy cũ
để lại, làm cho tín đồ đạo công giáo thiếu tin tưởng vào đường lối, chính sách về
tôn giáo của Đảng và Nhà nước, tạo sơ hở cho kẻ địch và bọn phản động tuyên
truyền luận điệu "cộng sản chống tôn giáo", tập hợp, lôi kéo quần chúng giáo
dân thực hiện chiến lược "Diễn biến hoà bình" chống lại chính quyền, chống lại
cách mạng nước ta.
- Hai là xu hướng hữu khuynh: đây là xu hướng né tránh, buông xuôi,
ngại va chạm, không giám đấu tranh trước những sai phạm của các hoạt động
tôn giáo vi phạm pháp luật. Xu hướng này là sự biểu hiện buông lỏng quản lý,
giải quyết các vụ việc, công việc về tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo một
cách xuôi chiều cho xong việc, thiếu cân nhắc, thận trọng, không lường hết
những hậu quả xấu. Đây cũng là cơ hội cho những hoạt động tôn giáo lấn lướt
87
chính quyền, ngấm ngầm chống phá cách mạng.
Ngoài hai xu hướng trên, chúng ta cũng cần khắc phục với tư tưởng né
tránh giải quyết các vụ việc về tôn giáo hoặc có liên quan đến tôn giáo, dây dưa
kéo dài hoặc đùn đẩy lên cấp trên, không làm hết chức năng thẩm quyền được
giao, gây những tác hại không kém các biểu hiện "cứng nhắc" hoặc "buông
lỏng" nói trên.
Thực tiễn này cho thấy, trong vấn đề quản lý đối với tôn giáo chúng ta
không nên đặt vấn đề giải quyết một cách cứng rắn hay mềm mỏng, tả khuynh
hay hữu khuynh mà cần phải có cách giải quyết biện chứng trên cơ sở đảm bảo
các yêu cầu sau:
- Trước hết, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng hoặc không tín ngưỡng tôn
giáo.
- Thứ hai, đúng pháp luật
- Thứ ba, Tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của quần chúng
- Thứ tư, Kín kẽ, để kẻ địch và các phần tử xấu không thể lợi dụng được.
3.3.2. Củng cố hoàn thiện bộ máy cán bộ làm công tác tôn giáo từ tỉnh
xuống cơ sở
Từ sự phân tích thực trạng và ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với việc
giữ gìn TT, ATXH ở vùng giáo cho thấy việc xây dựng một đội ngũ cán bộ làm
công tác tôn giáo vững mạnh cả về phẩm chất và năng lực có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Đội ngũ này có vai trò to lớn trong việc triển khai, thực hiện đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo, tham mưu cho
các cấp uỷ về các hình thức, biện pháp công tác vận động tín đồ và là cầu nối
giữa cấp uỷ đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể với các chức sắc tín đồ.
Vì vậy, trong thời gian tới, để thực hiện tốt giải pháp này, tác giả xin đề xuất
một số ý kiến sau:
Trước hết cần phải đặt ra những tiêu chuẩn cụ thể về cán bộ làm công tác
tôn giáo, như: phải có lập trường, tư tưởng, quan điểm, bản lĩnh chính trị vững
vàng, đặc biệt nhạy cảm về chúnh trị; phải có tư cách đạo đức tốt, trong sáng,
công tâm, không thành kiến, thường xuyên gần gũi quần chúng, kiên nhẫn, chịu
88
khó, chịu khổ; phải nắm vững giáo lý, giáo luật, hệ thống tổ chức tôn giáo và
phong tục tập quán địa phương mình phụ trách; phải có nghệ thuật vận động
quần chúng tín đồ.
Thứ hai, tích cực đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ vùng giáo, đặc biệt
ưu tiên cán bộ gốc giáo, từng bước giao trách nhiệm cho cán bộ và đảng viên là
giáo dân vì không ai khác ngoài họ có thể hiểu biết một cách sâu sắc, bản chất
các vấn đề cần phải giải quyết, ý nguyện, tâm tư chính đáng của giáo dân. Tăng
cường bồi dưỡng, tổ chức các lớp tập huấn ngắn hạn cho đội ngũ làm công tác
tôn giáo các cấp một cách thường xuyên hơn. Cần phải mạnh dạn thay thế
những cán bộ phụ trách tôn giáo yếu kém.
