ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

-----------------------------------------------------

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHÙNG THỊ LĨNH

(THÍCH NHUẬN AN)

ẢNH HƢỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO

ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƢỜI DÂN

TRONG ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC

Hà Nội-2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

-----------------------------------------------------

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHÙNG THỊ LĨNH

(THÍCH NHUẬN AN)

ẢNH HƢỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO

ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƢỜI DÂN

TRONG ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Tôn giáo học

Mã số: 60 22 03 09

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Tố Uyên

Hà Nội-2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.

Các tư liệu, nguồn trích dẫn, ví dụ trong luận văn này đảm bảo độ tin cậy,

chính xác và trung thực. Những kết luận trong luận văn dựa trên những cứ

liệu khoa học đã được trình bày và chưa từng công bố trong bất kỳ công trình

nào khác.

Tác giả luận văn

Phùng Thị Lĩnh

LỜI CẢM ƠN

Trải qua hơn hai năm học tập, đến nay luận văn đã hoàn thành. Tác giả

xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo đã tận tình dạy bảo trong suốt

thời gian theo học tại khoa Sau Đại học, trường Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác giả cũng trân trọng cảm ơn Chư tôn

đức GHPGVN tỉnh Bắc Ninh đã tạo điều kiện để con hoàn thành nhiệm vụ

học tập của mình; đồng thời tác giả xin cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các

thầy cô Bộ môn Tôn giáo học, PGS, TS. Trần Thị Kim Oanh chủ nhiệm bộ

môn, tập thể lớp chuyên ngành Tôn giáo học.

Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn, TS.

Nguyễn Thị Tố Uyên. Cô đã trực tiếp định hướng nghiên cứu cho luận văn

này, đồng thời chỉ dạy tận tình cho tôi ngay từ cách tiếp cận vấn đề nghiên

cứu cho đến khi luận văn này hoàn thành.

Là một tu sĩ Phật giáo nên khả năng lĩnh hội tri thức thế học chưa nhiều.

Mặc dù bản thân đã ý thức trong quá trình thực hiện đề tài, nhưng chắc chắn

không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả hoan hỷ rất mong nhận được sự chỉ

dẫn và những ý kiến góp ý của thầy cô, đồng nghiệp.

Xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, tháng 10 năm 2019

Tác giả luận văn

Phùng Thị Lĩnh

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU..................................................................................................... 4

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 4

2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................... 5

3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu ....................................................... 10

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ............................................ 10

5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu .................................................. 11

6. Ý nghĩa của đề tài ........................................................................................ 11

7. Kết cấu của đề tài ........................................................................................ 12

CHƢƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHẬT GIÁO VÀ NHÂN SINH

QUAN PHẬT GIÁO .................................................................................... 13

1.1. Khái quát về Phật giáo và Phật giáo ở Bắc Ninh ................................ 13

1.1.1. Sự ra đời của Phật giáo ........................................................................ 13

1.1.2. Phật Giáo ở Bắc Ninh ........................................................................... 18

1.2. Khái quát về nhân sinh quan và nhân sinh quan Phật Giáo ............. 26

1.2.1. Một số quan niệm về nhân sinh quan .................................................... 26

1.2.2. Nội dung của nhân sinh quan Phật giáo ............................................... 29

Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 54

Chƣơng 2. NHỮNG ẢNH HƢỞNG CƠ BẢN CỦA NHÂN SINH QUAN

PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƢỜI DÂN BẮC

NINH VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ PHÁT HUY GIÁ TRỊ ............... 56

CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO .................................................... 56

2.1. Khái quát cơ bản về tình hình kinh tế - xã hội, tình hình tín ngƣỡng

tôn giáo ở Bắc Ninh ....................................................................................... 56

2.1.1. Điều kiện tự nhiên – xã hội ................................................................... 56

1

2.1.2. Tình hình tôn giáo, tín ngưỡng ở Bắc Ninh .......................................... 58

2.2. Thực trạng ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống

tinh thần của ngƣời dân tỉnh Bắc Ninh. ...................................................... 59

2.2.1. Ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến lối ứng xử với bản thân của

người dân Bắc Ninh ........................................................................................ 59

2.2.2. Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến lối ứng xử với tha nhân

của người dân Bắc Ninh .................................................................................. 65

2.2.3. Ảnh hưởng của NSQ Phật giáo đến lối ứng xử với môi trường của người

dân Bắc Ninh ................................................................................................... 75

2.2.4. Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến văn hóa, văn học, nghệ

thuật ................................................................................................................. 80

3. Một số đề xuất khuyến nghị ..................................................................... 86

3.1. Với Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bắc Ninh ..................................... 86

3.2. Với công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.............................................. 88

Tiểu kết chƣơng 2 ........................................................................................... 90

KẾT LUẬN .................................................................................................... 92

2

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 95

CÁC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN

Giáo hội Phật giáo Việt Nam

: GHPGVN

Nhân sinh quan

: NSQ

Nhân sinh quan Phật giáo

: NSQ Phật giáo

Vũ trụ quan

: VTQ

Vũ trụ quan Phật giáo

: VTQ Phật giáo

Nhà xuất bản

: Nxb

3

A. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Tôn giáo là một nhu cầu của bộ phận văn hóa tinh thần con người, của

từng cộng đồng xã hội trong lịch sử và hiện tại. Phật giáo nảy sinh ở Ấn Độ

vào khoảng thế kỷ thứ VI trước Công nguyên trong một bối cảnh xã hội có hệ

thống tư tưởng triết học rất phong phú nhưng lại có sự phân hóa giai cấp sâu

sắc. Phật giáo ra đời vừa là một trào lưu triết học vừa là một tôn giáo với mục

đích hướng con người vượt qua những khổ đau, mất mát để giải thoát giác ngộ,

đem hòa bình cho thế giới.

Phật giáo theo các thương gia Ấn Độ hiện diện ở nước ta vào những năm

đầu Công nguyên. Qua những tư liệu thành văn ghi lại được đã cho thấy đến

khoảng thế kỷ thứ II – III sau Công nguyên, trung tâm Phật giáo Luy Lâu – Dâu

hoạt động khá nhộn nhịp với hình ảnh Thái thú Sĩ Nhiếp mỗi khi ra đường đều có

Hồ tăng đốt hương theo hầu. Qua lời Đàm Thiên đối đáp với Linh Nhân Hoàng

Thái Hậu cho thấy, trung tâm Phật giáo Luy Lâu thời Sĩ Nhiếp đã hiện diện một

tăng đoàn lớn mạnh, dịch kinh, xây tháp,... Điều này cho thấy, Phật giáo đã sâu

gốc bền rễ và có ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần của nhân dân nói chung và

người dân Bắc Ninh nói riêng trong lịch sử.

Ngày nay, trong bối cảnh công cuộc đổi mới của đất nước, Bắc Ninh là

một tỉnh không lớn so với các tỉnh nằm trong vùng đồng bằng Bắc bộ, song lại

có sự tăng trưởng kinh tế, văn hóa rất mạnh nên có sự tác động tích cực và tiêu

cực không nhỏ đến đời sống vật chất và tinh thần của người dân nơi đây. Trong

bối cảnh đó, việc nghiên cứu làm rõ ảnh hưởng của tôn giáo, đặc biệt là Phật

giáo đối với đời sống tinh thần nhân dân Bắc Ninh hiện nay là cần thiết. Bởi

tỉnh Bắc Ninh không chỉ nằm gọn trong vùng đất thuộc đồng bằng châu thổ

sông Hồng mà còn là cái nôi của Phật giáo – trung tâm Phật giáo Luy Lâu –

4

Dâu thuộc huyện Thuận Thành ngày nay.

Trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu, đề tài sẽ phân tích các

thông tin lịch sử và các dữ kiện thu thập được trong quá trình điền dã, khảo sát

một số cộng đồng tín đồ Phật tử ở một số ngôi chùa tiêu biểu trên địa bàn tỉnh

Bắc Ninh hiện nay nhằm làm rõ những ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời

sống tinh thần của người dân Bắc Ninh hiện nay. Vì thế, chúng tôi lựa chọn đề

tài "Ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần

của ngƣời dân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh" làm luận văn tốt nghiệp.

2. Tình hình nghiên cứu

Trong quá trình tìm hiểu về nhân sinh quan Phật giáo và những ảnh hưởng

của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần của người dân Bắc

Ninh hiện nay. Chúng tôi nhận thấy rằng, có hai hướng tiếp cận chủ yếu trong

các công trình nghiên cứu của các học giả đi trước đối với vấn đề này, đó là: 1.

Cách tiếp cận triết học, đây là cách tiếp cận khoa học khi nghiên cứu về nhân

sinh quan nói chung và nhân sinh quan Phật giáo nói riêng. Cách tiếp cận này

làm sáng tỏ những quan niệm nhân sinh quan của một số tôn giáo, về vai trò,

giá trị trong đời sống của tín đồ và 2. cách tiếp cận triết học tôn giáo được xem

là tiếp tục "mã hóa", "cụ thể hóa" các khái niệm từ cách tiếp cận thứ nhất. Soi

chiếu vào các sinh hoạt, hoạt động cụ thể của từng tôn giáo. Hay nói cách khác,

với cách tiếp cận này đã cho thấy ảnh hưởng của nhân sinh quan đối với đời

sống tinh thần của cá nhân các tín đồ tôn giáo hoặc trong cộng đồng tôn giáo

rất rõ ràng.

Ngoài những tài liệu mà đề tài thu thập liên quan đến nhân sinh quan,

nhân sinh quan Phật giáo còn có nhiều tài liệu hướng về giải thích nhân sinh

quan theo các chiều cạnh khách nhau nhằm chứng minh nguồn gốc quan niệm

nhân sinh nói chung và quan niệm nhân sinh của Phật giáo nói riêng. Tuy

nhiên, trong phạm vi khuôn khổ của một luận văn, đề tài sẽ chỉ đề cập đến

những tư liệu chính nhằm phân tích, giải thích theo hướng sâu chuỗi để các vấn

5

đề nhân sinh quan được sáng tỏ trên phương diện triết học và triết học tôn giáo.

Về nhân sinh quan, hiện nay đã có nhiều công trình, bài tạp chí hay các

bài viết chuyên sâu nghiên cứu. Đó là các công trình Lịch sử triết học của

GS.TS. Nguyễn Hữu Vui chủ biên (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007),

Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, của GS. TS. Nguyễn Hùng Hậu (Nxb.

Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002), Triết học phương Đông - Triết học Ấn Độ

của Hà Thúc Minh (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992), Tứ diệu đế do Võ

Quang Nhân dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính (Nxb Tôn giáo. Hà Nội, 2007),

Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ của học giả Doãn Chính (Nxb. Chính

trị Quốc gia, Hà Nội, 1997),... Nhìn chung, nguồn tư liệu trên đã chỉ ra được

khái niệm NSQ và NSQ Phật giáo. Chẳng hạn, PGS.TS. Dương Văn Thịnh trên

phương diện triết học nhận định con người và xã hội loài là một bộ phận cấu

thành nên thế giới và có quan hệ chặt chẽ với toàn bộ thế giới (Nxb. Tôn giáo,

Hà Nội, 2011) hay GS.TS. Đỗ Quang Hưng nhận xét trên phương diện triết học

tôn giáo đã cho rằng NSQ có vị trí vô cùng to lớn trong thần học Kitô giáo và

giáo lý Phật giáo (Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2011),... Ngoài ra còn một số tài liệu

đề cập đến NSQ của Nho giáo như Đến hiện đại từ truyền thống của học giả

Trần Đình Hượu (Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1996), Việt Nam văn hóa sử cương

của học giả Đào Duy Anh (Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2006),...

Về nhân sinh quan Phật giáo, có nhiều tài liệu đề cập sâu sắc về vấn đề

này. Đó là các công trình: Ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo trong

đời sống tinh thần ở Việt Nam của Lê Hữu Tuấn, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà

Nội, 1999; Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, của GS. TS. Nguyễn Hùng

Hậu (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002), Khổ đau phát sinh và vận hành

như thế nào của Hoàng Phong (Nxb Phương Đông, Hà Nội, 2002), Vô ngã là

niết bàn của Thích Thiện Siêu (Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2002); Ảnh hưởng của

nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam và

sự biến đổi của nó trong quá trình đổi mới hiện nay của Mai Thị Dung, Luận

6

văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2003; Một số tôn giáo ở Việt Nam của Ban tôn

giáo Chính Phủ (Lưu hành nội bộ, 1995), Tư tưởng giải thoát trong triết học

Ấn Độ của Doãn Chính (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997), Lịch sử Phật

giáo Việt Nam do học giả Nguyễn Tài Thư chủ biên (Nxb. Khoa học Xã hội,

Hà Nội, 1998), Kinh văn của các trường phái triết học Ấn Độ do Doãn Chính

chủ biên (Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003), Lịch sử nhà Phật của Đoàn

Trung Còn (Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2007), Đạo Phật và dòng sử Việt của Đức

Nhuận (Nxb Phương Đông, Hà Nội, 2008), Kinh Từ Bi của Thích Nguyên Hiệp

(2010); Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh

thần người Việt Nam hiện nay của Nguyễn Thị Nguyến (Thích Diệu Luyến),

Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2011; Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật

giáo đến đời sống tinh thần của cư dân Đồng bằng Sông Hồng hiện nay của

Nguyễn Thị Thúy Hằng, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội, 2015,... đây là

những nguồn tài liệu chỉ ra cơ sở hình thành, quan niệm về NSQ của Phật giáo

trên các phương diện: Bối cảnh lịch sử của đạo Phật, người sáng lập đạo Phật;

sự kết tập kinh điển Phật giáo để có được hệ thống quan niệm đầy đủ về nhân

sinh trên ba phương diện chính là quan niệm về con người, ứng xử giữa con

người với con người và ứng xử của con người với thiên nhiên,... Có thể thấy,

khuynh hướng tiếp cận này đã chỉ ra những quan niệm cơ bản về nhân sinh

quan và nhân sinh quan Phật giáo, đặc biệt là từ các nhà khoa học tiếp cận theo

triết học.

Về ảnh hưởng của NSQ Phật giáo đối với đời sống tinh thần của nhân

dân nói chung và nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Có thể thấy, phần lớn

các công trình đều tiếp cận triết học tôn giáo. Các công trình này cho biết sâu

sắc hơn về quan niệm về nhân sinh của Phật giáo trong tiến trình lịch sử Phật

giáo Việt Nam, đặc biệt là ở tỉnh Bắc Ninh. Trước hết là các công trình lịch sử

như Dư địa chí do Phan Duy Tiếp dịch - Hà Văn Tấn hiệu đính và chú thích,

(Nxb Sử học, Hà Nội, 1960), Lịch triều hiến chương loại chí (Nxb Sử học, Hà

7

Nội, 1960), Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí,…đặc biệt là công trình

Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ, Kinh Bắc phong thổ ký diễn quốc sự của Trần Văn

Giáp (Ty Văn hóa Hà Bắc xuất bản năm 1971) đã cho biết về địa lý cũng như

vị trí và vai trò văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo ở tỉnh Bắc Ninh trong lịch sử.

Về ảnh hưởng của văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo đối

với nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh trong lịch sử. Trong công trình Việt Nam cái

nhìn địa - văn hóa của GS. Trần Quốc Vượng (Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội)

đã xem các trung tâm chính trị, văn hóa, tôn giáo Xứ Bắc đều ở trên bờ những

dòng sông Dâu và sông Đuống; Công trình Luy Lâu lịch sử và văn hóa của tác

giả Trần Đình Luyện (Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Bắc Ninh xuất bản, 1999)

tiếp tục khẳng định rõ hơn về sự ảnh hưởng của trung tâm Phật giáo ở Luy Lâu

– Dâu trên nhiều phương diện, từ chính trị, kinh tế, văn hóa cho đến đời sống

tín ngưỡng tôn giáo của người dân nơi đây,… Mà ngày nay, người dân Bắc

Ninh rất tự hào về truyền thống văn hóa nổi bật là văn hóa Phật giáo.

Trên phương diện lịch sử, ảnh hưởng của NSQ Phật giáo đối với đời

sống tinh thần của người dân Bắc Ninh còn được thể hiện qua các ngôi chùa,

qua các truyền thuyết,... GS. Trần Quốc Vượng trong công trình Việt Nam cái

nhìn địa – văn hóa đã chỉ ra, các trung tâm văn hóa cổ nhất Việt Nam chính là

chùa Phật Tích, chùa Tứ Pháp, chùa Kiến Sơ và chùa Lục Tổ. Cố GS. Trần

Quốc Vượng nhấn mạnh, các ngôi chùa này đều phân bố trên bờ Dâu - Tiêu

Tương (Nxb Văn hóa Dân tộc, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật). Khi nghiên cứu

về lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nguyễn Lang trong công trình Việt Nam Phật

giáo sử luận, (Nxb Văn học, 1992) đã cho biết những nhà sư Ấn Độ đã đem

Phật giáo tới Việt Nam vào đầu công nguyên. Còn PGS. Nguyễn Duy Hinh khi

nghiên cứu các tài liệu cổ như Lĩnh Nam chích quái, Thiền uyển tập anh, Đại

Việt sử ký toàn thư,... cho rằng ở Luy Lâu – Dâu thời kỳ đầu Phật giáo truyền

nhập còn có cả Siva giáo với tục thờ Đá mang tính phồn thực, đồng thời còn

diễn tả hình tượng giao cấu thiêng của một tu sĩ Ấn Độ với một Bà Mẹ người

8

Việt. Và như thế, sự giao thoa giữa Phật giáo với tín ngưỡng bản địa đã hình

thành lên hiện tượng thờ Tứ Pháp vô cùng đặc sắc trong Phật giáo Việt Nam,

người tu hành đầu tiên của người Việt được biết đến là Nữ giới, và bà được

nhân dân Bắc Ninh tôn xưng là Phật mẫu Man Nương. Sau này, các công trình

viết về lịch sử Phật giáo Việt Nam đều đề cập đến các ngôi chùa được xây

dựng vào thời Lý – Trần ở tỉnh Bắc Ninh và những ảnh hưởng của Phật giáo

trong văn học nghệ thuật, điêu khắc, kiến trúc,... qua các thời kỳ. Một số công

trình đề cập đến những hoạt động của Phật giáo. Có thể kể đến các công trình

như Con đường học Phật ở thế kỷ thứ XX của Thiều Chửu (Nxb Tôn giáo, Hà

Nội, 2002), Phật giáo Việt Nam (từ khởi nguyên đến 1981)của Bồ Đề Tân

Thanh - Nguyễn Đại Đồng (Nxb Văn học, Hà Nội, 2012),...

Tuy đã có nhiều công trình đã chỉ ra một số ảnh hưởng của Phật giáo nói

chung và NSQ Phật giáo nói riêng đối với đời sống tinh thần của người dân

Bắc Ninh trong lịch sử. Song về ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống của

người dân Bắc Ninh hiện nay thì ít có công trình đề cập một cách rõ ràng, trực

tiếp. Hiện nay, theo sự tìm hiểu của đề tài, chỉ một số bài viết in trong Hội thảo

khoa học: Vai trò của Phật giáo trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc, xây

dựng đời sống văn hóa ở Bắc Ninh và vấn đề phát huy tinh thần yêu nước của

Tăng ni, tín đồ Phật tử, Bắc Ninh (Sở Nội vụ Bắc Ninh – Ban tôn giáo, 2019).

Phần lớn các công trình nghiên cứu khác đều đi sâu nghiên cứu về kiến trúc,

điêu khắc, hoặc ảnh hưởng trong văn học dân gian hay tục lệ,... Có thể kể đến

các công trình như Chùa Việt của GS. Trầm Lâm Biền (Nxb. Văn học, Hà Nội,

1998), Bài diễn ca sự tích đền bà Tấm của Trần Văn Giáp (Tạp chí Dân tộc

học, số 3 năm 1975), Phụ nữ Việt Nam qua các đời của Lê Thị Nhâm Tuyết

(Nxb KHXH, Hà Nội, 1975), Văn minh Việt Nam của học giả nổi tiếng

Nguyễn Văn Huyên (Nxb. Hội Nhà Văn, Hà Nội), Phật học phổ thông của HT.

Thích Thiện Hoa (Nxb. Phương Đông, Hà Nội, 2011), và gần đây là Báo cáo

sơ kết 06 tháng đầu năm 2019 – phương hướng, trọng tâm 06 tháng cuối năm

9

2019, của GHPGVN tỉnh Bắc Ninh,...

Nhìn chung, đã có một số các công trình nghiên cứu sâu về tín ngưỡng,

tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và ảnh hưởng của Phật giáo trên các

phương diện chính trị, văn hóa, kiến trúc, mỹ thuật,... Còn trên các phương

diện ảnh hưởng của NSQ Phật giáo đối với cách ứng xử với chính bản thân, với

tha nhân và với môi trường thì ít có công trình đề cập. Vì thế, việc tìm hiểu cụ

thể hơn về ảnh hưởng của NSQ Phật giáo trên các phương diện này, đề tài kế

thừa những kết quả nghiên cứu trước đó, đồng thời tiếp tục khảo sát thực tế

trong cộng đồng Phật tử ở Bắc Ninh góp phần làm rõ hơn ảnh hưởng của NSQ

phật giáo đối với đời sống tinh thần người dân Bắc Ninh trong bối cảnh đương

đại. Đối với những người theo Kitô giáo, Tin Lành và một số hiện tượng tôn

giáo mới, hoặc những gia đình theo hai, ba tôn giáo,... những sinh hoạt, hoạt

động tôn giáo khác,... chúng tôi thiết nghĩ cũng cần được tiếp tục nghiên cứu ở

những công trình sau này.

3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Đề tài phân tích một số ảnh hưởng cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo

đến đời sống tinh thần của người dân tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Qua đó nêu ra đề

xuất và khuyến nghị với GHPGVN tỉnh Bắc Ninh và các ban ngành trong tỉnh

về công tác tôn giáo trong tình hình mới.

3.2. Nhiệm vụ của nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, đề tài tập trung làm rõ những nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, khái quát về nhân sinh quan và nhân sinh quan Phật giáo

Thứ hai, tìm hiểu những ảnh hưởng cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo

đối với đời sống người dân Bắc Ninh trong lịch sử và đặc biệt là trong hiện tại.

4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu nhân sinh quan

Phật giáo Bắc tông và những ảnh hưởng cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo

10

đối với đời sống tinh thần của người dân ở tỉnh Bắc Ninh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu nhân sinh quan Phật giáo và những ảnh hưởng của

nhân sinh quan Phật giáo trong cộng đồng người dân ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay.

Trong phạm vi cho phép tác giả chỉ tập trung đề cập những ảnh hưởng tích cực

của nhân sinh quan Phật giáo, trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm

phát huy vai trò tích cực của nhân sinh quan Phật giáo .

5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn triển khai dựa trên cơ sở lý luận của chủ

nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, lý luận chung về tôn

giáo học, xã hội học tôn giáo và Phật học.

5.2. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình triển khai nghiên cứu,

luận văn sử dụng phương pháp lịch sử để làm rõ quá trình hình thành và phát

triển của nhân sinh quan Phật giáo. Đồng thời, luận văn sử dụng phương pháp

quan sát và phỏng vấn để thấy được những ảnh hưởng cơ bản của nhân sinh

quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của người dân Bắc Ninh hiện nay.

Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp phân tích, phương pháp tổng

hợp, các phương pháp nghiên cứu liên ngành như triết học, triết học tôn giáo,

xã hội học tôn giáo, đạo đức học,... nhằm phân tích, đối chiếu, so sánh để thấy

được những quan niệm nhân sinh của Phật giáo và những ảnh hưởng cơ bản

của nó trong đời sống tinh thần của người dân Bắc Ninh đương đại.

6. Ý nghĩa của đề tài

- Đề tài góp phần làm rõ những ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đối

với người dân Bắc Ninh trong lịch sử và hiện tại; đồng thời chỉ ra những mặt

tích cực và một số hạn chế trong đời sống tinh thần của người dân Bắc Ninh

hiện nay.

- Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với sinh viên

chuyên ngành Triết học, Tôn giáo học và làm tài liệu tham khảo trong các

11

trường Trung cấp Phật học trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần Mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội

12

dung của đề tài nghiên cứu khoa học bao gồm 2 chương với 5 tiết.

CHƢƠNG I

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHẬT GIÁO

VÀ NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO

1.1. Khái quát về Phật giáo và Phật giáo ở Bắc Ninh

1.1.1. Sự ra đời của Phật giáo

Về bối cảnh lịch sử tư tưởng và xã hội: Thời kỳ đạo Phật ra đời vào thế

kỷ thứ VI tại Bắc Ấn Độ. Ở thời kỳ này, tư tưởng triết học, tôn giáo rất phong

phú, đa dạng. Đó là sự tồn tại của nhiều loại hình tôn giáo và nhiều trường phái

triết học khác nhau như Số luận, Du Già, Phệ Đà Đa,... trong đó nổi bật nhất là

Bà La Môn giáo. Về xã hội chia làm bốn giai cấp, đó là giới tăng lữ Bà La

Môn; giới vua quan quý tộc; giới buôn bán, người làm thủ công giàu có và

giới nô lệ, nông nô. Ngoài ra còn một loại tiện dân là hạng cùng đinh nhất

trong xã hội sống trong công xã nông thôn với chế độ quốc hữu ruộng đất.

Đúng như nhận xét của GS.TS. Nguyễn Hữu Vui cho rằng "sự tồn tại dai dẳng

của công xã nông thôn và chế độ quốc hữu về ruộng đất là hai đặc điểm lớn

nhất, ảnh hưởng tới toàn bộ các mặt của lịch sử Ấn Độ. Từ hai đặc điểm trên,

dẫn tới hệ quả là các bước phát triển của lịch sử xã hội Ấn Độ thời cổ không

mạch lạc như lịch sử xã hội của các nước châu Âu. Thực sự ở Ấn Độ không có

quan hệ phong kiến giống như kiểu ở Hy – La, cũng không có kiểu quan hệ

phong kiến giống như ở các nước Tây Âu. Ở Ấn Độ, nô lệ chưa bao giờ là lực

lượng sản xuất chủ yếu, họ chưa bao giờ trở thành nông nô như ở Tây Âu

phong kiến… Mặt khác, quan hệ đẳng cấp ở Ấn Độ càng làm cho kết cấu xã

hội – giai cấp thêm phức tạp"[79, tr. 109].

Trong bối cảnh đó, đạo Phật ra đời với quan niệm mới đã đem lại một

luồng tư tưởng mới về tinh thần từ bi, bình đẳng giai cấp, bình đẳng tôn giáo.

Tuy nhiên, theo kinh điển Phật giáo, Thích Ca Mâu Ni là nhân vật lịch sử,

13

nhưng trên phương diện tôn giáo thì Ngài lại một trong muôn vàn chư Phật.

Trước ngài đã có nhiều vị Phật quá khứ và sau ngài sẽ còn nhiều vị Phật tương

lai.

Thái tử Tất Đạt Đa – người sáng lập Phật giáo: Câu chuyện về cuộc đời

Đức Phật rất quan trọng trong lịch sử hình thành đạo Phật. Nhưng sẽ đặc biệt

hơn, nếu đặt câu chuyện trong đời sống cộng đồng tín đồ Phật giáo. Bởi chỉ có

cộng đồng Phật giáo mới cảm nhận, chiêm nghiệm được những huyền diệu từ

cuộc đời ngài. Và sâu sa hơn, cuộc đời Đức Phật đã và đang là mô hình lý

tưởng nhất để tín đồ Phật tử học tập, tu tập và giải thoát, đồng thời cũng chỉ ra

cho con người hiện sinh một nếp sống đúng đắn trong xã hội đầy biến động.

Kinh Bản sinh ghi chép về cuộc đời Đức Phật bắt đầu với ngày Phật đản

sinh. Đây là câu chuyện về sự tái sinh và niềm tin vào sự tái sinh bởi đó là quả

của một cuộc đời tu tập, đạo hạnh của Đức Phật. Trong sự tái sinh cuối cùng

này, kinh Bản sinh cho chúng ta biết Đức Phật được sinh ra trong một gia đình

hoàng tộc và ngài là một vị Thái tử. Mẹ ngài, bà Maya mang thai ngài trong

giấc mơ về một con voi trắng và sinh ra ngài trong khu rừng Lumbini thuộc

dãy Himalaya gần Nepal ngày nay. Khi vừa mới sinh ra, ngài bước bảy bước

trên bảy đóa hoa sen, tay trái chỉ lên trời tay phải đất và nói "Thiên thượng địa

hạ duy ngã độc tôn".

Sau khi ngài đản sinh, một vị tiên tri đến và tiên đoán rằng, nếu ngài vui

sống trong gia đình hoàng gia thì ngài sẽ trở thành một bậc quân vương tài ba,

nhưng nếu ngài từ bỏ hoàng gia cùng với những khoái lạc trần thế thì ngài trở

thành một "Đấng Toàn Giác". Thời gian đầu, Thái tử Tất Đạt Đa đã sống và

được giáo dục trong một môi trường lý tưởng, sung túc về vật chất và thoải mái

về tinh thần. Nhưng trong một vài lần ra ngoài cung điện, Thái tử đã thấy cuộc

sống thường ngày với nhiều khổ đau: Già – tương lai của mỗi người; người đau

ốm – ai cũng có thể bị đau ốm; người chết - sự kết thúc cuộc sống của mỗi

người; một vị tu sĩ khắc khổ – người đi tìm sự giải thoát khỏi thế giới đau khổ.

14

Tất cả những gì Thái tử chứng kiến đều mang tính biểu tưởng cho cuộc đời,

nhưng đã thôi thúc ngài rời bỏ hoàng gia và thực hiện cuộc sống khổ hạnh

nhằm mục đích thoát khỏi những khổ đau đã thấy.

Qua sáu năm khổ hạnh dưới sự dẫn dắt của nhiều vị tu sĩ, nhưng không

một vị nào làm cho ngài hài lòng bởi cuộc sống tu hành khổ hạnh đã không

đem lại kết quả như mong đợi. Ngài đã từ bỏ lối tu khổ hạnh ấy và đón nhận

bát sữa từ một thiếu nữ chăn bò và ngài đã khám phá con đường "Trung dung"

giữa hai lối sống giàu sang và khổ hạnh. Không lâu sau, vị Phật tương lai ngồi

dưới tán cây Bồ đề tu tập và quyết không dời bỏ chốn này nếu không giác ngộ.

Sau khi giác ngộ, Đức Phật đã giảng dạy cho năm vị khổ tu cùng với ngài trước

đây, đó là Tứ diệu đế và từ đây bánh xe Pháp đầu tiên đã dịch chuyển.

Sau gần 50 năm với sự nghiệp hoằng pháp, vào một ngày Ngài nhắc nhở

tín đồ về tính Vô thường của sự vật, cần phải lấy chuyên cần trong tu tập thực

hành để giác ngộ, giải thoát rồi sau đó, ngài nhập Niết bàn.

Tứ diệu đế là những nguyên lý đầu tiên được ngài khám phá và thuyết

giảng và dần dần ngài thiết lập đời sống tu tập cho mọi tín đồ Phật giáo noi

theo. Tuy nhiên, thời gian đầu những lời Đức Phật thuyết giảng không được

ghi lại bằng văn tự, vì thế phải qua những lần kết tập kinh điển thì giáo lý mới

có hệ thống. Và qua hệ thống giáo lý mới thấy rõ quan niệm về vũ trụ và nhân

sinh của đạo Phật, đặc biệt là quan niệm về nhân sinh trong Phật giáo Đại thừa.

Vì thế, ở đây, chúng tôi xin được nhắc lại một cách khái quát nhất về quá trình

kết tập kinh điển. Bởi chỉ khoảng 100 năm sau ngày Đức Phật nhập diệt, sự

phát triển của đạo Phật được mở rộng. Tuy nhiên, mỗi vùng đất mà Phật giáo

truyền đến có những sự khác biệt về văn hóa xã hội và đây được xem là nguyên

nhân chính dẫn đến những bất đồng trong việc nhận thức lời Phật dạy trước đó

chủ yếu là phương thức truyền miệng. Cho nên, Phật giáo đã phân hóa thành

nhiều bộ phái nhằm thích ứng với những môi trường mà đạo Phật truyền tới.

