intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Chương 1: Tổng quan về các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của Ngân hàng

Chia sẻ: Nguyễn Ngọc Hàn Hàn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:63

198
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài giảng Chương 1: Tổng quan về các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của Ngân hàng tập trung trình bày các vấn đề về tỷ suất sinh lợi của Ngân hàng; các chỉ tiêu đo lường tỷ suất sinh lợi của Ngân hàng; các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi;... Mời các bạn cùng tìm hiểu và tham khảo nội dung thông tin tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Chương 1: Tổng quan về các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của Ngân hàng

  1. 1 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN TỶ SUẤT SINH LỢI CỦA NGÂN HÀNG 1.1 Tỷ suất sinh lợi của Ngân hàng. Có nhiều định nghĩa và khái niệm về tỷ suất sinh lợi, tỷ suất sinh lợi là khái niệm được sử dụng cho nhiều tình hình khác nhau trong kinh tế học, nói về những khoản tiền thu được so với vốn được sử dụng để sinh ra lãi hay số chi phí đã tiêu hao để sinh ra lãi. Tỷ suất sinh lợi được biểu hiện bằng: Tỷ suất sinh lợi của vốn, tỷ suất sinh lợi của giá thành…; Khả năng sinh lợi là thước đo hiệu quả bằng tiền, khả năng sinh lợi là kết quả của việc sử dụng tập hợp các tài sản vật chất và tài sản tài chính, tức là vốn kinh tế mà doanh nghiệp nắm giữ để tạo ra các khoản lợi nhuận cho doanh nghiệp; “Tỷ số sinh lợi là chỉ số đo lường thu nhập của công ty với các nhân tố khác tạo ra lợi nhuận như doanh thu, tổng tài sản, vốn cổ phần” (Trần Trọng Thơ, 2007, 128). Từ những nội dung trên tác giả đúc kết tỷ suất sinh lợi của ngân hàng là: khoản lãi thu được so với vốn được sử dụng để sinh ra khoản lãi đó hay chi phí đã tiêu hao để sinh ra khoản lãi đó. Tỷ suất sinh lợi của ngân hàng được biểu hiện bằng: tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản, tỷ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữu, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên… 1.2 Các chỉ tiêu đo lƣờng tỷ suất sinh lợi của Ngân hàng Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản ROA ROA = Lợi nhuận ròng /Tổng tài sản bình quân ROA đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng tài sản của ngân hàng. ROA là một thông số chủ yếu về tính hiệu quả quản lý, nó chỉ ra khả năng của hội đồng quản trị ngân hàng trong quá trình chuyển tài sản của ngân hàng thành thu nhập ròng. Tài sản của một công ty được hình thành từ vốn vay và vốn chủ sở hữu. Cả hai nguồn vốn này được sử dụng để tài trợ cho các hoạt động của ngân hàng. Hiệu
  2. 2 quả của việc chuyển vốn đầu tư thành lợi nhuận được thể hiện qua ROA, ROA càng cao thì càng tốt vì ngân hàng đang kiếm được nhiều tiền hơn trên lượng đầu tư ít hơn. Tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu ROE ROE = Lợi nhuận ròng /Vốn cổ chủ sở hữu bình quân ROE đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng vốn của cổ đông ngân hàng, nó thể hiện thu nhập mà các cổ đông nhận được từ việc đầu tư vào ngân hàng. Tỷ lệ ROE càng cao càng chứng tỏ công ty sử dụng hiệu quả đồng vốn của cổ đông, có nghĩa là công ty đã cân đối một cách hài hòa giữa vốn cổ đông với vốn đi vay để khai thác lợi thế cạnh tranh của mình trong quá trình huy động vốn, mở rộng quy mô. Cho nên hệ số ROE càng cao thì các cổ phiếu càng hấp dẫn các nhà đầu tư hơn. Các ngân hàng có xu hướng sử dụng đòn bẩy cao, do đó họ thường đạt ROE cao nhưng ROA thấp. ROE cũng có thể tính bằng cách nhân ROA với tỷ số tổng tài sản trên vốn chủ sở hữu. Cả hai tỷ số ROA và ROE đều là tiêu chí quan trọng đối với cơ quan quản lý, các ngân hàng và các nhà đầu tư trong việc đưa ra các quyết định chiến lược trong quản lý và đầu tư phù hợp. Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên NIM NIM = Thu nhập lãi thuần /Tài sản sinh lãi Tài sản sinh lãi = Tiền gửi tại NHNN + Tiền gửi lại các TCTC khác + Chứng khoán đầu tư + Cho vay khách hàng Tỷ lệ lãi cận biên (Net Interest Margin - NIM) được xác định bằng tổng doanh thu từ lãi trừ tổng chi phí trả lãi (thu nhập lãi thuần) trên tổng tài sản có sinh lời bình quân. Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi phí trả lãi mà ngân hàng có thể đạt được thông qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và theo đuổi các nguồn vốn có chi phí thấp nhất. Tỷ lệ này chỉ ra