Thứ ba, Cần xem xét chuẩn bị công tác đào tạo đội ngũ kế cận có đủ trình
độ, kinh nghiệm và nhiệt tình công tác cho tất cả các cấp. Thực hiện tốt công tác
luân chuyển cán bộ, đưa các cán bộ công chức trẻ, có triển vọng về rèn luyện
thử thách qua cơ sở. Tích cực thu hút sinh viên tốt nghiệp về công tác ở các xã
vùng giáo. Các cơ quan quân sự, biên phòng, công an hàng năm giành một số
chỉ tiêu nghĩa vụ để tuyển con em giáo dân nhằm rèn luyện, tạo nguồn cán bộ
cốt cán cho địa phương. Bố trí kịp thời, đầy đủ công chức chuyên trách tôn giáo
theo quyết định số 100/ QĐ-UB của UBND tỉnh, cho phép những xã có 1.000
giáo dân trở lên bố trí 01 phó chủ tich mặt trận làm công tác tôn giáo theo chế độ
bán chuyên trách. Phấn đấu có tỉ lệ cán bộ gốc giáo phù hợp hơn trong hệ thống
chính trị cơ sở và cấp trên cơ sở.
Thứ tư, tiếp tục cải tiến chế độ, chính sách cho cán bộ cơ sở vùng giáo.
Xây dựng chế độ thăm hỏi phù hợp đối với đảng viên cốt cán vùng giáo. Trợ cấp
khó khăn cho cán bộ cơ sở gốc giáo, đảng viên trung kiên, già yếu, bệnh tật, có
hoàn cảnh khó khăn.
Tóm lại, cán bộ làm công tác tôn giáo dù ở bất kỳ cương vị nào, cơ quan
ban nghành nào cũng cần ý thức rằng "nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là
công tác vận động quần chúng", "làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của hệ
thống chính trị", do đó giữa các ban, nghành và từng cán bộ cụ thể phải có sự
89
phối hợp chặt chẽ trong công việc để giải quyết tốt công tác tôn giáo toàn tỉnh.
3.4. Đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội ở vùng giáo, nâng cao đời
sống cho đồng bào có đạo
Để giữ vững TT, ATXH vùng giáo, phát huy vai trò chủ động, tích cực
của quần chúng giáo dân trong công tác này thì một trong những điều kiện cơ
bản, quan trọng nhất cần phải có là phát triển kinh tế-xã hội ở vùng giáo, nâng
cao đời sống cho đồng bào có đạo. Bởi một lẽ đương nhiên là TT, AT XH có
được đảm bảo, ổn định thì mới tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế-
xã hội và ngược lại, khi đời sống vật chất và tinh thần được đảm bảo, kinh tế
phát triển thì nó chính là cơ sở, nền tảng để xây dựng phong trào bảo vệ, giữ gìn
TT, ATXH được tốt hơn. Rõ ràng, khi nhận thức của giáo dân được nâng cao thì
các hoạt động tôn giáo vi phạm đạo đức công giáo, vi phạm pháp luật cũng dễ bị
phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh và đẩy lùi. Ở đây, quyền làm chủ tập thể của
quần chúng có được phát huy hay không, TT, ATXH ở vùng giáo tốt hay xấu
phụ thuộc phần lớn vào đời sống kinh tế và văn hoá tinh thần của nhân dân. Vì
thế, để giữ gìn TT, ATXH vùng giáo, đi đôi với việc giáo dục về chính trị, cần
phải hết sức quan tâm đến điều kiện kinh tế-xã hội, từng bước nâng cao đời sống
cho đồng bào giáo dân, đưa các vùng giáo thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn
lên làm chủ cuộc đời mình.
Để thực hiện tốt giải pháp này, tác giả đề xuất một số kiến nghị cụ thể sau:
3.4.1. Về kinh tế
- Tích cực xoá đói giảm nghèo, khuyến khích làm giàu chính đáng. Khơi
dậy nội lực, ý chí vươn lên của cán bộ, đảng viên, giáo dân, không cam chịu đói
nghèo, lạc hậu. Tạo điều kiện cho các hộ nghèo vay vốn để sản xuất kinh doanh
bằng nhiều hình thức khác nhau (vay ngân hàng, lập các phường-hội như
phường tiền, phường lúa... để cùng nhau góp vốn và trao đổi kinh nghiệm làm
kinh tế). Tạo điều kiện cho nhân dân tiếp cận, ứng dụng khoa học công nghệ vào
sản xuất. Ở đây, các địa phương cần có sự phối hợp với chức sắc, chức việc
trong giáo hội để triển khai nhiệm vụ phát triển kinh tế trên địa bàn (bởi dội ngũ
chức sắc, chức việc này là những người có tiếng nói quan trọng trong cộng
đồng), đấu tranh chống các biểu hiện huy động giáo dân góp tiền của trái với
90
quy định của Nhà nước và sai với quy định của giáo luật.