Lần kết tập thứ nhất tại thành Vương Xá có 500 vị La Hán được Ca Diếp

15

mời dự dưới sự bảo trợ của vua A Xà Thế, xứ Ma Kiệt Đà. Khi đức Phật nhập

diệt, không lâu sau đã xuất hiện những kiến giải bất đồng về lời Phật dạy. Để

tránh sự sai biệt, và bảo tồn các giáo pháp và luật lệ được toàn vẹn, Ma Ha Ca

Diếp đã đề nghị kết tập và hệ thống hóa lời dạy của đức Phật lại thành kinh điển

với mục đích không để xảy ra tình trạng hiểu sai lầm về giáo pháp. Trong cuộc

kết tập này, A Nan Đà chính là người đã đứng ra trì tụng những điều đức Phật đã

thuyết giảng và Upani kể về Giới luật. Sau cuộc kết tập, bốn bộ kinh đầu tiên

được chép lại. Đó là kinh Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tăng Nhất A Hàm và

Tạp A Hàm. Bốn bộ kinh này được xem là các tài liệu cổ nhất ghi lại cuộc đời

của đức Phật và những hoạt động của Tăng đoàn, đánh dấu bước hình thành

Kinh tạng và Luật tạng vô cùng quan trọng sau này.

Lần kết tập thứ hai tại tại thành Tì Xá Ly sau lần kết tập thứ nhất một trăm

năm. Lần kết tập thứ hai này có 700 vị Tỳ kheo tham dự. Hội nghị kết tập lần

thứ hai cơ bản là để thảo luận về những thay đổi một số chi tiết trong giới luật.

Ngoài ra, đại hội còn nhằm mục đích ngăn không để tư tưởng của các đạo khác

thâm nhập vào giáo lý Phật giáo. Kết quả là trong hội nghị, những người không

đồng ý với việc giữ nguyên giới luật ban đầu đã bỏ ra để tổ chức một hội nghị

kết tập riêng và thành lập Đại chúng bộ và số người còn lại vẫn tiếp tục kết tập

kinh điển, sau đó hình thành Thượng tọa bộ,… Như vậy, Hội nghị này đánh

dấu sự phân hóa về tổ chức của Tăng đoàn. Thượng tọa bộ gồm thiểu số các vị

Trưởng lão có khuynh hướng bảo thủ, Đại chúng bộ gồm đa số Tỳ kheo trẻ tuổi

có khuynh hướng cấp tiến, mà nhiều nhà nghiên cứu Phật học sau này cho

rằng, tư tưởng của Đại chúng bộ làm nảy sinh nhiều quan niệm mới về chư

Phật, đặc biệt là Bồ tát, là mầm mống cho việc hình thành phong trào Phật giáo

Đại thừa sau này.

Lần kết tập thứ ba dưới triều vua A Dục thế kỷ 3 trước Công nguyên. Vua

A Dục là người mộ đạo nên Phật giáo được ưu đãi rất lớn. Số lượng tăng ni đông

đảo và trong đó cũng không ít kẻ cơ hội trà trộn tăng đoàn gây nên những mối

16

bất hòa. Trước thực trạng như vậy, vua A Dục đã khởi xướng và bảo trợ cho Hội

nghị kết tập kinh điển lần thứ ba trong lịch sử Phật giáo. Có khoảng 1.000 Tỳ

kheo được cử đến. Sau 9 tháng kết tập, lần đầu tiên Tam tạng kinh hoàn thiện và

được con trai vua A Dục đem tới Tích Lan. Các kinh điển này sau đó đã được

dịch sang văn hệ Pali và còn nguyên vẹn cho đến nay.

Hội nghị kết tập kinh điển lần thứ tư diễn ra vào thời vua Ca Nị Sắc Ka.

Tuy sử liệu không hoàn toàn thống nhất với nhau về thời gian và địa điểm. Vua

Ca Nị Sắc Ca là một tín đồ trung thành của đạo Phật và rất thích nghe giảng

kinh văn. Vì thế, nhà vua nhận ra có rất nhiều sự khác biệt về các kiến giải

trong kinh nên ông khởi tâm bảo trợ cho lần kết tập thứ tư. Hội nghị đã tập hợp

được 500 cao tăng giỏi về Tam tạng và sau khi kết tập, nhà vua đã cho khắc lại

toàn bộ Tam tạng lên những lá đồng. Ngày nay, chỉ còn phần thích luận A Tỳ

Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa được Huyền Trang đời nhà Đường dịch sang Hán ngữ

gồm 200 quyển. Ngoài ra, các lần kết tập còn lại đều thuộc bộ phái Thượng tọa

bộ (Nam truyền Phật giáo) tiến hành. Lần kết tập thứ 5 được tổ chức vào năm

1871 trong suốt 5 tháng tại thủ đô của Miến Điện. Số người tham dự gồm

2.400 cao tăng dưới sự bảo trợ của vua Mindon. Kết quả là 3 tạng kinh được

hiệu đính lại và đem khắc trên 729 phiến đá hình vuông cất vào trong chùa tháp

Kuthodaw. Lần kết tập gần đây nhất từ ngày 17 tháng 5 năm 1954 tại phía bắc

Ngưỡng Quan trên núi Nghệ Cố. Lần kết tập này dưới sự khởi xướng của Phật

giáo Miến Điện và bảo trợ là chính phủ Miến Điện. Trong suốt hai năm, tất cả

kinh tạng của Phật giáo nam truyền được khảo sát và đúc kết rồi xuất bản để

truyền bá.

Như vậy, sau khi Đức Phật nhập diệt và qua các lần kết tập đã hình thành

hệ thống kinh điển Phật giáo, đồng thời cũng cho chúng ta thấy sự phân hóa

của Phật giáo. Và đến thế kỷ thứ VII sau Công nguyên, Phật giáo ở Ấn Độ suy

thoái nhưng lại rất phát triển ở các nước như Miến Điện, Tích Lan, Trung

Quốc, Nhật Bản, Việt Nam,...

Theo Phật sử, từ thế kỷ I trước Công nguyên, tư tưởng Phật giáo Đại

17

thừa đã xuất hiện và có xu hướng tự do. Đến thế kỷ thứ 3, qua các trước tác của

Long Thọ thì tư tưởng của Phật giáo đại thừa đã rõ ràng và có bước phát triển

rực rỡ và ảnh hưởng rất lớn lên các hệ tư tưởng khác, không những trong nước

mà cũng được truyền bá và thích hợp đối với nhiều nước như Trung Quốc,

Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam,... Trong đó, quan niệm nhân sinh, lý tưởng Bồ

tát đã tạo một điểm mạnh để đạo Phật có sức lan tỏa rộng lớn qua các vùng

miền mà đạo Phật truyền tới và cả những thay đổi của thời đại.

1.1.2. Phật Giáo ở Bắc Ninh

Đối với Phật giáo ở Bắc Ninh, như lời nhận xét của cố GS. Trần Quốc

Vượng viết trong công trình Việt Nam cái nhìn địa – văn hóa cho biết: "Các

trung tâm văn hóa cổ nhất Việt Nam: Phật Tích, chùa Tứ Pháp (Dâu, Đậu,

Giàn, Tướng), chùa Kiến Sơ (Phù Đổng) và nếu cần kể thêm chùa Lục Tổ,

chùa Tràng Liêu (Tiêu Sơn) cũng đều phân bố trên bờ Dâu - Tiêu Tương"[82,

tr. 154]. Có thể nói, đúng như lời nhận xét của tác giả chùa Phật ở Bắc Ninh

đồng thời là trung tâm văn hóa, nên có ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần nhân

dân.

Ngược dòng lịch sử, Phật giáo được truyền nhập vào nước ta ở Luy Lâu

và hình thành một trung tâm Phật giáo vô cùng quan trọng, Nguyễn Lang nhận

định: "Trung tâm Luy Lâu được hình thành do sự viếng thăm của những tăng sĩ

Ấn Độ. Các vị tăng sĩ này đến Việt Nam bằng con đường biển, theo các thuyền

buôn người Ấn. Nhưng trước khi các vị tăng sĩ Ấn Độ tới Việt Nam, các

thương gia Ấn Độ cũng đã tới Việt Nam rồi và đã mang theo sinh hoạt Phật

giáo tới xứ ta"[39, tr. 21]. Truyện Man Nương trong tác phẩm Lĩnh Nam chích

quái có chép về một nhà tu hành người Ấn Độ tên là Già La Xà Lê đến Luy

Lâu vào thời Sĩ Nhiếp. Tại đây có một nữ đệ tử là Man Nương theo học. Một

lần Man Nương ngủ trong bếp, Già La Xà Lê không biết mà bước ngang qua

người Man Nương. Từ đó, Man Nương thụ thai và sinh một người con gái và

đem trả cho ông. Ông liền đặt đứa bé vào hốc cây đa. Về sau cây đa đổ và trôi

18

về sông Dâu, nhưng không ai vớt lên được. Man Nương đang giặt áo bèn ném

giải yếm và kéo được cây đa lên bờ. Bà nhờ thợ đã thành bốn khúc và tạc thành

bốn pho tượng. Đó là tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện. Còn

con gái của Man Nương đã hóa đá. Khi người dân ném xuống sông thì tỏa hào

quang bèn vớt lên thờ phụng gọi là Thạch Quang Phật. PGS. Nguyễn Duy Hinh

cho rằng "Đây là sự kết hợp giữa tôn giáo Siva (dạng linga) với tục thờ Đá

trong thần điện Cây Đa - Hòn Đá cổ truyền của người Việt mang tính phồn

thực đã diễn đạt qua hình tượng giao cấu thiêng của một tu sĩ Ấn Độ với một

Bà Mẹ người Việt [32, tr. 15]. Như thế, có thể nói tín đồ Phật giáo đầu tiên ở

nước ta là nữ giới, và bà được nhân dân tôn là Phật mẫu, hiện còn được thờ tại

chùa Tổ làng Mãn Xá, còn Thạch Quang Phật và Pháp Vân thờ tại chùa Dâu

thôn Khương Tự. Tác phẩm Thiền uyển tập anh còn khẳng định thêm một chi

tiết quan trọng, đó là khi đạo Phật chưa truyền đến Trung Quốc thì ở Luy Lâu -

Dâu đã là một trung tâm Phật giáo nổi tiếng. Ngay tại trung tâm này đã có

những nhà sư nổi tiếng như Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương

Lương, Mâu Bác... đang cư trú và giảng pháp[47, tr. 89]. Điều này có nghĩa là,

ở Luy Lâu thời bấy giờ đã hình thành một cộng đồng tín đồ Phật tử lớn "gồm

có ni và tăng, người Ấn Độ, người Việt gốc Ấn Độ, người Việt"[32, tr.22].

Trong thời kỳ đầu truyền nhập của đạo Phật vào Luy Lâu - Dâu, các tác

phẩm hiện còn đến ngày nay là Lý Hoặc Luận của Mâu Tử và Lục độ tập kinh

của Khương Tăng Hội. Hai tác phẩm này đã cho biết khá rõ không chỉ về hành

trạng của tăng sĩ mà còn về Phật giáo Bắc Ninh và cũng là của đạo Phật Việt

Nam. Mâu Tử là một sĩ phu người Trung Quốc tị nạn đến Luy Lâu vào thời Sĩ

Nhiếp. Ông tinh thông Nho giáo, Đạo giáo và khi đến Luy Lâu tiếp tục học

Phật pháp. Ở đây, ông viết tác phẩm Lý Hoặc Luận nhằm bênh vực đạo Phật.

Nội dung tác phẩm này gồm 37 điều. Trong đó, những nội dung quan trọng

nhất đó là việc bàn về chữ Hiếu, nhất là bàn về việc bố thí, từ bi, nhẫn nhục và

đây cũng là những nội dung tu tập của Phật giáo ở Luy Lâu,...; Khương Tăng

19

Hội là một người gốc Ấn Độ, sinh ra và lớn lên tại Luy Lâu. Tác phẩm Lục độ

tập kinh của ông gồm 91 đoạn trích dịch từ các kinh Phật theo 6 chủ đề (lục

độ). Cũng như Lý Hoặc Luận, Lục độ tập kinh cho thấy tư tưởng từ bi, bố thí

nổi bật nhất trong Phật giáo Luy Lâu thời kỳ này. Do đó, hiếu, bố thí có ảnh

hưởng lớn đến cộng đồng người dân ở vùng Luy Lâu – Dâu, và cũng là tư

tưởng xuyên suốt của Phật giáo ở Bắc Ninh và Việt Nam sau này.

Có thể thấy, Phật giáo truyền bá vào Luy Lâu trực tiếp từ các nhà sư từ

Ấn Độ. Nhưng Phật giáo phát triển tại đây phải trên nền tảng tín ngưỡng vùng

Dâu bấy giờ và dần trở thành một trung tâm Phật giáo có ảnh hưởng mạnh

khắp vùng đồng bằng sông Hồng. Đó chính là hệ thống chùa Tứ Pháp ở Hà

Nội, Hà Nam, Hải Dương, Hưng Yên mà ngày nay vẫn còn tồn tại dưới hình

thức thờ phụng Tứ pháp và nghi thức cầu mưa. Đặc sắc hơn là tư tưởng từ bi,

bố thí nhẫn nhục thuộc tư tưởng Phật giáo Đại thừa nhưng đậm chất Phật giáo

dân gian vùng Dâu và sau này trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình lịch sử

Phật giáo ở Bắc Ninh.

Đến thế kỷ thứ 6, trung tâm Phật giáo Luy Lâu vẫn là đại diện duy nhất

ở nước ta. Năm 580, Sư Tì Ni Đa Lưu Chi đến vùng Dâu và tại chùa Pháp Vân,

ông đã dịch kinh Tổng trì, rồi truyền pháp cho Pháp Hiền. Đại sư Pháp Hiền

bấy giờ là đệ tử của sư Quán Duyên, tu tập ở chùa Chúng Thiện, núi Thiên

Phúc, Tiên Du. Sau theo học và đắc pháp với Tì Ni Đa Lưu Chi thì ông trở về

chùa giảng pháp cho hàng trăm đồ đệ và rất nổi tiếng là người uyên thâm Phật

pháp. Đến mức, vua Tùy Cao Tổ khi nhận được bản tấu của Thứ sử Lưu

Phương đã sai người đem 5 hòm xá lợi Phật cùng sắc điệp ban cho Pháp Hiền

xây tháp cúng dường. Với 5 hòm xá lợi Phật dựng tháp thờ ở Dâu, Phong

Châu, Hoan Châu, Trường Châu, Ái Châu thì Phật giáo ở vùng Dâu đã phổ

biến khắp vùng đồng bằng sông Hồng đến các tỉnh miền trung Việt Nam hiện

nay. Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi truyền đến thiền sư Y Sơn (1216), được 19

đời. Vua Lý Thái Tông (1028 - 1054) đã truy tán Thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi

20

như sau:

Mở lối qua Nam Việt

Nghe ông chín học thiền

Nguồn tâm thông một mạch

Cõi Phật rộng quanh miền

Lăng già ngời bóng nguyệt

Bát nhã nức mùi sen

Biết được bao giờ gặp

Cùng nhau kể đạo huyền. (TT. Mật Thể dịch)

Đến thế kỷ thứ 9, một thiền phái nữa truyền vào Bắc Ninh, đó là thiền

phái Vô Ngôn Thông. Thiền sư Vô Ngôn Thông người Quảng Châu, đồ đệ của

thiền sư Bách Trượng Hoài Hải. Năm 820 ông đến nước ta tìm người có học

vấn Phật pháp thâm sâu để học hỏi. Bởi khi ấy, bản thân ông đã nhận rõ ở nước

ta bấy giờ rất nhiều cao tăng uyên thâm Phật pháp, đặc biệt là vùng Dâu - Luy

Lâu. Ngoài Thiền uyển tập anh ghi chép còn có Đại Đường cầu pháp cao tăng

chuyện của Nghĩa Tịnh (635-713) ghi tên nhiều nhà sư như Vận Kỳ, Mộc Xoa

Đề Bà, Khuy Sung, Huệ Diệm, Trí Hành, Đại Thặng Đăng,... Vì thế, các nhà

sư thời kỳ này cũng thông thạo chữ Phạn, Hán, nhiều kinh điển Phật giáo được

dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán. Sau, thiền sư Vô Ngôn Thông đến chùa Kiến Sơ

tu hành ở đây suốt 9 năm và truyền pháp cho sư Lập Đức. Dòng thiền Vô Ngôn

thông đến năm 1221, được 15 đời với 49 sư tổ.

Trong thời gian này, tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu, ngoài các nhà sư

Ấn Độ còn có sự hiện diện của các nhà sư Trung Quốc. Và như thế, từ khi xuất

hiện hai thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông, Phật giáo Luy Lâu –

Dâu nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung có sự gia tăng về Phật học, ảnh

hưởng của Thiền tông Trung Quốc ngày càng mạnh.

Nhà Đinh – Tiền Lê đóng đô ở Hoa Lư, Ninh Bình ngày nay. Phật giáo

thời kỳ này phát triển và có sự gắn bó với vương triều. Nhà Lý (1009 – 1225)

21

chọn Thăng Long làm trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước. Phật

giáo vì thế cũng có sự chuyển dịch theo sự lựa chọn đóng đô ở các vương triều,

song các trung tâm Phật giáo ở Bắc Ninh vẫn có sự phát triển và vai trò của các

nhà sư ở Bắc Ninh hoặc các nhà sư từng tu hành ở đây, xét trên bình diện "hộ

quốc an dân" đối với quốc gia dân tộc ngày càng rõ ràng hơn. Có thể kể đến

các thiền sư Thiền Lão, Viên Chiếu, Thường Chiếu,.. Trong đó có các nhà sư

tiêu biểu là: Thiền sư Pháp Thuận (914-990) thuộc thế hệ thứ 10 của thiền phái

Tì Ni Đa Lưu Chi là người học rộng, giúp nhà Tiền Lê hoạch định sách lược và

ông thường được vua Lê Đại Hành hỏi về vận nước; Thiền sư Vạn Hạnh thông

minh hơn người, nghiên cứu tinh thông kinh điển Tam giáo. Ông được xem là

cố vấn của vua Lê Đại Hành, thầy của Lý Công Uẩn và là người có công lớn

mở ra triều Lý. Sau này, vua Lý Nhân Tông truy tán ông như sau:

Vạn Hành thông ba cõi

Thật hợp lời sấm xưa

Quê hương tên Cổ Pháp

Chốn gậy trấn kinh vua.

Vào thời Trần (1225 -1400), Phật giáo gắn liền với sự ra đời và phát

triển của Phật giáo Trúc Lâm. Người khai sơn Phật giáo Trúc Lâm là thiền sư

Hiện Quang (? - 1220). Sư Hiện Quang vốn là học trò của thiền sư Thường

Chiếu ở chùa Lục Tổ, tỉnh Bắc Ninh. Sau đó, ông lên núi Yên Tử lập am tu

hành. Quốc sư Trúc Lâm là học trò của thiền sư Hiện Quang và là thầy của vua

Trần Thái Tông. Khi nhà vua muốn vào núi Yên Tử tu hành, Quốc sư Trúc

Lâm đã khuyên nhà vua như sau: "Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong

tâm ta. Nếu tâm lắng lại và trí tuệ phát sinh, chính đó là Phật. Nếu bệ hạ giác

ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không phải khổ công đi

tìm cầu bên ngoài"[38, tr.256]. Sau đó, theo lời mời của vua Trần Thái Tông về

triều soạn duyệt các bộ kinh lục trước khi đem san khắc. Quốc sư Đại Đăng là

học trò của Quốc sư Trúc Lâm và là thầy của vua Trần Thánh Tông. Các đệ tử

22

của Quốc sư rất nổi tiếng như Quốc sư Liễu Minh, thiền sư Thường Cung,

Huyền Sách và Thiền sư Huyền Quang. Thiền sư Huyền Quang huyện Gia

Lương, tỉnh Bắc Ninh. Năm 20 tuổi đỗ Trạng nguyên và ít lâu sau, ông thụ giới

với Tôn giả Pháp Loa. Sau khi đắc pháp, ông tổ chức in ấn kinh sách, giảng

pháp, học trò đông hàng nghìn người.

Phật giáo Bắc Ninh mà đại diện là các nhà sư tiếp nối cội nguồn trung

tâm Phật giáo Luy Lâu. Do đó, có thể thấy, Phật giáo Luy Lâu là cơ sở cho sự

ra đời và phát triển của Phật giáo Trúc Lâm. Phật giáo Trúc Lâm là nơi qui tụ

đông đảo tín đồ Phật giáo trong cả nước, góp phần định hướng sự phát triển

của Phật giáo Việt Nam, đồng thời đem đạo vào đời, vì con người mà đem tinh

thần từ bi nhẫn nhục của Phật giáo, hoằng dương giáo lý ngũ giới, thập thiện

cho nhân dân, loại bỏ nhiều "dâm từ",… tất cả đã khiến cho đời sống nhân dân,

đời sống xã hội phát triển lành mạnh, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc từ trước

đó và phát triển về sau.

Thời Hồ và thời Hậu Lê, tuy Phật giáo không còn vị trí như thời Lý, thời

Trần, nhưng vẫn tiếp tục tư trào trước đó. Sang thế kỷ 17 - 18, Phật giáo tiếp

tục phát triển bởi công lao lớn của thiền sư Chân Nguyên qua việc sáng tác và

san khắc nhiều tác phẩm của dòng Phật giáo này như Khóa hư lục, Thượng sĩ

ngữ lục,...; Thời kỳ này thiền Lâm Tế xuất hiện ở Bắc Ninh bởi Thiền sư

Chuyết Công người Phúc Kiến, Trung Quốc đến chùa Khán Sơn năm 1633

thuyết pháp giảng kinh. Vua Lê Huyền Tông, các quan lại và nhân dân tôn kính

theo học rất đông. Sau đó, Chuyết công về chùa Phật Tích và sai đệ tử là Minh

Hành về Trung Quốc thỉnh kinh cho chúa Trịnh và để ở chùa Phật Tích. Chùa

Phật tích là nơi tu hành của hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc và công chúa

Trịnh Thị Ngọc Duyên. Cũng trong thời gian này, chúa Trịnh Tráng cho phép

trùng tu chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự) ở huyện Thuận Thành và mời Chuyết

công về trụ trì. Sư Chuyết công về chùa Bút Tháp giảng pháp cho đến khi viên

tịch. Vua Lê Chân Tông ban hiệu là Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức

23

Thiền Sư. Đệ tử của ngài là Minh Hành đã xây tháp Bảo Nghiêm để an trí nhục

thân của ngài tại chùa Phật Tích. Kế đăng lục cho biết có thể Chuyết công là

người đưa ra mô hình bài trí tượng Phật trong chùa ở Bắc Ninh và vùng đồng

bằng sông Hồng theo phong cách của các ngôi chùa Trung Quốc. Nhưng quan

trọng hơn, trong số rất nhiều các đệ tử của Chuyết công, thì sư Minh Hành và

Minh Lương xuất sắc hơn cả. Hai vị thiền sư này đã theo gương thầy mình

hoằng pháp sâu rộng khắp vùng Bắc Ninh và các vùng phụ cận. Có thể nói,

Chuyết công và hai vị đệ tử của mình có công lao rất lớn trong việc truyền bá

thiền phái Lâm Tế ở Bắc Ninh và rộng ra là cả miền Bắc Việt Nam. Bài kệ mà

Minh Hành để lại cho đệ tử đã cho thấy Lâm Tế ở Bắc Ninh có sự phát triển

khá rõ ràng:

Minh chân như tính hải

Kim tường phổ chiếu thông

Chí đạo thành chính quả

Giác ngộ chứng viên thông.

Trong bối cảnh Phật giáo suy vong kéo dài trong gần một thế kỷ từ nửa

cuối thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20, mà nguyên nhân chính là do "đa số tăng

đồ ngày càng lơ là việc học, chỉ chuyên ứng phó, hành trì tín ngưỡng Phật giáo

dân gian, chuyên làm những việc của thầy cúng, dẫn đến thực trạng "dốt và hư

nát", không chuyên tu hành, chỉ tham lợi dưỡng"[69, tr.206]. Sự xuống cấp về

đạo hạnh, không rõ đường lối tu hành, nhà sư quên mất vị trí mình là người dẫn

dắt trí tuệ tâm linh. Cư sĩ Thiều Chửu khẳng định thêm: "Sở dĩ có cảnh suy tàn

(của Phật giáo) như ngày nay, nói cho thật đúng thì suy riêng một giới Giáo Tự

Tăng thôi... Tăng đồ kém đường tu tiến làm sai chính pháp của Phật, cho nên

quần chúng mất lòng tín ngưỡng. Quần chúng mất lòng tín ngưỡng thì Phật

pháp phải suy, đó là lẽ tự nhiên"[17, tr. 29-30]. Vì thế, chấn hưng Phật giáo là

nhu cầu cần thiết. Phong trào chấn hưng Phật giáo ở cả ba miền đã thổi bùng

lên truyền thống yêu nước và ý thức trách nhiệm với dân tộc và đạo pháp của

24

mọi tăng ni, Phật tử. Nhất là sau khi Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công,

đất nước lại trải qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,

tinh thần đoàn kết đấu tranh của nhân dân đã ảnh hưởng mạnh đến tăng ni Phật

tử. Phật giáo Bắc Ninh nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung ý thức được

rằng, muốn có sức mạnh thật sự cần phải cùng nhau đoàn kết, tập hợp trong

một tổ chức để bảo vệ Phật pháp, bảo vệ văn hóa truyền thống, góp phần đấu

tranh giải phóng dân tộc. Năm 1951, cuộc vận động thống nhất Phật giáo lần

thứ nhất đã diễn ra tại chùa Từ Đàm - Huế, tổ chức Phật giáo toàn quốc này có

tên là Tổng hội Phật giáo Việt namTổ chức này qui tụ sáu tổ chức Phật giáo ở

cả ba miền là Hội Việt Nam Phật giáo Bắc Việt, Tăng già Bắc Việt, Hội Việt

Nam Phật giáo Trung Việt, Tăng già Trung Việt, Hội Việt Nam Phật giáo Nam

Việt, Tăng già Nam Việt. Tiếp theo là cuộc vận động thành lập Hội Phật giáo

thống nhất Việt Nam từ năm 1957 đến năm 1958 ở các tỉnh thành phố phía Bắc

được diễn ra tại chùa Quán Sứ. Tổ chức này lấy tên là Hội Phật giáo thống nhất

Việt Nam và Hòa thượng Thích Trí Độ được bầu làm Hội trưởng. Năm 1964,

tại Miền Nam, trong bối cảnh đấu tranh của Phật giáo thắng lợi năm 1963, cuộc

vận động thống nhất lần thứ ba được tổ chức tại chùa Xá Lợi. Tổ chức này lấy

tên là GHPGVN thống nhất. Như vậy, trước năm 1975, Phật giáo Việt Nam

chưa thống nhất trọn vẹn như mong ước của Tăng ni Phật tử trong cả nước.

Năm 1981, cuộc vận động thống nhất Phật giáo lần thứ tư đã trọn vẹn, Phật

giáo Việt Nam thống nhất trong một tổ chức mang tên là GHPGVN. Như lời

Hòa thượng Thích Trí Thủ cho rằng "Lần đầu tiên trong lịch sử 2.000 năm của

Phật giáo Việt Nam, chúng ta có được một hội nghị với đầy đủ đại biểu của các

tổ tức Giáo hội, hệ phái Phật giáo trong cả nước... đã vân tập về đây, trong hội

trường trang nghiêm và rực rỡ này, với một quyết tâm sắt đá: xây dựng ngôi

nhà thống nhất Phật giáo Việt Nam"[24, tr.9]. Như vậy, GHPGVN là một tổ

chức giáo hội thống nhất trên toàn quốc, đánh dấu quá trình phát triển của Phật

giáo Việt Nam, phù hợp với điều kiện xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa,

25

hiện đại hóa.

Ngày nay, Phật giáo Bắc Ninh là một bộ phận không thể tách rời

GHPGVN (GHPGVN) và cũng là một dòng chảy mạnh mẽ trong dòng chảy

chung của Phật giáo giáo Việt Nam. Hiện nay, theo báo cáo số liệu thống kê

công tác tôn giáo năm 2015 của Ban Tôn giáo tỉnh Bắc Ninh, Phật giáo Bắc

Ninh có 594 ngôi chùa, 360 chức sắc và có 282.803 ot tín đồ Phật tử, chiếm

25% dân số trong toàn tỉnh.

1.2. Khái quát về nhân sinh quan và nhân sinh quan Phật Giáo

1.2.1. Một số quan niệm về nhân sinh quan

NSQ nói chung được hiểu là quan niệm sự sống con người như: lẽ

sống của con người là gì, mục đích, ý nghĩa, giá trị của cuộc sống con

người ra sao và sống như thế nào cho xứng đáng. Ở mỗi giai cấp, mỗi tầng

lớp đều có quan niệm khác nhau về NSQ. Trên phương diện triết học, tôn

giáo học, mỗi trường phái triết học và mỗi tôn giáo đều có những quan

niệm của riêng mình về NSQ. Đối với Phật giáo, ra đời trong bối cảnh xã

hội có sự phân biệt giai cấp nặng nề, song về tư tưởng triết học, tôn giáo

thì nở rộ nhiều trường phái triết học và tôn giáo. Do đó, Phật giáo vừa tiếp

thu vừa bác bỏ một số tư tưởng của các tôn giáo khác; đồng thời người

sáng lập đạo Phật vừa là nhân vật lịch sử vừa là tấm gương đức hạnh đã

kiến lập con đường giải thoái lý tưởng cho mọi tín đồ. Song, quan niệm về

vũ trụ và nhân sinh của đạo Phật, đặc biệt là Phật giáo Đại thừa phải qua

các lần kết tập kinh điển mới được đầy đủ và ngày nay, chúng ta tìm hiểu

NSQ Phật giáo cũng qua hệ thống kinh điển này.

NSQ thường được hiểu là những quan niệm của con người đối với cuộc

sống. Mỗi người đều có một NSQ riêng và vì thế, trong cuộc sống mỗi người

mỗi quan niệm, thậm chí là đối nghịch trong lối sống nếp nghĩ. Theo nghĩa

rộng, NSQ là cách nhìn nhận đời sống con người và xã hội theo quan điểm của

từng thời kỳ lịch sử, của giai cấp. Chẳng hạn như NSQ cách mạng là NSQ của

26

giai cấp công nhân, hay NSQ cộng sản là quan niệm nhân sinh của những

người cộng sản đấu tranh để thực hiện lý tưởng cộng sản. Theo nghĩa hẹp,

NSQ chính là quan niệm của cá nhân về cuộc đời. Trong cuộc sống đời thường,

mỗi con người cũng có quan niệm riêng của mình về cuộc sống. Nhưng các

nhà tư tưởng đã khái quát những quan niệm ấy thành quan điểm, thành lý luận

và mang hơi thở của từng thời đại cụ thể, nhất là trong xã hội có giai cấp. Vì

thế, NSQ có tác dụng lớn đến hoạt động, lối sống của mọi người với mục tiêu

tích cực hay tiêu cực. Nếu phát huy được mặt tốt thì có thể cải tạo xã hội và

ngược lại sẽ làm cho xã hội xấu đi, điều này đã được minh chứng trong lịch sử.

