Ngô Ngọc Linh<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
79(03): 29 - 34<br />
<br />
ẢNH HƢỞNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TÁM THÁNG ĐẤU TRANH DU KÍCH<br />
CHỐNG ĐỊCH KHỦNG BỐ TRÊN CĂN CỨ ĐỊA BẮC SƠN – VÕ NHAI<br />
ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM<br />
Ngô Ngọc Linh*<br />
Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Thắng lợi của Tám tháng đấu tranh du kích chống địch khủng bố trên căn cứ địa Bắc Sơn – Võ<br />
Nhai (1941-1942) không những có ý nghĩa quan trọng đối với phong trào cách mạng Bắc Sơn –<br />
Võ Nhai, mà còn tạo đƣợc ảnh hƣởng sâu rộng đến một loạt phong trào cách mạng đang diễn ra<br />
trên toàn quốc; Căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai hình thành, phát triển qua tranh đấu cũng là yếu tố<br />
quan trọng đƣa đến sự ra đời của Khu giải phóng trong cao trào kháng Nhật cứu nƣớc (1945). Đội<br />
du kích Bắc Sơn – Võ Nhai đƣợc coi là một trong những đội quân tiền thân của Quân đội nhân dân<br />
Việt Nam.<br />
Từ khóa: Đấu tranh du kích; Bắc Sơn – Võ Nhai; Đội du kích Bắc Sơn – Võ Nhai; Căn cứ địa<br />
Bắc Sơn - Võ Nhai; Tám tháng đấu tranh du kích<br />
<br />
Tám tháng đấu tranh du kích chống địch<br />
khủng bố (từ tháng 07/1941 đến tháng<br />
02/1942) diễn ra trên căn cứ địa Bắc Sơn –<br />
Võ Nhai có những ý nghĩa lịch sử, bài học<br />
kinh nghiệm rất quan trọng không chỉ đối với<br />
phong trào cách mạng Bắc Sơn – Võ Nhai,<br />
mà còn là bài học quan trong đối với phong<br />
trào cách mạng cả nƣớc. Đó cũng chính là<br />
động lực thúc đẩy cách mạng Việt Nam phát<br />
triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn sau. Diễn<br />
biến tiến trình vận động Cách mạng tháng<br />
Tám 1945 đã chứng minh rõ sự ảnh hƣởng,<br />
tác động của tám tháng đấu tranh du kích<br />
chống địch khủng bố ở Bắc Sơn – Võ Nhai<br />
trên nhiều phƣơng diện, cả về lý luận lẫn thực<br />
tiễn cách mạng.*<br />
Vấn đề “Tám tháng đấu tranh du kích trên<br />
căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai” là một vấn đề<br />
cũng đã đƣợc giới sử học quan tâm, nghiên<br />
cứu. Tuy nhiên, các tác giả mới chỉ dừng lại ở<br />
việc đề cập tới hoặc điểm qua một hay một<br />
vài sự kiện có liên quan; mà chƣa nghiên cứu<br />
một cách thực sự có hệ thống và ở mức độ<br />
khái quát, toàn diện đến vấn đề này. Vì thế,<br />
trong phạm vi của nghiên cứu nhỏ, chúng tôi<br />
cố gắng đƣa ra và phân tích sâu về sự kiện<br />
quan trọng này trên các góc độ ý nghĩa lịch sử<br />
và bài học kinh nghiệm; từ đó chỉ ra đƣợc<br />
những tác động, ảnh hƣởng sâu rộng của cuộc<br />
*<br />
<br />
Tel: 0983851565<br />
<br />
đấu tranh trên đối với phong trào cách mạng<br />
Việt Bắc nói riêng và phong trào cách mạng<br />
cả nƣớc nói chung.<br />
1. Thắng lợi của tám tháng đấu tranh du kích<br />
trên căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai có ảnh<br />
hƣởng mạnh mẽ và là nguồn cổ vũ, động viên<br />
lớn lao cho phong trào cách mạng toàn quốc,<br />
bồi dƣỡng lòng yêu nƣớc, niềm tin về tƣơng<br />