- Cần khảo sát thực trạng, phân tích đặc thù của từng địa phương, từng
cộng đồng giáo dân cụ thể. Trên cơ sở đó tìm ra những giải pháp phù hợp để tác
động vào khâu quan trọng nhất, kích thích phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ
sự hỗ trợ cần thiết và hợp lý để đưa kinh tế cộng đồng địa phương đi lên một
cách bền vững.
- Các cấp chính quyền chú trọng đầu tư tạo điều kiện cho địa bàn cải tạo
và nâng cấp cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm) với phương châm "Nhà
nước và nhân dân cùng làm". Cùng với nguồn vốn do trên cấp, cần khuyến
khích bà con đóng góp công sức, một phần kinh phí; bên cạnh đó có thể tranh
thủ sự hỗ trợ từ phía giáo hội trên cơ sở giữ vững các nguyên tắc về tài chính,
chính trị.
- Tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn vùng giáo theo các
bước cụ thể như:
+ Thay đổi giống cây, con phù hợp với địa phương và có giá trị trên thị
trường.
+ Chú trọng dịch vụ chế biến nông, lâm, ngư và dịch vụ hàng hoá (tuỳ
thuộc vào từng địa bàn).
+ Củng cố, phát triển, hiện đại hoá các nghành nghề truyền thống, tìm
kiếm, phát triển nghành nghề mới, giải quyết tình trạng bán thất nghiệp trên địa
bàn.
Thực tế phát triển kinh tế ở các vùng giáo Nghệ An hiện nay cho thấy, với
các bước đi phù hợp, đã và sẽ tạo điều kiện cho hàng ngàn hộ giáo dân ở Nghệ
An thoát nghèo. Với phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", được Nhà
nước hỗ trợ nguyên vật liệu, nhân đóng góp kinh phí, công lao động nên các địa
phương đã xây dựng được cơ sở hạ tầng kiên cố như: kênh mương tưới tiêu,
đường liên thôn, liên xóm, kinh tế gia đình ngày một nâng cao. Theo báo cáo
của Ban tôn giáo tỉnh, hiện nay số hộ giàu ở vùng giáo có 3.063 hộ, có 11.144
hộ khá, 13.415 hộ trung bình và 3.236 hộ nghèo (giảm gần 3.000 hộ so với
trước). Vấn đề là trên cơ sở những gì chúng ta đã đạt được cần phải cố gắng phát
91
huy hơn nữa để nâng cao đời sống vật chất cho bà con, tiến tới xoá hẳn hộ đói,
giảm hộ nghèo, tạo điều kiện để bà con, tin tưởng vào đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, yên tâm lao động sản xuất, đóng góp sức
mình vào phong trào giữ gìn TT, ATXH của vùng giáo cũng như của toàn xã
hội.
3.4.2. Về văn hoá - xã hội
- Trước hết cần thay đổi quan điểm nhìn nhận và đánh giá các hoạt động
nghi lễ của đạo Công giáo. Trong giai đoạn đổi mới hiện nay chúng ta cần quan
niệm những sinh hoạt tôn giáo lành mạnh và thuần tuý như là một bộ phận của
các hoạt động văn hoá tinh thần trên địa bàn. Chính quyền các cấp cần quan tâm,
tạo điều kiện cho những hoạt động này diễn ra một cách thuận lợi trong khuôn
khổ các quy định pháp luật. Đối với những sinh hoạt tôn giáo mang màu sắc
chính trị ảnh hưởng đến tình hình TT, ATXH trên địa bàn cần phải tuyên truyền,
vận động để đồng bào giáo dân nhận thức rõ sự thật và tự nguyện không tham
gia hoặc đấu tranh để các hoạt động đó không xảy ra trên địa bàn. Việc quan tâm
đến các hoạt động nghi lễ phải được thể hiện một cách cụ thể như: đến chia sẻ,
động viên tinh thần và vật chất (nếu có) với giáo hội và các gia đình có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn vào những dịp lễ trọng. Trong những điều kiện đặc biệt,
dựa trên đặc thù của từng địa phương, Chính quyền cần linh động giải quyết một
số vướng mắc trong việc hành lễ thể theo nguyện vọng của tín đồ và không ảnh
hưởng đến trật tự an ninh trên địa bàn như: rước lễ ngoài khuôn viên nếu khuôn
viên nhà thờ quá chật hẹp; ủng hộ bằng cách cho mượn cơ sở vật chất phục vụ
ngày lễ... Nếu thấy cần thiết và theo yêu cầu của Giáo hội, các đoàn thể có thể
chủ động tổ chức các sinh hoạt văn hoá cùng góp vui trong ngày lễ với bà con
giáo dân.
