intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm Ngữ Văn - ĐH Phạm Văn Đồng

Chia sẻ: Cuahapbia | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:85

31
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài giảng Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm Ngữ Văn gồm có 5 chương, cung cấp cho người học những kiến thức như: Kỹ năng phân tích chương trình môn Ngữ văn ở trường THPT; Kỹ năng thiết kế bài dạy học môn Ngữ văn THPT; Kỹ năng đặt câu hỏi, ra bài tập môn Ngữ văn; Rèn luyện kỹ năng kiểm tra, đánh giá trong dạy học Ngữ văn ở trường THPT;...Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm Ngữ Văn - ĐH Phạm Văn Đồng

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHẠM VĂN ĐỒNG KHOA SƯ PHẠM XÃ HỘI Bài giảng học phần RÈN LUYỆN NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM NGỮ VĂN Chương trình đại học ngành Sư phạm Ngữ văn Giảng viên: HUỲNH THỊ NGỌC KIỀU Khoa: Sư phạm Xã hội QUẢNG NGÃI, THÁNG 3/2021
  2. Chương 1. KỸ NĂNG PHÂN TÍCH CHƯƠNG TRÌNH MÔN NGỮ VĂN THPT 1.1. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục phổ thông 1.1.1. Sự cần thiết phải đổi mới chương trình giáo dục 1.1.1.1. Bối cảnh thế giới Trong suốt gần 60 năm qua, chương trình giáo dục ở các cấp học, bậc học trong nền giáo dục của ta được biên soạn, thực thi, v.v trên cơ sở kế thừa các chương trình giáo dục có trước đó, rồi cải tiến, cập nhật, nâng cao cho phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội, khoa học – công nghệ của giai đoạn sau. Các nhà giáo dục đã đưa vào chương trình giáo dục những tư tưởng lớn, những tác phẩm có giá trị, các phát minh khoa học, những sự kiện chính trị xã hội to lớn, ... với mong ước truyền lại cho các thế hệ sau những thành tựu to lớn của nhân loại trong tất cả các lĩnh vực của đời sống con người. Tuy nhiên, chỉ trong vòng 7 năm của thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, những điều chúng ta tích luỹ được trong hàng năm qua dường như không đủ để giải thích được những điều đang và sẽ diễn ra. Thập niên cuối của thế kỷ trước đã chứng kiến một điều mà nhà tương lai học của những năm 60, Kenneth Boulding gọi là sự “phá vỡ của hệ thống” (system break). Boulding xem sự phá vỡ của hệ thống như sự tan vỡ của các mô hình tư duy liên quan đến các hệ thống của con người. Nói cách khác, sự phá vỡ như vậy tạo ra cái mà Alvin Tofler gọi là “cú sốc của tương lai” mà ở đó lối tư duy có tính truyền thống không còn có thể giúp chúng ta giải quyết vấn đề. Một đồng nghiệp của Boulding trong những năm 60, Kenneth Clark đã lưu ý rằng, trong những điều kiện như vậy, sự tiên đoán có thể trở thành những thông tin chính xác nhất về tương lai. “Định luật” Clark cho rằng “Khi một nhà thông thái cho rằng một điều gì đó có thể xảy ra, ông ta có thể đúng. Nhưng nếu ông ta cho rằng một điều gì đó không thể xảy ra, thì gần như có thể nói rằng ông ấy sai”. Đó cũng chính là đặc điểm của giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Các nhà giáo dục đang bị choáng ngợp trước những thay đổi to lớn do con người tạo ra trong mọi lĩnh vực, và không biết lựa chọn những yếu tố gì để truyền đạt cho con cháu mai sau. Trong những năm 90 của thế kỷ trước, Internet xuất hiện và làm thay đổi mọi quan điểm truyền thống về giáo dục, như nhà trường, lớp học, về dạy, học. 2