lai tƣơi sáng của cách mạng cho quần chúng<br />
nhân dân. Sức mạnh tinh thần của quần chúng<br />
chính là cội nguồn của mọi thắng lợi trong<br />
Cách mạng tháng Tám 1945.<br />
Nhƣ chúng ta đã biết, từ sau năm 1939, thực<br />
dân Pháp đã câu kết với phát xít Nhật tiến<br />
hành đàn áp, khủng bố phong trào cách mạng<br />
khiến cho cách mạng Việt Nam có những tổn<br />
thất lớn lao, vì thế đã xuất hiện một bộ phận<br />
quần chúng cách mạng tỏ ra khủng hoảng,<br />
mất niềm tin. Trong hoàn cảnh đó, thắng lợi<br />
của cuộc đấu tranh chống địch khủng bố trên<br />
căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai do Cứu quốc<br />
quân lãnh đạo mang một ý nghĩa vô cùng sâu<br />
sắc. Thắng lợi này đã vực dậy tinh thần và<br />
củng cố niềm tin của quần chúng vào sự lãnh<br />
đạo cách mạng của Đảng, vào một tƣơng lai<br />
sáng ngời của sự nghiệp đấu tranh cách mạng.<br />
Đó là nguồn cổ vũ, động viên to lớn, kịp thời<br />
cho quần chúng, bồi dƣỡng lòng yêu nƣớc,<br />
niềm tự hào dân tộc, lòng căm thù giặc sâu<br />
sắc cho nhân dân. Điều này rất có lợi cho quá<br />
29<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn27<br />
<br />
Ngô Ngọc Linh<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
trình vận động cách mạng của Đảng, lực<br />
lƣợng cách mạng của Đảng không ngừng<br />
đƣợc bổ sung: “Ngọn lửa mà kẻ thù đã đốt<br />
hàng chục nóc nhà trong cuộc khủng bố<br />
tháng Hai cũng tắt theo những âm mưu tiêu<br />
diệt Cứu quốc quân của chúng; Tuy vậy ngọn<br />
lửa ấy đã cháy thành ngọn lửa căm thù trong<br />
đồng bào đồng chí chúng ta.”(1). Đây là<br />
những sự chuẩn bị vô cùng cần thiết cho việc<br />
hình thành một cao trào đấu tranh cách mạng<br />
trên toàn quốc, tiến tới khởi nghĩa giành chính<br />
quyền trong những năm tiếp theo.<br />
Tiếng súng đánh địch của Cứu quốc quân và<br />
tự vệ căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai có tác dụng<br />
thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng toàn<br />
quốc phát triển, đặc biệt ở các địa phƣơng<br />
thuộc những khu vực lân cận: “sự ra đời và<br />
mở rộng hoạt động của Trung đội Cứu quốc<br />
quân II đã có ảnh hưởng tích cực tới việc xây<br />
dựng lực lượng vũ trang cách mạng ở các<br />
huyện khác trong tỉnh” (2). Noi gƣơng các<br />
chiến sĩ Bắc Sơn - Võ Nhai, nhiều đội tự vệ,<br />
quân du kích ở các địa phƣơng lần lƣợt hình<br />
thành và có những hoạt động rất sôi nổi.<br />
Thời kỳ 1941 – 1945 là thời kỳ phong trào<br />
đấu tranh cách mạng nƣớc ta phát triển vƣợt<br />
bậc, có nhiều thành tựu rực rỡ, đặc biệt là từ<br />
sau khi Mặt trận Việt Minh ra đời. Tám tháng<br />
đấu tranh du kích chống khủng bố trên căn cứ<br />
địa Bắc Sơn – Võ Nhai là một trong những<br />
tiếng súng đầu tiên báo hiệu cho cao trào cách<br />
mạng đó. Sau sự kiện này, quần chúng thêm<br />
tin tƣởng vào sự nghiệp cách mạng do Đảng,<br />
Bác Hồ lãnh đạo. Họ nô nức tham gia các tổ<br />
chức quần chúng của Việt Minh, thi đua đánh<br />
địch, diệt địch bằng chiến thuật du kích trong<br />