  3. 3 năng lực của hội đồng quản trị và nhân viên ngân hàng trong việc duy trì sự tăng trưởng của các nguồn thu so với mức tăng chi phí. Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên NNIM NNIM = (Thu nhập ngoài lãi – Chi phí ngoài lãi) /Tài sản sinh lãi Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa nguồn thu ngoài lãi, chủ yếu là nguồn thu phí từ các dịch vụ với các chi phí ngoài lãi mà ngân hàng phải chịu (gồm tiền lương, chi phí sửa chữa, bảo hành thiết bị, và chi phí tổn thất tín dụng). Giống như tất cả các chỉ số tài chính khác, mỗi tỷ lệ đo lường khả năng sinh lợi được sử dụng trong từng trường hợp khác nhau. Để xác định các yếu tố tác động đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng đa số các tác giả nước ngoài cũng như trong nước thường đo lường bằng hai chỉ tiêu là lợi nhuận ròng trên tổng tài sản bình quân (ROA) và lợi nhuận ròng trên tổng vốn chủ sở hữu bình quân (ROE) vì ưu điểm của chỉ số ROA và ROE là tương đối đơn giản, dễ tính toán và mang tính tổng quát cao so với các chỉ số khác. Trong bài luận văn này tác giả sẽ lấy hai chỉ số ROA và ROE để làm biến phụ thuộc đại diện cho tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết. 1.3 Các yếu tố ảnh hƣởng đến tỷ suất sinh lợi Tỷ suất sinh lợi của ngân hàng thường được đo bằng lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (ROA) và lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE), chúng bị tác động bởi các yếu tố bên trong và bên ngoài. Các yếu tố tác động bên trong bao gồm các biến đặc thù của từng ngân hàng như quy mô ngân hàng, vốn của ngân hàng, dư nợ cho vay, tiền gửi khách hàng, rủi ro tín dụng… Các biến bên ngoài bao gồm các biến vĩ mô của môi trường kinh tế sẽ tác động đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng như: tốc độ tăng trưởng GDP, lạm phát, lãi suất, thuế, tỷ giá… 1.3.1 Các yếu tố bên trong
  4. 4 1.3.1.1 Quy mô ngân hàng Quy mô ngân hàng được thể hiện thông qua tổng tài sản hoặc tổng nguồn vốn của ngân hàng. Quy mô ngân hàng là một yếu tố nội tại quyết định tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Bởi vì trên thực tế các ngân hàng luôn cố gắng mở rộng kinh doanh của mình bằng cách tăng tổng tài sản và nguồn vốn. Các ngân hàng lớn có thể đạt được lợi thế quy mô từ đó làm gia tăng lợi nhuận, với lợi thế về quy mô, nổi tiếng nên các ngân hàng quy mô lớn dễ tiếp cận và huy động vốn, dễ phát hành các chứng khoán hơn. Mối quan hệ cùng chiều giữa quy mô ngân hàng và tỷ suất sinh lợi của ngân hàng là kết quả nghiên cứu thực nghiệm của Anper và Anbar (2011). Mặt khác, tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng lại có quan hệ ngược chiều với khả năng đa dạng hóa. Các ngân hàng tận dụng lợi thế của đa dạng hóa nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng, nhưng nó cũng có thể làm giảm tỷ suất lợi nhuận, quy mô lớn cũng kéo theo chi phí vận hành và các chi phí khác cao hơn. Theo Eichengreen và Gibson (2001) đề xuất rằng sự gia tăng quy mô vốn chỉ tác động cùng chiều lên lợi nhuận đến một mức độ nhất định nào đó. 1.3.1.2 Quy mô vốn chủ sở hữu Theo Short (1979) thì tỷ lệ vốn chủ sở hữu hay tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản của một ngân hàng gắn liền với quy mô của nó bởi vì các ngân hàng lớn có xu hướng tạo ra tỷ suất sinh lợi cao hơn so với ngân hàng nhỏ dựa vào khả năng huy động vốn ít tốn kém hơn. Thực tế cho thấy các ngân hàng có tỷ lệ vốn chủ sở hữu cao, quản trị vốn tốt, duy trì sự thận trọng trong danh mục cho vay có thể cải thiện tỷ suất sinh lợi. Tỷ số này quá cao cũng cho thấy ngân hàng chưa sử dụng tốt đòn bẩy tài chính. Bài nghiên cứu của Sharma và Gounder (2012) cho rằng mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và tỷ suất sinh lợi là không thể dự đoán được. 1.3.1.3 Tiền gửi khách hàng
  5. 5 Đặc thù của các ngân hàng là sử dụng đòn bẩy tài chính cao, và chức năng chính của ngân hàng là trung gian tài chính đóng vai trò luân chuyển nguồn vốn từ nơi dư thừa vốn đến nơi thiếu nguồn vốn, vì thế nguồn vốn huy động đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Ponce (2012) cho rằng sự gia tăng tiền gửi của khách hàng sẽ giúp cho ngân hàng chủ động trong việc tìm kiếm nguồn vốn đầu vào cho ngân hàng từ đó có thể gia tăng dư nợ và đầu tư vào các kênh khác nhau làm gia tăng tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. 