Nhiều giai đoạn lịch sử đã chứng kiến hoạt động của con người bị tha hóa nảy

sinh từ NSQ lạc hậu, sa đà vào chủ nghĩa khoái lạc, chủ nghĩa vị lợi,… hoặc

NSQ của nhiều tôn giáo mang tính lánh đời, ẩn dật như đạo Lão,… Nhìn

chung, NSQ là một bộ phận của thế giới quan. NSQ bao gồm hệ thống những

câu hỏi về con người là gì, con người được sinh ra từ đâu, vị trí của con người

trong thế giới, hay hạnh phúc là gì, chết đi về đâu,…

Trên phương diện triết học, PGS.TS. Dương Văn Thịnh đã viết "con

người và xã hội loài người là một bộ phận cấu thành nên thế giới, có quan hệ

chặt chẽ với toàn bộ thế giới. Tuy nhiên, không phải ai cũng đưa ra câu trả lời

như nhau đối với vấn đề con người quan hệ với xã hội và giới tự nhiên như thế

nào. Bởi vì con người và hoạt động của con người là vô cùng phức tạp"[76,

tr193].

Trên phương diện tôn giáo, GS.TS. Đỗ Quang Hưng cho rằng: "nhân

sinh quan có vị trí vô cùng to lớn trong thần học Kitô giáo và giáo lý Phật giáo.

Có thể nói đây là hai trường hợp tiêu biểu trong số các tôn giáo lớn với triết lý

về con người. Đại thể thì, với Kitô giáo, một tôn giáo độc thần, trong đó Đấng

tối cao dưới hình thức Thiên Chúa Ba ngôi là Đấng tạo dựng, đã "nặn" ra con

người theo hình ảnh của Thiên Chúa. Còn với Phật giáo, con người là một hữu

27

thế vô thủy vô chung, trong vòng luân hồi với những nghiệp (karma) nhất định,

dù là người hay chúng sinh, con người với Phật giáo dường như không có một

khuôn mẫu nhất định"[76, tr. 216].

Nho giáo quan niệm về nhân sinh, cho rằng "con người là của gia đình,

của dòng họ, làng, nước. Bản thân con người không có cái gì là của mình: thân

thể là của cha mẹ cho, phận vị là của vua cho, số mệnh là của Trời cho. Có

được cái gì cũng là nhờ ơn vua, ơn Trời. Giá trị của nó được tính theo chỗ nó là

con ai, thuộc họ nào, làng nào, có chức sắc gì, chứ không theo chỗ bản thân nó

là gì. Tất cả là thần dân của vua, đều được xếp vào bậc thang tước vị xã hội, rồi

lại chia thành hạng cha chú hay con cháu. Con người phải nhìn xuống, nhìn lên

trong thang trật tự trên dưới đó, tự xác định vị trí của mình mà ăn mặc, nói

năng, đi đứng cho phải phép. Đó là con người chức năng trong xã hội luân

thường chứ không có nhân cách độc lập"[36, tr. 394-395],...

Phật giáo, với triết lý mà Đức Phật đã dạy rằng "cuộc đời con người là

khổ" hay "nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển cả". Cho nên, trong giáo

lý Phật giáo thường xem thân người là ô uế, là giả tạm, vạn vật vô thường,...

Như thế, quan niệm nhân sinh của Phật giáo về thân phận con người dù ở giai

cấp nào, tầng lớp nào cũng như nhau và tất cả luôn luôn trong khổ đau phiền

não. Nhưng quan trọng hơn, quan niệm nhân sinh của đạo Phật ở chỗ làm sao

giúp con người thoát khỏi xiềng xích khổ đau và phiền não ấy, làm sao để hạnh

phúc ngay trong hiện tại và an vui trong tương lai.

Nhìn chung, ở bất cứ nền triết học nào, nhất là trong triết học tôn giáo thì

NSQ vẫn chiếm một vị trí quan trọng. Bởi tất cả các tôn giáo đều phải chú

trọng đến cuộc sống con người trong đời sống thực hoặc cuộc sống trong tương

lai. Đối với Phật giáo, khi nói về đời sống con người, người ta thường nghĩ đến

hai mặt đối lập là khổ đau và an vui. Nếu con người cho rằng, cuộc đời là hạnh

phúc thì được xem là theo chủ nghĩa lạc quan và ngược lạc, nếu người nào cho

28

rằng, cuộc đời là khổ đau thì theo chủ nghĩa bi quan.

1.2.2. Nội dung của nhân sinh quan Phật giáo

1.2.2.1. Quan niệm của Phật giáo về con người

Sự phát triển liên tục của Phật giáo trong lịch sử đến hiện tại với sự phân

chia thành nhiều hệ phái khác nhau đã hình thành một hệ thống kinh điển vô

cùng đồ sộ và rất khó bóc tách rành mạch. Tuy nhiên, trên phương diện triết

học có thể thấy hai tư tưởng chủ đạo của Phật giáo là VTQ và NSQ. Vì thế,

trước khi đề cập đến NSQ Phật giáo, việc đề cập khái quát nhất về VTQ Phật

giáo sẽ làm sáng tỏ hơn quan niệm về con người của Phật giáo. Bởi VTQ Phật

giáo và NSQ Phật giáo có liên hệ mật thiết và không tách rời nhau.

Về VTQ, đạo Phật chia toàn bộ thế giới thành ba cõi gọi là Dục giới, Sắc

giới và Vô sắc giới. Chúng sinh trong ba cõi này vẫn trong vòng luân hồi sinh

tử, chỉ trừ những chúng sinh đã đạt quả vị Tứ thánh hay Bồ tát trở lên. Chúng

sinh là một thuật ngữ có độ mở rộng, không chỉ riêng con người mà ở đây như

theo kinh Kim Cương cho biết thì đó là tất cả các loài sinh từ trứng, sinh từ

thai, sinh ở chỗ ẩm ướt,…

Ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới được chia thành sáu cõi luân hồi

bao gồm: Trời, Atula, Người, Súc sinh, Ngạ quỷ và Địa ngục. Trong đó, ba cõi

Trời, Atula và Người là ba cõi trên, còn lại cõi Súc Sinh, Ngạ Quỷ và Địa ngục

là ba cõi dưới. Đạo Phật giáo còn chia Dục giới còn có sáu cõi, Sắc giới gồm

bốn tầng là sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền, Vô sắc giới cũng gồm bốn

tầng gồm sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền. Cõi dành cho Tứ thánh chia

thành 18 tầng khác nhau và cõi dành cho Bồ tát thì nhiều hơn, bao gồm 55 tầng

và còn vô số các cõi do vô số chư Phật đứng đầu như cõi Tây phương Cực lạc

của Phật A Di Đà, cõi Đông Phương của Phật Dược Sư, cõi Ta bà của Phật

Thích Ca,...

Thực chất, đạo Phật xem mỗi thế giới đều tương ứng với tâm thức của

từng chúng sinh. Bởi chúng sinh tùy theo Nghiệp của mình mà sinh trong các

29

thế giới theo các cách khác nhau, như sinh từ trứng (Noãn sinh), sinh từ bào

thai (thai sinh), sinh từ ẩm ướt (thấp sinh) và do biến hóa mà sinh (hóa sinh).

Cho nên, nếu chúng sinh chưa đoạn được tham ái thì sinh trong Dục giới; còn

chúng sinh nào do tu tập thiền định rốt ráo thì sinh trong Sắc giới. Ở Sắc giới,

chúng sinh do hóa sinh nên vẫn còn hình dạng thân người được cấu tạo bằng

bốn "chủng tử" là Đất – Nước – Gió – Lửa; cõi Vô sắc giới chỉ dành cho chúng

sinh có trí tuệ sáng suốt và đắc quả vị A La Hán và Bồ tát. Trong Phật giáo Mật

tông còn xem trọng một cõi Trung giới (cõi Âm). Phật giáo Mật tông quan

niệm, cõi Âm là nơi chuyển tiếp tâm thức sau khi lâm chung và trước khi tái

sinh về các cõi tùy theo công phu tu tập của chúng sinh. Có thể về cõi Dục

giới, Sắc giới hay Vô sắc giới.

Bên cạnh đó, đạo Phật còn có sự phân loại vũ trụ thành ba loại là Tiểu

thiên thế giới, trung thiên thế giới và Đại thiên thế giới. Nghĩa là, vũ trụ bao

gồm vô số các Đại thiên thế giới hợp thành [46, tr. 322-324]. Song, không gian

của "mười phương chư Phật" là quá khứ, là hiện tại và tương lai, đồng nghĩa

với "vô thủy, vô chung" của thời gian. Kinh Lăng Nghiêm cho rằng, toàn bộ vũ

trụ chỉ là "bọt nước trong biển lớn" và suy cho cùng vẫn là "nên biết, hư không

sinh ra ở trong tâm ông cũng như chút mây điểm trên vùng trời, huống là các

thế giới ở trong hư không..."[67, tr. 752]. Hay kinh Viên Giác chỉ ra:

Tất cả pháp hữu vi

Như mộng, huyễn, bọt, bóng

Như sương cũng như điện

Nên khởi quán như thế"[68, tr. 89].

Như thế, Phật giáo quan niệm, thế giới bao gồm nhiều cõi khác nhau.

Trong mỗi cõi đều có nguyên tắc để tương ứng với tâm thức của mỗi chúng

sinh mà chiêu cảm. Nghĩa là chúng sinh được sinh trong cõi nào đều là kết quả

của hành động của mỗi chúng sinh đó. Đồng thời, Phật giáo cho rằng, thế giới

không do ai sáng tạo và không có cái gì vĩnh hằng. Mọi chúng sinh đều phải

30

tuân theo chu trình "Thành – Trụ - Hoại – Không" theo luật Nhân quả. Vận

hành chu trình này là Duyên. Duyên được hiểu vừa là nguyên nhân lại vừa là

kết quả để tiếp tục chu trình mới. Vì thế, không có nguyên nhân đầu tiên và

nguyên nhân cuối cùng, do đó không có ai tạo ra thế giới và cũng không có cái

gì là vĩnh hằng và đạo Phật cũng đã bác bỏ sự tồn tại của Đấng sáng tạo của Bà

la môn và Ngã (atman) trong Upanisad.

Từ quan niệm về thế giới như thế, đạo Phật đã đưa ra quan niệm nhân sinh

hết sắc sâu sắc. Đó là việc xem mọi sự vật hiện tượng đang hiện hữu là tất cả

không có thực bởi tất cả đều do Vô minh đem lại. Thế giới hữu tình được hình

thành do hội tụ của các nguyên tố vật chất (Sắc) và tinh thần (Danh). Sắc bao

gồm bốn yếu tố là Đất – Nước – Lửa – Gió; và danh bao gồm: Thụ (cảm giác),

Tưởng (ấn tượng), Hành (tư duy) và Thức (ý thức). Như thế Sắc và Danh hợp

thành 5 yếu tố gọi là Ngũ uẩn. Ngũ uẩn là sự hội tụ trong một thời gian nhất

định rồi lại chuyển sang trạng thái khác. Vì thế không có cái Tôi, tức là Vô

ngã, vì sự vật biến đổi không ngừng nên mọi sự vật hiện tượng cũng Vô

thường.

Phật giáo quan niệm, trong tất cả chúng sinh, vị trí của con người là cao

nhất trong các loài hữu tình, kinh Hoa Nghiêm đã chỉ ra luận điểm này và

khẳng định "con người là hơn cả". Tuy nhiên, mỗi cá nhân vẫn phải trải qua

chu trình Sinh – Lão – Bệnh – Tử vẫn phải theo luật Nhân quả, Vô thường.

Nghĩa là không có mở đầu không có kết thúc, luôn trong vòng luân hồi sinh tử

nếu không tu tập để giác ngộ, giải thoát.

Không chỉ xem trọng vị trí con người cao hơn các loài chúng sinh mà

đạo Phật còn mô tả con người với vóc dáng uy nghiêm ngay thẳng trong sự đi

đứng, và chỉ có con người mới có tinh thần sáng suốt, không bị mù quáng trước

các hiện tượng huyền ảo. Nhưng, Phật giáo vẫn quan niệm mỗi cá nhân là hiện

thân của ý thức và chính mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm về chính bản thân

mình trong hiện tại và tương lai. Song mỗi cá nhân không thể sống đơn độc mà

31

phải sống chung với nhau trong cộng đồng, xã hội nhất định. Đồng thời đề cao

vai trò của mỗi cá nhân cần thiết hay nên phải "đem thân phụng sự chúng

sinh". Phụng sự chúng sinh bằng hành động thực tế của mỗi cá nhân, đó là nỗ

lực bố thí, giữ giới, thực hành các thiện nghiệp trên cơ sở trí tuệ, đồng thời ứng

xử với nhau trên nền tảng Lục hòa bao gồm:

1. Thân hòa đồng trụ (thân hòa cùng ở chung nhau): Trên phương diện

sinh hoạt hằng ngày trong một tổ chức, chúng ta cùng sống chung trong một

tập thể, thường nên chiếu cố giúp đỡ lẫn nhau;

2. Khẩu hòa vô tránh (lời nói hòa hợp không tranh cãi): Đứng trên

phương diện giao tiếp chỉ bảo qua ngôn ngữ lời nói lẫn nhau, luôn luôn thể

hiện tinh thần khuyến khích khuyên bảo cùng nhau làm thiện, dứt trừ làm ác;

3. Ý hòa đồng duyệt (ý hòa cùng vui): Đứng trên phương diện tư tưởng,

lúc nào cũng tôn trọng và ái kính ý kiến người khác, nếu tư tưởng ý kiến đó là

đúng, còn nếu không thì hãy cùng nhau bàn bạc cho ra lẽ và vui vẻ chấp nhận;

4. Giới hòa đồng tu (giới hòa cùng tu tập): Là chúng ta cùng sống chung

trong một tập thể, lúc nào chúng ta cũng nên tuân thủ cùng nhau tu tập theo

giới luật chung đã được đặt ra;

5. Kiến hòa đồng giải (thấy biết giải bày cho nhau hiểu): Là kiến giải có

được về chân lý, hay lý đạo đã thông xin chia sẻ cùng mọi người, cùng nhau tu

tập [thuvienhoasen, truy cập ngày 29/8/2019].

6. Lợi hòa đồng quân (lợi hòa cùng chia): Cùng sống chung với nhau

dưới một môi trường, ta phải chia đều cho nhau về vật chất, của cải, không

được lạm dụng quyền hạn của mình để làm của riêng.

Đây chính là cách để mỗi cá nhân ứng xử với chính mình, tránh sa vào

suy đồi đạo đức, làm hư hoại thân tâm. Bởi Phật giáo cho rằng, được làm thân

người rất khó, ví như câu nói khi "sắt nở hoa kết quả". Có thể nói, đó quan

niệm về nhân sinh đầy tính nhân văn mà Phật giáo đem lại cho mỗi cá nhân

con người, đồng thời quan niệm "lợi lạc quần sinh" đã thúc đẩy sự tiến bộ xã

32

hội và có thể nói, đạo Phật là đạo vì con người.

Khi đề cập đến NSQ Phật giáo, ban đầu chính là quan niệm bác bỏ quan

quan niệm về Đấng sáng tạo của Bà la môn và Ngã trong Upanisad. Sự bác bỏ

này đã đem lại nhiều tư tưởng mới trong Phật giáo sau này. Song đây không

phải là bác bỏ hoàn toàn mà còn có sự kế thừa. Phật giáo đã kế thừa tư tưởng

Luân hồi (Samara) và Nghiệp (Karma) trong Upanisad. Qua đó, có thể thấy rõ,

Phật giáo quan niệm, luật Nhân quả chi phối quá trình của sự vật hiện tượng vũ

trụ, đồng thời cũng chi phối nhân sinh. Sự vật mất đi ở chỗ này thì sinh ở chỗ

khác trong vòng luân hồi vô tận và tùy theo Nghiệp của nó mà sinh nhanh hay

chậm, Nghiệp tuân theo luật Nhân quả. Do đó, Phật giáo quan niệm cuộc đời

con người là Khổ và làm sao thoát Khổ, thoát khỏi vòng luân hồi là quan điểm

cơ bản nhất về con người trong đạo Phật.

Con đường thoát khổ được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ ra cho con

người nhận biết, tu tập bao gồm:

1. Khổ đế bao gồm tám loại khổ (Bát khổ): Sinh, lão, bệnh, tử, yêu

thương nhau nhưng phải xa nhau (thụ biệt ly khổ), ghét nhau phải ở với nhau

(oán tăng hội khổ), muốn mà không được (sở cầu bất đắc) và khổ vì sự tồn tại

của thân xác (thủ ngũ uẩn).

2. Nhân đế hay Tập đế chỉ ra nguyên nhân khổ. Đó là 12 nguyên nhân,

còn gọi là Thập nhị nhân duyên. Đó là: Vô minh, không sáng suốt. Vì không

sáng suốt nên không nhận ra mọi sự vật hiện tượng là giả và không có thật.

Mọi sự vật hiện tượng đều do Duyên mà hội tụ, hòa hợp. Cho nên, mọi sự vật

hiện tượng mà ta thấy như to nhỏ, ngắn dài,… là do sự phân biệt của ý thức

chủ quan gán cho nó nên có sự phân biệt; Duyên hành là hoạt động của ý thức,

nghĩa là sự dao động của Tâm. Tâm dao động khởi phát manh nha của Nghiệp;

Duyên thức: Vì do Tâm dao động nên từ chỗ trong sáng trở nên ô nhiễm.

Duyên thức này tùy theo Nghiệp lực mà tìm đến các nhân duyên khác mà hình

thành; Duyên danh sắc chỉ sự hội tụ của vật chất và tinh thần. Với các loài hữu

33

tình thì sự hội tụ này phát sinh ra Lục căn (nhãn – mắt; nhĩ – tai; tỵ - mũi; thiệt

– lưỡi; thân – thân thể; ý – ý thức); Duyên lục nhập: Chỉ quá trình tiếp xúc giữa

Lục căn với Lục trần (Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp); Duyên xúc: chỉ ra chu

trình tiếp xúc, phối hợp giữa lục căn – lục trần – Thức; Duyên thụ: Chỉ cảm

giác do tiếp xúc mà nảy sinh yêu, ghét, buồn, vui,…; Duyên ái: Chỉ sự nảy sinh

dục vọng; Duyên thủ: Chỉ sự đàm mê, chiếm đoạt; Duyên hữu: Muốn chiếm

đoạt thì có chủ thế, cái muốn chiếm thì phải tồn tại, nghĩa là hành động tạo

nghiệp; Duyên sinh: Nghiệp đã tạo ra thì xuất hiện nghiệp nhân, nghiệp nhân

xuất hiện ắt sẽ xuất hiện nghiệp quả; Duyên lão – tử: Đã có sinh ắt sẽ có tử.

Chết là kết quả cuối cùng của một quá trình nhưng đồng thời khởi động một

chu trình luân hồi mới,…

3. Diệt đế: Đức Phật khẳng định, cái khổ có thể diệt được và thoát khỏi

luân hồi.

4. Đạo đế: Con đường giải thoát khỏi luân hồi sinh tử. Đức Phật chỉ ra có

8 con đường chính gọi là Bát chính đạo bao gồm: Chính kiến: Hiểu biết đúng

đắn; Chính tư duy: Suy nghĩ đúng đắn; Chính ngữ: giữ lời nói đúng đắn; Chính

nghiệp: Không trộm cắp, tà dâm,…; Chính mệnh: Tiết chế dục vọng, giữ các

điều răn; Chính tinh tiến: Hăng say truyền bá chân lý; Chính niệm: Phải hằng

ngày thờ Phật, niệm Phật; Chính định: Tập trung suy nghĩ về tứ diệu đế, về vô

ngã, vô thường,…

Trong bốn chân lý, Khổ đế được xem là căn nguyên đầu tiên để con

người thấy rằng cuộc sống của mình là Vô thường. Song, để hiểu thấu thế là

nào Khổ thì hoàn toàn không hề đơn giản. Bởi trong quan niệm về nhân sinh

trong đạo Phật thì Khổ - Duhkha mang một giá trị nhân văn sâu sắc và đòi hỏi

phải có nhận thức đúng về Khổ mới đề ra được phương pháp thoát khổ đúng.

Khổ - Duhkha là một thuật ngữ Phạn bao gồm hai nghĩa. Kha là cái lỗ

trong ở bánh xe để đưa trục xe vào đó. Duh chỉ sự bất ổn, rối loạn, bất an. Song

khổ đau không chỉ là khổ đau thuộc thân xác hay tinh thần, mà khổ đau còn

34

bao hàm cả những thể dạng bất toại nguyện và những cảm tính bất an mà tất cả

chúng ta đều cảm thấy trong cuộc sống của mình. Nói một cách vắn tắt hơn thì

đấy là sự bất toại nguyện của sự hiện hữu [49, tr.209]. HT. Thích Thiện Siêu

giải thích về khổ đau như sau: duhkha ngoài nghĩa là bất toại nguyện thì phải

được hiểu đầy đủ với 4 nghĩa: Khổ, Vô thường, Không và Vô ngã – đây là bốn

pháp ấn quan trọng của Phật giáo[64, tr. 43].

Do đó, Khổ - Duhkha, nhưng “ta có thể tạm dịch là Khổ. Không ai hiểu rõ

nội dung này đầy đủ của “khổ” trừ bậc đại thánh, còn trên tầm tri kiến thấp hơn

ta chỉ có thể hiểu nó một cách phiến diện”[77, tr. 46]. Tuy nhiên, chúng ta cũng

thấy rằng, việc nhận diện Duhkha sẽ dễ dàng hơn việc tìm hiểu nội dung đầy

tính triết học phức tạp của nó.

Một cách đơn giản là cái gì khiến cho con người cảm thấy khổ, khó chịu,

lo lắng, bất an thì chính là Duhkha. Và cái gì là Duhkha thì cần phải chấm dứt,

loại trừ. Quan niệm của đạo Phật cho rằng thế gian này không có gì ngoài sự

khổ đau, cả hạnh phúc trần thế cuối cùng cũng kết thúc bằng khổ đau. Khổ đau

tiếp nối khổ đau, trong hạnh phúc cũng đã hiện diện những mầm mống của khổ

đau, nhưng không vì thế mà chán nản mà phải nhận diện nó. “Đức Phật dạy

rằng, chúng ta nên nhận thức đau khổ là đau khổ, chấp nhận nó như thực kiến

và chống lại nó”[63, tr. 40].

Duhkha - Khổ vẫn luôn là một khái niệm quan trọng trong đạo Phật, nó

được định nghĩa như sau: Khổ là “cơ sở của Tứ diệu đế. Khổ là một trong ba

tính của sự vật. Không phải chỉ là những cảm thụ khó chịu mới là Khổ; Khổ

dùng để chỉ tất cả mọi hiện tượng vật chất và tâm thức xuất phát từ ngũ uẩn,

chịu dưới quy luật của sự thay đổi và biến hoại. Như thế, tất cả những điều an

lạc đang có cũng là khổ vì chúng sẽ bị hoại diệt. Khổ xuất phát từ Ái và con

đường thoát khổ là bát chính đạo. Chân lý thứ nhất của tứ diệu đế nói về tính

chất của khổ như sau: sinh là khổ; già là khổ; chết là khổ; lo lắng, than thở,

buồn rầu, tuyệt vọng là khổ; không đạt gì mình ưa thích là khổ; nói tóm lại:

35

mọi thứ dính líu đến ngũ uẩn là khổ”[3, tr. 291]. Vì vậy mà Khổ đau trong đạo

Phật được các nhà nghiên cứu nhận diện trên hai phương diện chính là nguyên

nhân, mức độ và hình thức[44, tr. 137].

Về nguyên nhân và mức độ khổ đau có ba loại khổ (Tam khổ) bao gồm:

- Khổ khổ, nghĩa là khổ vì những sự khổ của thế tục, chẳng hạn khổ vì

đói khát, khổ vì phải trải nạn chiến tranh và đây là mức độ khổ thấp nhất mà ai

cũng cảm nhận được;

- Hoại khổ nghĩa là khổ vì sự thay đổi. Ở mức độ này, ngay cả những

kinh nghiệm tưởng có vẻ khoái lạc thì cũng là khổ. Bởi con người cảm thấy các

kinh nghiệm đó là vui sướng là bởi họ đã so sánh chúng với những kinh

nghiệm đau đớn. Sự vui sướng đó chỉ là tương đối. Trong khi đó, sự vật luôn

thay đổi, vì vậy sau một thời gian thì những kinh nghiệm tưởng chừng là vui

sướng đó chỉ còn là sự nhàm chán, không thỏa mãn [45, tr. 112-113] sự vui

sướng rồi cũng mất đi;

- Hành khổ nghĩa là khổ vì duyên sinh, tức trạng thái khổ ở kiếp này

không chỉ là nền tảng cho cái khổ trong kiếp này mà còn là nền tảng cho đau

khổ trong kiếp sau. Cái khổ này nối tiếp nhau kéo từ đời này sang đời khác một

khi con người vẫn nằm trong vòng vô minh[44, tr.112-113]. Sự nhận biết về

khổ ở mức độ này là sâu sắc nhất.

Về hình thức có tám loại khổ (Bát khổ) mà con người ai cũng phải chịu:

- Sinh khổ: Phật giáo quan niệm, con người khổ trong sự sinh sống.

Ngay cả khi còn là một thai nhi thì con người đã khổ vì phải nằm trong bụng

mẹ chật hẹp, người mẹ phải mang nặng đẻ đau cũng là khổ, con người phải

mưu sinh để sống cũng là khổ.

- Lão khổ: Khi con người đến tuổi già thì thân thể không còn như trước,

mắt mờ, tai điếc, khi huyết suy nhược, chân tay chậm chạp, nói trước quên sau

không như ý muốn đó là khổ.

- Bệnh khổ đó là khi con người phải chịu đau đớn cả về thể xác và tinh

thần khi mắc bệnh. Từ khi sinh ra cho đến khi chết đi, không ai là không từng

36

trải qua một đôi lần mắc bệnh và thấu hiểu nỗi khổ khi bị mắc bệnh. Từ bệnh

nhẹ như nhức đầu sổ mũi đến những trọng bệnh như u, nhọt, ung thư hành

hạ,...

- Tử khổ, khi con người sắp chết thì trong lòng sợ hãi thì đó là khổ. Thân

xác phân hủy, gia quyến đau lòng đó là khổ. Và trong bốn hiện tượng vô

thường này thì chết là cái khổ lớn nhất, làm cho chúng sinh trong thế giới trần

tục này sợ hãi nhất.

- Ái biệt ly khổ, đó là khi con người yêu thương nhau nhưng phải chia

lìa. Chia lìa khi còn sống và chia lìa khi chết.

- Sở cầu bất đắc khổ (hay cầu bất đắc khổ) đó là khi con người không

được toại nguyện, những nguyện vọng, tham muốn, khao khát của bản thân

không được như ý.

- Oán tăng hội khổ là khổ khi con người phải tiếp xúc với những thứ

mình không thích. Không ưa nhau mà vẫn phải gặp nhau, ghét nhau mà vẫn

phải ở chung với nhau,…

- Ngũ uẩn khổ, đó là vì con người có sự hội tụ và xung đột của ngũ uẩn

(sắc, thụ, tưởng, hành, thức) trong cơ thể. Chẳng hạn, mơ ước (tưởng) quá thì

cũng khổ, biết (thức) nhiều quá cũng khổ,…

Như vậy, có thể thấy khổ đau theo quan niệm của đạo Phật được nhận

diện ở hai bình diện là Thân khổ và Tâm khổ. Thân khổ có thể thấy rõ là những

cảm giác đau đớn về thể xác, như nóng lạnh, bệnh tật,… còn Tâm khổ là những

cảm giác trong tâm như buồn phiền, căng thẳng, trạng thái lo lắng bất an,…

Hẳn nhiên, Thân khổ và Tâm khổ luôn luôn có sự dính kết, có sự liên quan mật

thiết, không thể tách rời, khổ ở thân sẽ dẫn đến tâm khổ và tâm khổ cũng dẫn

đến thân khổ. Đương nhiên, khổ đau được nhận diện ở đây là những nỗi đau

đớn, khổ sở nói chung. Bởi có những nỗi đau chỉ khó chịu nơi tâm và cũng có

những nỗi đau gây khó chịu nơi thân, có trường hợp có đau nhưng không khổ,

37

có trường hợp có khổ nhưng không đau, điều này phụ thuộc vào từng người,

đặc biệt là đối với các vị tu sĩ đạo Phật, khổ đau thường bị hạn chế, thậm chí

chúng không còn xuất hiện đối với những người đắc đạo.

Nhìn chung, có rất nhiều khổ đau, nó muôn vàn dáng vẻ, mức độ biểu

hiện hay không biểu hiện,... Việc nhận diện khổ đau theo quan niệm của đạo

Phật là khiến cho con người nhìn thấy bản chất của khổ đau, sự xuất hiện và

tồn tại của nó chính là trên nền tảng tham ái và chấp ngã (tham, sân, si). Bởi

càng tham ái, càng chấp ngã thì càng nhận nhiều đau khổ, điểm mấu chốt là

nhận diện khổ đau để khiến cho con người có cái nhìn chân thực về cuộc đời,

hiểu được bản chất, quy luật của đời sống, của các sự vật, các hiện tượng trong

thế giới xung quanh và trong chính bản thân mỗi con người để giảm thiểu nỗi

khổ đau và không tạo ra những khổ đau mới trong cuộc đời, để từ đó con người

gieo trồng được hạt giống được an lạc, hạnh phúc ngay trên thế gian này.

Sẽ là thiếu sót nếu không đề cập đến giải thoát, bởi khi nhận diện được

khổ đau thì câu hỏi đặt ra là làm thế nào để thoát khổ đau. Giải thoát theo quan

niệm của Phật giáo đó là sự giải phóng ra khỏi khổ bằng cách thấy biết nguyên

nhân của khổ và tận diệt nó, tức là thực hiện Tứ diệu đế và đoạn diệt ô nhiễm.

Giải thoát tức là ra khỏi ảo tưởng và khổ, thoát khỏi sự tái sinh trong luân hồi

và đạt Niết bàn.

Giải thoát không gì hơn là thực hiện Bát chính đạo. Đây là con đường

gồm tám nhánh nhưng có sự liên hệ mật thiết với nhau. Đó là sự quán thấy

đúng, tư duy đúng, ngôn từ đúng, hành động đúng, phương tiện sinh sống

đúng, cố gắng đúng, chú tâm đúng, sự tĩnh tâm đúng. Bát chính đạo được các

bậc cao tăng phân làm ba nhóm như sau:

- Nhóm thuộc về đạo đức hay giới luật gồm có: Chính ngữ, tức là không

nói dối, không dèm pha, không nói những lời hung bạo, không nguyền rủa,

không ba hoa vô ích; Chính mệnh, tức là không sát sinh, không trộm cắp, tôn

trọng luân lý trong lĩnh vực tính dục, giúp đỡ người khác biết sống một cách

38

ngay thật; Phương tiện sinh sống đúng, tức là không sinh sống bằng những

nghề làm hại đến người khác và các chúng sinh khác (chẳng hạn như buôn bán

khí giới, lừa gạt, làm nghề đồ tể, chăn nuôi súc vật để giết thịt, phá rừng...), nói

chung là phải biết tôn trọng sự sống và kính trọng tất cả chúng sinh.

- Nhóm thuộc về tĩnh tâm hay thiền định gồm có: Cố gắng đứng, nghĩa là

ngăn chặn các thói quen tâm thần kém đạo đức phát sinh trở lại, không để cho

các thứ dục vọng độc hại mới phát sinh và điều khiển mình, cố gắng tạo ra các

thể dạng tâm thức lành mạnh và tốt đẹp, phát huy thêm những thể dạng tâm

thức tốt sẵn có; Chú tâm đúng, ý thức và chú tâm vào thân xác, giác cảm, sự

sinh hoạt tâm thần, tư duy và các khái niệm và tập trung tâm thức đúng. Đây

chính là thiền định, như thiền định hay niệm Phật,…

- Nhóm hiếu biết tối thượng – bát nhã gồm có: Tư duy đúng là từ bỏ hay

là quên chính mình, không ích kỷ, yêu thương tất cả chúng sinh và bất bạo

động; Hiểu biết đúng chính là thấy triệt được Tứ Diệu Đế.