các đội du kích, tự vệ địa phƣơng. Phong trào<br />
cách mạng 1941 – 1945 vì thế mà sôi nổi lên<br />
từng tháng, từng ngày và nó lan nhanh, mạnh<br />
từ địa phƣơng này sang địa phƣơng khác.<br />
Sự phát triển của phong trào Việt Minh và sự<br />
lớn mạnh của lực lƣợng vũ trang cách mạng<br />
là những điều kiện quan trọng, quyết định để<br />
Trung ƣơng Đảng ta phát động Cao trào<br />
kháng Nhật cứu nƣớc (từ tháng 3 tháng<br />
8/1945), rồi tiến tới tổng khởi nghĩa trong<br />
Cách mạng Tháng Tám 1945.<br />
<br />
79(03): 29 - 34<br />
<br />
2. Lực lƣợng quân du kích hình thành trong<br />
cuộc đấu tranh này, đặc biệt là đội Cứu quốc<br />
quân II đã trở thành một trong những hạt nhân<br />
nòng cốt để xây dựng lực lƣợng vũ trang cách<br />
mạng của Đảng. Thực tế cho thấy, đây là một<br />
trong những đội quân tiền thân của lực lƣợng<br />
vũ trang nhân dân Việt Nam (ngày<br />
15/05/1945 hợp nhất với đội Việt Nam tuyên<br />
truyền giải phóng quân thành Việt Nam giải<br />
phóng quân tại Định Biên Thƣợng, Định Hóa,<br />
Thái Nguyên).<br />
Đội du kích cách mạng bắt đầu hình thành từ<br />
trong cuộc Khởi nghĩa Bắc Sơn (1940). Tại<br />
Hội nghị Trung ƣơng 7 (11/1940), Đảng ta<br />
quyết định Đội du kích Bắc Sơn cần phải<br />
đƣợc duy trì và phát triển, làm lực lƣợng nòng<br />
cốt tiến tới xây dựng căn cứ địa lấy Bắc Sơn –<br />
Võ Nhai là trung tâm; Đảng cũng vạch rõ<br />
phƣơng hƣớng hoạt động của đội du kích là<br />
vũ trang công tác, khi cần thì chống địch<br />
khủng bố, xây dựng, mở rộng căn cứ địa cách<br />
mạng. Thực hiện chủ trƣơng của Đảng, Đội<br />
du kích Bắc Sơn ngày càng phát triển và lớn<br />
mạnh qua đấu tranh; các trung đội Cứu quốc<br />
quân I (1/5/1941), rồi Cứu quốc quân II<br />
(15/9/1941) ra đời là những kết quả tất yếu<br />
của quá trình phát triển đó. Trong quá trình<br />
này, sự lãnh đạo về chủ trƣơng, đƣờng lối của<br />
Đảng, thậm chí cả những nhân tố con ngƣời<br />
cũng đƣợc thể hiện rất rõ (cử những cán bộ<br />
cốt cán của Đảng tham gia lãnh đạo quân du<br />
kích hoặc công tác lâu ngày tại khu căn cứ).<br />
Khi khu căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai bị<br />
khủng bố, Đảng ta đã luôn sát sao chỉ đạo,<br />
động viên kịp thời đối với lực lƣợng du kích,<br />
đặc biệt Đảng đã phát động một phong trào<br />
ủng hộ du kích Bắc Sơn – Võ Nhai trên toàn<br />
quốc nhằm hỗ trợ cho phong trào đấu tranh.<br />
Nhƣng do thực dân Pháp bao vây chặt, cô lập<br />
mạnh khu căn cứ nên phong trào này cũng<br />
chƣa thực sự phát huy đƣợc những tác dụng<br />
cần thiết.<br />
Vậy, có thể thấy: trong quá trình lãnh đạo<br />
cách mạng, Đảng ta đã rất coi trọng lực lƣợng<br />
quân du kích Bắc Sơn – Võ Nhai và coi đó là<br />
lực lƣợng vũ trang nòng cốt xây dựng, bảo vệ<br />
căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai, một trong hai<br />
căn cứ địa cách mạng trung tâm của cả nƣớc<br />
bấy giờ (căn cứ địa thứ hai là Cao Bằng);<br />
<br />
30<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn28<br />