1.3.1.4 Dƣ nợ tín dụng Dư nợ tín dụng cao rõ ràng lợi nhuận thu về từ việc cho vay sẽ cao hơn nếu kiểm soát rủi ro tín dụng tốt. Sufian và Habibullah (2009) đã nghiên cứu thực nghiệm tại các ngân hàng của Bangladesh và đã cho thấy rằng mối quan hệ cùng chiều giữa việc gia tăng dư nợ tín dụng và tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng tại Bangladesh. Nghiên cứu còn cho thấy việc gia tăng dư nợ còn có các tác động tích cực khác là chiếm lĩnh thị phần, gia tăng sự nhận biết của khách hàng về ngân hàng. Tuy nhiên, trước sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng thì việc gia tăng thị phần phải đi đôi với việc quản lý rủi ro tín dụng hiệu quả. 1.3.1.5 Rủi ro tín dụng Hầu hết các nghiên cứu trước đây đều cho rằng rủi ro tín dụng là một trong những biến số quan trọng trong việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Điển hình là nghiên cứu của Athanasoglou và các cộng sự (2005) đã cho thấy rằng sự thay đổi của biến rủi ro tín dụng là lý do chính trong việc giải thích các biến động trong tỷ suất sinh lợi của ngân hàng, tỷ suất sinh lợi của ngân hàng sẽ giảm khi rủi ro tín dụng tăng lên. Davydenko (2011) cũng cho thấy tỷ suất sinh lợi của ngân hàng có mối quan hệ nghịch biến với rủi ro tín dụng. Mối quan hệ nghịch biến phản ánh điều đó khi danh mục cho vay của các ngân hàng trở nên rủi ro, các ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro nhiều hơn làm cho lợi
  6. 6 nhuận giảm ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Các ngân hàng có các khoản vay có rủi ro tín dụng thấp thì tỷ suất sinh lợi sẽ cao hơn. 1.3.2 Các yêu tố bên ngoài 1.3.2.1 Tỷ lệ tăng trƣởng GDP hàng năm Có khá nhiều nghiên cứu kiểm định mức độ ảnh hưởng của tốc độ tăng trưởng GDP lên tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm cao sẽ có tác động tích cực đến hoạt động của ngành ngân hàng. Nghiên cứu của Athanasoglou và các cộng sự (2005) cho thấy chu kỳ kinh tế có tác động cùng chiều đến tỷ suất sinh lợi của ngành ngân hàng tại Hy Lạp tức là nếu tốc độ tăng trưởng GDP dương qua các năm thì sẽ tác động tích cực đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng, khi tốc độ tăng trưởng GDP giảm xuống và thậm chí là âm thì chất lượng các khoản tín dụng của ngân hàng sẽ giảm, do đó làm giảm tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. 1.3.2.2 Tỷ lệ lạm phát Tác động của các yếu tố môi trường kinh tế vi mô lên tỷ suất sinh lợi của ngân hàng đã được nghiên cứu khá rộng rãi và trong đó tỷ lệ lạm phát là yếu tố tiêu biểu. Nghiên cứu của Perry (1992) cho rằng tác động của lạm phát lên tỷ suất sinh lợi của ngân hàng thông qua mối liên hệ giữa tốc độ tăng của tiền lương và các chi phí hoạt động với tỷ lệ lạm phát. Khả năng quản lý hiệu quả chi phí hoạt động của các ngân hàng phụ thuộc vào khả năng dự báo lạm phát trong tương lai, mà mức độ dự báo này phụ thuộc rất nhiều vào sự hoàn thiện của môi trường kinh tế vĩ mô. Trong trường hợp các nhà quản lý có thể dự báo một mức lạm phát kì vọng tương đối chính xác, ngân hàng cần điều chỉnh mức lãi suất một các hợp lý để tăng doanh thu nhanh hơn chi phí. 1.3.2.3 Lãi suất cho vay
  7. 7 Lãi suất cho vay là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu của ngân hàng. Một mức lãi suất cho vay phù hợp sẽ vừa kích thích nhu cầu vay của khách hàng vừa mang lại lợi nhuận hợp lý cho ngân hàng. Nếu lãi suất cho vay quá cao sẽ gây bất lợi cho khách hàng và cả nền kinh vì thế lãi suất cho vay cũng là một trong những biến có tác động đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Theo nghiên cứu của Obamuyi (2013) thì lãi suất cho vay tác động tích cực đến lợi nhuận và tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng tại Nigeria. 1.3.3 Các yếu tố khác 1.3.3.1 Hình thức sở hữu ngân hàng Hình thức sở hữu ngân hàng là chủ thể nắm quyền sở hữu và điều hành của ngân hàng quốc doanh và ngân hàng tư nhân. Nghiên cứu của Short (1979) cho thấy một mối quan hệ nghịch chiều giữa tỷ suất sinh lợi của ngân hàng và quyền sở hữu của Nhà nước đối với các ngân hàng. Bourke (1989) đã thử nghiệm tác động của yếu tố sở hữu Nhà nước lên tỷ suất sinh lợi của ngân hàng bằng cách sử dụng một biến nhị phân đại diện cho quyền sở hữu của Nhà nước, kết quả cho thấy mối quan hệ ngược chiều với nhau. Kết quả cũng cho thấy rằng chi phí quản lý nhân viên trong nhóm các ngân hàng quốc doanh là không hiệu quả và năng suất lao động của các ngân hàng tư nhân là cao hơn so với các ngân hàng thuộc sở hữu của Nhà nước. 1.3.3.2 Mức độ tập trung của thị trƣờng ngành ngân hàng Theo giả thiết cấu trúc – vận hành - hiệu quả (Structure- Conduct- Performance) thì các ngân hàng có thể tận dụng sức mạnh thị trường của mình để kiếm được nhiều lợi nhuận hơn. Vì có lợi thế về sức mạnh trong thị trường nên các ngân hàng này có thể tăng lãi suất cho vay giảm lãi suất huy động từ đó làm tăng lợi nhuận lên. Nghiên cứu của Bourke (1989) cho rằng mức độ tập trung trong lĩnh vực ngân hàng có quan hệ cùng chiều với tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Các ngân hàng có thể liên kết với nhau tạo ra lợi ích nhóm, lợi ích nhóm có thể gây hại cho khách hàng và các đối thủ cạnh tranh khác khó có thể tham gia vào thị trường hơn.