Nhưng đối với nhân dân, “những bà già ngoáy trầu” mộ đạo thì có lẽ họ

không quá bận tâm nhận diện thế nào là khổ, nhưng đối với các tu sĩ chắc hẳn

họ không dừng lại ở việc "hiểu" bản chất của khổ. Vì thế, vấn đề giải thoát

thường được tranh luận trong suốt tiến trình lịch sử của đạo Phật. Giải thoát là

gì, tại sao phải giải thoát, sau khi giải thoát sẽ đi về đâu và ai là người được

giải thoát. Đương nhiên là kèm theo nó là cả một hệ thống thuật ngữ, khái niệm

thiêng liêng giải thích xung quanh vấn đề giải thoát. Chẳng hạn như Phật

(Buddha), Như Lai (Tathãgata), Pháp (Dharma), Niết bàn (Nirvana),…

Từ phương diện này, có thể thấy, điểm chung của các tôn giáo khi thành

lập thường nhắm đến những người chịu nhiều đau khổ. Và những người này

tìm đến và xem tôn giáo như một phương thuốc tinh thần, làm giảm đi những

điều bất hạnh mà cuộc đời họ đang gánh chịu. Chẳng hạn, đối với Kitô giáo ra

đời ở phía đông đế quốc La Mã cổ đại vào khoảng những năm đầu Công

nguyên. Kitô giáo ra đời trong bối cảnh xã hội La Mã đã tồn tại nhiều mâu

39

thuẫn, nổi bật nhất là mâu thuẫn giữa nô lệ và chủ nô; giữa các dân tộc bị chinh

phục và kẻ xâm lược. Điều này đã dẫn đến nhiều cuộc khởi nghĩa của những

người bị áp bức nổ ra, song đều bị vương triều La Mã đàn áp tàn khốc. Trong

tình trạng đau khổ cùng cực như thế, Kitô giáo xuất hiện và được đông đảo

quần chúng bị áp bức tin theo, vì tôn giáo này đáp ứng nhu cầu về một miền

đất hạnh phúc, an toàn và không có khổ đau. Ăng-ghen đã nhận xét tinh tế về

sự ra đời của Kitô giáo như sau: “Nguồn gốc của Kitô giáo nguyên thủy là cuộc

vận động của những người bị áp bức; đạo đó xuất hiện trước hết như một thứ

tôn giáo của người nô lệ và bán tự do, của những người nghèo khó và những

người bị tước hết mọi quyền lợi...”[4, tr. 47]. Với quan điểm, Đức Chúa Cha

lập ra thế giới, sáng tạo ra con người. Đức Chúa Cha thấy con người lầm lạc

giữa trần gian nên đã ban Đức Chúa Con giáng trần để cứu vớt những con

người bất hạnh. Để cứu vớt những con người bất hạnh, Đức Chúa Giê Su phải

chịu nhiều nạn để thế gian được sống. Islam giáo xuất hiện ở Ả rập vào đầu thế

kỷ thứ 7 sau Công nguyên. Kinh Coran của tôn giáo này mô tả hai thế giới

thiên đàng và hỏa ngục. Nếu như ở thiên đàng có “dòng sông sữa mà mùi vị

của sữa không bao giờ thay đổi; có sông mật với chất mật thuần khiết; con

người quanh năm sống trong bóng cây râm mát, không nhìn thấy ánh mặt trời

chói chang, cũng không nhìn thấy mùa đông giá lạnh; ở đó có nhiều trái cây,

thịt, gạo; mọi người đều mặc lụa the, gấm vóc, đeo đồ trang sức vàng ngọc

châu báu; sống những ngày vô lo vô sợ”[83, tr. 569] thì ở hỏa ngục thì tràn đầy

sợ hãi, có bảy tầng lửa rực cháy quanh năm, chất đốt là con người và đá; con

người ở đó bị giam cầm, chịu những hình phạt tra tấn dã man cả về thân xác và

tinh thần[83,tr. 569]. Hỏa ngục ở đây chính là hình tượng hóa hiện thực về

cuộc sống con người trên bán đảo Ả rập thời đó. Có thể thấy, đây là điểm khác

biệt của Kitô giáo so với Phật giáo trên hai phương diện cơ bản là người sáng

lập và cách giải thoát của con người. Trên hết, cả ba tôn giáo lớn này đều đề

cập đến nỗi thống khổ của con người. Song, Kitô giáo và Islam giáo đưa ra con

40

đường giải thoát bằng cách về thế giới bên kia. Còn Phật giáo đưa ra phương

pháp nhận diện khổ đau và cách thoát khổ ngay trong cuộc sống hiện tại, đó

chính là cách tiếp cận nhân sinh sâu sắc về cuộc sống trần gian. Tuy nhiên,

trong lịch sử cũng có nhiều công trình nghiên cứu đưa ra quan điểm cho rằng,

quan niệm nhân sinh của Phật giáo nói riêng, bản thân Phật giáo nói chung là

bi quan và khuyên tín đồ phải suy tư về Khổ đau. Song những quan niệm này

ngày nay đã trở lên lỗi thời, lạc hậu. Bởi “Phật giáo là một tôn giáo có tính triết

lý sâu sắc. Phật giáo cho rằng, sự sống tự nó không phải là một sự bất ổn, chính

các thể dạng tâm thức của chúng ta làm phát sinh ra khổ đau hay an vui trong

cuộc sống của chính mình. Phật giáo chỉ ra bản chất khổ đau của sự hiện hữu là

gì và từ đó có thể làm thế nào để ta có thể loại bỏ được nó”[48, tr. 209].

Hiện nay, trong bối cảnh xã hội đương đại, chúng ta đã ghi nhận Phật

giáo ngày nay đã và đang "suy tư" đến những vấn đề của con người hiện đại.

Nghĩa là, NSQ không chỉ còn bó hẹp trong kinh điển nữa mà còn só sự mở rộng

hơn theo từng bối cảnh xã hội nhất định. Như một nhận xét "Các học giả Phật

giáo, Giáo hội Phật giáo nhiều nước hiện đang bàn đến những vấn đề rất nóng

hổi như: giáo dục Phật giáo trong thế giới hiện đại; người Phật tử, triết lý Phật

giáo trước những vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa đương đại, thậm chí đến

những vấn đề cụ thể như vấn đề phân hóa, phân tầng xã hội, di dân, chủng tộc,

chiến tranh và hòa bình, đạo đức sinh học, các tệ nạn xã hội,..."[76, tr. 229].

1.2.2.2. Quan niệm của Phật giáo về ứng xử của con người với tha nhân

Ứng xử với người khác (tha nhân): Nổi bật trong quan niệm nhân sinh của

Phật giáo chính là tự độ và tự tha, đây là ứng xử của mỗi người trong cộng

đồng, xã hội. Cho nên, ứng xử của con người cần phải đều hòa được lợi ích

mới tránh xảy ra mâu thuẫn. Quan niệm về tự giác giác tha của Phật giáo rất rõ

ràng. Bởi ngay từ khi Phật giáo ra đời đã hướng con người thoát khỏi khổ đâu

để đến bến bờ giải thoát. Nếu như Phật giáo Nguyên thủy nhấn mạnh vấn đề

giải thoát cá nhân với tự độ cho mình thì Phật giáo Đại thừa lại đề cao độ tha

41

với tư tưởng Từ bi đem lại hạnh phúc cho con người. Tư tưởng Từ bi của Phật

giáo Đại thừa có ảnh hưởng lớn đến ứng xử trong cộng tín đồ Phật tử. Đó là

làm lợi lạc cho mình đồng thời cũng là đem lại lợi lạc cho người.

Trên phương diện kinh điển, Phật giáo quan niệm ứng xử con người với

con người khá chi tiết. Đó là những điều răn về bổn phận của con người trong

cuộc sống. Ngay trong thời Đức Phật còn tại thế, Ngài đã minh định rõ mối

tương quan giữa ngài với môn đồ. Đức Phật nhấn mạnh tầm quan trọng của

việc tự mình sống với khổ đau hay hạnh phúc. Do đó, đi đúng đường thì giải

thoát và ngược lại, đi không đúng đường sẽ vấp ngã và đau khổ. Ngài khuyên

rằng, đến với đạo Phật, vấn đề quan trọng là không phải đến để tin mà là đến

để thấy và tri hành. Do đó, đối với mọi người, cần phải nhận thức rõ ràng về

quan niệm nhân sinh là không phải chỉ có niềm tin suông vào Đức Phật là mình

có thể trở lên trong sạch hay thanh tịnh, mà niềm tin ấy cần phải đặt trên nền

tảng của trí tuệ và ứng xử với tha nhân cũng phải trên nền tảng trí tuệ.

Đối với tình bạn, làng xóm láng giềng: Trong cuộc sống này khi gặp được

những người bạn hiền, bạn tốt sẽ là điều vô cùng quý giá. Chính vì thế, khi bạn

gặp được một người bạn tốt thì hãy mở cánh cửa tâm hồn mình đón nhận

những làn gió trong lành đó. Quan điểm Phật giáo cho rằng, khi ai đó gặp được

một người bạn tốt (thiện tri thức) thì chính là người đó đã gieo nhân duyên

phúc báu từ nhiều đời nhiều kiếp trước. Trong kinh Hiền Nhân, Đức Phật dạy

có bốn cách kết bạn đó là: kết bạn như hoa, kết bạn như cân, kết bạn như núi và

kết bạn như đất. Theo đó, việc kết bạn như hoa chỉ kiểu tình bạn chạy theo vật

chất chỉ lợi dụng lẫn nhau. Vì thế, khi giàu sang thì nịnh bợ dựa dẫm lợi dụng

nhau, nhưng khi nghèo khó thì sẽ bỏ mặc như người xa lạ; Kết bạn như cân chỉ

một tình bạn đồi hỏi phải có sự qua lại về vật chất lẫn tinh thần. Chẳng hạn khi

bạn giàu sang quyền thế thì được trọng vọng, nhưng thi sa cơ thất thế thì bị coi

thường hắt hủi; đối với tình bạn kết như núi chỉ một tình bạn có sự san sẻ, bồi

đắp cho nhau và cuối cùng, kết bạn như đất chỉ một tình bạn luôn chia sẻ, nhẫn

42

nhịn nhau. Trên cơ sở ấy, đạo Phật cho rằng, tình bạn là nơi con người có thể

sửa mình, chia sẻ khó khăn, đồng cảm tâm hồn và ngược lại, có những tình bạn

lại dẫn nhau làm những việc ác, khiến họ trở lên xấu xa, phạm nhiều lỗi lầm.

Kinh Giáo thọ thi ca la việt cho biết sâu sa hơn, cụ thể hơn về ứng xử với

tha nhân. Đó là việc con người còn phải làm tròn bổn phận của mình cũng "hết

sức bình thường" trong các mối quan hệ không chỉ ở trong cộng đồng tín đồ

Phật tử mà còn trong các mối quan hệ với cha mẹ, thầy trò, vợ con, bạn bè,

làng xóm láng giềng,… Tất cả những "bổn phận" của con người đã được Đức

Phật thuyết giảng cho Sigala trong mang ý nghĩa sâu sắc và khá đầy đủ về ứng

xử với tha nhân dựa trên các nguyên tắc là (ngũ giới): không sát sinh, không

trộm cắp, không tà dâm, không nói sai sự thật và không được uống rượu. Ngoài

ra, ứng xử với tha nhân không được dẫn dắt bởi lòng tham, sân giận, si mê và

sợ hãi. Do vậy, Phật giáo đã dạy cho con người nhận thức và ứng xử chuẩn

mực trong các mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa thầy và trò, giữa

chồng và vợ, giữa chủ và tôi tớ và giữa tình bạn với nhau.

- Giữa cha mẹ và con cái: Đạo Phật nhấn mạnh về mối liên hệ của gia

đình bằng cách khuyến khích tất cả mọi người nên ứng xử với nhau bằng trách

nhiệm và bổn phận thể hiện qua việc: 1. Con phải cấp dưỡng cho cha mẹ; 2.

Con phải thực hiện trách nhiệm và bổn phận của mình đối với cha mẹ; 3. Con

phải duy trì nòi giống và truyền thống của gia đình; 4. Con phải làm tròn công

việc ma chay đối với người đã khuất. Đối với cha mẹ thì cần ngăn cản con cái

làm những hành động bất, đồng thời khuyến khích con làm những việc có đạo

đức, hướng dẫn cho con có nghề nghiệp ổn định, sắp ếp việc cưới hỏi thích

hợp cho con và khi cần thiết thì trao cho con di sản thừa kế đúng lúc.

- Giữa Thầy và trò, có thể nói đây là mối quan hệ được đánh giá rất cao

trong Phật giáo. Phật giáo đã chỉ ra năm cách ứng xử của một người học trò đối

với thầy là: Khởi thân đứng dậy chào thầy; hầu thầy; ham học; chăm sóc thầy

và chú tâm nghe lời dạy của thầy.Còn thầy đối với trò là dạy học trò những gì

43

mình đã được học, tâm đắc; dạy học trò nắm vững những điều đã giảng; dạy

học trò hết lòng, bằng cái tâm của mình; nói tốt cho học trò giữa bạn bè đồng

nghiệp và đồng thời bảo vệ sự an toàn cho học trò.

- Bổn phận chồng đối với vợ nhằm giữ cho hạnh phúc gia đình được vẹn

toàn. Đạo Phật đã nêu ra các bổn phận trong ứng xử giữa chồng và vợ như sau:

Tôn trọng nhau; Lịch sự nhã nhặn với nhau; Trung thành; Tôn trọng quyền làm

vợ và cung cấp cho vợ những vật trang sức cần thiết. Vợ đối với chồng cần

phải thể hiện tốt trách nhiệm của mình đối với chồng; Biểu hiện lòng mến

khách đối với dòng dõi giữa 2 gia đình; Trung thành; Giữ gìn kỹ lưỡng tài sản

của chồng và khéo léo và linh động thực hiện các việc kinh doanh.

- Giữa bạn bè với nhau cần thiết phải tuân thủ 5 điều mới có thể duy trì

được tình bạn tốt đẹp. Đó là rộng lượng với bạn; Nhã nhặn với bạn của mình;

Có lòng nhân từ; Cư xử với bạn giống như cư xử với chính mình và nói lời tốt

đẹp. Và người bạn của mình cũng cần có 5 điều, đó là bảo vệ bạn khi bạn

không kịp đề phòng; Giữ gìn của cải cho bạn; Là nơi nương tựa cho bạn trong

lúc nguy hiểm; Không từ bỏ bạn trong lúc khó khăn và phải quan tâm đến gia

đình của bạn.

- Bổn phận giữa chủ đối với đầy tớ: Ở đây, Phật giáo cho rằng, người chủ

phải cư xử với người đầy tớ của mình như sau: Phân công công việc phải tùy

theo sức khẻo và khả năng của đầy tớ; Cung cấp đầy đủ thức ăn và lương bổng

cho họ; Chăm sóc họ khi bệnh hoạn; Thỉnh thoảng chia sẽ cho họ những món

ăn ngon và cho phép họ nghỉ ngơi đúng lúc. Đồng thời, đầy tờ cũng phải thể

hiện bổn phận trách nhiệm của mình đối với chủ, đó là thức dậy trước người

chủ của mình; Đi ngủ sau chủ của mình; Bằng lòng với công việc được giao;

Khéo làm mọi công việc được chủ giao phó và giữ gìn danh tiếng tốt đẹp cho

chủ.

Đối với tu sĩ, cần tuân thủ Giới. Đó là những điều răn cho Sadi có 10 giới;

Tỳ kheo có 250 điều giới, Tỳ Kheo ni là 348 giới. Tất cả các giới điều tiết hành

44

vi của từng người để hướng tới cuộc sống trong sạch, phẩm hạnh tốt.

Như vậy, trong ứng xử với tha nhân, cơ bản nhất vẫn là Giới. Giới được

xem là những chuẩn mực đạo đức của người xuất gia lẫn tại gia. Đối với Phật

tử, Ngũ giới chính là nền tảng đạo đức để hoàn thiện nhân cách của con người.

Việc ứng xử theo tinh thần đạo Phật sẽ đem lại lợi ích cho người tuân thủ nó,

đó là có cuộc sống tốt lành, không phóng dật, được mọi người tôn kính yêu

thương, tự tin với chính mình, quan trọng hơn là sau này không mê loạn, không

hối hận ăn năn và ra đi trong tỉnh giác.

Nhìn chung, quan niệm về ứng xử với tha nhân có thể thấy trước tiên là

với cha mẹ. Bởi cha mẹ là thiêng liêng với con cái, cần phải chăm sóc bố mẹ

già, giữ gìn danh dự cho gia đình,… bố mẹ cũng cần phải gánh trách nhiệm với

con cái, khuyên răn con cái tránh đi vào con đường xấu,…; Trong quan hệ thầy

trò, học trò phải kính trọng và tuân lời thầy, chuyên tâm học tập, ngược lại,

thầy là tấm gương hiếu học, đạo hạnh cho trò noi theo; Trong quan hệ giữa

chồng và vợ đó là tình yêu. Bởi tình yêu là thiêng liêng, gắn kết giữa hai người.

Cho nên, chồng phải chung thủy, tôn trọng vợ, phải đảm bảo được vị trí của vợ

và làm vợ vui lòng. Vợ phải chăm sóc gia đình, làm tốt công việc nội trợ, yêu

thường chồng,…; Với bạn bè, láng giềng thì phải hiếu khách, sống đức độ,

nhân từ, cùng nhau làm việc lợi lạc cho cộng đồng, tranh xung đột,… Vì thế,

có thể thấy đạo Phật không phải chỉ là những giáo pháp cao xa thâm diệu hay

những quan niệm nhân sinh chỉ để chiêm ngưỡng. Mà trong thực tế, những

quan niệm nhân sinh rất gần gũi với đời sống con người, và những quan niệm

này cũng hết sức căn bản và rất thiết thực đối với hạnh phúc con người. Bởi

con người sẽ không hạnh phúc nếu đặt nó bên ngoài và không dựa trên nền

tảng đạo đức và tinh thần. Bên cạnh đó, đạo Phật không xem trọng sự sung túc

về vật chất, mà xem vật chất là phương tiện để làm cho con người sống tốt đẹp

hơn, hài hòa hơn. Vật chất là phương tiện cần thiết đem lại hạnh phúc cho con

người. Do đó, ở một mức nào đó, vật chất là tiền đề cho sự viên mãn tinh thần.

45

Ở điểm này thì Phật giáo không tách rời với cuộc sống hay sự thoát ly xã hội.

Và có thể thấy rằng, cuộc sống của con người là một tổng thể nhiều mặt, từ

kinh tế, chính trị, xã hội đạo đức,… Do đó, Đức Phật đã từng thuyết giảng,

nhấn mạnh nghèo khổ là nguyên nhân cơ bản để tội ác nảy sinh và vô đạo đức

phát triển. Vì thế, Đức Phật cho rằng, trong mỗi cá nhân, mỗi gia đình có "bốn

loại" hạnh phúc:

- Kinh tế ổn định và của cải làm ra bằng những phương tiện đúng đắn và

trung thực;

- Chi tiêu thoải mái số của cải ấy cho mình, cho gia đình, bạn bè và mọi

người và cho những việc đáng làm;

- Không có nợ nần hay tránh được nợ nần;

- Sống cuộc đời ngay thẳng, trong sạch, không phạm điều xấu trong suy

nghĩ cũng như trong hành động.

Như vậy, trong bốn loại hạnh phúc, có ba loại nghiêng về vấn đề vật chất,

vì thế Đức Phật đã nhắc nhở và răn bảo con người hạnh phúc về vật chất

"không đáng một phần mười sáu" hạnh phúc tinh thần. Phật giáo xem hạnh

phúc vật chất là điều kiện hạnh phúc của con người, nhưng sự tiến bộ của con

người cần thiết phải gắng với đời sống đạo đức. Bởi nếu không, cộng đồng, xã

hội không hạnh phúc và thanh bình toàn vẹn.

Nhưng rõ ràng, theo quan điểm của đạo Phật thì chỉ có Tứ chúng1 mới có

thể và kiểm chứng giải thoát là một “trạng thái tịch tĩnh” vi tế đến mức không

phải ai cũng đạt được. Ngày nay, trong xã hội hiện đại, hình ảnh con người cá

nhân đơn độc đi tìm sự tĩnh lặng trong tâm vẫn luôn có có sức hấp dẫn lớn đối

với con người như thuở ban đầu, nhưng dường như việc chinh phục môi trường

xung quanh nhằm đem đến sự sung túc, đầy đủ về vật chất cũng hấp dẫn không

1 Tứ chúng là bốn hàng đệ tử của Phật bao gồm: Tỷ kheo, Tỷ kheo ni, Ưu bà tắc và Ưu bà di.Tỳ kheo và Tỳ kheo ni là hai chúng xuất gia. Ưu bà tắc và Ưu bà di là hai chúng tại gia, dịch là Cận sự nam và Cận sự nữ, nghĩa là những người gần gũi Tam bảo, làm những việc hộ trì Tam bảo. Ngày nay thường gọi là cư sĩ nam và cư sĩ nữ.

46

kém. Dẫu sao, nhận diện khổ đau và tạo lập phương pháp thoát khổ đã và đang

đem đến những lợi ích tích cực trong cuộc sống cá nhân và cộng đồng trong

đời sống xã hội.

1.2.2.3. Quan niệm của Phật giáo về ứng xử của con người với môi

trường

Trên phương diện này, ứng xử của con người theo quan niệm của đạo

Phật đối với môi trường có giá trị lớn. Trong giáo lý Phật giáo qui định hành vi

đạo đức của tín đồ Phật tử đối với môi trường mà họ đang sống, đặc biệt là

trong bối cảnh xã hội đương đại có ý nghĩa quan trọng. Hiện nay ứng phó với

khủng hoảng về môi trường đang là một trong những thách thức hiện hữu đối

với đời sống con người, đồng thời là thách thức đối với các tôn giáo lớn trên

thế giới.

Các tôn giáo lớn trên thế giới hiện nay với những triết lý về môi trường đã

và đang được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Họ cho rằng, các tôn giáo cần

tham gia ứng xử với môi trường một cách toàn diện hơn, đồng thời cần chỉ ra

những giải pháp và hành động cụ thể hơn, ý nghĩa hơn cho tín đồ tích cực tham

gia vào việc ứng phó với những biến đổi môi trường sống nhằm góp phần tái

tạo, bảo vệ môi trường trong lành hơn, tốt đẹp hơn.

Đối với Phật giáo, thông qua hệ thống giáo lý, đặc biệt là thông qua ứng

xử của chính bản thân Đức Phật trong quá trình tu tập và hướng dẫn tín đồ đã

đặt nền tảng cho tín đồ Phật tử sau này ứng xử đúng mực với tự nhiên. Nếu

như trong xã hội Ấn Độ cổ đại, Bà la môn giáo cho rằng vũ trụ do Đại ngã

(Bhàhman) tạo thành, vì thế ít có quan niệm cụ thể về ứng xử với môi trường

thiên nhiên. Khi đạo Phật ra đời với VTQ sâu sắc đã có quan niệm thế giới này

do duyên khởi theo nguyên lý:

Do cái này có nên cái kia có

Do cái này sinh nên cái kia sinh

Do cái này không nên cái kia không

47

Do cái này diệt thì cái kia diệt.

Thực tế thì mọi sự vật hiện tượng đều trải qua quy luật Thành – Trụ -

Hoại – Không. Do đó, mọi sự vật hiện tượng không có Đại ngã mà chỉ là Vô

ngã. Nhưng chúng sinh vì Vô minh mà chấp vào Ngã (Ta) và Ngã sở (cái của

Ta) nên sinh ra bi kịch cuộc đời. Thuyết duyên khởi còn được gọi là Nhân

duyên sinh. Trong đó, nhân là yếu tố quyết định, điều kiện làm sinh khởi có

mặt của hiện hữu, duyên là điều kiện bổ trợ. Ví như hạt lúa nhờ các yếu tốt như

đất, độ ẩm, ánh sáng,... là duyên để hạt lúa nảy mầm và phát triển. Do đó, mọi

vật trong vũ trụ phải nương vào nhau mà thành. HT. Thích Thiện Hoa nhận

xét: "từ vật lớn cho đến vật nhỏ, từ vật hữu hình cho đến vô hình, đều không

ngoài nhân duyên mà có"[31, tr. 573]. Vì thế, quan niệm giữa con người và vũ

trụ có mối tương quan tương duyên với nhau trong một thế giới trùng trùng

duyên khởi. Trong kinh điển Phật giáo cho biết một người bị mũi tên độc. Vấn

đề là cần rút mũi tên ra và chữa trị chứ không phải là hỏi xem mũi tên từ đâu

bắn tới, do ai bắn,... Thâm ý của câu chuyện là cần phải nhỏ mũi tên "khổ đau"

chứ không phải tìm kiếm hay hỏi những câu hỏi vô hình. Vì thế, "nghiệp cảm

duyên khởi" do chúng sinh chiêu cảm, nghiệp lành thì thân căn vẹn tròn và thế

giới tự nhiên cũng tốt đẹp. Ngược lại, nghiệp chẳng lành thì chiêu cảm thân

tâm cũng không lành nên tự nhiên cũng uế tạp và đầy những tai ương. Nếu con

người hiểu thấu nhân sinh thì sẽ luôn cảm thấy cuộc sống bình an. Như Junjiro

Takakusu từng viết "Mọi sự vật hiện hữu đều là vì nhân duyên, và nó sẽ tan

biến khi tác dụng của những tràng nhân duyên đó chấm dứt"[63, tr. 32]. Ví như

con sóng, nhờ nhân duyên mà cường độ chuyển động của sóng to hay nhỏ, và

nếu nhân duyên chấm dứt thì nước phẳng lặng. Nghĩa là nếu con người không

bị áp lực nào tác động thì tâm vắng lặng và không còn những con sóng khổ đau

nữa.

Trên một bình diện khác, quan niệm của Phật giáo về con người và môi

trường tự nhiên cùng hiện hữu nên không thể tách rời nhau, đồng thời con

48

người là một tiểu vũ trụ. Những hành động và tâm niệm của con người thiện

hay ác đều ảnh hưởng đến thế giới tự nhiên. Nhiều biến động trong thế giới tự

nhiên như sóng thần, ô nhiễm môi trường đều do con người tàn phá thiên

nhiên. Suy cho cùng, trái đất đẹp đẽ hay bị hoại diệt đều do chính con người

tạo ra. Trong quan niệm nhân sinh, đạo Phật đã mang lại một bức tranh hòa

bình an lạc, và những giáo lý của Phật giáo đang được tiếp tục nghiên cứu

nhằm giải quyết các vấn đề an sinh cho nhân loại. Thông điệp của Đức Phật

"Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành" vẫn còn nguyên giá trị, thôi

thúc con người cùng tiến bước trong thế giới hòa bình.

Trong bối cảnh xã hội đương đại, vấn đề nhức nhối nhất là suy thoái đạo

đức và ô nhiễm môi trường. Đó là lối sống vị kỷ, thực dụng, xa rời truyền

thống văn hóa đã được nhiều thế hệ tạo dựng. Trong xã hội ngày nay, nhiều

người bất chấp cả đạo lý, chà đạp lên nhân phẩm vì đồng tiền. Vì thế, những gì

thuộc về giá trị tinh thần bị mai một bởi đồng tiền. Nhiều tổ chức vì đồng tiền

mà làm ô nhiễm môi trường, đe dọa đến đời sống con người.

Với quan niệm NSQ sâu sắc, trong đó, các triết lý Duyên khởi, Vô

thường, Vô ngã, Nghiệp báo, luật Nhân quả,… Đạo Phật đã hướng con người

đến cuộc sống từ bi, hỷ xả, thực hành Thập thiện nhằm giải thoái. Những tư

tưởng này có ảnh hưởng rất lớn đối với những người ưu chuộng đạo Phật, đặc

biệt là cộng đồng tín đồ Phật tử. Trong đó, ứng xử của con người với môi

trường tự nhiên thông qua lăng kính đạo đức Phật giáo vẫn còn nguyên giá trị.

Đạo Phật đặt con người – một tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ với những liên

hệ qua lại chặt chẽ. Thuyết Duyên khởi cho ta thấy sự hình thành và phát triển

của con người là sự kết hợp nhân duyên nhiều yếu tố như tự nhiên, xã hội. Sâu

sa hơn là sự hợp thành của Đất – Nước – Lửa – Không khí (Tứ đại) và các yếu

tố tinh thần là Thọ - Tưởng - Hành - Thức. Vì thế, con người với tự nhiên có sự

gắn bó hữu cơ, bền chặt. Nói cách khác, không có tự nhiên thì con người không

có môi trường sống, nếu mối trường sống bị phá hoại thì ảnh hưởng nghiêm

49

trọng đến đời sống vật chất và tinh thần của con người. Con người sinh sống

dựa vào tự nhiên nên cần có thái độ ứng xử với tự nhiên theo tinh thần trung

đạo, nghĩa là thân thiện với môi trường thông qua cách ứng xử thực tiễn như:

Ăn chay, học giả Doãn Chính đã nhận xét "lối sống ăn chay không ăn

thịt của nhà Phật còn có cơ sở từ thuyết nghiệp và Nhân quả"[14, tr. 234] mang

ý nghĩa lớn đối với vấn đề môi trường. Có thể thấy, ăn chay bắt nguồn từ tư

tưởng nhân sinh nổi bật như cấm sát sinh và không khuyến khích sát sinh mang

ý nghĩa nhân bản không chỉ đối với chúng sinh mà còn cả môi trường. Vì thế,

vấn đề ăn chay trong đạo Phật chính là tinh thần tôn trọng thiên nhiên, hướng

con người sống gần gũi với thiên nhiên bằng đời sống giản dị, tiết kiệm tài

nguyên, đồng thời tránh sự vô độ trong tiêu dùng, khai thác tài nguyên bừa bãi.

Cấm sát sinh, quan niệm của đạo Phật là tôn trọng môi trường là tôn

trọng sự sống muôn loài. Bên cạnh việc đề cao ăn chay thì cấm sát sinh vừa là

mối tương quan lại vừa là nguyên tắc nổi bật trong đạo Phật. Cấm sát sinh thể

hiện tinh thần từ bi không sát hại muôn loài và cũng sự thể hiện niềm tin vào

luân hồi nghiệp báo. Cấm sát sinh đã chối từ quan niệm của nhiều tôn giáo về

con người nắm độc quyền sinh sát muôn loài. Trong đạo Phật, không chỉ đề

cao việc cấm sát sinh mà còn đề cao tinh thần sống hài hòa với tự nhiên với

muôn loài. Trong kinh Từ Bi chép "Nguyện cho tất cả các loài sinh vật trên trái

đất đều được sống an lành, những loài yếu, những loài mạnh, những loài cao,

những loài thấp, những loài lớn, những loài nhỏ, những loài ta có thể nhìn thấy,

những loài ta không thể nhìn thấy, những loài ở gần, những loài ở xa, những

loài đã sinh ra và những loài sắp sinh. Nguyện cho đừng loài nào sát hại loài

nào, đừng ai coi nhẹ tính mạng của ai, đừng ai vì giận hờn hoặc ác tâm mà

mong cho ai bị đau khổ và khốn đốn"[34, tr.146].

Đối với tín đồ Phật tử, vấn đề tôn trọng thiên nhiên, không sát sinh và ăn

chay còn là con đường đi đến trí tuệ và là nguyên tắc đạo đức trong đạo Phật.

Nguyên tắc đạo đức đầu tiên là giữ giới và giới đầu tiên là tránh giết sinh vật.

50

Tránh việc giết hại sinh vật còn mang ý nghĩa là tránh gây tôn hại đến sinh vật

(chúng sinh). Vì thế, quan niệm của Đạo Phật không chấp nhận kinh doanh giết

mổ động vật. Chẳng hạn trong Tăng Chi Bộ Kinh (V, 177), Đức Phật khuyên

rằng: “Này các nhà sư, một cư sĩ không nên tham gia vào năm loại kinh doanh.