<br />
Ngô Ngọc Linh<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Đảng cũng xác định lực lƣợng du kích Bắc<br />
Sơn – Võ Nhai là một lực lƣợng cần phải<br />
đƣợc duy trì, bồi dƣỡng và coi đó là một<br />
trong những đội quân tiền thân của quân đội<br />
nhân dân Việt Nam. Thực tế lịch sử cũng cho<br />
thấy, các trung đội Cứu quốc quân Bắc Sơn –<br />
Võ Nhai đã hợp nhất với Đội Việt Nam tuyên<br />
truyền giải phóng quân (ra đời ngày<br />
22/12/1944) thành Việt Nam Giải phóng quân<br />
(tại Định Biên Thƣợng, Định Hóa, Thái<br />
Nguyên, ngày 15/5/1945) – một đội quân<br />
đƣợc coi là lực lƣợng Quân đội nhân dân Việt<br />
Nam lâm thời của cách mạng Việt Nam.<br />
Ngoài ra, ta cũng thấy, đã có không ít cán bộ,<br />
chiến sĩ Trung đội Cứu quốc quân trƣởng<br />
thành trong cuộc chiến đấu về sau đã trở<br />
thành những vị tƣớng tài, chỉ huy giỏi trong<br />
Quân đội nhân dân Việt Nam (Chu Văn Tấn,<br />
Nguyễn Cao Đàm, Lê Dục Tôn, Mông Phúc<br />
Quyền, Chu Phóng…). Vậy, ta có thể coi<br />
Cứu quốc quân là một trong những đội<br />
quân tiền thân của lực lượng vũ trang nhân<br />
dân Việt Nam sau này. Đây là vấn đề mang ý<br />
nghĩa lịch sử hết sức quan trọng.<br />
3. Những thắng lợi của cuộc đấu tranh du<br />
kích diễn ra trên căn cứ địa Bắc Sơn – Võ<br />
Nhai đã đánh dấu sự lớn mạnh của khu căn cứ<br />
địa cách mạng Bắc Sơn – Võ Nhai. Nó ảnh<br />
hƣởng lớn đến sự hình thành, phát triển của<br />
các khu căn cứ địa cách mạng khác trên toàn<br />
quốc; Đặc biệt, sự phát triển đó là tiền đề cho<br />
sự ra đời của chiến khu Hoàng Hoa Thám và<br />
Khu giải phóng Việt Bắc (tháng 6/1945) –<br />
những chiến khu có vị trí, vai trò rất to lớn<br />
trong sự thành công của Cách mạng Tháng<br />
Tám năm 1945.<br />
Với tƣ cách là khu du kích đầu tiên trong thời<br />
kỳ mới, theo chủ trƣơng chỉ đạo của Trung<br />
ƣơng Đảng về vấn đề xây dựng căn cứ địa<br />
Bắc Sơn – Võ Nhai (trong Hội nghị Trung<br />
ƣơng 7 (1940)), quân và dân Bắc Sơn – Võ<br />
Nhai cùng nhau đoàn kết, tích cực xây dựng<br />
khu căn cứ. Chỉ trong vòng hơn một năm kể<br />
từ ngày có chủ trƣơng trên, đến đầu năm<br />
1942, một khu căn cứ địa cách mạng rộng lớn<br />
đã đƣợc hình thành và ngày một phát triển.<br />
Khu căn cứ này lấy Bắc Sơn – Võ Nhai làm<br />
trung tâm, bao gồm nhiều địa phƣơng thuộc<br />
các tỉnh: Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang,<br />
<br />
79(03): 29 - 34<br />
<br />
Tuyên Quang. Việc mở rộng căn cứ địa Bắc<br />
Sơn – Võ Nhai giúp cho quân du kích có<br />
thêm địa bàn để hoạt động, chống địch khủng<br />
bố; xây dựng, phát triển các cơ sở cách mạng.<br />
Căn cứ địa này nối liền với căn cứ địa Cao<br />
Bằng (nơi Bác Hồ và Trung ƣơng Đảng hoạt<br />
động) và là bàn đạp để phát triển phong trào<br />
cách mạng từ Bắc xuống Nam, từ miền núi<br />
đến miền xuôi, xuống đồng bằng và thông tới<br />
nhiều địa phƣơng khác, thúc đẩy cao trào<br />
cách mạng trên toàn quốc. Thực tế cho thấy:<br />
sự ra đời của một loạt các khu căn cứ cách<br />