  8. 8 1.4 Sự cần thiết nghiên cứu tác động của các yếu tố đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng Việc nghiên cứu tác động của các yếu tố lên tỷ suất sinh lợi của ngân hàng là cần thiết để có thể nâng cao tỷ suất sinh lợi của ngân hàng, thông qua việc nghiên cứu chúng ta có thể thấy được đâu là nhân tố tác động tích cực, đâu là nhân tố tác động tiêu cực đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Từ đó có thể giúp cho các nhà quản trị đưa ra các chính sách phù hợp giúp ngân hàng phát huy tốt các nhân tố tác động tích cực hay khắc phục, loại bỏ các nhân tố tiêu cực tác động đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Đối với các nhà đầu tư việc nghiên cứu góp phần cung cấp sự hiểu biết sâu hơn về các nhân tố tác động đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng và là căn cứ để ra quyết định đầu tư đúng đắn. Đối với các nhà hoạch định chính sách việc biết được các nhân tố tác động sẽ giúp cho việc ban hành các quy định và chính sách phù hợp hơn phục vụ cho việc điều hành chính sách tiền tệ của đất nước chúng ta. 1.5 Các nghiên cứu trƣớc đây về tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng 1.5.1 Các nghiên cứu nƣớc ngoài Nối tiếp theo bài nghiên cứu đầu tiên của Short (1979), một số nghiên cứu gần đây cố gắng xác định một số yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi thông qua lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (ROA) và lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE). Các nghiên cứu thực nghiệm tập trung phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng của từng quốc gia như Athanasoglou và các cộng sự (2005), Rajesh và Sakshi (2009), Andreas và Gabrielle (2010), Ramlall (2009), Sufian (2010), Davydenko (2011), Sufian (2011), Riaz (2011), Alper và Anbar (2011), Ponce (2012)... Các kết quả thực nghiệm của các nghiên cứu trên khác nhau về bộ dữ liệu, khoảng thời gian, môi trường kinh tế và các chỉ số vĩ mô ở các quốc gia này đều khác nhau tuy nhiên chúng ta có thể rút ra một số yếu tố chung chấp nhận được tác động đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng.
  9. 9 Tỷ suất sinh lợi của ngân hàng thường được đo bằng lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (ROA) và lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE) và chúng bị tác động bởi các yếu tố bên trong và bên ngoài. Các yếu tố tác động bên trong bao gồm các biến đặc thù của từng ngân hàng như quy mô ngân hàng, vốn của ngân hàng, dư nợ cho vay, tiền gửi khách hàng, rủi ro tín dụng, chi phí… Các biến bên ngoài bao gồm các biến vĩ mô của môi trường kinh tế sẽ tác động đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng như: tốc độ tăng trưởng GDP, lạm phát, lãi suất, thuế, tỷ giá… Athanasoglou và các cộng sự (2005) nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng ở Hi Lạp trong khoảng thời gian từ 1985 đến 2001, sử dụng phương pháp ước lượng GMM (Generalized Method of Moments). Kết quả cho thấy rằng quy mô vốn ngân hàng, kinh nghiệm quản lý điều hành, lạm phát, chu kỳ kinh tế (business cycle) có tác động tích cực đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng, trong khi đó rủi ro tín dụng và chi phí quản lý lại có tác động tiêu cực đối với tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng tại Hi Lạp. Rajesh và Sakshi (2009) đã nghiên cứu các yếu tố tác động đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng thuộc sở hữu của nhà nước, tư nhân và nước ngoài tại Ấn Độ trong giai đoạn 2001 đến 2007. Sau khi phân tính hồi quy tác giả đưa ra kết luận là thu nhập bình quân đầu người, chỉ số sản xuất công nghiệp, chỉ số giá bán buôn, xuất khẩu và tỷ giá hối đoái có tác động tích cực đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng tại Ấn Độ. Trong khi đó tiền gửi, quy mô ngân hàng không tác động đến tỷ suất sinh lợi các ngân hàng thuộc sở hữu của nhà nước và có tác động tích cực đến các ngân hàng tư nhân và các ngân hàng nước ngoài tại Ấn Độ. Andreas và Gabrielle (2010) nghiên cứu các yếu tố tác động đến tỷ suất sinh lợi của 453 ngân hàng tại Thụy Sĩ trong khoảng thời gian năm 1999 đến 2006. Nghiên cứu cho thấy rằng ngân hàng có vốn lớn hơn và tỷ lệ tăng trưởng dư nợ tín dụng nhanh hơn tỷ lệ tăng trưởng tín dụng chung của ngành sẽ có ảnh hưởng tích cực đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Độ tuổi (bank age) của ngân hàng thì không có ảnh hưởng gì đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng tuy nhiên yếu tố vùng miền