  3. Tháng 5/2000, Bill Gates, người sáng lập ra Microsoft đã nói: “Chúng ta thật ra mới ở giai đoạn đầu của cuộc cách mạng. Trong vòng 10 năm tới, chúng ta sẽ thực hiện nhiều thay đổi đối với xã hội hơn là những gì đã làm trong 25 năm qua”. Những thay đổi to lớn của xã hội nói lên một điều là kỷ nguyên cũ đã qua và một kỷ nguyên mới đang đến, sự phá vỡ của hệ thống, một sự kiện chưa được hiểu một cách đầy đủ đã xảy ra và còn làm biến đổi nền giáo dục của cả nhân loại. Và những người làm giáo dục cần có cách suy nghĩ mới để định hướng nền giáo dục trong kỷ nguyên mới này. Để đáp ứng với những thay đổi to lớn và nhanh chóng trong kỉ nguyên quá độ lên nền kinh tế tri thức, kỷ nguyên thông tin, triết lí giáo dục trong thế kỉ 21 cũng có những thay đổi mạnh mẽ, hướng tới “một xã hội học tập”, “học thường xuyên, suốt đời” dựa trên 4 trụ cột “học để biết, học để làm, học để cùng chung sống, học để làm người”, giáo dục không còn chủ yếu là đào tạo kiến thức và kĩ năng mà chủ yếu là rèn luyện năng lực – năng lực nhận thức, năng lực hành động, năng lực giao tiếp và truyền thông, năng lực quản lý và lãnh đạo. Bản tuyên ngôn toàn cầu về giáo dục đại học của Liên hợp quốc khẳng định: Thế kỷ 21 “có một nhu cầu chưa từng thấy về sự đa dạng, phong phú trong giáo dục đại học cũng như những nhận thức ngày càng cao về tầm quan trọng sống còn của giáo dục đại học đối với sự phát triển kinh tế và văn hoá của xã hội”. Giáo dục nói chung trong đó có giáo dục đại học và chuyên nghiệp của thế giới đang phát triển nhanh chóng theo những xu hướng rõ rệt: đại chúng hoá, thị trường hoá, đa dạng hoá và quốc tế hoá, cùng những quan niệm mới, yêu cầu mới về vấn đề có tính sống còn đối với bất kì mô hình cải cách giáo dục nào – đó là chất lượng giáo dục. Vì thế, ngày nay, hơn bao giờ hết, tất cả các quốc gia đang đứng trước những thách thức to lớn là lựa chọn các giải pháp phát triển giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục ở tất cả các cấp học, bậc học – nơi cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng những đổi thay to lớn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, giáo dục nói chung, giáo dục đại học và chất lượng của nó nói riêng càng trở nên quan trọng hơn. Ở đây, giáo dục đại học phải được xem là chìa khoá mở cửa vào tương lai, việc không quan tâm đến giáo dục đại học và chất lượng của nó đồng nghĩa với việc tự tước bỏ một phương tiện cốt yếu nhất để phát 3
  4. triển quốc gia. Chính vì vậy, các quốc gia đang hết sức quan tâm đến mục tiêu, mô hình, qui mô, chất lượng của giáo dục đại học. Những đổi mới trong giáo dục đại học được thể hiện ở những điểm sau: a. Đổi mới tư duy về giáo dục Trong nền kinh tế tri thức, người ta phân biệt 3 phạm trù: dữ liệu, thông tin, tri thức. + Dữ liệu là những khối cơ bản trong kinh tế thông tin. + Thông tin là dữ liệu được sắp xếp thành mẫu hình có ý nghĩa. + Tri thức là áp dụng và sử dụng một cách có ích các thông tin. Như vậy, tri thức phải trở thành kĩ năng, trí lực và suy rộng ra phải trở thành nhân lực. Đó là hướng tổng quát nhất của nền giáo dục có thể phục vụ được cho nền kinh tế tri thức. Và chỉ có phát triển theo hướng như vậy, giáo dục mới quyết định sức mạnh của một quốc gia, sự thịnh vượng và tương lai tươi sáng của một dân tộc (6/2000) như lời của Bộ trưởng giáo dục Mĩ, và mới có thể trở thành “của cải nội sinh” như trong báo cáo của UNESCO. Đi vào nền kinh tế tri thức, người ta nói đến yêu cầu phải đổi mới mạnh mẽ tư duy nói chung, đổi mới tư duy về giáo dục nói riêng để tạo ra sự đồng thuận cao trong xã hội về sự phát triển giáo dục trong bối cảnh mới. b. Đổi mới trong nội dung và phương pháp giáo dục Cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ trong những năm qua làm tăng vọt khối lượng tri thức của nhân loại, giáo dục không thể thực hiện được chức năng truyền thống của nó là truyền đạt lại khối kiến thức khổng lồ ấy. Do vậy, nội dung các môn học trong tương lai không phải là liệt kê hết những kiến