Thế nào là năm? Kinh doanh vũ khí, kinh doanh con người, kinh doanh thịt,

kinh doanh chất gây nghiện, và kinh doanh chất độc. Đây là năm loại kinh

doanh mà cư sĩ không nên tham gia”[accesstoinsight.org/tipitaka Truy cập

ngày 26/7/2019].

Trong thực tế, đạo Phật đề cao ăn chay, cấm sát sinh. Song ăn thịt cũng

được Đạo Phật chấp thuận, nhưng chỉ ở một số các trường hợp nhằm đảm bảo

sức khỏe trong quá trình tu tập. Tuy nhiên, quan niệm "được ăn thịt" trong một

số trường hợp như trong kinh đã nói không phải là thái độ thờ ơ đối với sự đau

khổ của con vật. Rõ ràng, quan niệm của Phật giáo đã cho thấy, người nào vì

Như Lai hay đệ tử của Như Lai mà giết con vật thì đã phạm lỗi bất thiện và

phải chịu quả báo cho hành động bất thiện này. Do đó, ăn chay, khuyến khích

ăn chay, cấm sát sinh sẽ làm tăng trưởng lòng từ bi đối với muôn loài. Do đó,

từ bi và phát triển lòng từ bi là cốt lõi trong giáo lý đạo Phật, đồng thời cũng là

quan điểm ứng xử với môi trường.

Trở lại vấn đề lịch sử, những dữ kiện về ngày Đức Phật đản sinh và hành

đạo đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với tín đồ Phật tử sau này. Đó là ứng xử giữa

con người với những loài động vật và môi trường xung quanh, mà theo thuật

ngữ hiện đại, đó là sinh thái học. Sự kiện Đức Phật dản sinh tại vườn Lâm Tì

Ni, dưới tán cây Vô lưu mà theo ghi chép Phật sử, đó là nơi có thiên nhiên tươi

đẹp gần vùng biên giới Nepan. Các nhà nghiên cứu cho rằng, nơi Phật đản sinh

chính là tín hiệu cho một tôn giáo ngay từ đầu đã chú trọng bảo vệ, tôn trọng

thiên nhiên. Và nơi đây, trong tâm của những tín đồ Phật giáo, vườn Lâm Tì Ni

trong lành chứng kiến lần đản sinh cuối cùng của Đức Phật mang rất nhiều ý

nghĩa. Cả cuộc đời tu hành của Ngài đều gần gũi với thiên nhiên. Chẳng hạn,

51

trước khi đạt quả vị Phật, ngài đã thụ nhận bát sữa của cô gái và thiền định

dưới tán cây Pippala trong rừng già, nơi rất nhiều loài cùng sinh sống. Phải

chăng, vẻ đẹp tự nhiên của rừng già là nơi thích hợp để tu tập giải thoát. Sau

khi giác ngộ, ngài đã độ năm anh em iều Trần Như ở khu vườn Nai, rồi Ngài

an cư ở vườn Kỳ Đà, nơi cỏ cây tươi tốt, chim hót lúi lo,… Những hành động

của Ngài cho thấy tình yêu vô hạn đối với môi trường tự nhiên. Trong ý nghĩa

tôn giáo học, chúng ta dễ dàng tìm thấy trong các câu chuyện Jataka ghi chép

về tiền thân đức Phật cho thấy cây Sala là nơi trú ngụ của các vị Bồ tát và sau

khi thành Phật, ngài hết lòng ca ngợi loại cây này. Hay trong một số câu

chuyện, đức Phật miêu ta sự hữu ích của những cánh rừng xoài và cánh rừng

đa. Đức Phật cho rằng "Thật đáng hổ thẹn nếu chúng ta chặt một cành của một

thân cây mang lại cho ta bóng mát để ngồi hoặc ngủ dưới đó”[62, tr.210]. Điều

này cho thấy, Phật giáo ứng xử với môi trường theo hướng thân thiện và tôn

trọng môi trường. Theo quan niệm nay, nếu như hạn chế nạn phá rừng thì

lượng CO2 sẽ giảm thiểu, lũ lụt ít xảy ra, hạn chế tối đa sự nóng lên toàn cầu.

Tinh thần từ bi không sát sinh của Phật giáo có thể nói gần với ý thức về

bảo vệ môi trường hiện nay. Ứng xử thân thiện với môi trường chính là đề cao

giá trị của đạo Phật. Tinh thần, nếu bạn bảo vệ thiên, thiên nhiên sẽ bảo vệ bạn.

Do đó, nếu môi trường không được bảo vệ thì dẫn đến mất cân bằng sinh thái.

Trong Phật giáo đặc biệt là Phật giáo Đại thừa, sự phát triển của lòng từ bi luôn

song song với trí tuệ. Người có trí tuệ không thể không có lòng từ bi, càng đạt

trí tuệ cao thì lòng từ bi càng phát triển và ngược lại, từ bi là điều kiện để phát

triển trí tuệ. Kinh Lăng già, một bộ kinh quan trọng của Phật giáo Đại thừa

không chỉ đề cập đến chế độ ăn chay và tầm quan trọng của việc không giết

động vật mà còn nhiều câu chuyện nói về lòng từ bi. Đặc biệt là đề cao lý

tưởng "vì có lòng từ bi mà nhìn thấy toàn bộ sự đau khổ của chúng sinh". Cho

nên, luật Nhân quả đã có ảnh hưởng lớn đến ý nghĩ, hành động của mỗi tín đồ

Phật giáo. Trong thực tế, hậu quả của việc sát sinh là rất lớn, vì tham lam, vì vô

52

minh mà sát sinh sẽ gây nhiều bất hạnh.

Ở Việt Nam, theo TT.TS. Thích Tâm Đức cho rằng “Việt Nam là một

trong 5 quốc gia trên thế giới có thể bị ảnh hưởng nặng nề trực tiếp nhất của

biến đổi khí hậu: nếu mực nước biển dâng lên một mét, Việt Nam mất khoảng

5% diện tích, 11% dân số sẽ mất nhà cửa, sản lượng nông nghiệp giảm 7% đến

10% trong thu nhập quốc gia, mất gần 50% diện tích đất nông nghiệp. Đồng

bằng sông Cửu Long sẽ bị nhấn chìm dưới nước và không thể trồng cấy được

nữa. Đồng bằng sông Hồng và toàn bộ người dân sống dọc theo 3.200 km bờ

biển cũng sẽ bị ảnh hưởng nặng nề”[22]. Theo đó, trong khoảng 10 năm vừa

qua, Việt Nam đã hứng chịu những tác động lớn của biến đổi khí hậu, với

những hình thái khí hậu cực đoan: thảm họa thiên nhiên xảy ra thường xuyên,

gia tăng về quy mô, cường độ, gây rất nhiều tổn thất về người và của cải. Chỉ

riêng năm 2006, thiệt hại do bão gây ra ở Việt Nam đã lên đến 1, 2 tỷ USD.

Đặc biệt trong giai đoạn mùa đông năm 2007 - 2008 thời tiết lạnh trong vòng

38 ngày liên tục đã làm chết 53.000súc vật nuôi và gây hại cho 34.000 héc ta

diện tích lúa cấy của vụ xuân, và 10.000 héc ta lúa gieo trồng trên vùng núi ở

miền núi phía Bắc và vùng Bắc Trung Bộ đã bị mất trắng. Thiệt hại ước tính

hơn 11.600 tỷ đồng Việt Nam với hơn 723.900 hộ gia đình và hơn 300.000

người rơi vào tình trạng thiếu ăn. Dịch cúm gia cầm, dịch lợn tai xanh…bùng

phát, và lặp đi lặp lại, tồn tại ở rất nhiều vùng miền"[22].

Nhìn chung, những quan niệm của Phật giáo về ứng xử với môi trường

trên cơ sở tôn trọng và bảo vệ môi trường. Đặc biệt trong bối cảnh xã hội ngày

nay, cần thiết phải bảo vệ môi trường thiên nhiên thông qua những hành động

cụ thể. Từ bỏ những thói quen ăn uống động vật hoang dã và hướng về chế độ

ăn uống giản tiện vì lợi ích của con ngươi và muôn loài. Đó là tạo thiện nghiệp,

nghĩa là chính chúng ta tạo ra thế giới của chúng ta. Tránh làm tổn hại đến môi

53

trường, đồng thời cũng là tránh làm tổn hại đến bản thân.

Tiểu kết chƣơng 1

NSQ được xem là một bộ phận của thế giới quan bao gồm những câu

hỏi về con người là gì, con người được sinh ra từ đâu, vị trí của con người

trong thế giới, hay hạnh phúc là gì, chết đi về đâu,… Song, ở mỗi nền triết học,

ở mỗi tôn giáo lại có quan niệm khác nhau về con người ứng xử trong xã hội và

giới tự nhiên.

Đối với Phật giáo, qua cuộc đời đạo hạnh của Đức Phật Thích Ca Mâu

Ni, qua những lần kết tập kinh điển đã hình thành hệ thống giáo lý còn tồn tại

đến ngày nay khiến chúng ta hình dung được phần nào những quan niệm nhân

sinh của đạo Phật. Khái quát nhất, NSQ là xem vị trí con người lại là tối

thượng trong muôn loài. Tuy nhiên, mặc dù coi trọng vị trí con người, thậm chí

coi con người là một tiểu vũ trụ, nhưng cuộc sống con người là Khổ. Con

người dù ở giai cấp, tầng lớp nào cũng khổ đau. Nhưng quan trọng hơn cả là

đạo Phật có một hệ thống giáo lý giúp con người thoát khỏi khổ đau trong hiện

tại và hạnh phúc an vui trong tương lai. Đó là đề cao ứng xử của con người với

chính bản thân mình, với tha nhân và với môi trường tự nhiên. Trong đó, ứng

xử đối với bản thân mình, dù vị trí được đề cao, nhưng mỗi cá nhân vẫn phải

trải qua chu trình Thành – Trụ - Hoại – Không, vẫn phải theo quy luật Nhân

quả, Vô thường. Đồng thời, Phật giáo cho rằng mỗi cá nhân là hiện thân của ý

thức và chính mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm về chính bản thân mình trong

hiện tại và tương lai. Cho nên, muốn thoát khổ, cá nhân mỗi người phải nhận

diện được khổ đau trên nền tảng trí tuệ theo quá trình Giới – Định – Tuệ. Nghĩa

là tuân thủ Tứ diệu đế và thực hành Thập thiện, như thế mới có hướng đi đúng

đắn trong việc thoát khổ. Trong quan niệm ứng xử với tha nhân, nổi bật nhất

chính là lợi ích của mình và lợi ích của người. Quan niệm về tự độ và độ tha

của Phật giáo rất rõ ràng, đồng thời đề cao tư tưởng từ bi đem lại hạnh phúc

cho con người. Trong đó, những ứng xử với tha nhân chủ yếu được làm sáng tỏ

54

trong mối quan hệ giữa con cái với cha mẹ, giữa thầy và trò, tình bạn bè,…

Bên cạnh đó, quan niệm ứng xử của con người đối với môi trường cũng mang

giá trị nhân văn sâu sắc và mang tính thời sự. Đó là ứng xử tôn trọng và bảo vệ

thiên nhiên trên cơ sở đề cao việc ăn chay và cấm sát sinh. Điều này không chỉ

thể hiện tinh thần từ bi của đạo Phật mà còn thể hiện những hành vi đạo đức

của con người đối với thiên nhiên.

Trong bối cảnh xã hội đương đại, vấn đề nhức nhối nhất là ô nhiễm môi

trường và suy thoái đạo đức. Đó là lối sống vị kỷ, thực dụng, xa rời truyền

thống. Với quan niệm NSQ sâu sắc, trong đó, các triết lý Duyên khởi, Vô

thường, Vô ngã, Nghiệp báo, luật Nhân quả,… Đạo Phật đã hướng con người

đến cuộc sống thương yêu chính mình, thương người và bảo vệ môi trường

55

mang tinh thần của quá khứ đến hiện đại.

Chƣơng 2

NHỮNG ẢNH HƢỞNG CƠ BẢN CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT

GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƢỜI DÂN

BẮC NINH VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ PHÁT HUY GIÁ TRỊ

CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO

2.1. Khái quát cơ bản về tình hình kinh tế - xã hội, tình hình tín

ngƣỡng tôn giáo ở Bắc Ninh

2.1.1. Điều kiện tự nhiên – xã hội

Theo vị trí địa lý thì Bắc Ninh và Bắc Giang là hai nửa của xứ Bắc,

nghĩa là tỉnh Bắc Ninh là một nửa của "Xứ Bắc" về vị trí địa lý đã được nói đến

trong, chẳng hạn như Dư địa chí, Lịch triều hiến chương loại chí, Đại Nam

thực lục, Đại Nam nhất thống chí, đặc biệt là công trình Địa dư các tỉnh Bắc

Kỳ đã cho biết về vị trí cũng như diện tích tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Phía bắc

giáp Bắc Giang, phía đông và nam giáp Hải Dương và Hưng Yên, phía tây giáp

Hà Nội và Phúc Yên.

Theo dòng lịch sử, thư tịch cổ cho biết, tỉnh Bắc Ninh xưa thuộc bộ Vũ

Linh, nước Văn Lang, thời Tần (214-207) trước Công nguyên thuộc đất Quận

Tượng, thời thuộc Hán (110 trước CN - 210) thuộc quận Giao Chỉ với hai

huyện là Luy Lâu và Long Biên,... Đến thời Nguyễn, xứ Kinh Bắc được gọi là

trấn Kinh Bắc, năm 1822 đổi thành trấn Bắc Ninh và năm 1931 đổi thành tỉnh

Bắc Ninh.

Trải qua nhiều biến thiên lịch sử, ngày nay tỉnh Bắc Ninh có diện tích nhỏ

so với các tỉnh thuộc vùng đồng bằng bắc bộ. Hiện nay, tổng diện tích đất tự nhiên

của tỉnh chỉ 807,6 km2, trong đó đất nông nghiệp chiếm 64,7%; đất lâm nghiệp

chiếm 0,7%, đất chuyên dùng và đất ở chiếm 23,5% và đất chưa sử dụng còn

56

11,1%. Riêng đất đô thị là 1.158,9 ha chiếm 1,44% diện tích tự nhiên.

Tỉnh Bắc Ninh ngày nay có vị trí nằm gọn trong châu thổ sông Hồng và

liền kề với thủ đô Hà Nội và sẽ là địa bàn mở rộng của thủ đô Hà Nội trong quá

trình xây dựng thành phố vệ tinh, đồng thời là tỉnh có mạng lưới gia công cho

các xí nghiệp của thủ đô trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Mặt

khác, tỉnh Bắc Ninh ngày nay vẫn giữ được vị trí đặc biệt quan trọng bởi là cầu

nối giữa Hà Nội và các tỉnh trung du, miền núi phía Bắc, đặc biệt là tuyến

đường huyết mạch giao lưu với Trung Quốc.

Theo thống kê, sự phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện

đại hóa. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh đã có 15 khu công nghiệp, với 496 dự án

đầu tư. Trong đó có hơn 200 dự án đầu tư nước ngoài của 8 quốc gia và các

vùng lãnh thổ thu hút trên 100.000 lao động. Bên cạnh đó, nền kinh tế thủ công

truyền thống của tỉnh Bắc Ninh khá phát triển và có những đóng góp quan

trọng vào nền kinh tế chung của tỉnh. Đó là 61 làng nghề truyền thống như làng

nghề đúc đồng ở Đại Bái, huyện Gia Đình, làng nghề sắt ở Đa Hội, thị xã Từ

Sơn, làng nghề gỗ mĩ nghệ ở Đồng Kỵ, thị xã Từ Sơn,…

Về cơ cấu dân số trên nửa triệu người cho thấy, nguồn nhân lực của tỉnh

Bắc Ninh hiện nay khá dồi dào, đáp ứng nhu cầu phát triển chung của tỉnh. Số

người trong độ tuổi lao động là 484.900 người. Do đó, tốc độ tăng trưởng kinh

tế của tỉnh Bắc Ninh so với các tỉnh lân cận là cao hơn, bình quân đạt 15,1%.

Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt qua từng năm.

Về lịch sử, văn hóa - xã hội, nếu như Xứ Đoài trở nặng đất Việt cổ thì

Xứ Bắc là nơi giao hòa văn hóa Việt đích thực. Như lời của cố GS. Trần Quốc

Vượng từng nói: "tôi là người của lý thuyết tứ giác nước và văn hóa sông

ngòi"[82, tr. 152]. Vì thế, ông cho rằng, ở xứ Bắc có hai dòng sông lịch sử và

các chi nhánh của chúng đã "đóng trọn vai trò văn hóa lịch sử xứ Bắc xưa nay

là sông Dâu - Đuống và sông Phú Lương - Cầu. Từ thời Lý hai sông đó đã

mang tên Thiên Đức và Nguyệt Đức của đạo lý Đại Việt. Hay nói cách khác,

57

làng xã ở Kinh Bắc, P. Gourou cho rằng là làng ven sông và làng ven đồi"[82,

tr. 152], và trung tâm chính trị, văn hóa, tôn giáo Xứ Bắc đều ở trên bờ những

dòng sông này. Khi đề cập đến chính trị, văn hóa ở tỉnh Bắc Ninh, không thể

không đề cập đến địa danh Dâu - Luy Lâu. Địa danh này ngày nay thuộc huyện

Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Vào thời Đông Hán, Luy Lâu được các triều đại

phong kiến Trung Quốc xây dựng thành trung tâm chính trị, văn hóa. Nhà

nghiên cứu Trần Đình Luyện cho rằng: "Đây là ngôi thành đắp đất cấu trúc

dạng hình chữ nhật, quy mô khá lớn, với chiều dài các thành lũy đo được như

sau: Lũy thành phía tây dài 328 m; lũy thành phía đông dài 320 m; lũy thành

phía bắc dài 680 m; lũy thành phía nam dài 520m"[42, tr. 60]. Như thế, trước

tiên, Luy Lâu là nơi có vị trí quân sự quan trọng của chính quyền, tiếp theo là

trung tâm văn hóa chính trị với vai trò đặc biệt của Thái thú Sĩ Nhiếp. Ngô Sĩ

Liên sau này đã đánh giá khá xác đáng về vị Thái thú này và đánh giá cao công

lao của Thái thú Sĩ Nhiếp trong việc tạo dựng cơ tầng văn hóa cho người Việt

cổ, đặc biệt đối với giáo dục. Sau này, Sĩ Nhiếp được tôn vinh là Nam Giao

học tổ. Hiện nay nhiều nơi còn thờ Sĩ Nhiếp, và lăng mộ của ông tương truyền

vẫn hiện tồn ở xã Tam Á, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh ngày nay.

2.1.2. Tình hình tôn giáo, tín ngưỡng ở Bắc Ninh

Có thể nói, Bắc Ninh là một tỉnh có truyền thống văn hóa lâu đời, trong

đó, tín ngưỡng, tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của

nhân dân. Đồng thời, Bắc Ninh còn là một tỉnh có nhiều đặc trưng về tôn giáo,

tín ngưỡng. Hiện nay, có trên 20% dân số là tín đồ Phật tử hoặc là những người

có cảm tình với Phật giáo thì chiếm trên 60% dân số trên toàn tỉnh. Ngoài ra, ở

Bắc Ninh hiện này số lượng tín đồ theo đạo Công giáo đứng thứ 2 sau đạo

Phật, một số ít theo đạo Tin Lành và một số hiện tượng Tôn giáo mới.

Có thể nói, ở Bắc Ninh hiện còn bảo tồn được nhiều loại hình tín

ngưỡng. Có thể kể đến tín ngưỡng thờ Đá, tín ngưỡng thờ thủy thần, tín

ngưỡng nông nghiệp, thờ thành hoàng làng – những người có công với dân với

58

nước,… trong đó nổi bật nhất vẫn là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Liên quan đến

các loại hình tín ngưỡng này, hiện nay ở Bắc Ninh đang hiện diện khoảng gần

1.600 di tích với nhiều loại hình như đền, đình, chùa, văn miếu, lăng tẩm. Điều

này cho thấy, hiện nay ở Băc Ninh đã và đang hiện nhiều tín ngưỡng, tôn giáo

trong đời sống tinh thần của người dân.

Người dân Bắc Ninh hiện nay rất tự hào về văn hoá truyền thống của

mình. Nền văn hóa này bao gồm văn hóa vật thể và phi vật thể gắn liền với các

địa danh, đặc biệt là các công trình tôn giáo tín ngưỡng. Trong đó, những ngôi

chùa có niên đại hàng nghìn năm và những hội làng đồng thời là hội chùa đã

tạo cho con người Bắc Ninh niềm tự hào sâu lắng. Và trong lịch sử cho đến

hiện tại, ảnh hưởng của Phật giáo đã hun đúc không chỉ tinh thần nhân văn sâu

sắc mà còn là yếu tố cốt lõi trong truyền thống văn hóa của người dân nơi đây.

2.2. Thực trạng ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời

sống tinh thần của ngƣời dân tỉnh Bắc Ninh.

2.2.1. Ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến lối ứng xử với bản

thân của người dân Bắc Ninh

Quan niệm của đạo Phật cho rằng đời người là bể khổ. Nguồn gốc của

khổ là Vô minh. Vì vô minh nên con người khao khát thỏa mãn mọi mong

muốn của mình và tạo nghiệp. Nghiệp vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của

con người. Cho nên, diệt khổ trước hết là phải tận trừ vô minh và thoát khỏi

vòng luân hồi sinh tử. Các chuẩn mực mà Phật giáo đem lại cho mỗi con người

chính là phân biệt thiện – ác; chính – tà; hạnh phúc – khổ đau,… Mặt khác,

trên phương diện tôn giáo, nghiệp và luân hồi có giá trị đặc biệt vì ảnh hưởng

lớn đến bản thân mỗi cá nhân con người.

Đối với nhân dân và tín đồ Phật tử ở Bắc Ninh, ảnh hưởng NSQ của Phật

giáo như một kim chỉ nam cho mọi hành động và là sự cảnh tỉnh bởi chính

hành động của họ. Nhất là Phật tử, sau khi quy y Tam bảo, Phật tử tại gia tiếp

nhận và tuân thủ ít nhất năm giới luật căn bản. Đó là không sát sinh; không

59

trộm cắp; không tà dâm; không nói dối; không sử dụng chất gây say và nghiện

ngập. Những giới luật này ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi trong đời sống

thường ngày của họ. Theo chúng tôi tìm hiểu và quan sát, phần lớn Phật tử ở

Bắc Ninh khi đã quy y thì tuân thủ giới luật. Bởi họ nhận thức sâu sắc mối

quan hệ của mình với muôn loài. Làm tổn hại đến chúng sinh nghĩa là làm tổn

hại đến mình. Một Phật tử ở chùa Phật Tích cho biết: "Con quy y theo truyền

thống gia đình. Con và các thành viên trong gia đình thường tránh việc sát sinh.

Con cũng nghe các quý thầy giảng về Phật pháp và thấy rằng, sát sinh không

đem lại quả tốt. Tại sao mình lại gây đau đớn cho loài vật, nếu ai đó làm đau

mình như thế thì mình có chịu được không,… Giết hại động vật để ăn là mang

nghiệp đấy ạ"[49, PT. DĐ, chùa Phật Tích]. Có thể thấy, Nghiệp báo trong đạo

Phật có ảnh hưởng lớn đến đời sống cá nhân dân, nhất là những người đã quy y

Tam bảo. Chúng tôi phỏng vấn một người khách thập phương đến chùa Phật

Tích lễ Phật: "Bác chưa quy y Nhà chùa ạ, nhưng ngày rằm hay mùng một đều

tranh thủ đến chùa lễ Phật. Tranh thủ thôi Nhà chùa ạ, vì hiện giờ các con của

bác cũng bận làm ăn nên mình cũng phải phụ giúp các con. Với việc sát sinh,

bác cho rằng nên hạn chế. Song như Nhà chùa thấy đấy, ở xã hội này, nhất là

nhà có đám, không giết gà mổ lợn thì cũng ít người đến "[50, bà NTT, chùa

Phật Thích].

Như thế, lo sợ nghiệp xấu, thúc đẩy nghiệp lành đã có ảnh hưởng lớn

đến hành vi của mỗi cá nhân, đặc biệt là Phật tử ở Bắc Ninh. Họ cho rằng,

không nên sát sinh và nếu sát sinh bản thân họ sẽ ghánh nghiệp báo. Song hiểu

sâu hơn về ngũ giới, về nghiệp báo thì chỉ có nhà tu hành mới hiểu thấu đáo.

Nhưng rõ ràng nghiệp báo, ngũ giới có ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần

của mỗi cá nhân người dân Bắc Ninh. Như một Phật tử cho biết: "Bác thấy

rằng, nếu như ai ngừng được việc sát sinh muôn loài thì chính bản thân người

đó đã tạo được nghiệp lành. Cháu thấy đấy, giữ được giới không sát sinh cũng

khó vô cùng. Theo bác, cấm sát sinh cung là một hình thức tu tập rồi. Cháu

60

thấy đấy, ra khỏi chùa là hàng quán rất nhiều, đủ các thứ đồ ăn,… Con muỗi

đốt mình, mình để cho nó đốt sao,… Mấy năm trước bác đi chùa Hương, thấy

người ta bày bán cả thịt thú rừng,... Trời ơi, như này sao mà tu, sao mà giải

thoát được,... Đó, không nên giết hại và ăn chay thì tốt quá. Bản thân mình nếu

thực hiện được tốt thì ngày càng nhiều lòng thương đối với muôn loài đấy

cháu"[51, ĐL, chùa Bút Tháp].

Không phải người dân nào ban đầu cũng ưu chuộng Phật giáo. Nhiều

người dân thường đến chùa mỗi khi trong cuộc sống có trở ngại và dần dần họ

cảm nhận được giáo lý của đạo Phật thông qua các buổi nghe pháp, hoặc tìm

hiểu trên các phương tiện truyền thông. Họ đến chùa tìm sự an bình cũng là lối

ứng xử với chính mình, giúp cho mình bớt âu lo. Khi đến chùa, họ không nhất

thiết phải nỗ lực tu tập thiền định hay niệm Phật như các nhà tu hành, Phật tử

thuần thành, mà họ chọn chùa để cho tâm mình được yên ổn. Một Phật tử cho

biết: "Cô đến chùa thấy thanh thản lắm, nói thật với cháu là ở gia đình cô cũng

nhiều chuyện. Mình là người theo Phật, nếu mình không kiềm chế thì không

biết như thế nào. Mỗi khi buồn bực trong lòng, cô thường đến chùa để tâm

mình thư thái hơn. Mà nói thật với cháu, đến chùa thì tự nhiên mình nghĩ lại

được những việc mình đã là. Có những việc mình sai thì mình phải sửa, có

những việc con cháu sai mình về uốn nắn dạy bảo thêm. Nói chung là mình tự

kiềm chế bản thân hơn mỗi khi đến chùa đấy"[52, TA, chùa Bút Tháp].

Không sát sinh để nhận về mình nghiệp lành, đây cũng là một hình thức

phát triển lòng yêu thương, tinh thần nhẫn nhục trong mỗi con người. Ở đây,

mỗi cá nhân tùy theo hiểu biết, cảm nhận của mình về Phật giáo mà có cách

ứng xử của riêng mình, nhiều hay ít, nặng hay nhẹ,... Song tất cả họ đều hướng

đến loại trừ dần những hành vi, những tâm trạng không vui như giận dữ, buồn

đau do cuộc sống đem lại. Theo họ, kiềm chế được sân hận đồng nghĩa là phát

triển lòng từ bi trong bản thân mình, và khi loại bỏ được cái tâm sân hận thì lợi

61

ích đem lại cho họ chính là sự thanh thản trong tâm hồn.

Không trộm cắp, trong đời sống Tăng già, những tu sĩ khất thực thường

nhận sự cúng dường của mọi người bởi họ có cuộc sống chân chính. Kinh điển

Phật giáo chỉ ra, tất cả những hình thức trộm cắp, cả trực tiếp lẫn gián tiếp đều

bị khiển trách và khuyến khích Phật tử tránh xa việc này. Giới luật này này

mặc dù chỉ dành cho tín đồ Phật tử đã quy y, nhưng trong thực tế đã có ảnh

hưởng lớn đến đời sống của nhân dân Bắc Ninh ngày nay. Một một người

người dân cho rằng:"nghiệp quả do trộm cắp sẽ đem lại nhiều khổ đau. Người

nào mà trộm cắp ắt sẽ không có hạnh phúc lâu dài. Sâu sa hơn là hành vi trộm

cắp ở đời này thì đời sau sẽ thiếu thốn trăm bề. Đấy là bà nghe quý thầy giảng

thế, chứ thực lòng thì bà có biết đọc đâu, già rồi mắt kém lắm"[53, người dân ở

chùa Dâu].

Tránh xa tà dâm, đạo Phật khuyến khích tín đồ Phật tử tránh xa việc này.

Bởi nếu tín đồ Phật tử tránh tà dâm là giữ cho mình. Kiềm chế sự ham muốn

tính dục để không bị phạm vào những hành vi sai quấy. Không tà dâm có ảnh

hưởng lớn đến không chỉ tín đồ Phật tử giáo mà còn có sự ảnh hưởng lớn đến

nhân dân. Đối với mỗi người dân, quan niệm đạo đức về vấn đề hạnh phúc gia

đình rất quan trọng. Không chỉ có Phật giáo đề cao vấn đề này mà phần lớn các

tôn giáo đều đồng tình. Do đó, quan niệm không tà dâm trở thành đạo đức luân

lý đã ăn sâu trong tâm thức của mỗi cá nhân con người nơi đây. Nếu ai đó vi

phạm chuẩn mực đạo đức, chẳng hạn đã có gia đình mà "lòng thòng" với vợ

hay chồng người khác đều bị nhân dân phản đối. Đối với tín đồ Phật giáo, giới

luật này vô cùng quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống tu hành, và

nếu vi phạm thì không có được cuộc sống tịnh hạnh và đương nhiên, họ phải

sám hối rất nhiều.