  10. 10 (region) và quyền sở hữu ngân hàng (bank ownership) lại có ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Các ngân hàng ở Geneva có tỷ suất sinh lợi cao hơn các ngân hàng ở Zurich. Các ngân hàng của Thụy Sĩ và các ngân hàng tư nhân có tỷ suất sinh lợi cao hơn so với các ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng do nhà nước sở hữu. Nghiên cứu còn cho thấy tỷ lệ tăng trưởng GPD có tác động rất tích cực tới tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng trong khi đó thuế thu nhập doanh nghiệp và mức độ tập trung của thị trường ngân hàng (bank concentration) có tác động tiêu cực đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng tại Thụy Sĩ. (Mức độ tập trung của thị trường được đo lường bằng tổng tài sản của 3 ngân hàng lớn nhất/ tổng tài sản toàn ngành ngân hàng) Ramlall (2009) đã phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng Đài Loan dựa trên các biến độc lập là các yếu tố nội tại của ngân hàng và các yếu tố vĩ mô, dữ liệu được thu thập theo quý trong khoảng thời gian 2002 đến 2007. Kết quả cho thấy rằng vốn của ngân hàng ảnh hưởng tích cực đến tỷ suất sinh lợi. Tuy nhiên rủi ro tín dụng có tác động tiêu cực đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng, nghiên cứu cho thấy 1% tăng lên của rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến giảm 94% tỷ suất sinh lợi. Điều này có thể thấy được khi gia tăng về rủi ro tín dụng thì nó sẽ làm giảm lợi nhuận từ đó làm giảm tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Một giải pháp được thực hiện bởi ngân hàng Trung ương của Đài Loan là thiết lập chính sách phù hợp để kiểm soát rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng của Đài Loan. Sufian (2010) tìm thấy các yếu tố bên trong và bên ngoài ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi (ROA và ROE) tại các ngân hàng của Thái Lan trong giai đoạn 1999 đến 2005. Sau khi phân tích hồi quy tác giả kết luận rằng: quy mô ngân hàng, vốn chủ sở hữu của ngân hàng có quan hệ tương quan thuận với tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Trong khi đó thu nhập ngoài lãi (non interest income) và chi phí chung (overhead cost) có quan hệ tương quan nghịch với tỷ suất sinh lợi của ngân hàng, riêng yếu tố tỷ lệ nợ xấu có quan hệ tương quan nghịch với ROA và tương quan thuận với ROE. Có mối quan hệ cùng chiều giữa tỷ suất sinh lợi với tốc độ tăng
  11. 11 trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát tại các ngân hàng ở Thái Lan tuy nhiên tỷ suất sinh lợi lại có quan hệ ngược chiều với GDP trên đầu người. Davydenko (2011) nghiên cứu về tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng ở Ukraina. Davydenko sử dụng dữ liệu bảng trong khoảng thời gian từ 2005 đến 2009. Kết quả cho thấy, các ngân hàng bị một cú sốc lớn đánh vào chất lượng các khoản cho vay đã làm cho các ngân hàng ở Ukraina không có khả năng tái tạo lại lợi nhuận của họ dựa trên sự tăng trưởng lượng tiền gửi. Thế nên các biến rủi ro tín dụng, thanh khoản, tiền gửi, lạm phát và biến giả (dummy) ngân hàng nước ngoài tất cả đều có ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Không chỉ có các tác động tiêu cực, ông còn phát hiện ra những tác động tích cực đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng tại Ukraina đó là vốn, quy mô, tỷ giá và mức độ tập trung trung của thị trường ngân hàng. Sufian (2011) đã nghiên cứu thực nghiệm các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng Hàn Quốc trong suốt giai đoạn 1992 đến 2003 ông ấy đã tìm ra được các nhân tố ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng của Hàn Quốc. Tính thanh khoản và các yếu tố vĩ mô đặc biệt là lạm phát có tác động đáng kể tới tỷ suất sinh lợi của ngân hàng, rủi ro tín dụng và chi phí tác động tiêu cực đến tỷ suất sinh lợi. Ngoài ra quan sát của tác giả thấy rằng các yếu tố trên ảnh hưởng mạnh đến tỷ suất sinh lợi trước giai đoạn khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997. Alper và Anbar (2011) đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm về các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của 10 ngân hàng thương mại tại Thổ Nhĩ Kỳ trong giai đoạn từ năm 2002 đến 2010. Họ đã đi đến kết luận quy mô ngân hàng có ảnh hưởng tích cực đến tỷ suất sinh lợi, ngân hàng có quy mô càng lớn thì tỷ suất sinh lợi càng cao. Các biến còn lại như: thanh khoản, tiền gửi, tỷ lệ an toàn vốn và thu nhập lãi thuần không tác động đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Tuy nhiên, biến dư nợ tín dụng và các khoản vay dưới chuẩn tác động tiêu cực đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng tại Thổ Nhĩ Kỳ. Trong khi đó các biến vĩ mô là tỷ lệ tăng trưởng GDP và lạm phát ảnh hưởng tích cực nhưng rất ít đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng
  12. 12 tại Thổ Nhĩ Kỳ. Một nghiên cứu khác về hiệu quả hoạt động các ngân hàng của Thổ Nhĩ Kỳ đề xuất rằng ngân hàng nên có quy mô vừa phải sẽ có hiệu quả hoạt động cũng như tỷ suất sinh lợi tốt hơn so với ngân hàng có quy mô lớn tại Thổ Nhĩ Kỳ Aysan và Ceyhan (2007). Riaz (2011) nghiên cứu các yếu tố tác động đến tỷ suất sinh lợi của 32 ngân hàng tại Pakistan trong giai đoạn 2006 đến 2010. Bài nghiên cứu sử dụng các biến độc lập kích thước ngân hàng, rủi ro tín dụng, tiền gửi, dư nợ cho vay, hiệu quả quản lý, lãi suất chiết khấu, tỷ lệ tăng trưởng GDP hàng năm, chỉ số CPI. Kết quả hồi quy cho thấy rủi ro tín dụng, lãi suất chiết khấu có tác động ngược chiều; tổng tài sản, tiền gửi có tác động cùng chiều đến ROE. Đối với biến phụ thuộc ROA thì chỉ có rủi ro tín dụng và lãi suất chiết khấu có tác động ngược chiều đến ROA. Ponce (2012) nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng tại Tây Ban Nha giai đoạn từ 1999 đến 2009. Kết quả thu được bằng cách sử dụng phương pháp ước lượng GMM cho thấy tỷ suất sinh lợi của ngân hàng bị ảnh hưởng tích cực bởi dư nợ cho vay, tiền gửi khách hàng, hiệu quả hoạt động và ảnh hưởng tiêu cực bởi rủi ro tín dụng. Quy mô vốn ngân hàng chỉ ảnh hưởng tích cực đến tỷ suất sinh lợi khi sử dụng ROA là thước đo. Tác giả không tìm thấy bằng chứng về quy mô ngân hàng ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Trong khi đó các yếu tố vĩ mô tốc độ tăng trưởng GDP, tỷ lệ lạm phát, mức độ tập trung của thị trường ngoại trừ lãi suất đều tác động tích cực đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng tại Tây Ban Nha. 1.5.2 Các Nghiên Cứu Trong Nƣớc Bài nghiên cứu của Phan Thị Hằng Nga (2011) tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận của các ngân hàng niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Mình (HOSE) và Hà Nội (HNX) tại Việt Nam thông qua việc ước lượng mô hình hồi quy với biến phụ thuộc là tỷ suất lợi nhuận tính trên tài sản ROA và tỷ suất lợi nhuận tính trên vốn chủ sở hữu ROE với các biến độc lập
  13. 13 tiền gửi khách hàng, vốn cổ phần, dư nợ cho vay, dự phòng rủi ro tín dụng và cấp độ rủi ro là các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của các ngân hàng niêm yết trên cở sở hệ thống dữ liệu thứ cấp (báo cáo tài chính) thu thập từ 6 ngân hàng giai đoạn 2005 đến 2010 gồm có ngân hàng ACB, Eximbank, Sacombank, Vietcombank, Vietinbank, SHB. Kết quả ước lượng cho thấy tỷ suất lợi nhuận của các ngân hàng niêm yết chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố tiền gửi khách hàng, cấp độ rủi ro và dư nợ tín dụng. Biến độc lập tiền gửi khách hàng có mối tương quan thuận với ROA và ROE điều này khẳng định tiền huy động là một trong những yếu tố quyết định đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng cao hay thấp. Biến độc lập vốn cổ phần và dự phòng rủi ro tín dụng không ảnh hưởng đến ROA và ROE, điều này phù hợp với thực tế tại Việt Nam thì năm 2010 các ngân hàng tăng vốn rất nhanh nhưng lợi nhuận và tỷ suất sinh lợi thậm chí không cao hơn các năm trước. Biến độc lập dư nợ tín dụng có quan hệ tương quan nghịch với cả ROA và ROE, điều này cho thấy hoạt động cho vay của ngân hàng còn tồn tại nhiều yếu kém, tỷ lệ nợ xấu cao. Biến cấp độ rủi ro ngân hàng không có ý nghĩa thống kê đối với ROA nhưng có có ý nghĩa thống kê và tương quan thuận với ROE điều này cho thấy ngân hàng đã sử dụng đòn bẩy tài chính cao để tối đa hóa lợi nhuận cho cổ đông. Tóm tắt các yếu tố tác động theo các công trình nghiên cứu tại phụ lục 1.6 Mô hình nghiên cứu đề xuất Như các yếu tố đã được tác giả xác định, để đo lường mức độ ảnh hưởng của các yếu tố nội tại của các ngân hàng và yếu tố vĩ mô lên tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết tại Việt Nam, tác giả dự kiến sử dụng mô hình nghiên cứu sau: TSSLit = α + β1SIZEit + β2CAit + β3DEit + β4LOit + β5PLit + β6GDPit + β7INFit + β8LIit + ε it - TSSLit: là tỷ suất sinh lợi của ngân hàng i tại thời điểm t, được lượng hóa bởi hai tỷ số là ROA và ROE. - SIZEit: là quy mô của ngân hàng i tại thời điểm t.