thức cần truyền đạt, mà chỉ là những kiến thức cơ bản, nền tảng, chủ yếu rèn luyện cho người học kĩ năng tư duy, kĩ năng ngôn ngữ, kĩ năng biểu đạt, kĩ năng khai thác và xử lý thông tin và áp dụng, sử dụng có ích các thông tin đó và trên cơ sở đó, biến thông tin thành tri thức. Nội dung giáo dục được đổi mới, tất yếu dẫn đến sự đổi mới phương pháp giáo dục. Phương pháp dạy - học mới đòi hỏi thầy và trò cùng nhau khám phá kiến thức, tìm tòi cái mới với sự hỗ trợ của các phương tiện giáo dục hiện đại, đặc biệt là của công nghệ thông tin. 4
  5. c. Giáo dục suốt đời và phổ cập công nghệ thông tin Trong thời đại thông tin, lượng thông tin tăng và biến đổi cực kì nhanh chóng, do vậy, quan điểm giáo dục suốt đời là quan điểm chủ đạo của nền giáo dục phục vụ sự phát triển nền kinh tế tri thức. Nền kinh tế tri thức đòi hỏi mỗi người phải luôn bổ sung tri thức mới với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin. Để thực hiện nhiệm vụ này, yêu cầu về phổ cập công nghệ thông tin và biết ngoại ngữ là điều cần thực hiện càng sớm càng tốt. d. Học tập không tập trung, học tập từ xa Sự phát triển của Internet sẽ giúp thoả mãn nhu cầu học tập thường xuyên, học tập suốt đời, qua đó phát triển phương thức đào tạo phi truyền thống như đào tạo phi tập trung, đào tạo từ xa. 1.1.1.2. Bối cảnh trong nước Đại hội IX của Đảng xác định mục tiêu tổng quát trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 là: “Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá”. Đảng, Nhà nước ta coi phát triển giáo dục và khoa học công nghệ là “quốc sách hàng đầu”, và giáo dục đại học được xem là “quốc sách kép”, vì nó thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ “Đào tạo và nghiên cứu khoa học”. Mục tiêu phát triển giáo dục đại học đến năm 2020 trong Đề án đổi mới giáo dục đại học Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là: “Đến năm 2020, giáo dục đại học phải có bước tiến cơ bản về chất lượng và qui mô đáp ứng nhu cầu nhân lực cả về chất lượng và số lượng cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và nâng cao tiềm năng trí tuệ, tiếp cận trình độ tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, nâng một số trường đại học lên đẳng cấp quốc tế, góp phần quan trọng vào việc nâng cao sức cạnh tranh của nguồn nhân lực và nền kinh tế đất nước”. Với mục đích đó, giáo dục đại học Việt Nam phải đảm bảo sứ mạng đào tạo nguồn nhân lực có đầy đủ kiến thức, kĩ năng, năng lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội, khoa học công nghệ, củng cố an ninh, quốc phòng. 5
  6. Nghị Quyết của Chính phủ về “Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020” nêu rõ quan điểm chỉ đạo đổi mới giáo dục đại học Việt Nam là “Gắn kết chặt chẽ đổi mới giáo dục đại học với chiến lược phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, nhu cầu nhân lực chất lượng cao của đất nước và xu thế phát triển của khoa học và công nghệ”. - Hiện đại hoá hệ thống giáo dục đại học trên cơ sở kế thừa những thành quả giáo dục đào tạo của đất nước, phát huy bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa nhân loại, nhanh chóng tiếp cận xu thế phát triển giáo dục đại học tiên tiến trên thế giới. - Đổi mới giáo dục đại học phải đảm bảo tính thực tiễn, hiệu quả và đồng bộ, lựa chọn khâu đột phá, lĩnh vực ưu tiên và cơ sở trọng điểm để tập trung nguồn lực tạo bước chuyển biến rõ rệt, v.v… - Trên cơ sở đổi mới tư duy và cơ chế quản lí giáo dục đại học, kết hợp hợp lí và hiệu quả giữa việc phân định chức năng, nhiệm vụ quản lí nhà nước và việc đảm bảo quyền tự chủ, tăng cường trách nhiệm xã hội, tính minh bạch của các cơ sở giáo dục đại học, v.v… - Đổi