mạng trong thời kỳ tiếp theo nhƣ: Chiến khu<br />
Hoàng Hoa Thám (hình thành đầu năm 1944,<br />
gồm hai phân khu, lấy Sông Cầu là ranh giới:<br />
Phân khu A là phân khu Nguyễn Huệ; phân<br />
khu B là phân khu Quang Trung, do đồng chí<br />
Chu Văn Tấn làm Chỉ huy trƣởng) và đặc biệt<br />
là Khu giải phóng Việt Bắc (thành lập ngày<br />
04/6/1945, gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Tuyên<br />
Quang, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Hà Giang,<br />
Lạng Sơn, do Hồ Chủ tịch lãnh đạo Ủy ban<br />
chỉ huy lâm thời Khu giải phóng) cũng là kết<br />
quả của công tác xây dựng, mở rộng căn cứ<br />
địa trong thời kỳ tám tháng đấu tranh du kích<br />
chống địch khủng bố trên căn cứ địa Bắc Sơn<br />
– Võ Nhai.<br />
4. Xuất phát từ chủ trƣơng đặt nhiệm vụ giải<br />
phóng dân tộc là nhiệm vụ cách mạng hàng<br />
đầu của Đảng ta, quân và dân Bắc Sơn – Võ<br />
Nhai đã quyết tâm đứng lên đấu tranh chống<br />
địch khủng bố. Những thắng lợi to lớn cả trên<br />
mặt trận quân sự lẫn mặt trận chính trị đã cho<br />
thấy sự kết hợp nhuần nhuyễn, tài tình, khéo<br />
léo giữa đấu tranh chính trị và đầu trang vũ<br />
trang của quân và dân Bắc Sơn - Võ Nhai; nó<br />
cũng nói lên sức mạnh của việc kết hợp hai<br />
hình thức đấu tranh: chính trị và vũ trang<br />
trong quá trình khởi nghĩa ở từng địa phƣơng.<br />
Cuộc đấu tranh này là sự kiểm nghiệm, làm<br />
tiền đề vững chắc cho việc phát động một một<br />
cao trào khởi nghĩa từng phần, tiến tới tổng<br />
khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi<br />
toàn quốc của Đảng ta.<br />
Xuyên suốt thời kỳ 1939 – 1945, Đảng ta đã<br />
vạch ra mục tiêu chính trị của cách mạng là<br />
bằng mọi giá giành cho kỳ đƣợc độc lập, tự<br />
do cho dân tộc. Thực hiện mục tiêu đó, Đảng<br />
31<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn29<br />
<br />
Ngô Ngọc Linh<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
đã đề ra nhiều hình thức hoạt động phong phú<br />
nhƣ: Vận động, tuyên truyền, giác ngộ quần<br />
chúng; tập hợp, rèn luyện họ, đƣa họ vào các<br />
cuộc đấu tranh…,vì thế, hình thức đấu tranh<br />
chính trị luôn xuyên suốt và đi trƣớc trong tất<br />
cả các thời kỳ cách mạng. Song, nếu chỉ có<br />
đấu tranh chính trị, không có đấu tranh vũ<br />
trang thì cách mạng khó có thể thành công<br />
đƣợc, nhất là dƣới ách cai trị, đô hộ của bọn<br />
thực dân, phong kiến, phát xít tàn bạo nhƣ ở<br />
Việt Nam. Đấu tranh vũ trang là để hỗ trợ cho<br />
đấu tranh chính trị, thực hiện những nhiệm vụ<br />
chính trị. Hai hình thức này có mối liên hệ<br />
chặt chẽ, biện chứng, tạo ra sức mạnh to lớn,<br />
có đủ khả năng đƣa cách mạng thành công.<br />
Tuy nhiên, cũng tùy từng nơi, từng điều kiện<br />
mà có khi ta lấy đấu tranh chính trị làm trọng,<br />
có khi ta lại coi đấu tranh vũ trang là chính;<br />
đấu tranh chính trị có thể đi trƣớc, quyết định,<br />
đấu tranh vũ trang đi sau ủng hộ, hỗ trợ và<br />
ngƣợc lại.<br />
Khởi nghĩa Bắc Sơn và tám tháng đấu tranh<br />