Tuy nhiên, trong cuộc sống đương đại, nền kinh tế Bắc Ninh có sự tăng

trưởng riêng trong sự tăng trưởng chung của nền kinh tế cả nước. Nhưng mặt

trái của nền kinh tế thị trường là dẫn đến lối sống hưởng thụ vật chất được đề

62

cao thì nhiều thách thức được đặt ra. Nhiều người trước khi trở thành Phật tử

mắc sai lầm. Trong quá khứ, họ chịu nhiều đau khổ dày vò và khi họ hiểu rõ

vấn đề thì rõ ràng là động lực để chính bản thân họ vươn lên. Tránh nói dối và

không uống rượu hay các chất gây say gây nghiện có thể nói là nhiều người

mắc phải, đặc biệt là trong thanh thiếu niên. Giới răn không uống rượu và các

chất gây say gây nghiện đã được Đức Phật chế định từ lâu. Ngài nhận thấy,

những người uống rượu thì đầu óc điên đảo, hành vi thiếu chuẩn mực. Trong

bối cảnh xã hội hiện nay, người dân ở Bắc Ninh có cuộc sống vật chất cao hơn

so với các tỉnh lân cận. Cũng vì thế, nhiều tệ nạn xã hội bùng phát, trong đó

nhiều trường hợp do uống rượu bia mất kiểm soát hành vi cá nhân và trở thành

ám ảnh trong nhiều người. Thực tế cho thấy, những thành phần này phần lớn

chưa đến với đạo Phật, một thanh niên Phật tử cho biết: "trước đây em chưa

biết đâu anh, cũng hay tụ tập bạn bè uống rượu lắm. Giờ thì em được nghe quý

thầy giảng về ngũ giới và thập thiện thì em thấy đúng anh ạ. Đôi lúc cảm giác

ân hận vì uống rượu bia trước đây. Mình không lo giữ sức khỏe cho mình thì lo

cho ai nữa. Cuộc sống của em giờ tốt hơn nhiều, tránh xa được rượu bia rồi anh

ạ"[54, PT. TA tại chùa Tiêu Sơn]. Nhiều thanh thiếu niên hiện nay đang mắc

sai lầm khi lạm dụng rượu bia và cờ bạc, họ không ý thức được rượu bia sẽ làm

tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe của họ và sẽ làm cho họ có những hành

động thiếu chuẩn mực. Một số khác lại lao vào con đường nghiện hút, theo báo

cáo của tổ chức y tế, nếu con người sử dụng một liều lượng theo chỉ định thì

cần sa là một dược liệu. Tuy nhiên, nếu lạm dụng nó thì sẽ bị nghiện, vì cần sa

kích thích hệ thống thần kinh, gây ảo giác cho mắt và tai. Người nghiện thường

thấy và nghe bị biến dạng và phóng đại. Như tưởng sợi dây là rắn, tiếng trống

tưởng là sấm sét,... khiến họ khiếp sợ và hưng phấn không kiềm chế được. Họ

dần dần sẽ bị hoang tưởng, điên cuồng và mất trí,... Trên phương tiện truyền

thông gần đây cho thấy nhiều người lạm dụng rượu bia gây ra hoang tưởng, gọi

là "sảng rượu" hoặc nhiều thanh niên hút chích quá liều mà phải vong mạng,

63

khiến gia đình nghèo khó, nhà cửa tan nát. Ảnh hưởng của giới không uống

rượu và chất gây nghiện có tác động đến ý thức của mỗi cá nhân con người, họ

muốn có tiền để uống rượu, xử dụng chất kích thích thì dẫn đến hiện tượng nói

dối quanh co, hoặc trộm cắp, cướp giật. Vì thế, những chất này sẽ để lại hậu

quả nghiêm trọng cho người dùng nó. Cảm giác êm dịu, khoái lạc khi dùng

rượu hay chất gây nghiện là tạm thời, với những thanh niên Phật tử, họ ý thức

được điều này rất rõ. Do đó, mỗi cá nhân Phật tử hay nhân dân Bắc Ninh

hướng tới chính là sự bình yên trong gia đình, trong cộng đồng và sâu xa

hơn chính là sự tìm kiến sự bình yên nội tại và đây chính là hướng tới một

cuộc sống khỏe mạnh và cũng là con đường diệt Khổ. Nghĩa là, ảnh hưởng

NSQ Phật giáo đối với cá nhân mỗi con người Bắc Ninh hiện nay, trực tiếp

nhất, sâu sa nhất chính là thực hành ngũ giới để loại trừ tham lam, sân hận

và si mê. Một toa thuốc giản đơn nhất mà Đức Phật có thể kê cho con người

không thuộc hàng tu sĩ. Toa thuốc này khiến cho Phật tử và cả quần chúng

nhân dân khi đã tin tưởng vào Phật pháp, vào Đức Phật thì khởi phát thái độ,

hành vi đúng đắn, đó là không sát sinh, không lấy những thứ không thuộc về

mình, không tà dâm,… Nói cách khác, với bản thân mình, họ hướng tới cuộc

sống an bình nhằm phát triển những phẩm chất tốt đẹp như tinh thần từ bi hỷ

xả, khoan dung, vị tha,… đó chính là sự biến đổi bản thân mình.

Nhìn chung, nhân dân nói chung và Phật tử nói riêng ở Bắc Ninh hiện

nay cho thấy họ có ý thức giữ gìn ngũ giới. Phật tử và nhân dân ưu cuộng

đạo Phật đặt niềm tin vào Tam bảo. Do đó, với chính bản thân, họ có những

điều chỉnh hành vi phù hợp với giáo lý mà ở đây là tuân thủ ngũ giới của

đạo Phật. Bên cạnh sự tu dưỡng, phát triển trí tuệ, tâm linh, tránh xa sân hận,

vấn đề giữ gìn sức khỏe cũng được họ coi trọng. Tuy nhiên, trong thực tế,

ảnh hưởng của NSQ Phật giáo hiện nay, theo quan sát của chúng tôi, còn

nhiều Phật tử vẫn sa đà vào cầu cúng, xem bói... Nhiều Phật tử có trình độ

dân trí cao thì họ hiểu sâu sắc hơn về triết lý nhân sinh Phật giáo, đồng thời

64

họ mong giáo lý Phật giáo thấm sâu vào đời sống trong bối cảnh hiện đại.

Bởi theo họ, có như vậy, mỗi cá nhân sẽ tự ý thức về bản thân mình hơn và

qua đó tránh xa được những điều xấu, và làm những điều thiện lành mà họ

gọi là "giới đức". Và có thể thấy, đạo Phật với hệ thống giáo lý của mình đã

giúp cho mỗi cá nhân con người có được cuộc sống được an bình. Tinh thần

nhân văn của đạo Phật không bỏ qua bất cứ vấn đề nào của con người, đặc

biệt là vấn đề nhận diện khổ đau và chỉ dẫn cho mỗi cá nhân dần dần gột rửa

những vô minh để có được cuộc sống lành mạnh, tràn đầy hạnh phúc trong

cuộc sống.

2.2.2. Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến lối ứng xử với

tha nhân của người dân Bắc Ninh

Quan niệm về cuộc đời con người là khổ, là vô thường thì đồng nghĩa là

đạo Phật lấy sự sống làm căn bản và chủ trương giải thoát con người khỏi tình

trạng đau khổ. Theo đạo Phật, quy luật cuộc sống tuân thủ theo quy luật

"Thành – Trụ - Hoại – Không". Đạo Phật quan niệm, cuộc sống là một dòng

biến chuyển không ngừng theo qui luật ấy. Chỉ có giác ngộ, giải thoát mới có

thể chặt đứt sợi dây luân hồi nghiệp báo và ở ngoài qui luật cuộc sống. Trên

phương diện triết học thì tất cả mọi loài đều có Phật tính, có nghĩa là mọi loài

bình đẳng và có khả năng thành Phật như nhau. Con người dù ở địa vị cao hơn

các loài khác nhưng vẫn phải trải qua qui luật nhân quả luân hồi trong các hoàn

cảnh khác nhau. Tuy nhiên, với phần lớn nhân dân, đạo Phật không được quan

tâm trên tầm tri kiến. Nghĩa là đạo Phật không được hiểu ở tầm triết học, mà

chỉ đơn giản, những quan niệm về NSQ, thế giới quan đến với họ gần gũi hơn

nhiều thông qua những hành động thường ngày của chính bản thân họ, nhằm

mong cầu cuộc sống yên bình, an lạc cho mình, cho gia đình và cho cộng đồng,

quốc gia dân tộc.

Những sinh hoạt tôn giáo như tụng kinh niệm Phật, Lễ Phật,… của Phật

tử và nhân dân như một phần quan trong trong việc tích lũy công đức cho

65

mình, cho người và làm tăng sức mạnh cho quá trình tu tập để hướng tới sự

giải thoát. Đây là lý do chính để Phật tử và nhân dân Bắc Ninh thường xuyên lễ

chùa. Như thế, ảnh hưởng của đạo Phật không chỉ giúp người Phật tử và nhân

dân làm dịu những khổ đau trong cuộc sống mưu sinh thường ngày mà còn

cung cấp chất liệu tu tâm cho bản thân và mọi người. Điều này khiến những

ứng xử của họ theo hướng vị tha, bao dung, rộng lượng. Có thể thấy rõ trong

những gia đình là Phật tử thuần thành ở Bắc Ninh hiện nay và đây chính là

“quả” của đạo Phật đối với những ai thực hành lời Phật dạy hàng ngày. Sinh

hoạt tôn giáo không loại trừ niềm tin và những nghi thức thực hành tôn giáo,

nhưng có thể thấy đạo Phật không thuộc tôn giáo truyền thống tôn giáo hữu

thần. Nghĩa là, đạo Phật khác với các tôn giáo hữu thần ở chỗ căn bản là những

lời thuyết giảng của đức Phật không phải là tuyệt đối và Đức Phật luôn luôn

khuyến khích tín đồ phải tự mình chiêm nghiệm, tự mình truy xét, suy tư trên

bước đường tu tập mới có thể thấu hiểu được những lời ngài dạy bảo. Đây

chính là con đường mà đức Phật mong muốn tín đồ của mình tìm đến với tri

thức tối hậu. Song những lời Phật dạy đã được khúc xạ qua lăng kính văn hóa

mỗi vùng miền và được cụ thể hóa trong nhiều hình thức và điều này đã khiến

cho đạo Phật ngày càng thấm sâu vào đời sống tinh thần và đã trở thành những

phương thức đối nhân xử thế của nhân dân Bắc Ninh trong lịch sử và hiện tại.

Từ sinh hoạt tôn giáo đã được cụ thể hóa thành những hoạt động ứng xử của

con người trong đời sống thường ngày, đó là:

Ứng xử đối với người đã khuất: Người dân Bắc Ninh xem người người

đã khuất là đi sang thế giới khác chứ không phải hoàn toàn mất đi. Ở vùng

Dâu, khi người mới qua đời thì con cháu thực hiện nghi lễ than khóc. Đây là

nghi lễ "để con cháu người thân kể về công ơn, đức hạnh của đấng sinh thần

nhằm tỏ sự biết ơn và thương tiếc người đã khuất. Cũng có người nhắc lại lỗi

lầm, thiếu sót của mình đối với người ra đi nhằm thể hiện sự ăn năm chuộc lỗi.

Điều này rất có thể sẽ là những tiền đề của nghi thức kể hạnh, niệm Phật khi

66

đạo Phật đã phổ biến ở các làng quê vùng đồng bắc Bắc bộ mà vùng Luy Lâu

là trung tâm"[66, tr.59]. Ngày nay, trong việc thờ cúng, những ngày sóc vọng,

ngày tết vẫn được nhân dân và Phật tử ở Bắc Ninh thực hiện theo phong tục tập

quán và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ kinh điển Phật giáo.

Trong hệ thống kinh điển Phật giáo Đại thừa, các bộ kinh Địa Tạng, kinh

Vu Lan Bồn,… đã đề cập đến việc tụng kinh, tô tượng, cúng dường Bồ tát để

cầu cho người thân đã khuất được siêu thoát có ảnh hưởng đặc biệt đến con

người nơi đây, phù hợp với giáo lý nhân quả, luân hồi trong đạo Phật. Khi quan

sát nghi thức thờ cúng đối với Phật tử thường thấy nghi thức tụng kinh niệm

Phật, dùng hương hoa, thức ăn chay và trà,… để dâng lên ban thờ tổ tiên. Qua

đó, chúng ta thấy được những ảnh hưởng NSQ Phật giáo rất rõ đối với con

người Bắc Ninh. Đó là sự bày tỏ của người đang sống với người đã khuất và

mong mỏi người đã khuất được vãng sinh Cực lạc hay được yên ổn nơi chín

suối (cửu tuyền). Mặt khác, chúng ta thấy rõ hơn ảnh hưởng của NSQ Phật

giáo đối với người dân Bắc Ninh trong ngày rằm tháng 7 âm lịch hàng năm mà

theo quan niệm của Phật giáo đó là ngày Vu lan báo hiếu. Ngày lễ này có ý

nghĩa vô cùng quan trọng đối với người ưu chuộng đạo Phật tại Bắc Ninh.

Trong những ngày này, có thể thấy nổi trội nhất là nghi thức siêu độ cho cha

mẹ, người thân từ nhiều đời, thậm chí cho các vong nhân không nơi nương tựa.

Đây là nghi lễ mang ý nghĩa sâu sắc, tỏ lòng biết ơn của con cái với cha mẹ cho

nên còn được gọi là mùa Hiếu hạnh. Trong ngày Vu lan báo hiếu, tín đồ, Phật

tử Bắc Ninh thường cử hành nghi lễ thắp hương, niệm Phật cầu cho cha mẹ

nhiều đời được siêu độ và chính bản thân họ tích lũy công đức mà sống hạnh

phúc hơn trong đời sống hàng ngày. Có thể thấy, báo hiếu cha mẹ, tổ tiên là

một điểm nổi bật của Phật tử Bắc Ninh.

Hiện nay, truyền thống gia đình ở Bắc Ninh trong bối cảnh mới cũng có

nhiều biến động, nhưng nhiều gia đình Phật tử hay những người ưu chuộng đạo

Phật vẫn giữ được nét đẹp truyền thống như cha mẹ, ông bà cùng sum vầy con

cháu. Họ quan niệm rằng, cha mẹ còn sống là một duyên lành, và khi cha mẹ

67

mất thì con cháu muốn báo ân cha mẹ bằng những việc làm cụ thể như hành lễ

bố thí, phóng sinh, tụng kinh cho vong linh cha mẹ được siêu thoát, nhưng

cũng tùy theo điều kiện hoàn cảnh của từng gia đình.

Nhìn chung, ảnh hưởng của đạo Phật đối với tín đồ, Phật tử tại Bắc Ninh

khá rõ xét trên phương diện này. Tuy nhiên, ở một bình diện khác, chúng ta

còn thấy đạo Phật ở Bắc Ninh đã nêu cao truyền thống giáo dục con người biết

cách hiếu thảo với cha mẹ, hàn gắn những vết rạn giữa cha mẹ với con cái, con

cái với cha mẹ và làm cho cuộc sống mỗi cá nhân, gia đình hạnh phúc hơn.

Một Phật tử cho rằng "theo cô ấy, vấn đề cầu siêu vào mỗi độ Vu Lan là cần

thiết. Song hiếu thảo với cha mẹ khi còn sống là tốt nhất. Qúy thầy giảng trong

muôn vàn điều lành thì hạnh hiếu là hạnh đầu tiên mà. Cha mẹ khi còn sống

không hiếu thảo thì khi các cụ mất mà cầu siêu thì nói làm gì, cũng tốt thôi,

nhưng sao bằng được khi các cụ còn sống. Hơn nữa, mình hiếu thảo với cha mẹ

thì là tấm gương cho con cháu đấy. Mà nhà chùa thấy đấy, gia đình nào chả có

lúc xô đũa xô bát, vấn đề là chúng nghe lời mình khuyên bảo chứ không như

các gia đình khác đâu nhé"[55, PT.TN, chùa Bút Tháp]. Trên bình diện tôn

giáo, trong nhiều gia đình ở Bắc Ninh hiện nay tồn tại nhiều niềm tin tôn giáo

khác nhau. Có gia đình người theo Phật giáo người theo Công giáo, hoặc theo

Tin Lành, một số gia đình lại có người theo Tôn giáo mới nảy sinh,... Tuy

nhiên, mỗi cá nhân đều có niềm tin tôn giáo của riêng mình nhưng hầu như

không có xung đột. Cơ bản là các thành viên tôn trọng sự lựa chọn cá nhân, do

đó sự tồn tại của hai, ba tôn giáo trong gia đình ở Bắc Ninh. Nhưng cũng có gia

đình không tôn trọng niềm tin của nhau đã sinh ra sung đột bất hòa trong gia

đình .Đó còn là nhiều loại hình tín ngưỡng bản địa đan xen. Mặt khác, còn đó

nhiều Phật tử chưa am hiểu tinh thần của đạo Phật, vẫn đốt vàng mã, vẫn hầu

đồng, xin xăm, sóc quẻ, "có bệnh thì vái tứ phương", "đông tây y kết hợp",…

khiến cho cuộc sống của con người như "đong đưa" giữa hai thế giới, thế giới

thực và thế giới vô hình, và đây là tồn tại thực ở Bắc Ninh hiện nay.

Ứng xử vợ chồng, mẹ chồng nàng dâu người dân Bắc Ninh quan niệm,

68

như lời một Phật tử nhận xét:"Vợ chống sống với nhau, điều quan trọng nhất là

biết nhẫn nhịn. Ông cha ta đã đúc kết rồi: Chồng giận thì vợ bớt lời. Cơm sôi

nhỏ lửa biết đời nào khê. Bà từng trải qua rồi bà biết, thứ đến là phải biết bao

dung. Trong cuộc sống vợ chồng, tránh sao được những lần "không bằng lòng

nhau", song phải tránh nói những lời mạt sát, làm tổn thương nhau. Người theo

Phật nhiều năm như các bà đây thấm điều đó lắm, vì phải tu cả trăm năm mới

có thể ngồi chung một chuyến đò, huống hồ chuyện nên duyên vợ chồng phải

tu cả nghìn năm"[56, PT. DQ, chùa Bút Tháp]. Thành vợ thành chồng theo

quan niệm của người dân nơi đây gắn bởi chữ "duyên". Nếu vợ chồng nào vì

nguyên nhân nào đó đến với nhau mà không được hạnh phúc họ cho là "nợ"

phải trả. Cho nên, bất cứ trường hợp nào họ đều biết trân quý những gì mình

đang có, bởi trong một gia đình, mối quan hệ vợ chồng là sâu sắc nhất, nếu mối

quan hệ không tốt sẽ có ảnh hưởng lớn đến cha mẹ, con cái, những người sống

xung quanh, đặc biệt là những gia đình có ba đời hay bốn đời cùng chung sống.

Đạo Phật cho rằng, vật chất đầy đủ nhằm đảm bảo duy trì cuộc sống gia đình,

song nó không có giá trị nếu như mọi người trong gia đình ứng xử với nhau

không tương thân tương ái, không có tình cảm với nhau. Ứng xử giữ vợ hoặc

chồng trong gia đình ở Bắc Ninh hiện nay đôi khi không hạnh phúc. Nhất là

trong các gia đình trẻ, một số bạn trẻ mới lập gia đình không biết trân quý nên

gia đình tan vỡ, một phần vì kinh tế, một phần không biết yêu thương nhau

khiến cho tình cảm vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn. Vì thế, vai trò của ông

bà cha mẹ rất quan trọng, bà DQ tiếp tục cho rằng: "khi vợ chồng có cãi vã thì

nhất thiết không nên to tiếng mà cần phải nhẫn nhịn trước đã, nhất là khi chồng

uống rượu hay vợ đang có điều gì bức xúc. Quan trọng hơn là khi chồng hay

vợ hết giận rồi thì nên chuyện trò nhằm tìm tiếng nói chung. Đã là vợ chồng thì

không nên oán ghét nhau, vì khi đã oán ghét thì sao có gia đình hạnh phúc

được". Nhiều cặp vợ chồng kết hôn lâu nhưng không giữ được sự yêu quý

nhau, cho nên ứng xử với bạn đời của mình chỉ thấy khuyết điểm, và thường

69

dày vò nhau. Trong văn hóa ứng xử của người dân Bắc Ninh, đặc biệt là ứng

xử vợ chồng trong gia đình luôn được xem trọng. Có nhiều câu chuyện về mối

quan hệ ứng xử giữa anh và em, giữa vợ và chồng, giữa mẹ chồng và nàng dâu

hiện vẫn còn được lưu truyền ở Bắc Ninh ngày nay như chuyện: Mài dao dạy

vợ, giết chó khuyên chồng,... đã phản ánh mối quan hệ khá phức tạp. Chẳng

hạn, trong mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu, xét về mặt họ hàng thì họ không

cùng huyết thống, về mặt tâm lý thì xưa nay xem là hai "đối thủ" của nhau, mẹ

chồng luôn cảnh giác với con dâu, con dâu thì xác lập mối quan hệ chặt chẽ với

chồng, hơn nữa giữa hai người không cùng nhận thức và hành động. Song, về

cơ bản, theo các nhà nghiên cứu thì ứng xử giữa mẹ chồng nàng dâu ở Bắc

Ninh hiện nay cơ bản là điều hòa, nhẹ nhàng, chỉ chút ít có sự biểu hiện trên

phương diện tâm lý. Đặc biệt, gia đình nào có người tham gia sinh hoạt trong

các ngôi chùa, là Phật tử thì ứng xử của họ chủ yếu trên tinh thần nhân ái, sống

có trước có sau.

Ứng xử với làng xóm láng giềng: Trong kinh Thiện Sinh, Đức Phật đã

dạy cho chàng thanh niên Thiện Sinh lễ sáu phương với ý nghĩa nhân văn sâu

sắc. Mỗi con người là trung tâm cuộc sống của chính mình, trên dưới và bốn

phía xung quanh làm lên cuộc sống của mình (bao gồm các mối quan hệ với

cha mẹ, con cái, thầy trò, làng xóm láng giềng) thì mình vừa đón nhận vừa đáp

trả. Hiểu rộng ra đó chính là mối quan hệ xã hội, và bổn phận của mỗi con

người chính là cách ứng xử theo tinh thần của đạo Phật. Bổn phận của cha mẹ

với con cái, của con cái với cha mẹ, bổn phận của thầy với trò, của trò với thầy;

chồng đối với vợ, vợ đối với chồng,... mỗi người đều có bổn phận riêng. Do đó,

về cơ bản, đối với Phật tử và những người ưu chuộng đạo Phật thì ảnh hưởng

của đạo Phật rất rõ ràng, làng xóm láng giềng tắt lửa tối đèn có nhau bởi

"…người ta đến với nhau ở cái tình, giúp nhau cũng ở cái tình chứ nào có đòi

hỏi xem giúp thế này thì được bao nhiêu tiền. Chú xem nhé, tháng trước có cụ

mất, cả làng đưa tiễn tiếc thương lắm. Vì sao thế, vì khi cụ còn sống cụ giúp đỡ

70

nhiều người lắm, ai cũng yêu kính cụ"[57, PT.DQ, chùa Bút Tháp]. Câu ca:

Giàu tiền mà chẳng giàu tâm

Anh em ruột thịt người thân chẳng màng

Chờ chết ôm lấy hũ vàng

Chôn xuôi âm phủ dân làng chửi cho

Câu ca này như một lời nhắc nhở về ứng xử hay sự khuyên răn đối với

những người chưa coi trọng tình nghĩa hay chỉ lo làm giàu mà không quan tâm

đến những người thân yêu, những làng xóm láng giềng sống quanh mình ở Bắc

Ninh ngày nay.

Coi trọng phụ nữ: Trong nhiều tư liệu liên quan đến Phật giáo ở Bắc

Ninh (Dâu – Luy Lâu) đã cho thấy sự giao thoa giữa Phật giáo với các tín

ngưỡng bản địa. Trong đó, các nữ thần nông nghiệp đã chuyển dịch thành hệ

thống Phật Tứ Pháp. Phật tử đầu tiên cũng là một người con gái (Man Nương)

và trở thành Phật Mẫu. Cho nên, nhận định về vùng văn hóa Bắc Ninh thời kỳ

đầu Phật giáo truyền nhập, trong Hậu Hán thư có viết về con người Bắc Ninh

rất thuần hậu, chất phác, con trai con gái thích nhau thì lấy chứ không theo lễ

nghĩa gì,… Sau này, dù vùng văn hóa này chịu ảnh hưởng của Nho giáo, song

đến trước cách mạng tháng Tám năm 1945, ở nơi đây vẫn còn giữ nguyên tục

ngủ bạn (các bạn của cô dâu đến ngủ cùng đêm tân hôn, sáng hôm sau cùng

đưa cô dâu về lại nhà mẹ đẻ và chàng trai cũng phải sang đó ở rể cho đến khi

có con đầu lòng mới dắt nhau về nhà nội): "Con so nhà mạ, con dạ nhà chồng

chính là xuất phát từ tục lệ đó[75, tr.61]. Vì thế, nữ giới ở Bắc Ninh có nhiều

"quyền lợi", "đặc quyền" hơn trong các hoạt động xã hội hơn nữ giới các vùng

khác. Trên phương diện tôn giáo, ngoài Phật Mẫu Man Nương, Phật Tứ Pháp

thì còn nhiều nữ giới đã được nhân dân suy tôn làm thành hoàng của làng

mình. Chẳng hạn đền Diềm thờ vua bà tổ quan họ; đình Giếng thờ con gái

Hùng Vương,… thậm chí, phụ nữ Bắc Ninh từ xưa đã được đến đình tế thần

trong vai trò Múa tế thánh, thần tại đình của các đội tế nữ khá đặc biệt so với

71

các địa phương khác. Đây cũng là cách ứng xử khá đặc biệt với nữ giới trong

lịch sử và ngày nay phần nào làm nên thói quen, phong cách của phụ nữ Bắc

Ninh đảm đang, thơ ca đối đáp rất giỏi và quan hệ xã hội rộng.

Ứng xử thông qua các hoạt động từ thiện xã hội: Đây có thể xem là lối

ứng xử theo hình thức hiện đại, rõ ràng giữa người với người của người dân

Bắc Ninh. Theo quy luật, ai sinh ra rồi cuối cũng cũng phải chết, nhưng ít

người chuẩn bị cho sự ra đi của mình một cách ổn thỏa. Tất cả những gì ta có

hôm nay đều do chính những gì mà ta gieo trong nhiều kiếp trước. Và cũng

theo qui luật này thì cuộc sống con người hiện tại là sự đan xen những yếu tố

nhân duyên và hành nghiệp. Nhưng không phải là ta không thể làm chủ vận

mệnh của mình, nhưng yếu tố nhân duyên luôn đi kèm để tạo lên sự thuận

duyên hay nghịch cảnh. Cho nên, đối với nhân dân Bắc Ninh, lễ bái, Niệm

Phật, cúng dường, bố thí, làm phúc,... đều là những việc cần làm để tạo ra công

đức để chuyển nghiệp xấu thành nghiệp thiện.

Thường thấy ở Bắc Ninh, vào những ngày sóc vọng, đặc biệt là vào

những ngày lễ của đạo Phật, ngày hội liên quan đến đạo Phật thì rất nhiều

người thuộc các lứa tuổi khắc nhau đến chùa thắp hương, niệm Phật, lạy Phật

sám hối, hưng công tôn tạo Tam bảo, hoặc xây dựng trường lớp, làm cầu

đường, từ thiện,... nhằm đem lại lợi ích cho mình và cho mọi người. Trong đó,

bố thí như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt các hoạt động của nhân dân Bắc Ninh.

Một sinh viên sinh sống ở gần chùa Phật Tích cho biết "thực lòng em

còn đang đi học, không có tiền, nhưng em cũng thường làm từ thiện. Mình có

thế nào thì mình góp như thế". Có tâm bố thí và hành động bố thí rất quan

trọng, mình có ít thì bố thí ít, không phải chờ đến khi có nhiều mới là cho. Một

Phật tử ở chùa Bút Tháp cho rằng "bố thí không quan trọng là bao nhiêu mà là

tâm mình thế nào. Bà thường bố thí và cũng là để tích phúc đức cho mình, cho

người"[58, PT.DL, chùa Bút Tháp], họ quan niệm "tâm thiện thì nơi nào cũng

72

là tịnh thổ”.

Tiếp nối truyền thống lịch sử, Phật giáo Bắc Ninh đã cụ thể hóa những

hoạt động từ thiện trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. GHPGVN đã

chỉ đạo GHPGVN tỉnh Bắc Ninh từng bước thực hiện chủ trương của Đảng và

Nhà nước ta trong việc khuyến khích chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo

tham gia các hoạt động từ thiện nhân đạo phù hợp với hiến chương, điều lệ của

tổ chức tôn giáo và với quy định của pháp luật. GHPGVN tỉnh Bắc Ninh trong

nhiều năm qua đã kết hợp với Ban Tôn giáo tỉnh Bắc Ninh đã chủ động phối

hợp với các ngành chức năng tham mưu cho UBND tỉnh tạo điều kiện để các

chức sắc tôn giáo thực hiện các hoạt động từ thiện nhân đạo, ủng hộ tài chính,

vật phẩm cứu trợ cho đồng bào bị thiên tai.

Đặc biệt, trong mấy năm trở lại đây, vấn đề từ thiện đã được các Tăng ni

trong GHPGVN tỉnh Bắc Ninh chú trọng bài bản hơn. Từ thiện xã hội được ví

như một phương pháp tốt (phương tiện thiện xảo) mà đạo Phật áp dụng để

truyền bá Phật pháp, mở rộng tầm ảnh hưởng trong xã hội, đồng thời từ thiện

thể hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam nói chung và Phật giáo Bắc

Ninh nói riêng. Với phương châm: "Phụng sự chúng sinh là cúng dường tam

bảo". Phật giáo Bắc Ninh luôn lấy con người làm đối tượng cụ thể nhằm thể

hiện tinh thần từ bi và nhập thế sâu sắc của truyền thống Phật giáo Bắc Ninh.

Như thế, hoạt động từ thiện xã hội là một trong những nội dung của Bố thí. Bố

thí là một "hạnh" đặc biệt quan trọng trong sinh hoạt tu tập cũng như hoằng

dương Phật pháp của Tu sĩ, Phật tử và rộng ra là của quần chúng nhân dân ảnh

hưởng Phật pháp. Với tu sĩ thường bố thí pháp và với Phật tử và nhân dân

thường thực hiện Tài thí.

Theo thống kê, từ năm 2008, tăng ni, phật tử tỉnh Bắc Ninh đã thăm hỏi,

trao tặng 600 suất quà, mỗi suất trị giá 300.000đ, cho đồng bào vùng bị lũ lụt

tại các tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai. Năm 2009, Ban Từ thiện xã hội, Hội

phật giáo tỉnh đã đi thăm và chúc tết các thương bệnh binh đang điều trị tại

73

Trung tâm điều dưỡng thương binh nặng Thuận Thành, hội viên Hội người

mù thành phố Bắc Ninh, các cháu trường mồ côi và khuyết tật, với gần 400

suất quà, mỗi suất 300.000 đồng.

Bên cạnh đó, một số Ban Đại diện Phật giáo huyện phối hợp với Ban Trị

sự Phật giáo tỉnh tổ chức thăm tặng quà cho các đối tượng chính sách trên

địa bàn. Tiêu biểu là Ban Đại diện Phật giáo huyện Yên Phong thăm, tặng

quà cho 22 đối tượng với tổng số tiền là 8 triệu đồng. Hoặc nhân dịp kỷ

niệm 62 năm ngày Thương binh liệt sỹ, Ban Trị sự Phật giáo tỉnh phối hợp

với MTTQ thành phố Bắc Ninh, MTTQ phường Đáp Cầu và thị xã Từ Sơn

tổ chức đoàn đại biểu các tăng ni đi thăm viếng Nghĩa trang liệt sỹ Trường

Sơn, tổ chức lễ Cầu siêu cho các anh linh liệt sỹ đã hy sinh vì độc lập, tự do

của Tổ quốc. Ở quy mô tổ chức chùa, nổi bật là đoàn Phật tử chùa Quang

Minh ở thành phố Bắc Ninh do Ni sư Thích Đàm Chân làm trưởng đoàn đến

thăm và tặng 300 xuất và một số quần áo, sách vở cho bà con ở huyện Thạch

Hà, tỉnh Hà Tĩnh,…

Trên trang Web của GHPGVN tỉnh Bắc Ninh còn đưa nhiều thông tin về

các hoạt động từ thiện của Phật tử và nhân dân tỉnh Bắc Ninh trong nhiều năm.

Trong đó, từ thiện xã hội đã trở thành phong trào. Ngoài ra còn thành lập quỹ

đền ơn đáp nghĩa, quỹ khuyến học,… được nhân dân trong tỉnh hết lòng ủng

hộ. Theo thống kê ở nhiệm kỳ 2007 – 2013, hoạt động từ thiện được hầu hết

Tăng ni, Phật tử tham gia nhân dịp: lễ tết Nguyên đán, các ngày Thương binh -

Liệt sĩ, Quốc tế thiếu nhi,… hưởng ứng đóng góp các quỹ Đền ơn đáp nghĩa,

Khuyến học, Vì người nghèo, ủng hộ nạn nhân nhiễm chất độc da cam, xây

dựng nhà tình nghĩa, mua bàn nghế tặng học sinh nghèo,các học sinh miền núi

cao, trợ giúp đồng bào lũ lụt… với số tiền lên tới gần một tỷ đồng.