mới giáo dục đại học là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lí của Nhà nước, v.v… Đổi mới giáo dục đại học phải đạt mục tiêu “Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học, tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng, hiệu quả và qui mô, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và nhu cầu học tập của nhân dân. Đến năm 2020, giáo dục đại học Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và tiếp cận trình độ tiên tiến trên thế giới, có năng lực cạnh tranh cao, thích ứng với cơ chế thị trường định hướng XHCN” (Trích Nghị Quyết 14 của Chính Phủ). Trong số nhiều nhiệm vụ và giải pháp đổi mới giáo dục đại học, có giải pháp đổi mới nội dung, phương pháp và qui trình đào tạo. Nghị quyết chỉ rõ phải: - “Cơ cấu lại khung chương trình; bảo đảm sự liên thông của các cấp học, giải quyết tốt mối quan hệ về khối lượng kiến thức và thời lượng học tập giữa các môn giáo dục đại cương và giáo dục chuyên nghiệp, nâng cao hiệu quả đào tạo từng môn học, v.v… 6
  7. - Triển khai đổi mới phương pháp đào tạo theo 3 tiêu chí: trang bị cách học, phát huy tính chủ động của người học; sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong hoạt động dạy và học; khai thác các nguồn tư liệu giáo dục mở và nguồn tư liệu trên Internet; lựa chọn, sử dụng các chương trình, giáo trình tiên tiến của các nước, v.v…” Việc Việt Nam gia nhập WTO cũng tạo cho giáo dục đại học Việt Nam những cơ hội và thách thức mới. Những cơ hội có thể là: a. Được tiếp cận với các nền giáo dục đại học tiên tiến, có khả năng học hỏi, tiếp thu những yếu tố tiên tiến phù hợp với truyền thống của giáo dục đại học Việt Nam, làm cơ sở cho sự nghiệp đổi mới giáo dục đại học Việt Nam, hội nhập với giáo dục đại học thế giới. b. Mặc dù chúng ta chủ động đổi mới giáo dục đại học, nhưng việc Việt Nam gia nhập WTO cũng thúc đẩy tiến trình đổi mới giáo dục đại học nhanh hơn, đồng bộ hơn và hiệu quả hơn. Còn những thách thức cũng rất to lớn: a. Cạnh tranh trong lĩnh vực giáo dục đại học sẽ gay gắt hơn, với nhiều đối thủ hơn, và ngay trên đất Việt Nam. b. Trong bối cảnh đó, giáo dục đại học Việt Nam vẫn phải gìn giữ bản sắc dân tộc, định hướng xã hội chủ nghĩa trong đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Trong bối cảnh mới của quốc tế và trong nước, với những đổi thay to lớn trong đời sống kinh tế xã hội, hơn bao giờ hết, chất lượng của giáo dục và đào tạo trở thành vấn đề sống còn, quyết định sự thành bại của cả một quốc gia trong điều kiện hội nhập với kinh tế thế giới. Yếu tố quyết định chất lượng của giáo dục đại học là chương trình giáo dục – chương trình một khoá học, chương trình một môn học. Những người quản lí giáo dục đại học, những nhà thiết kế chương trình giáo dục, giảng viên, sinh viên sẽ là những người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ này. 1.1.2. Những căn cứ của đổi mới chương trình giáo dục phổ thông 1.1.2.1. Căn cứ pháp lý 7
  8. Giáo dục phổ thông nước ta đang chuyển từ chương trình định hướng nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh làm được cái gì và làm như thế nào qua việc học. Để đạt được mục đích này, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học nặng về truyền thụ kiến thức sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Đồng thời, phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, chú trọng kiểm tra, đánh giá năng lực trong quá trình dạy học để có thể tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt động dạy học và giáo dục. Việc chuyển từ dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng nội dung sang định hướng phát triển năng lực là một