  14. 14 - CAit: là quy mô vốn chủ sở hữu của ngân hàng i tại thời điểm t. - DEit: là chỉ số tiền gửi của khách hàng của ngân hàng i tại thời điểm t. - LOit: là chỉ số dư nợ tín dụng của ngân hàng i tại thời điểm t. - PLit: là chỉ số rủi ro tín dụng của ngân hàng i tại thời điểm t. - GDPit: là tốc độ tăng trưởng GDP tại thời điểm t - INFit: là tỷ lệ lạm phát tại thời điểm t - LIit: là lãi suất cho vay tại thời điểm t - α: là tung độ gốc - β: là hệ số tương quan - ε it: là sai số hồi quy Biến phụ thuộc là: Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản ROA và tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu ROE Biến độc lập là: Quy mô ngân hàng SIZE, quy mô vốn chủ sở hữu CA, tiền gửi khách hàng DE, dư nợ tín dụng LO, rủi ro tín dụng PL, tốc độ tăng trưởng GDP, tỷ lệ lạm phát INF và lãi suất cho vay LI. KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 Chương một đã tổng quan về tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết và cơ sở lý thuyết, kết quả thực nghiệm của các bài nghiên cứu trước đây về tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng. Về mặt lý thuyết các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng được chia thành hai nhóm các biến đại diện cho nội tại của ngân hàng (các yếu tố bên trong) và các biến đại diện cho yếu tố ngành và vĩ mô (yếu tố bên ngoài). Đa số các bài nghiên cứu đề cập đến các yếu tố tác động bên trong bao gồm các biến đặc thù của từng ngân hàng như quy mô ngân hàng, vốn của ngân hàng, dư nợ cho vay, tiền gửi khách hàng, rủi ro tín dụng, thu nhập từ lãi… Các
  15. 15 biến bên ngoài bao gồm các biến vĩ mô của môi trường kinh tế sẽ tác động đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng như: tốc độ tăng trưởng GDP, lạm phát, lãi suất, thuế, tỷ giá…
  16. 16 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ ĐO LƢỜNG YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN TỶ SUẤT SINH LỢI CỦA CÁC NGÂN HÀNG TMCP NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAM 2.1 Sơ lƣợc về các ngân hàng niêm yết Các ngân hàng niêm yết được phân tích trong luận văn trong giai đoạn từ năm 2007 - 2013 gồm có: Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam ( Vietcombank - VCB). Ngân hàng TMCP Công Thương (Vietinbank - CTG), ngân hàng TMCP Quân Đội (MBbank - MBB), ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank - EIB), ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank - STB), ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội (SHB). Ngoài ra các ngân hàng niêm yết còn có ngân hàng TMCP Quốc Dân (trước kia là ngân hàng TMCP Nam Việt - NVB) quy mô của ngân hàng này khá nhỏ so với các ngân hàng trên nên tác giả sẽ không đề cập đến ngân hàng này. Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIDV chuyển đổi từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 100% vốn Nhà nước thành ngân hàng TMCP vào ngày 23/4/2012 và đến ngày 24/1/2014 cổ phiếu ngân hàng này mới được niêm yết, bài luận văn của tác giả thực hiện trong giai đoạn từ năm 2007 – 2013 nên tác giả sẽ không đưa ngân hàng BIDV vào bài luận văn.
  17. 17 Bảng 2.1: Tóm tắt một số thông tin về các ngân hàng niêm yết Tổng Tài Vốn Điều Sàn Tên Ngân Ngày Niêm Sản Lệ Niêm Hàng Yết 31/12/2013 31/12/2013 Yết (tỷ VNĐ) (tỷ VNĐ) Vietcombank HOSE 30/06/2009 468,994 23,174 Vietinbank HOSE 16/07/2009 576,368 37,234 MBbank HOSE 1/11/2011 180,432 11,256 Eximbank HOSE 27/10/2009 169,913 12,355 Sacombank HOSE 12/7/2006 161,377 12,425 ACB HNX 16/07/2009 166,598 9,377 SHB HNX 20/04/2009 143,625 8,866 Nguồn: tổng hợp của tác giả 2.2 Tổng quan nền kinh tế và ngành ngân hàng giai đoạn năm 2007-2013 Hoạt động của các ngân hàng thương mại bị ảnh hưởng nhiều bởi môi trường vĩ mô và cách Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN) điều hành và quản lý các ngân hàng thương mại. Ở đây, tác giả điểm lại những điểm nổi bật của tăng trưởng GDP và tỷ lệ lạm phát từ năm 2007 đến năm 2013, tốc độ tăng trưởng tín dụng, nợ xấu ngành ngân hàng và một số thay đổi quan trọng trong quy định và cơ chế của NHNN trong quản lý chính sách tiền tệ. 2.2.1 Tốc Độ Tăng Trƣởng GDP Và Tỷ Lệ Lạm Phát
  18. 18 Biểu đồ 2.1: Tăng trƣởng GDP và của các khu vực kinh tế Nguồn: Tổng cục thống kê Với tốc độ tăng trưởng GDP khá cao 8,46% vào năm 2007 bước qua năm 2008, kinh tế thế giới trải qua cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ cuộc suy thoái năm 1929. Nền kinh tế Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, với tăng trưởng GDP chậm lại chỉ còn 6,31% năm 2008. Mặc dù giảm thêm xuống mức 5,32% vào năm 2009, nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế phục hồi tốt nhất trong khu vực. Nền kinh tế Việt Nam đã mạnh lên và tiếp tục tạo ấn tượng so với các nước châu Á trong năm 2010, với tỷ lệ tăng trưởng GDP đạt 6,78% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, nền kinh tế sau đó đã tăng trưởng chậm lại ở mức 5,89% năm 2011, 5,1% năm 2012 và 5,42% năm 2013. Đóng góp chính cho mức tăng của GDP vẫn đến từ khu vực dịch vụ trong khi khu vực công nghiệp và xây dựng ghi nhận mức tăng 5,43% thấp hơn mức 5,75% của năm 2012, còn lại là nông nghiệp. Dấu hiệu thoát đáy của nền kinh tế đã trở nên rõ ràng với sự phục hồi tốt của lĩnh vực sản xuất.