du kích đã để lại những bài học kinh nghiệm<br />
sâu sắc về việc vận dụng, kết hợp hai hình<br />
thức đấu tranh này. Khởi nghĩa Bắc Sơn lúc<br />
đầu nặng về đấu tranh chính trị, sau mới đấu<br />
tranh vũ trang giành chính quyền. Song, sau<br />
khi chính quyền địch tan rã ở địa phƣơng thì<br />
quân cách mạng lại không đƣa cách mạng tiến<br />
lên, tỏ thái độ cầm chừng, không kiên quyết<br />
đấu tranh vũ trang, giành quyền làm chủ, gây<br />
dựng phong trào cách mạng trên địa bàn rộng,<br />
tự bó hẹp khả năng đấu tranh của mình, vô<br />
tình tạo cơ hội để địch đàn áp và cuộc khởi<br />
nghĩa đã đi đến thất bại. Tám tháng đấu tranh<br />
du kích chống địch khủng bố đánh dấu bƣớc<br />
nhận thức mới trong hình thức đấu tranh của<br />
quần chúng nhân dân địa phƣơng. Với chiến<br />
thuật du kích - lấy chính trị làm trọng tâm<br />
công tác để gây dựng phong trào quần chúng,<br />
nhƣng vũ trang lại đóng vai trò quyết định để<br />
bảo vệ quần chúng, bảo vệ cơ sở cách mạng,<br />
chống địch khủng bố - quân du kích Bắc Sơn<br />
– Võ Nhai đã vận dụng rất khéo hai hình thức<br />
đấu tranh này: Thời kỳ đầu của tám tháng đấu<br />
tranh du kích thì ta đã lấy đấu tranh chính trị<br />
là chính (khi cần mới đấu tranh vũ trang)<br />
nhằm gây dựng cơ sở cách mạng, tổ chức,<br />
củng cố, phát triển lực lƣợng du kích quân về<br />
<br />
79(03): 29 - 34<br />
<br />
mọi mặt (tập huấn, huấn luyện quân sự chính<br />
trị); sang thời kỳ tiếp theo (từ tháng 9/1941<br />
đến cuối năm 1941), trƣớc sự khủng bố ác liệt<br />
của kẻ thù, ta lại chủ trƣơng đấu tranh vũ<br />
trang bằng chiến thuật du kích để bảo vệ cơ<br />
sở cách mạng, bảo vệ tài sản, tính mạng của<br />
đồng bào…, vừa tiếp tục thực hiện đấu tranh<br />
chính trị để hỗ trợ cho đấu tranh vũ trang<br />
chống khủng bố bởi: “Muốn chống được<br />
khủng bố phải có lực lượng võ trang của<br />
mình chống lại kẻ địch” (3). Kết hợp nhuần<br />
nhuyễn hai hình thức này, Cứu quốc quân đã<br />
làm cho bộ máy chính quyền tay sai địch ở<br />
địa phƣơng rệu rã, sụp đổ từng bộ phận, vì thế<br />
sinh lực địch bị tiêu hao không nhỏ. Sang thời<br />
kỳ cuối (cuối năm 1941 đến đầu năm 1942),<br />
địch chủ trƣơng khủng bố mạnh hơn, chúng<br />
thi hành nhiều thủ đoạn tàn bạo, tinh vi, khiến<br />
quân cách mạng lâm vào thế nguy hiểm.<br />
Trƣớc tình thế đó, ta đã quyết định tạm thời<br />
chấm dứt các hoạt động vũ trang (nếu có cũng<br />
chỉ là cầm chừng, trong những tình thế bắt<br />
buộc), phân tán lực lƣợng vào trong dân<br />
chúng, lãnh đạo dân chúng đấu tranh chính<br />
trị, nhằm bảo toàn lực lƣợng, tránh những tổn<br />
thất cho cách mạng.<br />
Kế thừa những kinh nghiệm trên, trong những<br />
năm 1944 – 1945, khi lực lƣợng cách mạng<br />
đã lớn mạnh (đặc biệt từ sau sự kiện Đội Việt<br />
Nam tuyên truyền giải phóng quân thành lập<br />
22/12/1944), việc kết hợp đấu tranh chính trị<br />
với đấu tranh vũ trang càng nhuần nhuyễn,<br />
chặt chẽ hơn, “ta đã giành được từ thắng lợi<br />
này đến thắng lợi khác, thực hiện khởi nghĩa<br />