- Chính quyền cần chỉ đạo tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể
dục, thể thao trên địa bàn không trùng với lịch sinh hoạt tôn giáo để toàn thể
cộng đồng có thể chung vui. Không nên tổ chức các hoạt động này trong các
ngày lễ trọng bên cạnh nhà thờ nhằm lôi kéo thanh niên ra khỏi các hoạt động
của họ. Cần nhận thức rằng các hoạt động văn hoá, văn nghệ nhằm nâng cao đời
sống văn hoá tinh thần cho quần chúng chứ không chỉ nhằm mục đích "cạnh
92
tranh với nhà thờ và giáo hội".
- Bên cạnh thực hiện các cuộc vận động xây dựng đời sống văn hoá
chung trong toàn tỉnh như: cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hoá ở khu dân cư (của UBMTTQ); gia đình nông dân văn hoá (của Hội
nông dân); tuổi trẻ sống đẹp (của đoàn thanh niên); nuôi con khoẻ, dạy con
ngoan (của hội phụ nữ)... thì cần tiến hành các chương trình văn hoá mang đặc
thù riêng trong cộng đồng, như: Tiếng hát người công giáo yêu nước; tổ chức
Hội trại Thanh niên Công giáo sống đẹp; liên hoan biểu dương điển hình giáo
dân tiên tiến; xây dựng xứ, họ đạo văn hoá... nhằm tạo tính "cạnh tranh lành
mạnh" giữa cộng đồng giáo dân và những cộng đồng còn lại.
- Cùng với việc thực hiện các cuộc vận động xây dựng và nâng cao đời
sống văn hoá cần đồng thời tiến hành công tác phòng chống và đẩy lùi các tệ
nạn xã hội như: cờ bạc, rượu chè, ma tuý, gây gổ đánh nhau, mâu thuẫn gia
đình, hàng xóm, láng giềng... Trên thực tế, những việc này đã được giáo hội rất
quan tâm và giải quyết rất có hiệu quả, tuy nhiên cấp uỷ, đảng viên, Chính
quyền các cấp không nên dừng lại ở những thành tích đã đạt được mà cần thắt
chặt hơn nữa mối quan hệ với các tổ chức giáo hội nhằm tìm ra giải pháp giải
quyết dứt điểm và triệt để các tệ nạn nói trên. Để làm được điều này cấp uỷ,
đảng viên trong chi bộ chỉ đạo các đoàn thể và trực tiếp tham gia phối hợp với
ban hành giáo xứ, họ, linh mục để họ tham gia ý kiến vào các "quy ước",
"hương ước" của xóm nhằm phát huy hiệu quả cao nhất. Vận động linh mục
tham gia vào tổ chức hoà giải, tham gia tuyên truyền phòng chống các tệ nạn xã
hội thông qua các buổi rao giảng trong nhà thờ, thông qua các buổi gặp gỡ tại
gia đình, qua các buổi xưng tội. Trong công tác cần có các hình thức động viên
kịp thời để khuyến khích giáo dân, chức sắc, chức việc tham gia một cách tích
cực nhất.
- Bên cạnh đó, cần chú trọng phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, bởi
đây là công cụ chủ yếu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo xây dựng đội ngũ, nguồn
nhân lực cho đất nước nói chung và cho chính vùng giáo nói riêng. Làm tốt công
tác này sẽ trang bị cho giáo dân và đặc biệt là giới trẻ những kiến thức về khoa
học, truyền thống dân tộc, hình thành một thế giới quan khoa học hơn, hạn chế
93
tính chất cuồng tín, mê muội trong nhận thức về tôn giáo.
- Chăm lo công tác y tế, dân số và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân vùng
giáo. Hoạt động này không chỉ thực hiện nhiệm vụ khám, chữa bệnh và chăm
sóc sức khoẻ cho nhân dân một cách đơn thuần mà còn góp phần tích cực cho
công tác tư tưởng. Những tín đồ cuồng tín những khi ốm đau, bệnh tật, tai hoạ
thường liên tưởng đến một lực lượng siêu nhân nào đó chi phối và nếu họ cầu
nguyện thì Thiên chúa sẽ ban phước cho tai qua nạn khỏi. Nếu chúng ta thật sự
quan tâm chăm sóc bà con giáo dân bằng các biện pháp y học tiên tiến là một
điều minh chứng khoa học có thể đem đến cho họ sức khoẻ, sự sống, từ đó dần
chuyển đổi về nhận thức Chúa không phải là tất cả.