hướng đi phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về giáo dục và đào tạo. Các căn cứ pháp lý : - Báo cáo chính trị ĐH Đảng toàn quốc lần thứ XI. - Nghị quyết số 29 – NQ/TW ngày 04/11/2013 của BCHTW về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo. - Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 – 2020 ban hành kèm theo QĐ số 711/QĐ – Ttg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ. - NQ số 44/NQCP ngày 09/6/2014 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện NQ số 29 – NQ/TW ngày 04/11/2013. 1.1.2.2. Căn cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới chương trình giáo dục PT - Do yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội đối với việc đào tạo nguồn nhân lực trong giai đoạn mới. - Do sự phát triển nhanh, mạnh với tốc độ mang tính bùng nổ của khoa học công nghệ. - Do có những thay đổi trong đối tượng giáo dục. - Cần phải hòa nhập với xu thế đổi mới tiến bộ trên thế giới trong lĩnh vực chương trình, sách giáo khoa, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay. 1.1.3. Nguyên tắc đổi mới chương trình giáo dục, SGK phổ thông Việt Nam 1.1.3.1. Quán triệt mục tiêu giáo dục Chương trình và SGK của giáo dục phổ thông phải là sự thể hiện cụ thể của mục tiêu giáo dục được quy định trong Luật Giáo dục với những phẩm chất và năng lực được hình 8
  9. thành và phát triển trên nền tảng kiến thức kỹ năng chắc chắn với mức độ phù hợp với đối tượng ở từng cấp học, bậc học. Làm được như vậy thì chương trình và SGK mới đóng góp một cách có hiệu quả vào quá trình chuẩn bị nguồn nhân lực của đất nước trong những thập kỷ đầu thế kỷ XXI. Với yêu cầu xây dựng mục tiêu đã nêu, chương trình và SGK phải quan tâm đúng mức đến dạy chữ và dạy người, định hướng nghề nghiệp cho người học trong hoàn cảnh mới của xã hội Việt Nam hiện đại. 1.1.3.2. Đảm bảo tính khoa học và sư phạm Chương trình và SGK giáo dục PT phải là công trình KH sư phạm, trong đó phải lựa chọn được các nội dung cơ bản, phổ thông, cập nhật với những tiến bộ của khoa học công nghệ, của kinh tế xã hội, gần gũi với đời sống và phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh trong từng giai đoạn học tập, gắn bó với thực tế phát triển của đất nước, tích hợp được nhiều mặt giáo dục trong từng đơn vị nội dung, nâng cao chất lượng hoạt động thực hành, vận dụng theo năng lực từng đối tượng học sinh. Chương trình mới sẽ tích hợp nội dung để tiến đến giảm số môn học, đặc biệt ở các cấp học dưới, tinh giản nội dung và tăng cường mối liên hệ giữa các nội dung, chuyển một số nội dung thành hoạt động giáo dục để góp phần giảm nhẹ gánh nặng học tập ở các cấp học mà không làm giảm trình độ của chương trình. 1.1.3.3. Thể hiện tinh thần đổi mới phương pháp dạy học Một trong những trọng tâm của việc đổi mới chương trình và SGK giáo dục PT là tập trung vào đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện dạy học dựa vào hoạt động tích cực, chủ động của học sinh với sự tổ chức và hướng dẫn đúng mực của giáo viên nhằm phát triển tư duy độc lập, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, bồi dưỡng hứng thú học tập, tạo niềm tin và niềm vui trong học tập. Tiếp tục tận dụng các ưu điểm của phương pháp truyền thống và dần dần làm quen với những phương pháp dạy học mới. Đổi mới phương pháp dạy học luôn luôn được đặt trong mối quan hệ với mục tiêu, nội dung dạy học, đổi mới cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học; đổi mới các hình thức tổ chức giáo dục để phù hợp giữa dạy học cá nhân và các nhóm nhỏ hoặc cả lớp, giữa dạy học ở trong phòng học và ngoài hiện trường; đổi mới môi trường giáo dục để học tập gắn với thực hành và vận dụng; đổi mới đánh giá kết quả học tập của học sinh qua đổi mới nội dung, hình thức kiểm tra, xây dựng các bộ công cụ đánh giá, phối hợp kiểu đánh giá truyền thống với trắc 9