từng phần, tiến tới lập khu giải phóng rộng<br />
lớn” (4). Trong khởi nghĩa tháng Tám năm<br />
1945, có những nơi ta giành đƣợc chính<br />
quyền qua đấu tranh chính trị, song cũng có<br />
nơi ta phải sử dụng vũ trang để thực hiện mục<br />
tiêu cách mạng (vì kẻ thù ngoan cố không đầu<br />
hàng). Xét cho cùng thì muốn giành đƣợc<br />
thắng lợi cuối cùng thì cần phải có bạo lực<br />
chính trị, phải có đấu tranh vũ trang. Trong<br />
quá trình đấu tranh cách mạng: “Đảng ta đã<br />
khéo léo kết hợp hình thức đấu tranh chính trị<br />
với hình thức võ trang. Một xứ thuộc địa và<br />
bán phong kiến, kẻ thù vô cùng ác liệt, Đảng<br />
đã giáo dục, tổ chức một đội quân chính trị<br />
tiến lên có võ trang, chống kẻ thù có vũ khí<br />
<br />
32<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn30<br />
<br />
Ngô Ngọc Linh<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
mạnh gấp mấy mình, giành được thắng lợi.<br />
Đảng đã biết phát động cuộc chiến tranh du<br />
kích dựa vào nhân dân, lợi dụng địa hình<br />
thuận lợi, đã biết dùng thuật lấy súng địch<br />
bắn địch, làm tan rã hàng ngũ địch để giành<br />
lấy thắng lợi” (5). Đây chính là những kinh<br />
nghiệm trong đấu tranh cách mạng đã đƣợc<br />
Đảng ta rút ra và vận dụng - trong đó có sự<br />
kiện tám tháng đấu tranh du kích của nhân<br />
dân Bắc Sơn – Võ Nhai.<br />
5. Trong cuộc đấu tranh chống địch khủng bố<br />
trên căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai, Cứu quốc<br />
quân và những lực lƣợng khác của quần<br />
chúng cách mạng trực tiếp tham gia chiến<br />
đấu, đã thực hiện, hoàn thành xuất sắc chủ<br />
trƣơng, đƣờng lối chỉ đạo của Đảng và Hồ<br />
Chí Minh. Chính cuộc đấu tranh ấy đã góp<br />
phần đƣa chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng và<br />
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh đi vào thực tiễn; kiểm<br />
nghiệm, rút ra nhiều bài học cho giai đoạn<br />
cách mạng sau.<br />
Trƣớc hết ta phải khẳng định, chính những<br />
chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng là ngọn đuốc<br />
soi sáng cho phong trào cách mạng Việt Nam.<br />
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Ban chấp<br />
hành Trung ƣơng Đảng tháng 11/1939 là một<br />
ví dụ, văn kiện này đánh dấu bƣớc chuyển<br />
hƣớng về đƣờng lối và phƣơng pháp cách<br />
mạng của Đảng. Sự ra đời của Nghị quyết,<br />
đặc biệt là những chủ trƣơng về phƣơng pháp<br />
cách mạng là cơ sở, là lý luận soi đƣờng cho<br />
việc bùng nổ nhiều cuộc khởi nghĩa vũ trang<br />
chống Pháp, trong đó có Khởi nghĩa Bắc Sơn<br />
(27/9/1940).<br />
Tiếp đó, Trung ƣơng Đảng đã có ngay những<br />
chủ trƣơng chỉ đạo cụ thể cho phong trào cách<br />
mạng ở Bắc Sơn – Võ Nhai bằng những<br />
Quyết nghị tại Hội nghị Trung ƣơng 7<br />
(11/1940), đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị<br />
Trung ƣơng 8 (5/1941). Đây là những văn<br />
kiện có ý nghĩa định hƣớng, chỉ đạo trực tiếp<br />
cho phong trào đấu tranh của quân và dân Bắc<br />
Sơn – Võ Nhai, nhất là đối với những hoạt<br />