Khó khăn lớn nhất hiện nay trong vùng giáo là việc thực hiện chương
trình dân số, kế hoạch hoá gia đình. Từ lâu các linh mục đã nhận ra tác hại của
việc sinh đẻ vô kế hoạch đối với cộng đồng và đã khuyên giáo dân không nên
sinh đẻ nhiều. Giáo hội Công giáo Việt Nam cũng đưa ra lời giáo huấn về Sinh
đẻ có trách nhiệm: “Mỗi tín hữu có trách nhiệm và quyền lợi của một công dân
trong việc thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước. Đồng thời có nhiệm vụ
phải thực hiện lời khuyên dạy của Chúa và các đấng bậc, việc định đoạt số con
phải là trách nhiệm của bố mẹ, mỗi khi đã thấu hiểu vấn đề. Trách nhiệm ấy họ
nhận lấy trước Thiên Chúa, đối với nhau, đối với những đứa con đã được sinh ra
và đối với cộng đoàn liên hệ với họ”. Tuy nhiên cái khó ở đây là nhiều linh mục
không thể tuyên truyền việc tránh thai bằng phương pháp nhân tạo mà chỉ dùng
biện pháp tự nhiên, nghĩa là giáo dân phải dùng khả năng tự kiềm chế ham muốn
tình dục, tính toán theo chu kỳ. Đây là yêu cầu quá lớn đối với những vùng nông
thôn hầu như không có hoạt động giải trí nào có thể thu hút giáo dân. Trường
hợp vỡ kế hoạch, việc nạo phá thai là cấm kỵ đối với các tín đồ. Vì vậy, để thực
hiện được công tác tuyên truyền dân số trong cộng đồng giáo dân, chúng ta cần
triệt để vận dụng quan điểm “Sinh đẻ có trách nhiệm” của Giáo hội. Cần phân
tích cho giáo dân rõ là sinh sản có trách nhiệm không chỉ là sau khi sinh đảm
bảo cho con mình đủ ăn, đủ mặc (điều này cũng không hoàn toàn đơn giản) mà
cần phải tạo cho con được hưởng một nền giáo dục đầy đủ để con có nhận thức
tốt nhất về xã hội, được đào tạo nghề nghiệp và có cuộc sống tương xứng sau
94
này.
Trong giai đoạn mới hiện nay, khi các thế lực thù địch vẫn không ngừng
chống phá phong trào cách mạng nước ta, chúng có thể sử dụng mọi thủ đoạn để
đạt được mục đích trong đó việc lợi dụng chiêu bài tôn giáo đã và đang được
chúng sử dụng một cách triệt để nhất nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân -
động lực to lớn của cách mạng nước ta. Trên thực tế chiêu bài này của chúng đã
tỏ ra có hiệu quả đối với một số địa phương trong đó có Nghệ An, nơi được coi
là trung tâm vùng giáo Bắc miền trung. Để đấu tranh chống lại các âm mưu, ý
đồ lợi dụng tôn giáo vào mục đích chính trị này của các thế lực thù địch , phản
động, hơn bao giờ hết chúng ta cần đánh giá đúng vai trò của tôn giáo đặc biệt là
của đạo Công giáo - tôn giáo dễ bị lợi dụng nhất do có những hiểu lầm, định
kiến trong lịch sử giữa đồng bào bên lương và đồng bào bên giáo - trong đời
sống của cộng đồng giáo dân nói riêng và cả xã hội nói chung nhằm phát huy tối
đa những ảnh hưởng tích cực của đạo Công giáo và khắc phục những hạn chế
của nó trên mọi lĩnh vực mà trước hết, trực tiếp nhất là trong phong trào bảo vệ,
đảm bảo An ninh chính trị và TT, ATXH ở vùng giáo, xây dựng các xứ, họ đạo
văn hoá, đạt danh hiệu an toàn làm chủ về an ninh trật tự, góp phần to lớn vào
việc xây dựng nền văn hoá mới, con người mới XHCN. Để đạt được điều đó thì
việc đề ra và thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp nêu trên là điều cần thiết
và có ý nghĩa thực tiễn rất cao.
KẾT LUẬN
Công giáo là một trong những tôn giáo lớn ở Việt Nam. Nếu tính từ năm
95
1533, năm có giáo sĩ đầu tiên đến truyền đạo ở Việt Nam đến nay lịch sử truyền
giáo và phát triển Công giáo ở Việt Nam đã trải qua gần 5 thế kỷ với số lượng
tín đồ lên đến 5 triệu người.