  10. nghiệm khách quan đảm bảo đánh giá khách quan, trung thực mức độ đạt được mục tiêu giáo dục của từng học sinh. 1.1.3.4. Đảm bảo tính thống nhất Chương trình giáo dục phổ thông phải đảm bảo tính chỉnh thể qua việc xác định mục tiêu, nội dung, định hướng phương pháp … từ bậc tiểu học qua THCS đến THPT. Chương trình và SGK phải áp dụng thống nhất trong cả nước, đảm bảo sự bình đẳng thực sự trong giáo dục, đặc biệt ở giai đoạn học tập cơ bản của các cấp, bậc học phổ cập giáo dục. Tính thống nhất của chương trình và SGK thể hiện ở các điểm sau : - Mục tiêu giáo dục. - Quan điểm khoa học và sư phạm xuyên suốt các môn học, các cấp bậc học. - Trình độ chuẩn của chương trình trong dạy học và kiểm tra, đánh giá. 1.1.3.5. Đáp ứng yêu cầu phát triển của từng đối tượng học sinh Chương trình và SGK tạo cơ sở quan trọng để : - Phát triển trình độ giáo dục cơ bản của nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đủ khả năng hợp tác, cạnh tranh quốc tế. - Phát triển năng lực của mỗi cá nhân, góp phần phát hiện và bồi dưỡng các tài năng tương lai của đất nước bằng phương thức dạy học cá nhân hóa, thực hiện dạy học các nội dung tự chọn không bắt buộc ngay từ tiểu học và phân hóa theo năng lực, sở trường ngày càng đậm nét qua các hình thức dạy học thích hợp. Chương trình và SGK phải giúp cho mỗi học sinh với sự cố gắng đúng mức của mình để có thể đạt được kết quả trong học tập, phát triển năng lực và sở trường của bản thân. 1.1.3.6. Quán triệt quan điểm đổi mới trong biên soạn chương trình và SGK Chương trình không chỉ nêu nội dung và thời lượng dạy học mà thực sự là một kế hoạch hành động sư phạm, kết nối mục tiêu giáo dục với các lĩnh vực nội dung và phương pháp giáo dục, phương tiện dạy học và cách thức đánh giá kết quả học tập của học sinh, đảm bảo sự phát triển liên tục giữa các cấp học, bậc học, đảm bảo tính liên thông giữa giáo dục phổ thông với giáo dục chuyên nghiệp. Sách giáo khoa không đơn giản là tài liệu thông báo các kiến thức có sẵn mà là tài liệu giúp học sinh tự học, tự phát hiện và giải quyết các vấn đề để chiếm lĩnh và vận dụng kiến thức mới một cách linh hoạt, chủ động và sáng tạo. 10
  11. Chương trình và SGK được thể chế hóa theo Luật Giáo dục và được quản lý, chỉ đạo đánh giá theo yêu cầu cụ thể của giai đoạn phát triển mới của đất nước, cố gắng giữ vững ổn định để góp phần không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, thực hiện quán triệt tiết kiệm trong sản xuất và sử dụng sách ở các cấp học. 1.1.3.7. Đảm bảo tính khả thi Chương trình và SGK không đòi hỏi những điều kiện vượt quá sự cố gắng và khả năng của số đông GV, HS, gia đình và cộng đồng. Tuy nhiên, tính khả thi của chương trình và SGK phải đặt trong mối tương quan giữa trình độ giáo dục cơ bản của Việt Nam và các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới, giữa giai đoạn trước mắt và khoảng thời gian từ 10 đến 15 năm tới. 1.1.4. Vấn đề dạy học phân hóa ở THPT 1.1.4.1. Cơ sở pháp lý cho việc dạy học phân hóa ở trường THPT - Chủ trương dạy học phân hóa (phân ban) trong trường THPT đã được nêu rõ trong Nghị quyết 14 của Bộ Chính trị - BCHTW ĐCS Việt Nam (khóa IV – 1979) về cải cách giáo dục: “Nội dung giáo dục ở trường THPT cũng mang tính chất toàn diện và kỹ thuật tổng hợp nhưng có chú ý hơn đến việc phát huy sở trường và năng khiếu cá nhân, sẽ thực hiện việc phân ban một cách hợp lý trên cơ sở giáo dục toàn diện”. - Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 