động của Cứu quốc quân. Ban chấp hành<br />
Trung ƣơng Đảng còn có nhiều sự quan tâm,<br />
chỉ đạo trực tiếp bằng nhiều biện pháp nhƣ:<br />
Phát động phong trào ủng hộ Bắc Sơn – Võ<br />
Nhai trên toàn quốc; cử cán bộ nối liên lạc<br />
với phong trào cách mạng Bắc Sơn – Võ<br />
Nhai; bổ sung cán bộ lên khu căn cứ địa tham<br />
<br />
79(03): 29 - 34<br />
<br />
gia lãnh đạo phong trào; mở nhiều lớp tập<br />
huấn chính trị, quân sự do Ban Thƣờng vụ<br />
Trung ƣơng trực tiếp phụ trách…Mặt khác có<br />
thể thấy, cùng với truyền thống đánh du kích<br />
trong lịch sử dân tộc, những quan điểm quân<br />
sự của Nguyễn Ái Quốc về chiến tranh, chiến<br />
thuật du kích đã dần hình thành (đƣợc thể hiện<br />
trong một số tác phẩm về cách đánh du kích<br />
của Ngƣời viết đầu năm 1941) và đƣợc quân<br />
du kích lĩnh hội, áp dụng triệt để trong cuộc<br />
đấu tranh chống địch khủng bố, góp phần tạo<br />
nên những thắng lợi lớn của quân du kích.<br />
Nhƣ vậy, có thể thấy: Thắng lợi của tám<br />
tháng chiến tranh du kích chống địch khủng<br />
bố trên căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai (19411942) đã ảnh hƣởng sâu rộng, mạnh mẽ đến<br />
phong trào cách mạng Việt Nam. Đó là nguồn<br />
cổ vũ, động viên rất kịp thời cho quần chúng<br />
nhân dân trong “đêm trước” của một cao trào<br />
khởi nghĩa chắc chắn sẽ xảy ra. Mặt khác, căn<br />
cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai hình thành, phát<br />
triển qua tranh đấu cũng là yếu tố quan trọng<br />
đƣa đến sự ra đời của Khu giải phóng trong<br />
cao trào kháng Nhật cứu nước (1945).<br />
Diễn ra trong thời gian ngắn nhƣng cuộc đấu<br />
tranh trên đã để lại cho cách mạng Việt Nam<br />
nhiều bài học kinh nghiệm vô cùng quí giá về<br />
cả lý luận và thực tiễn. Đây là “vốn quí” đầu<br />
tiên của Đảng ta về đƣờng lối chỉ đạo cũng<br />
nhƣ công tác tổ chức, xây dựng lực lƣợng; về<br />
các vấn đề về kỹ thuật, chiến thuật… trong đấu<br />
tranh du kích; là cơ sở cho việc hình thành<br />
đƣờng lối, tƣ tƣởng chỉ đạo của Đảng về vấn<br />
đề chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân<br />
trong các thời kỳ cách mạng về sau này.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1]. Tổng kết căn cứ địa – chiến khu Việt Bắc - căn<br />
cứ địa chủ yếu của mọi thời kỳ đấu tranh vũ trang<br />
cách mạng của nhân dân ta (1966), Lƣu trữ Tỉnh<br />
ủy tỉnh Thái Nguyên, tr.12.<br />
[2]. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Nguyên (1999),<br />
Thái Nguyên - Lịch sử đấu tranh vũ trang cách<br />
mạng và Kháng chiến chống Pháp (1941 -1954),<br />
Nhà máy in Quân đội, tr.75.<br />
[3]. Chu Văn Tấn (1959), Đảng Cộng sản Đông<br />
Dương – Người lãnh đạo cuộc Bắc Sơn khởi<br />
nghĩa, Lƣu trữ Tỉnh ủy tỉnh Thái Nguyên, cặp 12,<br />
số 26, tr.13.<br />
[4]. Thư của Ban Trung ương Đảng Cộng sản<br />
Đông Dương gửi các chiến sĩ Bắc Sơn,<br />
17/12/1941, Kho lƣu trữ Trung ƣơng Đảng, tr.2.<br />
<br />
33<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn31<br />
<br />