  19. 19 Biểu đồ 2.2: Tăng trƣởng GDP và Lạm phát Tăng trƣởng GDP và Lạm phát 25% 23,12% 18,58% 20% 15% GDP 8,30% 9,09% Lạm Phát 10% 8,86% 7,06% 6,04% 8,46% 5% 6,78% 6,31% 5,89% 5,42% 5,32% 5,10% 0% 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Nguồn: Tổng cục thống kê Tỷ lệ lạm phát tăng rất nhanh từ 8,3% vào năm 2007 lên 23,12% vào năm 2008 do cuộc khủng hoảng giá lương thực và giá dầu toàn cầu gây ra lạm phát cao ở Việt Nam. Trước tình hình lạm phát ở mức cao năm 2008, NHNN đã thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt trong sáu tháng đầu năm. Tuy nhiên, việc thắt chặt tiền tệ không thể kéo dài trước nguy cơ kinh tế suy thoái do chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính toàn cầu. Từ tháng 09/2008, NHNN đã thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt hơn bao gồm việc cắt giảm lãi suất huy động. Lãi suất cơ bản, lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn giảm xuống chỉ còn 8,5%, 7,5%, và 9,5% vào cuối năm 2008. Lãi suất cho vay cao nhất giảm xuống chỉ còn 12,75% và lãi suất huy động cũng hạ xuống quanh mức 8%/năm. Ngoài ra, chính phủ đã tung ra gói kích thích kinh tế trị giá 143 nghìn tỷ đồng, một phần trong gói kích thích này đã được sử dụng trong chương trình hỗ trợ lãi suất cho vay. Chương trình
  20. 20 hỗ trợ này đã tăng thêm động lực phát triển cho nền kinh tế và nhờ đó, trong năm 2010, tăng trưởng GDP đã cao hơn các năm trước. Chính sách tiền tệ nới lỏng cùng với tăng trưởng tín dụng và gia tăng cung tiền nhanh chóng là một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Chỉ số CPI đã tăng trở lại lần đầu tiên kể từ năm 2009 và đà tăng tiếp tục diễn ra trong năm 2010 và 2011. CPI trong hai năm 2010 và 2011 lần lượt đạt ngưỡng cao ở mức 8,86% và 18,68%. Thực tại đó, đã buộc Việt Nam đổi hướng chính sách tiền tệ từ mục tiêu ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế sang ưu tiên kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Chính sách tiền tệ thắt chặt đã giúp tỷ lệ lạm phát giảm xuống trong năm 2012 còn 9,09%, năm 2013 còn 6,04% mức thấp nhấp trong vòng 10 năm qua. 2.2.2 Môi Trƣờng Pháp Lý Mọi hoạt động kinh doanh, trong đó hoạt động của ngân hàng đều phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Các hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) chịu sự điều chỉnh của luật các tổ chức tín dụng và hệ thống các văn bản pháp luật khác của Nhà Nước, cụ thể trong từng thời kỳ tuân thủ những quy định về lãi suất, dự trữ, hạn mức cho vay... Mặt khác, các NHTM là các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ, là lĩnh vực chứa đựng rủi ro rất lớn do vậy mà các ngân hàng phải tuân thủ chặt chẽ các qui định của pháp luật. NHNN căn cứ vào thực trạng của nền kinh tế để thực hiện điều chỉnh lượng tiền cung ứng nhằm một số mục tiêu nhất định như ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế… Các ngân hàng thương mại là định chế trung gian, đóng vai trò phân phối luồng tiền lưu thông trên thị trường, lợi nhuận có được do phần chênh lệch giữa thu nhập và chi phí trên luồng tiền đó. Do đó, khi luồng tiền được phép lưu thông tăng hay giảm đều ảnh hưởng đến nguồn lợi nhuận cũng như khả năng sinh lợi của hệ thống ngân hàng. Tác giả xin tổng hợp lại các quy định pháp luật quan trọng nhất như sau:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2