Riêng ở Nghệ An, với hơn 2,3 vạn tín đồ, chiếm 8% dân số toàn tỉnh,
Công giáo đang có tác động nhiều chiều vừa tích cực, vừa tiêu cực đối với cuộc
sống trực tiếp nhất là tới việc giữ gìn TT, ATXH ở vùng giáo. Trong đó với
những yếu tố hợp lý, những giá trị đạo đức phù hợp với công cuộc xây dựng xã
hội mới hiện nay ở nước ta kết hợp với tâm lý tự tôn cộng đồng buộc người
công giáo phải sống mẫu mực. Vì vậy có thể nói trong các xứ, họ đạo, làng
Công giáo, tình hình TT, ATXH thường không phức tạp, ít có ly dị, ít xô xát,
đặc biệt là ít tệ nạn xã hội và trọng án. Những ảnh hưởng tích cực này đã góp
phần vào việc thực hiện các chủ trương, chính sách xây dựng phát triển kinh tế,
văn hoá, xã hội trong cộng đồng, tích cực tham gia vào tiến trình xây dựng
CNXH trên quê hương mình.
Tuy nhiên, nếu quan niệm đơn giản TT, ATXH chỉ là những vấn đề về tội
phạm hình sự hay tệ nạn xã hội thì chưa đủ mà còn cần phải thấy rõ mối quan hệ
khăng khít, ranh giới mỏng manh giữa việc vi phạm TT, ATXH với An ninh
chính trị vùng giáo. Đây là vấn đề rất nhạy cảm, đòi hỏi việc giải quyết nó phải
bằng tư duy nhạy bén, sắc sảo, linh hoạt. Thực tiễn ở một số vùng giáo cho thấy,
trước sự tác động tiêu cực từ nhiều phía của các thế lực thù địch; những vấn đề
phức tạp nảy sinh trong quá trình đổi mới về tư duy, về cơ chế quản lý kinh tế,
xã hội của Đảng và Nhà nước ta… đã làm cho ở những vùng giáo này đang có
những hoạt động cụ thể vi phạm pháp luật Nhà nước, thông thường là những vi
phạm trong xây dựng cơ sở vật chất, tổ chức nghi lễ tôn giáo, tuyên truyền văn
hoá phẩm của tôn giáo, tổ chức và phát triển hội đoàn tôn giáo, hoạt động xã hội
hoặc các hoạt động gây rối, gây xung đột vì lý do tôn giáo hoặc dưới danh nghĩa
tôn giáo. Trong các hoạt động này, quần chúng giáo dân đang ở vào vị thế trung
tâm, họ là đối tượng mà các thế lực lợi dụng tôn giáo đang tìm mọi cách để
giành giật, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đối với chính sách đại đoàn kết toàn
dân của Đảng và Nhà nước ta.
Nhận thức rõ sự tác động nhiều chiều này của đạo Công giáo, trên cơ sở
96
khảo sát, phân tích thực trạng tình hình TT, ATXH ở vùng giáo Nghệ An, tác
giả đã cố gắng nêu bật những vấn đề đang đặt ra hiện nay, như: cần kết hợp giữa
niềm tin tôn giáo với niềm tin xã hội tiến bộ, giữa giáo lý với luật pháp, giữa đẹp
đạo với tốt đời, giữa hành vi xưng tội với tích cực bài trừ các tệ nạn xã hội, từ đó
tác giả mạnh dạn đưa ra một hệ thống các giải pháp nhằm phát huy những ảnh
hưởng tích cực và khắc phục mặt hạn chế của đạo Công giáo đối với việc giữ
gìn TT, ATXH ở vùng giáo Nghệ An cũng như của toàn xã hội. Những giải
pháp này cần được nhận thức và thực hiện đồng bộ, không chỉ trước mắt mà còn
lâu dài trong suốt quá trình tôn giáo đồng hành cùng dân tộc và một khi tôn giáo
vẫn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân thì việc đề ra và thực hiện
các giải pháp đúng đắn cho công tác tôn giáo sẽ có ý nghĩa thực tiễn rất lớn đối
với sự nghiệp chung của toàn dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, “Đến năm 2020 đưa nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” dựa trên cơ sở nền
tảng động lực đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân tộc.