Theo cố HT. Thích Thanh Sam – nguyên Phó chủ tịch HĐTS

GHPGVN, Trưởng ban trị sự GHPGVN tỉnh Bắc Ninh cho biết "Hiện nay, tinh

thần từ bi cứu khổ cứu nạn của đạo Phật đã được chuyển tải sâu rộng thông qua

74

những hành động cụ thể của các vị Tăng ni tỉnh Bắc Ninh. Mỗi khi vào dịp tết

Nguyên đán, ngày thương binh liệt sĩ (27-7), ngày Quốc khánh (2-9),... Giáo

hội Phật giáo tỉnh Bắc Ninh đã tặng hàng nghìn suất quà có giá trị hàng trăm

triệu đồng cho các nạn nhân chất độc da cam, cho các thương binh, các gia

đình chính sách trong tỉnh. Ý nghĩa sâu sa chính là khơi gợi tình yêu thương

con người, đồng loại, khởi gợi truyền thống uống nước nhớ nguồn trong quần

chúng nhân dân[phatgiaobacninh.org.vn, truy cập ngày 28/8.2019].

Trong năm 2019, theo báo cáo công tác Phật sự của GHPGVN tỉnh Bắc

Ninh, về công tác từ thiện xã hội. Trong 06 tháng đầu năm 2019, GHPGVN

tỉnh Bắc Ninh tiếp nối truyền thống hộ quốc an dân, tương thân tương ái, cứu

độ chúng sinh đã tặng 1013 suất quà cho những gia đình đặc biệt khó khăn

trong tỉnh; GHPGVN huyện Tiên Du đã tặng 100 suất quà cho gia đình khó

khăn trên địa bàn huyện; Ban từ thiện Phật giáo tỉnh đã tổ chức từ thiện tại

bệnh viện Nhi trung ương, xây dựng hàng chục nhà tình nghĩa cho các gia đình

ở tỉnh Yên Bái, Phú Thọ,… Đồng thời GHPGVN tỉnh Bắc Ninh "Tiếp tục triển

khai chương trình hoạt động của Ban TTXH trung ương; vận động tăng ni Phật

tử xây dựng nhà đại đoàn kết, nhà tình nghĩa, nhà tình thương, vận động cứu

trợ đồng bào bị thiên tai, ủng hộ chương trình trông cây mùa xuân cho đồng

bào nghèo"[25]

Về công tác khuyến học, tăng ni và Phật tử cùng nhân dân Bắc Ninh đặc

biệt chú trọng. Khuyến khích các học sinh giỏi, học sinh đạt giải cấp quốc gia

hay quốc tế. TT.TS. Thích Đức Thiện – Chủ trì chùa Phật Tích còn mở lớp Tin

học miễn phí cho các con em nhân dân sống quanh chùa; ĐĐ. Thích Thanh An

mở lớp ngoại ngữ miễn phí cho thanh thiếu niên làng Đồng Kỵ… Nhìn chung,

công tác từ thiện hiện nay đã được GHPGVN tỉnh Bắc Ninh quan tâm phát

triển và được nhân dân ủng hộ, thể hiện tinh thần tương thân tương ái trong bối

cảnh xã hội có nhiều biến động.

2.2.3. Ảnh hưởng của NSQ Phật giáo đến lối ứng xử với môi trường

75

của người dân Bắc Ninh

Ngày nay, với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật, con người đã

có cách nhìn khác về vũ trụ, về môi trường sống của con người. Chẳng hạn,

khoa học Vật lý không còn nghĩ rằng vũ trụ là do những nguyên tử cấu thành,

nguyên tử không phải là cái nhỏ nhất mà nó có cấu trúc. Khoa học sinh vật thì

nghiên cứu cấu trúc con người và khoa học xã hội đã nghiên cứu cấu trúc xã

hội,... đã đạt nhiều thành tựu so với trước đây rất nhiều. Tôn giáo học và triết

học, những vấn đề về con người, linh hồn con người, vấn đề sau cái chết, và

vấn đề môi trường sống của con người vẫn luôn là những đề tài hấp dẫn.

Phật giáo đề cao con người với quan điểm chỉ có con người chứ không

phải thượng đế hay thần linh định đoạt số phận của mình. Tuy nhiên, con người

có tốt có xấu nhưng Phật giáo vẫn luôn tìm cái tốt trong người để vun bồi "tính

Phật" và ai cũng có thể từ bỏ cái xấu và vun bồi tính thiện. Cho nên, đạo Phật

lấy tinh thần ban vui cứu khổ và đây là ý nghĩa sâu sắc của Từ bi. Cứu khổ theo

hạnh nguyện của Bồ tát là không còn người nào khổ ở trong trần gian, đồng

thời cũng là gột rửa để môi trường trở nên trong sạch, thanh tịnh hơn.

Đối với vấn đề môi trường, nếu như phương tây quan niệm, chẳng hạn

như F. Bacon (1561-1626) quan niệm thiên nhiên được ví như một cô gái cần

phải khất phục và chinh phục theo ý muốn. Hay Locke (1632-1704) cho rằng,

thượng đế ban cho con người trái đất, cho nên việc chiếm hữu thiên nhiên là do

ý muốn của thượng đế. Do đó, trong một thời gian dài, thiên nhiên bị khai thác

phục vụ vào các mục đích ngày càng cao của con người. Quan niệm của đạo

Phật thì hoàn toàn khác, mọi vật trong vũ trụ đều nương nhau mà thành, "từ vật

lớn đến vật nhỏ, từ vật hữu hình cho đến vô hình, đều không ngoài nhân duyên

đó"[31, tr. 537]. Vì thế, con người và vũ trụ, hay nói hẹp hơn là môi trường

sống của con người có mối tương quan, tương duyên với nhau trong thế giới

trùng trùng duyên khởi. Do đó, chúng sinh nghiệp lành thì chiêu cảm sự tốt đẹp

và ngược lại, đó là Nghiệp cảm duyên khởi. Khi tín đồ Phật tử hiểu rõ "lý nhân

76

duyên" sẽ thấy được con người với môi trường cùng hiện hữu. Cho nên, những

hành động của con người thiện hay xấu đều ảnh hưởng đến môi trường. Sở dĩ

môi trường ngày nay bị ô nhiễm, bão lụt hạn hán,... đều do con người tàn phá

thiên nhiên, và vì thế, để môi trường bị hoại diệt hay bảo vệ môi trường đều do

ý thức của con người.

Bắc Ninh là một tỉnh có tốc độ phát triển nhanh ở miền bắc với nhiều

khu công nghiệp và làng nghề. Theo thống kê, hiện nay toàn tỉnh Bắc Ninh quy

hoạch được 15 khu công nghiệp (KCN) tập trung, trong đó có 10 KCN đã đi

vào hoạt động 62 làng nghề. Trong đó có 30 làng nghề truyền thống và 32 làng

nghề mới. Cùng với sự phát triển kinh tế từ các làng nghề là tình trạng ô nhiễm

môi trường nghiêm trọng, gây nguy hại trực tiếp đến đời sống và sức khỏe của

người dân. Chất lượng môi trường tại phần lớn các làng nghề không tốt, các chỉ

số môi trường vượt quá từ 2 đến 5 lần mức độ cho phép. Chẳng hạn ở thôn

Mãn Xã, xã Văn Môn huyện Yên Phong là một làng nghề với hơn 300 gia đình

đúc nhôm. Việc thu gom phế liệu. Có thể nói, với trên 300 hộ gia đình tái chế,

kinh doanh nhôm không có qui trình xử lý đã khiến cho không khí, nguồn nước

nơi đây ô nhiễm nặng. Anh Nguyễn Văn Duy, Trạm trưởng Y tế xã Văn Môn

cho biết: "Hầu như ngày nào trạm cũng tiếp nhận vài cháu bé bị nhiễm trùng

đường hô hấp, nhiều cháu bị biến chứng nặng phải chuyển lên tuyến trên. Số

lượng người già bị mắc các bệnh về đường hô hấp mãn tính, về mắt chiếm tỷ lệ

cao" hay chị Đào Thị Hoài, giáo viên Trường mầm non Mẫn Xá bức xúc

"Nhiều hôm khói đen, khói trắng bao phủ làng như sương mù khiến các cháu

nhỏ không chịu nổi. Những gia đình khá giả gửi con đi học mẫu giáo ở những

nơi khác cho dù Trường mầm non Mẫn Xá luôn thiếu học sinh. Tác hại của ô

nhiễm môi trường tại Văn Môn đã đến mức báo động, mỗi năm có hàng chục

người bị chết do ung thư khiến người dân nơi đây không khỏi lo

lắng"[tapchimoitruong.vn-Ninh, truy cập ngày 4/9/2019]. Hay làng nghề tái

chế và sản xuất giấy phường Phong Khê ở thành phố Bắc Ninh có 204 cơ sở

77

sản xuất và tái chế giấy đang hoạt động. Theo ước tính, mỗi năm phường

Phong Khê sản xuất khoảng 200.000 tấn giấy/năm. Mỗi ngày có hàng trăm ống

khói thải vào môi trường khiến nhiều người dân mắc bệnh về đường hô hấp;

nước thải trực tiếp ra sông với nhiều hóa chất độc hải khiến cho dòng sông Ngũ

Huyện Khê có màu đen đặc và bốc mùi hôi thối. Làng nghề đúc đồng Đại Bái

ở Gia Bình với có gần 2000 hộ làm nghề không chỉ gây ô nhiễm môi trường

không khí, môi trường nước mà còn gây ô nhiễm tiếng ồn,... Mặc dù UBND

tỉnh Bắc Ninh và Sở Tài nguyên và Môi trường đã chủ động ban hành nhiều

chính sách hỗ trợ xử lý ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm tại

các làng nghề không hề giảm, cần sự chung tay của các cấp các ngành, trong

đó có các tổ chức tôn giáo đang hiện diện ở tỉnh Bắc Ninh.

GHPGVN tỉnh Bắc Ninh trong những năm qua đã kết hợp chặt chẽ với

Trung ương GHPGVN cùng các ban ngành trơng tỉnh phát huy truyền thống

yêu nước, gắn bó đồng hành cùng dân tộc đã tích cực tham gia bảo vệ môi

trường, cùng nhau làm cho môi trường xung quanh chúng ta xanh hơn, sạch

hơn, và đẹp hơn. Hưởng ứng thông điệp bảo vệ môi trưởng của Trung ương

GHPGVN tại Hội nghị toàn quốc về “Phát huy vai trò của các tôn giáo tham

gia bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu” tổ chức tháng 12-2015

tại tỉnh Thừa Thiên-Huế, GHPGVN tỉnh Bắc Ninh bằng những hành động cụ

thể như: Tuyên truyền cho các Phật tử và nhân dân ưu chuộng đạo Phật nhận

thức tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường; phối hợp với cơ quan chức

năng, Ủy ban TWMTQVN tỉnh hưởng ứng chương trình bảo vệ môi trường,

ứng phó biến đổi khí hậu,…"[25]. Qua các buổi hoằng pháp, các Tăng ni đã

lồng ghép giáo dục về môi trường nhằm chỉ ra nguyên nhân gây hại môi trường

không ai khác chính là con người và giải quyết vấn đề môi trường không ai

khác cũng chính là con người. Quan niệm của đạo Phật, con gười trong quan hệ

với môi trường là tương hỗ, nương vào nhau, mọi loài sinh vật sống trong môi

trường cần được tôn trọng chứ không phải vì con người mà hủy diệt các loài

78

khác. Ngũ giới, cấm sát sinh là giới đầu tiên mang tư tưởng nhân đạo, nhân văn

sâu sắc, đồng thời cũng là tôn trọng sự sống của muôn loài. Nếu con người tận

diệt môi trường, đưa vào môi trường những chất độc hại thì đồng nghĩa là thiếu

tâm từ đối với chúng sinh và với chính mình. Ngoài ra, đạo Phật đề cao việc ăn

chay. Ăn chay cũng là một trong những phương pháp bảo vệ môi trường thiết

thực. Bởi mọi loài sống đều có quan hệ hữu cơ, có sự gắng bó mật thiết với

nhau. Sự sinh tồn của loài này cũng là điều kiện tồn tại của loài kia theo tinh

thần "cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt", đây là quy luật

tồn tại của muôn loài trong tự nhiên, đồng thời hạn chế làm tổn hại môi trường

sống.

Hiện nay, không ít các hộ gia đình trong các làng nghề ở Bắc Ninh vì lợi

nhuận mà không chú ý đến việc bảo vệ môi trường. Hàng ngày họ xả vào môi

trường không khí, môi trường nước nhiều tạp chất độc hại gây bệnh tật cho con

người. Trong giáo lý của Phật giáo, tinh thần nổi bật chính là mong muốn cuộc

sống của con người được an vui, hạnh phúc thông các các hành động cụ thể

như không tham lam, không làm ác, hạn chế cái tâm vị kỷ chỉ biết làm lợi cho

mình mà không chú ý đến người khác. Đức Phật luôn khuyến khích tín đồ,

Phật tử có lối sống hài hòa, thân thiện với môi trường. Với tinh thần đó, trong

các buổi hoàng pháp, giảng giáo lý, GHPGVN tỉnh Bắc Ninh đã tạo cho Phật

tử, nhân dân có thái độ đúng đắn trong việc ứng xử với thiên nhiên. Hiện nay, ở

nhiều ngôi chùa ở Bắc Ninh hiện nay hưởng ứng chủ trương của GHPGVN

không đốt vàng mã, chẳng hạn như chùa Tiêu Sơn. Đây không chỉ là vấn đề nói

không với mê tín mà còn là ứng xử cao đẹp đối với môi trường thiên nhiên.

Tuy nhiên, ở Bắc Ninh hiện nay, lối sống của một bộ phận nhân dân còn thiên

về vật chất cũng đã kéo theo nhiều hệ lụy như thích những thú vui không lành

mạnh, ích kỷ, thiếu tình thương hay ít chia sẻ cộng đồng xã hội.

Nhìn chung, ảnh hưởng của NSQ Phật giáo đến lối ứng xử với môi

trường của người dân Bắc Ninh hiện nay chưa thật sâu sắc, mặc dù với công

79

tác bảo vệ môi trường, GHPGVN tỉnh Bắc Ninh đã có sự chủ động trong việc

khởi gợi tinh thần này trong tín đồ, Phật tử và nhân dân. Song tư tưởng hưởng

thụ vật chất, mưu cầu cuộc sống giàu sang và không quan tâm đến vấn đề môi

trường vẫn hiện hữu, cụ thể là trong các làng nghề ở Bắc Ninh hiện nay.

2.2.4. Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến văn hóa, văn

học, nghệ thuật

Ảnh hưởng đến văn hóa, văn học, có thể thấy ảnh hưởng của Phật giáo

đối với con người Bắc Ninh cũng rất rõ. Có thể thấy truyện Tấm Cám lưu

truyền ở Bắc Ninh đã có sự ảnh hưởng của Phật giáo, trong đó nổi bật là việc

đồng hóa hai nhân vật Ỷ Lan và Tấm[27, tr. 231]. Phật bà Quan Âm (Quán

Âm) cùng với Bồ tát Đại Thế Chí. Hai vị trợ thủ đắc lực cho Phật A Di Đà còn

muốn cứu độ chúng sinh nên chưa về miền Cực lạc đã đem lại sức hấp dẫn lớn

cho nhân dân Bắc Ninh. Đặc biệt là hình ảnh Bồ tát Quán Thế Âm xuất hiện

trong vai trò sẵn sàng cứu với những ai bị tai họa, bảo trợ cho con người, đặc

biệt là phụ nữ hay ban con cầu tự. Câu thần chú nổi tiếng "Nam Mô Cứu Khổ

Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát" được nhân dân Bắc Ninh biết đến nhiều và

hình tượng của Nguyên phi Ỷ Lan đã được nhân dân "đồng hóa" với Bồ tát

Quán Thế Âm. Sự "đồng hóa" dưới ảnh hưởng của Phật giáo còn thấy trước đó

ở tục thờ thần đá. Nhà nghiên cứu Trần Đình Luyện trong công trình chuyên

khảo Luy Lâu lịch sử và văn hóa đã thống kê khá đầy đủ về việc thờ thần Đá,

trong đó, truyền thuyết về Thạch Quang Phật nổi tiếng hơn cả. Tất nhiên, tục

thờ đá/ thần Đá không chỉ riêng ở Bắc Ninh mà hiện tượng này mang tính phổ

biến. Tuy nhiên, ở Bắc Ninh, tục thờ Đá đã được phủ một lớp văn hóa Phật

giáo sâu đậm, đến mức các nhân vật tồn tại dưới hình thức Phật hóa. Theo học

giả Nguyễn Văn Huyên, thiên nhiên từ ngàn xưa đã gây ấn tượng mạnh mẽ cho

người Việt Nam và chính họ đã phủ lên thiên nhiên một tấm áo choàng rộng

lớn dệt bằng huyền thoại, trong đó có cả huyền thoại bản địa. Mỗi hành vi của

đời sống con người đều do một quyết định của trời sắp đặt [35, tr.324]. Vì thế,

80

văn học dân gian ở Bắc Ninh cho biết, có hàng trăm truyện cổ tích, truyền

thuyết gắn liền với tín ngưỡng tôn giáo. Các truyền thuyết này chủ yếu tập

trung ở huyện Thuận Thành, huyện Yên Phong, huyện Từ Sơn, huyện Gia

Bình, huyện Tiên Du... Trong đó, truyền thuyết liên quan đến Phật giáo như

Truyện Man Nương ở huyện Thuận Thành rất nổi tiếng. Bởi nơi đây có liên

quan mật thiết đến trung tâm Phật giáo Luy Lâu – Dâu trong thời kỳ đầu truyền

nhập của đạo Phật vào Việt Nam. Huyện Tiên Du là nơi hiện diện của nhiều

ngôi chùa nổi tiếng, như chùa Phật Tích, chùa Bách Môn,... và nơi đây cũng có

nhiều truyền thuyết dân gian liên quan đến Phật giáo ở vùng này. Đó là chuyện

Từ Thức gặp tiên, Vương Chất gặp tiên,... đặc biệt câu chuyện Từ Thức gặp

tiên có liên quan chặt chẽ đến lễ hội chùa Phật Tích. "Trên ngọn núi Phật Tích

(hay còn gọi là núi Lạn Kha) ngày nay vẫn còn dấu ân các truyện như Từ Thức

và Vương Chất gặp tiên. Từ xa xưa, chùa Phật Tích là nơi tụ hội của bốn

phương. Hàng năm, đến ngày hội, khách mọi nơi về dự hội và cầu may. Tương

truyền: Chùa xưa rộng rãi khang trang, có tới 300 gian (tam bách ốc). Chỉ riêng

công việc dọn dẹp đã cần tới 70 người (tảo đái thất thập phu). Đặc biệt, ngọn

tháp của chùa cao vời vợi, nhòa lẫn trong mây, đến nỗi ở tận kinh thành Thăng

Long vẫn còn nhìn rõ. Nhà vua hỏi cận thần cớ sao ở nơi thôn dã lại có cây

tháp cao hơn cả cung điện trong hoàng thành. Sau lời quở đó, cây tháp thần

bỗng bị đổ dọc sườn núi, gạch đổ xuống đầu làng dài gần cây số, nơi ấy nay

còn có tên là ngõ Gạch. Dưới lòng tháp lộ ra một pho tượng Phật A Di Đà. Để

ghi lại tích Phật ấy, làng đổi tên là Phật Tích và chuyển lên sườn núi. Người

dân làng Phật Tích còn lưu truyền bài ca dao ca ngợi về ngôi chùa này như sau:

Đồn rằng Phật Tích vui thay

Tam quan có chợ mỗi ngày mỗi phiên

Trên núi có bàn cờ tiên

Bước xuống giếng đá lại lên ao rồng

Đôi bên hoa cụm hoa hồng

81

Ở giữa hoa sói lạnh lùng thương thay

Trước cửa chùa có dãy voi bày

Bên kia dãy sở bên này dãy thông

Nhà tò vò ba cửa thong dong

Bước xuống giếng đá nước trong như là

Chùa nào vui bằng chùa ta

Đến mồng bốn tết ta ra chơi chùa

Ảnh hưởng đến lễ hội: Câu ca "Cầu nam chùa bắc đình đoài" không chỉ

phản ánh ở Bắc Ninh hiện diện nhiều ngôi chùa cổ, đẹp, bề thế và có bề dày

lịch sử mà còn phần nào phản ảnh lễ hội ở Bắc Ninh liên quan chủ yếu đến

Phật giáo. Có thể nói, ảnh hưởng của Phật giáo, đặc biệt là NSQ Phật giáo

trong đời sống cộng đồng ở Bắc Ninh rất đậm đặc từ lịch sử cho đến hiện tại.

Những lễ hội nổi tiếng liên quan đến Phật giáo đáp ứng nhu cầu tâm linh của

nhân dân đồng thời là hoạt động văn hóa dân gian đặc sắc. Qua đó, chúng ta

thấy ảnh hưởng NSQ Phật giáo rất sâu đậm. Về thời gian, lễ hội ở Bắc Ninh

diễn ra quanh năm, song tập trung chủ yếu vào mùa xuân. Đó là lễ hội Khán

hoa mẫu đơn ở chùa Phật Tích vào ngày 4/1 âm lịch; hội chùa Đại Bi ở Gia

Bình ngày 20/1; hội chùa Tiêu Sơn ngày 9 tháng 2; hội chùa Bút Tháp ngày

24/3,... mùa hè có hội chùa Dâu ngày 8/4,... mùa thu có hội chùa Dạm ngày 8

tháng 9. Có thể nói, đây là những lễ hội lớn nhất trong tỉnh Bắc Ninh ngày nay.

Câu ca:

Dù ai buôn đâu bán đâu

Nhớ ngày mùng Tám hội Dâu thì về

Trong Cổ Châu Phật Bản Hạnh chép:

Người ta hội họp rồng mâu

Đôi bên phố xá vui tầy cảnh tiên

Khai quang khánh tán mãn viên

82

Đặt làm lễ hội tràng yên thuở này.

Về nội dung lễ hội liên quan đến Phật giáo. Phần lễ do các nhà sư trụ trì

cùng Phật tử đảm nhận. Đó là dâng hương hoa cúng Phật, cúng Tổ,... Đặc biệt

là trong phần lễ, các vị sư trụ trì thường kết hợp với giảng pháp, tụng kinh và

kể hạnh. Phần hội là sinh hoạt văn hóa tâm linh của cộng đồng nơi chùa tọa lạc.

Với nhiều hình thức diễn xướng khác nhau mang dấu ấn đậm nét văn hóa Phật

giáo. Chẳng hạn như hội chùa Dâu nổi bật là nghi lễ rước Phật Tứ pháp và các

trò diễn liên quan đến Tứ pháp như thi cướp nước, hay rước Phật Tứ Pháp về

bái Phật mẫu Man Nương tại chùa Tổ.

Nhìn chung, lễ hội liên quan đến Phật giáo ở Bắc Ninh có ảnh hưởng lớn

từ văn hóa Phật giáo, đồng thời phản ánh nền văn hóa điển hình của cư dân

nông nghiệp lúa nước với mong muốn cầu mưa thuận gió hòa, làm ăn thuận

lợi, dân khang vật thịnh. Có thể coi lễ hội chùa Dâu là điển hình cho sự ảnh

hưởng, dung hợp văn hóa Phật giáo ở Bắc Ninh. Thông qua lễ hội, tăng ni đã

giáo dục tinh thần hướng thiện cho Phật tử và nhân dân tham gia lễ hội. Những

câu chuyện về cuộc đời Đức Phật, giáo lý từ bi hỷ xả, công lao của các vị tổ,...

đã dần thấm sâu trong tâm mọi người, khuyên răn mọi người sống "hòa hợp,

nhân ái, tránh xa cái ác, từ bỏ nghiệp chướng, rũ bỏ tham sân si. Thậm chí, đối

với người có lỗi lầm, đến lễ hội chùa là dịp sám hối trước Đức Phật để từ bỏ

cái ác, từ bỏ lỗi lầm, quay về cuộc sống từ bi, hỉ xả"[66, tr.122]. Vì thế, hội

chùa ở Bắc Ninh chuyển tải giá trị nhân văn sâu sắc, đồng thời bảo tồn truyền

thống đạo lý tốt đẹp của vùng đất Bắc Ninh ngày nay.

Ảnh hưởng đến nghệ thuật: Khi nói đến nghệ thuật Phật giáo, ý nghĩa

sâu sa nhất vẫn là "sự im lặng – vô ngôn" cao cả của hệ thống tượng tròng trên

Phật điện. Con người chiêm ngưỡng, chẳng hạn pho tượng chùa Phật Tích

dường như không thốt lên lời và dần chìm đắm sâu trong vô ngã, như chính

người nghệ sĩ sáng tác tượng Phật quên mình trong nghệ thuật, trong từng

đường nét tinh tế. Nghệ thuật Phật giáo, có thể xem mỹ thuật, điêu khắc, hội

83

họa là quan trọng nhất, như dẫn dắt con người thâm nhập sâu vào tính không

của vạn vật và cuối cùng là "nhìn mãi không chán", như hướng tâm con người

soi chiếu vào ngũ uẩn mà rèn tâm, luyện tâm,... tạo nên vẻ đẹp rất riêng của

nghệ thuật Phật giáo.

Ở Bắc Ninh hiện nay, không thể không đề cập đến các ngôi chùa nổi

tiếng như chùa Tiêu Sơn, chùa Dâu, chùa Bút Tháp, chùa Phật Tích. Nhưng ở

đây, xin không nhắc lại lịch sử các ngôi chùa, mà chỉ nêu vài nét về pho tượng

Phật A Di Đà hiện được thờ phụng tại chùa Phật Tích, xã Phật Tích, huyện

Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Theo truyền tụng của nhân dân địa phương thì trước

đây ở chùa Phật Tích có một tòa tháp cổ rất lớn, khi tháp bị đổ thì phát lộ một

pho tượng Phật bằng đá. Nội dung bài văn khắc trên tấm bia Vạn Phúc đại

thiền tự bi niên hiệu Chính Hòa thứ 7 (1687) đời vua Lê Hy Tông có viết về sự

kiện này: Vua thứ ba triều Lý, năm Long Thụy Thái Bình 4 (tức năm 1057) cất

lên cây tháp quí cao nghìn trượng, lại dựng lập pho tượng mình vàng cao sáu

xích… Sách Đại Nam nhất thống chí chép: “ở núi Lạn Kha xã Phật Tích,

huyện Tiên Du, chùa Vạn Phúc dựng từ thời Lý Thánh Tông (1054 - 1072),

trong chùa có một tượng đá cao 5 thước, to 6 thước. Hàng năm, cứ đến ngày

mùng 4 tháng Giêng mở hội xem hoa, nhiều người đến dâng hương lễ

Phật”[21, tr. 181]. Như vậy, pho tượng đá cao 6 xích hay cao 5 thước, to 6

thước được nhắc đến trong tấm bia Vạn Phúc đại thiền tự bi và Đại Nam nhất

thống chí chính là tượng đức Phật A Di Đà mà hiện nay đang lưu giữ tại chùa

Phật Tích có niên đại triều vua Lý Thánh Tông. Pho tượng này được các nhà

nghiên cứu coi là điển hình của nghệ thuật điêu khắc Việt Nam và có niên đại

sớm nhất nước ta còn tương đối nguyên vẹn.

Tượng Phật A Di Đà tạc bằng đá xanh nguyên khối, ngồi kiết già trên

đài sen, cao 187cm, bệ tượng cao 90 cm được chạm tinh xảo và mềm mại. Bệ

đá hình hoa sen cao 90 cm, chia làm 2 phần: Phần trên chạm khắc trang trí hình

rồng, hoa cúc dây tinh tế, mềm mại. Phần dưới là hoa văn hình sóng nước. Đài

84

sen phía trên có đường kính 132 cm với hai lớp cánh sen, mỗi lớp 15 cánh xoè

rộng chạm hình rồng, mây. Các đường diềm xung quanh được trang trí các hoạ

tiết sóng nước tạo sự nhẹ nhàng cho cả bức tượng. Theo GS. Trần Lâm Biền,

tượng có nhiều nét ảnh hưởng của nền nghệ thuật Gandhâra[7, tr.181] với các

nếp áo phía trước chạm những đường cong nổi chạy chéo xuống còn các nếp

áo phía sau lưng lại chéo từ vai trái xuống rồi lượn cong bên sườn phải. Các

cụm tóc nhỏ xoắn ốc, tai lớn dài biểu hiện cho sự cao quý, mắt khép hờ nhìn

xuống, lông mày cong, sống mũi thẳng, miệng mỉm cười. Tượng ngồi trong tư

thế kiết già, mình mặc áo cà sa bao gồm “thiên y” ở trong và một “la bào”

khoác nhẹ qua vai. Ngực tượng rộng, bụng thon vừa phải, thân mỏng, cao, hơi

cúi về phía trước… Tác giả Trần Mạnh Phú cũng có điểm nhìn và nhận xét rất

tinh tế như sau: “Thân hình toát lên cái đẹp hoàn toàn nữ tính. Khuôn mặt

thanh khiết, với vầng trán đều đặn, với đôi lông mày mảnh và cong, với đôi

mắt mơ màng hơi cúi nhìn. Mũi thẳng. Miệng nhỏ thoảng một nụ cười kín đáo.

Với đôi má bầu bĩnh, với cổ cao thon ba ngấn, khuôn mặt đức Phật A Di Đà

thật đẹp, thật đôn hậu”[daitangkinhvietnam.or, truy cập ngày 15/9/2019]. Pho

tượng này được xem là một tác phẩm tiêu biểu của triều Lý và đã được dùng

làm mẫu trong việc dựng đại Phật tượng nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng

Long – Hà Nội trên núi Phật Tích và đạt kỷ lục là pho tượng Phật bằng đá lớn

nhất Đông Nam Á. Ngoài ra, theo các bộ chính sử như Đại Việt sử ký toàn thư,

Đại Việt sử lược có thể kể đến một số ngôi chùa cổ hoặc một số ngôi chùa

được xây dựng ở Bắc Ninh vào thời kỳ này như chùa Tĩnh Lự, chùa Quảng

Hiếu, chùa Pháp Vân, chùa Phật Tích,... như những minh chứng vật chất cho sự

phát triển Phật giáo ở Bắc Ninh.

Ngoài ra, ở Bắc Ninh còn nhiều công trình nghệ thuật rất nổi tiếng. Có

thể kể đến chùa Dạm (Thần Quang Tự) thôn Tự Thôn, xã Nam Sơn, thành phố

Bắc Ninh. Theo tư liệu thì chùa Dạm được xây dựng từ thời Lý. Theo đánh giá

của các nhà nghiên cứu, chùa Dạm không chỉ là minh chứng cho thời kỳ phát

85

triển cực thịnh của Phật giáo ở Bắc Ninh mà còn "tư tưởng từ bi bác ái và ôn

hòa của đạo Phật đã dễ dàng chinh phục được tấm lòng của những con người

vừa mới thoát khỏi sự đè nén của hơn nghìn năm Bắc thuộc/chống Bắc thuộc.

Nhờ vào địa vị quốc giáo của đạo Phật, hầu hết các chùa tháp lớn thời này đều

do triều đình đứng ra xây dựng. Không chỉ riêng ở kinh đồ mà ngay ở Bắc

Ninh – quê hương của nhà Lý, chùa, tháp được xây dựng khắp các làng xã".

Hiện ở chùa Dạm còn bảo lưu được cột đá chạm rồng nặng 40 tấn, cao trên 5

mét. Cột đá này là một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc có giá trị lớn, xứng đáng

là bảo vật quốc gia.

3. Một số đề xuất khuyến nghị

3.1. Với Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bắc Ninh

Phật giáo Bắc Ninh là một bộ phận của Phật giáo Việt Nam, nên cũng

nằm trong xu thế phát triển của các tôn giáo trên thế giới. Đó là xu thế thế tục

hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa. GHPGVN tỉnh Bắc Ninh đã và đang hội

nhập, đẩy mạnh quan hệ giao lưu, trao đổi về văn hóa, tôn giáo,... với các tổ

chức Phật giáo trong và ngoài nước và ngược lại, nhiều tôn giáo theo con

đường kinh tế, thương mại đã hiện diện ở nơi đây.