BCHTW Đảng (khóa VII số 04-NQ/HNTW – 1993) về “Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo” cũng đã ghi rõ: “Hình thành bậc trung học mới nhằm chuẩn bị cho một bộ phận học sinh tiếp tục học lên và đa số tốt nghiệp có thể vào đời, giáo dục kỹ năng lao động và hướng nghiệp cho học sinh phổ thông theo hướng liên kết giáo dục phổ thông với giáo dục chuyên nghiệp, hình thành cấp trung học chuyên ban.” - Nghị định 90/CP ngày 24/11/1993 của Chính phủ về Quy định cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống văn bằng, chứng chỉ về giáo dục – đào tạo của nước CHXHCN Việt Nam cũng ghi rõ: “ Giáo dục phổ thông bao gồm: Tiểu học, THCS, trung học chuyên ban”. - Kết luận của Bộ Chính trị (Thông báo số 146TB/TW ngày 23/6/1998 về một năm rưỡi thực hiện Nghị quyết TW 2) đã đề cập đến việc “điều chỉnh chủ trương phân ban ở trung học phổ thông”. 11
  12. - Chỉ thị số 30/CT – TTg ngày 01/9/1998 của Thủ tướng Chính phủ đã cụ thể hóa yêu cầu nói trên của Bộ Chính trị. - Nghị quyết 37/2004/QH 11 của Quốc hội về Giáo dục, trong đó yêu cầu Bộ GD – ĐT nghiên cứu điều chỉnh phương án phân ban THPT, góp phần tích cực hướng nghiệp cho HS và phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam. - Luật Giáo dục 2005 (sửa đổi) với các quy định cụ thể hơn về mục tiêu, nội dung, phương pháp, chương trình giáo dục cấp THPT, trong đó yêu cầu có nội dung nâng cao ở một số môn học để phát triển năng lực, đáp ứng nguyện vọng của học sinh. 1.1.4.2. Cơ sở khoa học và thực tiễn của việc dạy học phân hóa - Phân hóa trong dạy học là một nguyên tắc sư phạm, trước hết dựa trên những khác biệt của học sinh về đặc điểm tâm sinh lý, sở trường, nguyện vọng, hứng thú, điều kiện sống, v.v … để đạt được hiệu quả đối với mỗi cá nhân, tiếp đó là những yêu cầu hết sức đa dạng về nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế xã hội. Phân hóa được thể hiện ở cấp độ vĩ mô và vi mô. + Phân hóa ở cấp độ vi mô là tìm kiếm các phương pháp kỹ thuật dạy học sao cho mỗi cá thể hoặc mỗi nhóm với nhịp độ học tập khác nhau trong giờ học đều đạt được kết quả mong muốn. + Phân hóa ở cấp độ vĩ mô thể hiện ở các hình thức tổ chức dạy học với những nội dung khác nhau cho từng lớp đối tượng khác nhau cũng nhằm tạo điều kiện cho HS phát triển tốt nhất về thiên hướng và năng lực. Những hình thức tổ chức nói trên thường là: phân thành các ban với những chương trình khác nhau; phân loại các giáo trình để học tập theo kiểu bắt buộc và tự chọn; xây dựng các loại trường chuyên biệt hoặc kết hợp các hình thức đã nêu. - Phân hóa dạy học cũng góp phần thực hiện đào tạo và phân công lao động xã hội theo nguyên tắc mỗi thành viên sẽ đóng góp có hiệu quả nhất đối với việc đã chọn hoặc được giao trên cơ sở đã được chuẩn bị tốt theo định hướng từ nhà trường. Đây thực chất là đáp ứng yêu cầu phân luồng lao động của xã hội mà nhà trường phải thực hiện. - Căn cứ vào quy luật phát triển nhận thức và hình thành các đặc điểm tâm lý thì từ những lớp cuối cấp THCS, HS đã bộc lộ thiên hướng, sở trường và hứng thú đối với những lĩnh vực kiến thức, kỹ năng nhất định. Một số có khả năng và ham thích toán học, các môn khoa học tự nhiên, số khác lại thích thú văn chương và các môn khoa học xã hội và nhân văn 12