Quán triệt tinh thần đó nên mặc dù trong điều kiện hiện nay, khi đời sống
của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, song Đảng bộ, Chính quyền ở nhiều xã,
phường vùng giáo đã vững vàng lãnh đạo quần chúng đưa phong trào cách mạng
ở địa phương vượt khó đi lên, giữ vững lòng tin của đồng bào đối với tiền đồ đất
nước, đối với Đảng và Nhà nước ta. Trên cơ sở thực tiễn với những việc chúng
ta đã làm được và đang làm cho sự phát triển bền vững của các vùng giáo, chúng
ta có thể khẳng định tuyệt đại bộ phận nhân dân vùng giáo Nghệ An đã thật sự
tin tưởng vào chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng, gắn bó với công cuộc đổi
mới của đất nước, yên tâm lao động sản xuất, thanh thản phần hồn, chăm lo xây
dựng xứ, họ đạo văn hoá, thực hiện tốt phương châm "sống tốt đời, đẹp đạo",
"kính Chúa, yêu nước", chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước. Các phong trào xây dựng gia đình an toàn, khu phố tự quản,
vùng giáo tiên tiến phát triển khắp ở các xứ, họ đạo và đã có những điển hình tốt
ở vùng giáo có thể coi là những điểm sáng cho các nơi học tập. Nhiều nơi quần
chúng đã phân biệt giữa tự do tín ngưỡng với những hành vi lợi dụng tôn giáo,
lợi dụng tín ngưỡng để phát hiện, đấu tranh có hiệu quả với các phần tử xấu có ý
97
đồ lợi dụng tôn giáo. Các phong trào quản lý, cảm hoá đối tượng tại cộng đồng,
giáo dục thanh thiếu niên chậm tiến, vận động đầu thú, tự báo cũng được nhân
rộng trên khắp các vùng giáo, phát huy được những mặt tích cực, góp phần giữ
vững và ổn định chính trị, đảm bảo TT, ATXH, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân.. Những thành tựu đó đã tạo môi trường, điều kiện thuận lợi, động lực
to lớn cho công cuộc đổi mới hiện nay của tỉnh nhà nói riêng và cả nước nói
98
chung.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Công an - Công an tỉnh Nghệ An (2000), Công an Nghệ An trong tiến
trình đổi mới, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
2. Bộ Công an - Công an tỉnh Nghệ An (2000), Xung đột xã hội - Lý luận và
thực tiễn, Hà Nội.
3. Báo cáo tổng kết của UBĐKCG các huyện Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Quỳnh
Lưu, Yên Thành, Nam Đàn từ năm 2003 đến 6 tháng đầu năm 2007.
4. Báo Công giáo và Dân tộc (09/3/1986).
5. Bộ giáo luật 1983 (2004), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
6. Bộ luật hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000),
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Công an tỉnh Nghệ An (2006), Tổng kết lịch sử 60 năm đấu tranh chống
địch lợi dụng đạo thiên chúa ở Nghệ An (1945 - 2005).
8. Công báo, Nhân dân (09/10/ 1945), (230).
9. Công tác an ninh trong quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt
Nam (2002), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Điều tra các vụ án xâm phạm ANQG trong tình hình hiện nay ở Việt Nam
(2006), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
13. Giáo phận Buôn Mê Thuột, giáo xứ Châu Sơn (2003), Thánh hoá các gia
đình sống đạo.
14. Phêrô Gioan Trần Xuân Hạp (1995), Hỏi đáp 150 câu về giáo phận Vinh,
Toà giám mục Xã Đoài.
15. Hướng dẫn thực hiện nội dung cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hoá ở khu dân cư, sống tốt đời đẹp đạo (22/02/1999), số
99
45/HD-UB của UBĐKCG tỉnh Nghệ An.
16. Kinh thánh trọn bộ Cựu ước và Tân ước (1998), Nxb. Thành phố Hồ Chí
Minh.
17. Nguyễn Văn Kiệm, Sự du nhập của đạo Thiên chúa giáo vào Việt Nam. Từ
thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX.
18. Nguyễn Văn Long (2001), Ảnh hưởng của giáo quyền đạo công giáo đối
với đời sống của cộng đồng giáo dân ở tỉnh Nghệ An, Luận văn thạc sỹ
khoa học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
19. Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam (2003), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
20. C.Mác và Ph. Ăng ghen (1991), Toàn tập, tập 20, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
21. Một số hiểu biết về tôn giáo. Tôn giáo ở Việt Nam (1998), Nxb. Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
22. Nhiều tác giả (2005), Những gương sống tốt đời đẹp đạo, tập I, Nxb. Tôn
giáo, Hà Nội.
23. Nhiều tác giả (2005), Những gương sống tốt đời đẹp đạo, tập II, Nxb. Tôn
giáo, Hà Nội.
24. Nhiều tác giả (2005), Những gương sống tốt đời đẹp đạo, tập III, Nxb. Tôn
giáo, Hà Nội.