Trong thời gian qua, GHPGVN tỉnh Bắc Ninh tiếp tục phương châm

phụng sự đạo pháp, đồng hành cùng dân tộc của GHPGVN, chư tôn đức tăng

ni đã tập trung vào các nhiệm vụ chủ yếu như củng cố kiện toàn tổ chức đồng

thời quan tâm công tác giáo dục đào tạo tăng tài nhằm hoằng dương chính

pháp. Chú trọng phát triển tinh thần nhân văn Phật giáo sâu rộng trong nhân

dân thông qua các công tác Phật sự. Bên cạnh đó, GHPGVN tỉnh Bắc Ninh

cũng chú trọng đoàn kết với các tôn giáo khác. Tích cực hưởng ứng các chủ

trương chính sách của Đảng và nhà nước về công tác tôn giáo, khuyến khích

tăng ni, Phật tử tham gia thực hiện giư gìn và phát triển văn hóa như phong trào

"Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư", phong trào "Đền

ơn đáp nghĩa", "Uống nước nhớ nguồn", vận động tín đồ Phật tử tham gia sống

86

"tốt đời, đẹp đạo", thực hiện tốt các qui ước xây dựng làng văn hóa, nếp sống

văn minh trong việc cưới, việc tang,… Ngoài ra, GHPGVN tỉnh Bắc Ninh còn

tích cực tham gia công tác từ thiện xã hội. Lãnh đạo GHPGVN tỉnh Bắc Ninh

đã tổ chức nhiều đợt quyên góp nhằm hỗ trợ cho đồng bào bị thiên tai lũ lụt,

khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, bếp ăn từ thiện, dạy nghề cho con

em gia đình nghèo khó, mở các lớp ngoại ngữ, tin học miễn phí cho học sinh

quanh vùng,… Kết quả đạt được là phát huy được các giá trị văn hóa đạo đức

tốt đẹp của đạo Phật ngày càng sâu rộng đến tín đồ, Phật tử và nhân dân. Góp

phần không nhỏ trong việc giữ gìn và phát triển văn hóa truyền thống. Bên

cạnh đó, việc giữ gìn cảnh quan chùa tôn nghiêm theo tinh thần Thông tư liên

tịch số 04 của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch cũng đạt nhiều kết quả lớn.

Nhiều ngôi chùa lớn, nổi tiếng ở Bắc Ninh mỗi khi mở hội thì cũng là dịp

tuyên truyền hoạt động tín ngưỡng theo tinh thần của luật, nhắc nhở nhân dân

giữ gìn môi trường cảnh quan sạch đẹp. Song, tại một số lễ hội lớn, vì quá

đông nhân dân tham gia nên ý thức chấp hành của một số người dân và du

khách còn kém như xả rác bừa bãi, kinh doanh theo kiểu chụp giật, và còn đó

những hiện tượng mê tín như xem bói, cờ bạc,…

Bên cạnh những kết quả đạt được thì còn những vấn đề đặt ra như sau:

Thứ nhất, với các ban ngành chức năng, GHPGVN tỉnh Bắc Ninh và các

Ban trị sự Phật giáo các tỉnh cần có sự kết hợp nhiều hơn nữa trong việc tuyên

truyền vận động Phật tử và nhân dân chấp hành chủ trương chính sách của

Đảng và nhà nước. Đồng thời thực hiện sinh hoạt tôn giáo theo Hiến chương,

điều lệ của GHPGVN. Qua đó mới giữ gìn và phát huy tốt tinh thần nhân văn

của Phật giáo trong cộng đồng dân cư.

Thứ hai, để ảnh hưởng của Phật giáo sâu rộng hơn trong bối cảnh xã hội

đương đại ở Bắc Ninh, cần thống nhất các hình thức, nội dung sinh hoạt Phật

giáo. Có sự kết hợp nhuần nhuyễn hơn giữa GHPGVN cấp tỉnh với Ban trị sự

87

cấp huyện và Ban đại diện Phật giáo cấp phường xã. Tránh tình trạng chồng

chéo trong sinh hoạt tôn giáo theo kiểu mạnh ai lấy làm, đặc biệt là trong các

công tác liên quan đến từ thiện xã hội.

Thứ ba, GHPGVN tỉnh Bắc Ninh cần tạo điều kiện hơn nữa cho tăng ni

trụ trì các ngôi chùa tiếp tục trau dồi kiến thức Phật học lẫn kiến thức thế học.

Đặc biệt là tham gia được học tập trong các lớp hoằng pháp do Trung ương

GHPGVN tổ chức, hoặc GHPGVN tỉnh Bắc Ninh chủ động mở lớp và mời các

giảng sư về giảng dạy cho tăng ni. Như thế, khi tốt nghiệp khóa đào tạo về

giảng sư, các tăng ni sẽ hoằng pháp một cách bài bản hơn.

3.2. Với công tác quản lý nhà nước về tôn giáo

Nghị quyết số 25 – NQ/TW ngày 12 tháng 3 năm 2003 xác định "Tín

ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn

tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta". Nghị

quyết này đã thể hiện quan điểm của Đảng và nhà nước ta về công tác tôn giáo

đồng thời là kim chỉ nam cho đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo và cả những

nhà tu hành thuộc các tôn giáo khác nhau. Đối với công tác quản lý nhà nước về

tôn giáo, nhất là Phật giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, đề tài xin nêu ra một số đề

xuất và khuyến nghị như sau:

Thứ nhất, đối với Phật giáo, công tác tôn giáo đã có sự gắn kết chặt chẽ.

Tuy nhiên, trong bối cảnh đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng

nâng cao do sự tăng trưởng kinh tế đem lại. Nhu cầu tâm linh của tín đồ, Phật tử

và nhân dân cũng vì thế mà tăng mạnh. Nhiều ngôi chùa được phục dựng, xây

mới, nhiều lễ hội được mở với qui mô ngày càng lớn, thu hút nhân dân trong

tỉnh và ngoài tỉnh tham gia. GHPGVN tỉnh Bắc Ninh trong công tác Phật sự đã

được hiện đại hóa thông qua việc sử dụng truyền thông, hệ thống âm thanh ánh

sáng, mở các đạo tràng, câu lạc bộ theo hình thức hiện đại. Chẳng hạn như đạo

tràng Tịnh Độ, Bát Quan Trai, Pháp Hoa,…; các câu lạc bộ như Câu lạc bộ

Thanh thiếu niên Phật tử,…; nội dung giáo dục, hoằng pháp cũng đa dạng thông

88

qua các khóa tu Phật thất, một ngày an lạc, Búp sen xanh,… Thời gian tổ chức

cũng rất linh hoạt, phụ thuộc vào từng lứa tuổi, chẳng hạnh như đối với học sinh

thì tổ chức vào kỳ nghỉ hè, với người cao tuổi thì tổ chức vào buổi tối, với người

đi làm thì tổ chức vào thứ bẩy hay chủ nhật,… Nhìn chung, các hoạt động Phật

sự được tổ chức chặt chẽ dưới sự chỉ đạo từ GHPGVN tỉnh Bắc Ninh và được sự

chấp thuận của các ban ngành chức năng. Song về hình thức và nội dung các

hoạt động Phật sự tuy đã đáp ứng cơ bản nhu cầu tinh thần, tâm linh của nhân

dân, chuyển tải những giá trị nhân văn, tinh thần từ bi của đạo Phật vào trong đời

sống của nhân dân nhưng chưa được đồng bộ, nhất là trong công tác từ thiện xã

hội. Vì thế, cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn giữa các cấp các ngành của tỉnh với

GHPG tỉnh Bắc Ninh để có kế hoạch hành động cụ thể để phát huy giá trị Phật

giáo sâu rộng hơn nữa trong nhân dân.

Thứ hai, những ảnh hưởng tích cực của NSQ Phật giáo trong đời sống

nhân dân Bắc Ninh hiện nay sẽ làm giảm thiểu những mê tín trong sinh hoạt tôn

giáo, đồng thời hạn chế các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chia rẽ tinh thần

đoàn kết của nhân dân, và gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh. Vì

thế, cần có những cơ chế cụ thể đối với Phật giáo nhằm phát huy những giá trị

của Phật giáo một cách cụ thể hơn trên địa bàn tỉnh. Tránh tình trạng chỉ ra chủ

trương, định hướng chung hay hưởng ứng theo kiểu phong trào khiến cho ảnh

hưởng của Phật giáo bị hạn chế, không hiệu quả.

Thứ ba: cần thiết có sự phối hợp bài bản hơn giữa chính quyền với

GHPGVN tỉnh Bắc Ninh trong công tác bảo vệ môi trường. Như trên đã đề cập,

các triết lý của Phật giáo về con người, về quan hệ giữa con người với con

người, giữa con người với môi trường trong mối tương hỗ và tinh thần vô ngã vị

tha. Ở Bắc Ninh hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường đã và đang trở lên cấp

bách, đặc biệt là trong các làng nghề. Vì thế, các cấp chính quyền cần có sự kết

hợp, phố hợp với GHPGVN tỉnh Bắc Ninh tuyên truyền giáo dục tư tưởng Phật

giáo về môi trường trong nhân dân, nhất là trong các làng nghề. Bởi triết lý nhân

89

quả của đạo Phật vốn đã ở trong tiềm thức của mỗi người dân thông qua các câu

ca dao như "gieo gió gặp bão", "Đời cha ăn mặn đời con khát nước", "ở hiền gặp

lành",… Việc giáo dục tư tưởng, giáo lý Phật giáo không chỉ nhằm khơi dậy ý

thức của con người mà còn cụ thể hóa thông qua hành động bảo vệ môi trường

hiện tại và cho tương lai.

Tiểu kết chƣơng 2

Hiện nay, các tôn giáo hiện diện ở Bắc Ninh vẫn giữ sinh hoạt ổn định,

nhưng hoạt động tôn giáo sôi động và "sầm uất" hơn và tuân thủ chính sách, pháp

luật của Đảng và nhà nước. Đối với Phật giáo ở Bắc Ninh dưới sự chỉ đạo của

GHPGVN tỉnh Bắc Ninh vẫn hoạt động theo đường hướng "Tốt đời, đẹp đạo",

"đồng hành cùng dân tộc" từng bước đi vào ổn định, phát triển và đây là xu hướng

chủ đạo.

Người dân Bắc Ninh tự hào về nên văn hoá mang bản sắc của riêng

mình. Nhiều ngôi chùa và lễ hội liên quan đến Phật giáo đã có những ảnh

hưởng sâu đậm trong tâm hồn nhân dân nơi đây. Dưới ảnh hưởng nhân sinh

sâu sắc của Phật giáo, từ trong lịch sử, Phật giáo Bắc Ninh là cái nôi của Phật

giáo cả nước với đặc điểm nổi trội là hệ thống Phật Tứ Pháp và tư tưởng từ bi

của đạo Phật đã thấm đẫm trong lối hành xử của tín đồ, Phật tử và nhân dân.

Trên phương diện ứng xử với bản thân mình, nhân dân nói chung và

Phật tử nói riêng ở Bắc Ninh hiện nay vẫn ứng xử theo tinh thần ngũ giới và tu

dưỡng theo tinh thần này để phát triển tâm linh. Song cũng có một bộ phận

nhân dân vẫn sa đà vào cầu cúng, xem bói, đặc biệt là hầu đồng.

Trên phương diện ứng xử với tha nhân, người dân Bắc Ninh ứng xử

khôn khéo và chân thành. Đặc biệt là với vấn đề báo hiếu người đã khuất, với

cha mẹ mình,… Trong quan hệ mẹ chồng – nàng dâu, giữa vợ với chồng,

chồng với vợ,… cũng thể hiện tinh thần nhân văn của Phật giáo. Họ quan niệm,

duyên vợ chồng phải qua cả nghìn kiếp tu mới nên duyên được. Ngoài ra,

người dân Bắc Ninh cũng rất coi trọng vị trí của người phụ nữ. Truyền thống

90

này có ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo từ lịch sử cho đến hiện tại. Bên cạnh

đó, ứng xử theo xu hướng từ thiện xã hội cũng được xem là điểm nổi bật của

người dân Bắc Ninh. Thông qua các kênh của Phật giáo, người dân Bắc Ninh

chung tay đóng góp tiền của của mình để làm dịu nỗi đau nơi đồng bào lũ lụt,

cứu trợ những gia đình neo đơn, nghèo đói. Bản thân các tu sĩ cũng thường mở

các lớp học miễn phí cho trẻ em nghèo, hay cho học sinh sinh viên vào mỗi dịp

hè. Họ quan niệm, những hành động thiện lành này góp phần cho họ tích thêm

phúc báo trong tương lai.

Trong ứng xử với môi trường, giáo lý đạo Phật từ lâu đã chỉ ra những

hành động phương hại đến môi trường, mối tương quan giữa con người với

môi trường,… Hiện nay, vấn đề môi trường ở Bắc Ninh hiện nay đã và đang là

vấn đề nổi cộm, đặc biệt là trong các làng nghề. Mặc dù chịu ảnh hưởng của

Phật giáo đối với vấn đề môi trường sâu đậm, song chỉ một số ngôi chùa giữ

được môi trường cảnh quan tốt, còn chủ yếu chưa chưa xử lý tốt. Đặc biệt là

vào những ngày diễn ra lễ hội, hiện tượng xả rác vô ý thức của du khách đã

khiến cho môi trường, cảnh quan không tốt. Trong các làng nghề, nhiều Phật

tử, nhân dân vẫn xem lợi nhuận cao hơn vấn đề sức khỏe, vì thế đã xảy ra

nhiều bệnh tật liên quan đến hô hấp. Ngoài ra, ảnh hưởng NSQ Phật giáo còn

thể hiện trong văn hóa, trong văn học nghệ thuật, trong kiến trúc điêu khắc,

trong lễ hội rất đậm đặc.

Nhìn chung, nhiều phong trào về môi trường, về ứng xử văn hóa, văn

minh đã được GHPGVN tỉnh Bắc Ninh hưởng ứng, song kết quả còn khiêm

tốn. Vì thế, cần có sự kết hợp bài bản hơn giữa GHPGVN tỉnh Bắc Ninh với

các cấp chính quyền, và bản thân GHPGVN tỉnh Bắc Ninh cũng cần có chủ

91

trương sát với tình hình hiện tại.

KẾT LUẬN

Trong thuật ngữ Phật giáo không có khái niệm NSQ. Song, khái niệm

NSQ thuộc phạm trù triết học Phật giáo lại là điểm nhìn soi chiếu vào hệ thống

giáo lý Phật giáo. Để từ đây, con người đi sâu phân tích và ngày càng khám

phá ra nhiều chiều cạnh mang tính nhân văn sâu sắc của Phật giáo.

Song hành với NSQ bao giờ cũng là VTQ. Nếu như VTQ là quan niệm

của con người về thế giới thì NSQ bao giờ cũng là quan niệm về con người về

lẽ sống của con người trong thế giới. Có thể nói, có bao nền triết học, có bao

tôn giáo thì có bấy nhiêu quan niệm về vũ trụ và con người.

Đối với Phật giáo, quan niệm nhân sinh đã có từ lâu, hiện diện ngay từ

trong những lần thuyết giảng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Song, chỉ đến

khi nó được nghiên cứu ở tầm triết học thì khái niệm NSQ Phật giáo mới trở

lên rõ ràng hơn. Nhưng không vì thế mà có những cách nhìn thuận chiều, đôi

khi cũng trái chiều và tạo ra những tranh luận rất sôi nổi trong lịch sử triết học

nói chung và trong triết học tôn giáo nói riêng.

NSQ Phật giáo không chỉ được xem có sự gắn kết chặt chẽ với thế giới

quan theo quan niệm "có cái này thì có cái kia" và ngược lại "cái này không thì

cái kia không". Và do đó, khi bàn về NSQ Phật giáo không thể không đề cập

tới VTQ Phật giáo và ngược lại. Và nếu chúng ta thử tách rời NSQ Phật giáo

thành một đối tượng nghiên cứu riêng, độc lập trong chừng mực nào đó thì có

thể hình dung. Ở tầm khái quát, quan niệm nhân sinh của Phật giáo rõ ràng là

đặc sắc hơn các tôn giáo khác ở điểm: luôn luôn coi vị trí của con người là cao

hơn cả trong muôn loài. Song, con người cũng như muôn loài đều chịu quy luật

nhân quả được vận hành bởi chu trình Thành - Trụ - Hoại – Không. Còn ở tầm

cụ thể, NSQ Phật giáo đã qui định lối ứng xử vô cùng tinh tế, khéo léo ít nhất

trên ba phương diện mà chúng tôi đề cập. Đó là ứng xử với chính bản thân

92

mình, ứng xử với người khác bao gồm, cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em,

thầy trò,… và ứng xử với môi trường thiên nhiên. Đương nhiên, trong lối ứng

xử với môi trường thiên nhiên thì chúng ta lại quay trở lại với VTQ trong Phật

giáo. Vậy cái gì đã qui định quan niệm NSQ trong Phật giáo, trở lại những giáo

lý cơ bản ban đầu chính là Tứ diệu đế, luật Nhân quả và những giới răn,…

chính là chìa khóa căn bản để chúng ta hiểu rõ hơn cả. Vì thế, Khổ và thoát khổ

luôn được Đức Phật khuyến khích, nhưng phải trên nền tảng trí tuệ và thực

hành rốt ráo Tam vô lậu học (Giới – Định – Tuệ). Do đó, ảnh hưởng NSQ Phật

giáo vô cùng sâu rộng không chỉ trong tín đồ Phật tử mà còn trong quần chúng

nhân dân.

Ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay, có thể nói có một cơ tầng văn hóa vô cùng

đặc sắc. Ngoài vị trí địa lý, điều kiện kinh tế xã hội thì cơ tầng Phật giáo khiến

người dân Bắc Ninh vô cùng tự hào. Trong lịch sử, ảnh hưởng của tam giáo

Nho – Phật – Lão rất mạnh, đương nhiên Phật giáo chiếm ưu thế bởi Bắc Ninh

là cái nôi của Phật giáo Việt Nam. Trong hiện tại, dù Nho giáo, Đạo giáo có

phần phai nhạt, song dường như ảnh hưởng của Phật giáo lại càng lớn mạnh.

Nhiều ngôi chùa được xây mới, nhiều lễ hội liên quan đến Phật giáo được khôi

phục đã cho thấy nhu cầu Phật giáo của con người nơi đây chưa bao giờ vơi

cạn. Trong cách ứng xử của người dân, chúng ta đều thấy mỗi cử chỉ, mỗi hành

động và mỗi lời nói đều mang hơi hướng Phật giáo. Đó là tinh thần từ bi hỷ xả,

tinh thần "chín bỏ làm mười", tinh thần cứu người là giúp mình,... Và có một

điểm nổi bật trong quan niệm của người dân Bắc Ninh rất đề cao yếu tố nữ, đó

là hiện tượng thờ Phật Tứ Pháp, hay nói đúng hơn là xem trọng vị trí của người

phụ nữ trong gia đình và xã hội. Bên cạnh dó còn nhiều thơ ca, hò vè, nhiều

công trình kiến trúc điêu khắc mang giá trị cao cũng ảnh hưởng từ Phật giáo.

Tuy nhiên, hiện nay vẫn có một bộ phận người dân Bắc Ninh còn sa đà vào cầu

cúng, xem bói...

Có thể nói, quan niệm nhân sinh Phật giáo đã có ảnh hưởng sâu đậm

93

đối với người dân Bắc Ninh hiện nay trên nhiều phương diện. Hay nói như

nhà nghiên cứu Minh Chi “NSQ Phật giáo Việt Nam trên thực tế là một

NSQ yêu đời, tích cực và chủ động cho nên đã tạo ra cả một thế hệ trưởng

lão, thiền sư, cao tăng, Phật tử của hai triều đại Lý - Trần, lăn lộn giữa đời

để cứu người nhưng không bị thế tục làm thấp nhân phẩm, lên tới đỉnh tột

cùng của danh lợi thế gian mà coi thường danh lợi ấy như bèo bọt, như

sương mai, sống giữa bùn lầy như hoa sen mà vẫn không hôi tanh mùi

bùn”[13, tr. 75]. Nhưng trong khuôn khổ của một luận văn, chúng tôi chỉ

xin đề cập đến ba phương diện chủ yếu và thông qua đó nêu ra một số

khuyến nghị với GHPGVN tỉnh Bắc Ninh và các ban ngành trong tỉnh

trong công tác tôn giáo hiện nay, nhằm phát huy những thế mạnh của Phật

94

giáo trong bối cảnh cụ thể trên địa bàn tỉnh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (2006), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa thông tin,

Hà Nội

2. PGS.TS Lê Hữu Ái (2009), “Phát huy vai trò của văn hóa truyền thống”,

Tạp chí Lý luận chính trị, số 12

3. Ban biên dịch Đạo Uyển, Từ điển Phật học, Công ty sách Thời Đại & Nxb

Thời Đại, Hà Nội

4. Ban tôn giáo Chính Phủ (1995), Một số tôn giáo ở Việt Nam, tài liệu tham

khảo, Hà Nội

5. Thích Quảng Bảo (2012), Phật pháp trong thời đại tân tiến, Nxb. Tôn giáo,

Hà Nội.

6. Nguyễn Thị Bảy (1997), Văn hoá Phật giáo và lối sống của người Việt ở

Hà nội và châu thổ Bắc bộ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Trần Lâm Biền (1996), Chùa Việt. Nxb. Văn học. Hà Nội

8. Thích Minh Cảnh chủ biên, 2004, Từ điển Phật học Huệ Quang, Nxb, Tổng

hợp TP. Hồ Chí Minh

9. Đoàn Trung Còn (2007), Lịch sử nhà Phật, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội

10. Đoàn Trung Còn (1963), Phật học từ điển 2, Phật học tùng thơ

11. Đoàn Trung Còn (1963), Phật học từ điển 2, Phật học tùng thơ, Sài Gòn

12. Minh Chi (2001), “Về xu thế thế tục hóa và dân tộc hóa”, Tạp chí Nghiên

cứu tôngiáo.

13. Minh Chi (2005), Truyền thống văn hóa và Phật giáo Việt Nam, Nxb. Tôn

giáo, Hà Nội

14. Doãn Chính (chủ biên, 2003), Kinh văn của các trường phái triết học Ấn

Độ, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội

15. Doãn Chính (1997), Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ, Nxb. Chính

95

trị Quốc gia, Hà Nội

16. Phan Huy Chú (1960), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nxb Sử học,

Hà Nội

17. Thiều Chửu (2002), Con đường học Phật ở thế kỷ thứ XX, Nxb Tôn giáo,

Hà Nội

18. Doãn Chính (1997), Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ, Nxb. Chính

trị Quốc gia, Hà Nội

19. Nguyễn Đăng Quy (2005), Văn hóa tâm linh, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà

Nội

20. Nguyễn Đăng Duy (1999), Phật giáo với văn hoá Việt Nam, Nxb.Hà Nội.

21. Đại Nam nhất thống chí, tập 4. Nxb Thuận Hóa, Huế

22. TT.TS. Thích Tâm Đức (2012), Sự giác ngộ của Đức Phật vì phúc lợi của

toàn nhân loại (The Buddha’s Enlightenment for the Well-being of

Humanity’), tại Hội nghị Phật giáo quốc tế lần thứ 9 kỷ niêm 31 năm

UNDV từ ngày 31/5/2012, tại Thái Lan

23. TS Lê Văn Đính (2007), “Bàn thêm về ảnh hưởng của phật giáo trong đời

sống xã hội Việt Nam hiện nay”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 10

24. GHPGVN (1986), Kỷ yếu đại hội đại biểu toàn quốc GHPGVN lần thứ II,

Ban Văn hóa Trung ương

25. GHPGVN tỉnh Bắc Ninh, Báo cáo sơ kết 06 tháng đầu năm 2019 – phương

hướng, trọng tâm 06 tháng cuối năm 2019, Bắc Ninh, ngày 5/8/2018

26. Trần Văn Giàu (1993), Đạo đức Phật giáo trong thời hiện đại, Nxb. Thành

phố Hồ Chí Minh.

27. Trần Văn Giáp biên dịch và khảo đính (1971), Kinh Bắc phong thổ ký diễn

quốc sự, Ty Văn hóa Hà Bắc xuất bản năm 1971.

28. Trần Văn Giáp, "Bài diễn ca sự tích đền bà Tấm", Tạp chí Dân tộc học, số

3 năm 1975

29. GS. TS. Nguyễn Hùng Hậu (2002), Đại cương triết học Phật giáo Việt

96

Nam, tập I, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

30. GS. TS. Nguyễn Hùng Hậu (2004), Triết lý trong văn hoá phương Đông,

Nxb. Đại học Sư phạm Hà Nội.

31. HT. Thích Thiện Hoa (2011), Phật học phổ thông, tập 1, Nxb. Phương

Đông, Hà Nội

32. Nguyễn Duy Hinh, Lịch sử đạo Phật Việt Nam, Nxb Tôn giáo & Nxb. Từ

điển Bách khoa, Hà Nội

33. Nguyễn Duy Hinh (1996), "Hệ tư tưởng Trần", Tạp chí Nghiên cứu lịch sử,

số 4

34. Thích Nguyên Hiệp (2010), Kinh Từ Bi, bản dịch của Thích Nhất Hạnh.

35. Nguyễn Văn Huyên (2018), Văn minh Việt Nam, Nxb Hội Nhà Văn, Hà

Nội

36. Trần Đình Hượu (1996), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb. Văn hóa, Hà

Nội

37. Diệu Kim - Nguyễn Minh Tiến (2008), Đố vui Phật pháp. Nxb Tôn giáo

38. HT. Thích Thanh Kiểm dịch (2004), Trần Thánh Tông, "Bài tựa Thiền tông

chỉ nam", Khóa hư lục, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.

39. Nguyễn Lang (1994), Việt Nam Phật giáo sử luận, 3 tập, Nxb Văn học, Hà

Nội

40. Hà Xuân Liêm (2001), Lịch sử Phật giáo xứ Huế, Nxb. TP Hồ Chí Minh

41. Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư

42. Trần Đình Luyện (1999), Luy Lâu lịch sử và văn hóa, Sở Văn hóa Thông

tin tỉnh Bắc Ninh xuất bản

43. Hà Thúc Minh (1992), Triết học phương Đông - Triết học Ấn Độ, Nxb

thành phố Hồ Chí Minh

44. Võ Quang Nhân dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính (2007), Tứ diệu đế.

Nxb Tôn giáo. Hà Nội

45. Trần Chung Ngọc, Phật giáo trong thời đại khoa học, tập 4, Nxb. Tôn giáo,

97

Hà Nội

46. Đức Nhuận (2008), Đạo Phật và dòng sử Việt, Nxb Phương Đông, Hà Nội

47. Phân viện Nghiên cứu Phật học, Ngô Đức Thọ - Nguyễn Thúy Ngân dịch,

1990, Thiền uyển thập anh, Nxb. Văn học, Hà Nội

48. Hoàng Phong (2012), Khổ đau phát sinh và vận hành như thế nào, Nxb

Phương Đông, Hà Nội

49. Phỏng vấn Phật tử DT, 63 tuổi, tại chùa Phật Tích ngày 21/8/2019.

50. Phỏng vấn bà NTT, 68 tuổi tại chùa Phật Tích ngày 21/8/2019

51. PV. PT. ĐL, 54 tuổi tại chùa Bút Tháp ngày 25/ 8/2019

52. PV. PT. TA, 67 tuổi tại chùa Bút Tháp ngày 25/ 8/2019

53. PV. Người dân ở gần chùa Dâu ngày 28/8/2019

54. PV. PT TA, 26 tuổi, tại chùa Tiêu Sơn, ngày 28/8/2019

55. PV. PT TN, 71 tuổi, tại chùa Bút Tháp, ngày 28/8/2019

56. PV. PT. DQ, 60 tuổi, tại chùa Bút Tháp, huyện Thuận Thành, ngày

29/8/2019

57. PV. PT. DQ, 48 tuổi chùa Bút Tháp, huyện Thuận Thành, ngày 29/8/2019

58. PV. PT. DL, 22 tuổi ở chùa Bút Tháp, huyện Thuận Thành, ngày

29/8/2019.

59. HT. Thích Trí Quảng (2008), Phật giáo nhập thế và phát triển, 2 tập, Nxb.

Tôn giáo, Hà Nội

60. Nguyễn Duy Quý (2006), Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay: vấn đề và

giải pháp, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội

61. TT, TS. Thích Thanh Quyết - TS. Nguyễn Quốc Tuấn (đồng chủ biên,

2013), Phật hoàng Trần Nhân Tông (1258- 1308) con người và sự nghiệp,

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội

62. Tài liệu của Hội nghị UNDV nhân lễ kỷ niệm UND, GS.TS. Bela

Bhattacharya in her article (2009), Hướng tiếp cận của Đạo Phật về khủng

98

hoảng môi trường - Buddhist Approach to Environmental Crisis.

63. Tuệ Sĩ dịch, 1973, Các tông phái của đạo Phật, Ban tu thư viện Đại học

Vạn Hạnh, Sài Gòn

64. Thích Thiện Siêu (2002), Vô ngã là niết bàn. Nxb Tôn giáo, Hà Nội

65. Nguyễn Đức Sự - Lê Tâm Đắc (2010), Mấy vấn đề về Phật giáo trong lịch

sử Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội

66. Sở Nội vụ Bắc Ninh – Ban tôn giáo (2019), Hội thảo khoa học: Vai trò của

Phật giáo trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc, xây dựng đời sống văn

hóa ở Bắc Ninh và vấn đề phát huy tinh thần yêu nước của Tăng ni, tín đồ

Phật tử, Bắc Ninh

67. Tâm Minh Lê Đình Thám dịch, Kinh Lăng Nghiêm, Nxb. TP. Hồ Chí Minh

68. HT. Thích Thanh Từ, Kinh Kim cang giảng giải, NXb. TP. Hồ Chí Minh

69. Bồ đề Tân Thanh – Nguyễn Đại Đồng (2012), Phật giáo Việt Nam (từ khởi

nguyên đến 1981), Nxb Văn học, Hà Nội

70. Ngô Đức Thọ (Hà Văn Tấn hiệu đính), 1998, Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1,

Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội

71. Thích Chơn Thiện (2009), Phật học khái luận, Nxb. Phương Đông, Hà Nội

72. Đại đức, TS. Thích Đức Thiện – TS. Nguyễn Quốc Tuấn đồng chủ biên,

2011, Phật giáo thời Lý với 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội

73. Nguyễn Tài Thư chủ biên, 1998, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb. Khoa

học Xã hội, Hà Nội

74. Nguyễn Trãi (Phan Duy Tiếp dịch - Hà Văn Tấn hiệu đính và chú thích,

1060), Dư địa chí, Nxb Sử học, Hà Nội

75. Lê Thị Nhâm Tuyết ( 1975), Phụ nữ Việt Nam qua các đời, Nxb Khoa học

Xã hội, Hà Nội

76. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (2011), Kỷ yếu hội thảo

99

khoa học: Một số vấn đề triết học tôn giáo hiện nay, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội

77. Trường ĐH Kinh tế TP.HCM (2007), Triết học Mác-Lênin, Nxb. TP. Hồ

Chí Minh

78. Hạnh Viên dịch (2011), Tư tưởng Phật giáo Ấn Độ. Ban tu thư viện Đại

học Vạn Hạnh, Sài Gòn

79. GS.TS. Nguyễn Hữu Vui chủ biên (2007), Lịch sử triết học, Nxb. Chính trị

quốc gia, Hà Nội

80. Trần Quốc Vượng (2003), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb.

Văn Học, Hà Nội

81. Trần Quốc Vượng chủ biên (2005), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo

dục, Hà Nội

82. Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam cái nhìn địa - văn hóa, Nxb Văn hóa

Dân tộc, Hà Nội

83. Hoàng Tâm Xuyên (2012). Mười tôn giáo lớn trên thế giới. Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội

84. Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam (2010), Phát huy vai trò

của các tôn giáo Việt Nam trong phòng, chốn HIV và AIDS, Hà Nội

85. Website tham khảo: thuvienhoasen, vipassana, dhammasara,

100

phatgiaobacninh, tapchimoitruong,daitangkinhvietnam