25. Nghi lễ và lối sống công giáo trong văn hoá Việt Nam (2001), Nxb. Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
26. Nguyễn Nghị (2001), “Tên gọi đạo Thiên Chúa ở Việt Nam”, Tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo, (6).
27. Trần Phồn, Viện khoa học công an (1996), Về tôn giáo và đấu tranh chống
hoạt động lợi dụng tôn giáo, Hà nội.
28. Trần Phồn - Phạm Xuân Cần (1998), Công tác bảo vệ ANQG và TTATXH ở
Nghệ An trong tiến trình đổi mới - Bài học và giải pháp, Đề tài NCKH cấp
Bộ.
29. Bùi Thị Kim Quỳ (2002), Mối quan hệ Thời đại - Dân tộc - Tôn giáo, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
100
30. Sách Giáo lý viên, khối sơ cấp và căn bản (1996), Ipzimatur Nha Trang.
31. Sở Khoa học Công nghệ Nghệ An (2003), Những giải pháp nâng cao vai
trò, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức cơ sở Đảng xã, phường, có
đồng bào theo đạo công giáo ở Nghệ An.
32. Tài liệu phục vụ Hội nghị Ban thường vụ tỉnh uỷ (8/2006), Nghệ An.
33. Thư chung Hội đồng giám mục Việt Nam (1980).
34. Nguyễn Tài Thư (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối
với con người Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Toà giám mục Vinh (1995), Bộ giáo lý giành cho chương trình phổ thông,
Nxb. Thuận Hoá, Nha Trang.
36. Toà giám mục Sài Gòn (1997), Giáo lý Hội thánh công giáo, Nxb. Thành
phố Hồ Chí Minh.
37. Trường Đại học Vinh, Sở khoa học - Công nghệ và Môi trường Nghệ An
(1998), Một số vấn đề xã hội và nhân văn của đồng bào các dân tộc thiểu
số và đồng bào các tôn giáo ở Nghệ An.
38. Hà Huy Tú, Tìm hiểu nét đẹp văn hoá thiên chúa giáo, Nxb. Văn hoá thông
tin, Hà Nội.
39. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên, 1998), Về tín ngưỡng và tôn giáo hiện nay,
Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
40. Vấn đề tôn giáo và chính sách tôn giáo của Đảng cộng sản Việt Nam,
(2002), Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội.
41. Viện nghiên cứu tôn giáo (1996), Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo tín
ngưỡng, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
42. Viện Nghiên cứu Tôn giáo (2001), Tạp chí nghiên cứu tôn giáo, (2).
43. Viện Nghiên cứu Tôn giáo (2001), Tạp chí nghiên cứu tôn giáo, (6).
44. Viện Nghiên cứu Tôn giáo (1998), Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn
giáo ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
45. Viện Thông tin Khoa học xã hội (1997), Tôn giáo và đời sống hiện đại,
Tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
46. Viện Thông tin Khoa học xã hội (1997), Tôn giáo và đời sống hiện đại,
101
Tập 2, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
47. Viện Thông tin Khoa học xã hội (1997), Tôn giáo và đời sống hiện đại,
Tập 3, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
48. Trương Như Vương (2005), Tìm hiểu đạo đức trong kinh thánh, Nxb. Tôn
giáo, Hà Nội.
49. Hoàng Tâm Xuyên (chủ biên, 1999), Mười tôn giáo lớn trên thế giới, Nxb.
102
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
PHỤ LỤC
Tổng hợp xã, phường, thị trấn, khối, xóm vùng giáo ở Nghệ An
(Tính đến 31/12/2005)
Trong đó
TT Đơn vị Dân số
Trong đó có số giáo dân Số xã, phường, thị trấn có giáo dân Giáo toàn tòng Trong đó có giáo dân Tổng số khối, xóm
33 191716 9754 9 1 Nghĩa Đàn 32 5 431
69 111079 7522 4 Anh Sơn 2 20 13 240
57 136583 6205 3 Tân Kỳ 3 22 11 264
63 35 366433 44968 4 Quỳnh Lưu 43 20 536
59 195132 7369 1 Đô Lương 5 32 14 367
72 233999 7045 1 Thanh 6 38 16 464
Chương
54 157257 12800 15 Nam Đàn 7 24 13 331
82 121479 22347 27 Hưng 8 23 15 261
Nguyên
27 237206 1998 3 T.P Vinh 9 20 5 284
14 48991 6006 1 10 T.X Cửa Lò 7 3 71
144 42 219877 45783 11 Nghi Lộc 34 23 515
15 60 291343 27223 12 Diễn Châu 39 22 448
29 105 270398 33208 13 Yên Thành 37 24 488
103
Tổng cộng 371 184 4700 839 185 2581493 232228