  13. khác. Ngoài ra, còn có những HS thể hiện năng khiếu trong các lĩnh vực đặc biệt (nghệ thuật, TDTT…). Giáo dục theo kiểu đồng loạt hiểu theo nghĩa là chỉ với một chương trình duy nhất, cách tổ chức dạy học duy nhất sẽ làm hạn chế đến sự phát triển nói trên của người học. - Phân hóa dạy học ở cấp độ vĩ mô đối với cấp THPT là một xu thế của thế giới và được thể hiện cụ thể trong thực tiễn giáo dục từ rất lâu. Mặt khác, sự phát triển mạnh của xã hội và nền sản xuất đương đại đòi hỏi một thị trường lao động đa dạng, chuyên sâu ở các mức độ khác nhau và luôn thay đổi. Để phát triển và hòa hợp với xã hội, với nền sản xuất như trên, mỗi con người nói chung và mỗi HS nói riêng phải tìm cách học tập những gì phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh riêng của mình sao cho có được một chỗ đứng thỏa đáng trong xã hội này. Tất cả những điều này đòi hỏi nền giáo dục với một trong các chức năng rất quan trọng là đào tạo nhân lực, phải đa dạng và có thể chuyển đổi linh hoạt, mềm dẻo sao cho đáp ứng được tối đa năng lực, hứng thú, sở thích, nguyện vọng và nhiều điều kiện cá nhân khác của mỗi HS. Mô hình thích hợp đối với nền giáo dục như vậy là mô hình phân hóa, trong đó càng ở những lớp trên thì sự phân hóa được thực hiện với nhiều ban hoặc nhiều luồng và phân hóa sâu. Tuy nhiên, việc thực hiện phân hóa trong giáo dục bằng cách phân ban, phân luồng, kết hợp với dạy học tự chọn hoàn toàn bằng tự chọn đòi hỏi một số điều kiện nhất định về trình độ, năng lực của người cán bộ quản lý từ cấp trung ương đến địa phương (để tổ chức, quản lý, theo dõi tiến trình dạy học chung và dạy học tự chọn), của giáo viên (để giảng dạy được các loại giáo trình được biên soạn ở trình độ khác nhau cho các đối tượng HS có nhu cầu và khả năng nhận thức khác nhau) cũng như về cơ sở vật chất để có thể quản lý và phục vụ việc học đa dạng của học sinh. 1.2. Mục tiêu luyện kỹ năng phân tích chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn THPT 1.2.1. Về kiến thức Nắm và hiểu được: - Ý nghĩa của kỹ năng phân tích chương trình và SGK Ngữ văn ở THPT. - Mục tiêu dạy Ngữ văn ở THPT. - Chuẩn kiến thức và kỹ năng Ngữ văn ở THPT. - Các mạch kiến thức, kỹ năng trong SGK Ngữ văn THPT. 13
  14. - Kiến thức và kỹ năng tích hợp giữa ba phân môn trong môn Ngữ văn được trình bày trong SGK. - Những điểm mới so với chương trình Ngữ văn trước đó. 1.2.2. Về kỹ năng Cần đạt: - Kỹ năng phân tích chương trình để xác định yêu cầu cần đạt về nội dung và phương pháp day học cho từng bài dạy học Ngữ văn THPT. - Kỹ năng phân tích SGK Ngữ văn 1.3. Phân tích chương trình và SGK Ngữ văn THPT 1.3.1. Ý nghĩa của hoạt động phân tích chương trình và SGK Ngữ văn THPT - Giúp GV nắm vững cấu trúc tổng thể nội dung kiến thức, kỹ năng môn Ngữ văn ở THPT, đặc điểm và kết cấu chương trình. - Giúp GV nắm vững nội dung cơ bản của ba phân môn: Văn học, Tiếng Việt và Làm văn và bốn kỹ năng cơ bản. GV thấy được mối quan hệ giữa kiến thức trong một phân môn, thấy được yêu cầu về sự phát triển của từng kỹ năng ngôn ngữ theo từng lớp; thấy được mối quan hệ, sự tích hợp kiến thức, kỹ năng các phân môn Ngữ văn ở từng lớp, giữa các lớp trong bậc học. - Giúp GV thấy được vị trí của bài học trong từng cụm bài, trong hệ thống kiến thức. - Giúp GV thấy được mức độ, yêu cầu của từng bài học, từng mạch kiến thức và kỹ năng cần rèn luyện. - Giúp GV có cơ sở lựa chọn nội dung, phương pháp dạy học và xây dựng các câu hỏi, bài tập kiểm tra đánh giá theo mục tiêu và đối tượng thích hợp. 1.3.2. Tổ chức hoạt động phân tích chương trình và SGK môn Ngữ văn ở THPT 1.3.2.1. Mục tiêu môn Ngữ văn ở THPT - Cung cấp cho HS những tri thức thuộc Văn học, Tiếng Việt và các lĩnh vực văn hóa, xã hội của Việt Nam, của thế giới, giúp HS không ngỡ ngàng trong xã hội, từ đó biết ứng xử một cách thích hợp với hoàn cảnh mà các em đang sống và sẽ sống, rèn luyện các em thành những con người có năng lực thực hành để có được những kỹ năng về văn học, tiếng Việt, Làm văn. 14
  15. - Góp phần rèn luyện, phát triển tư duy cho HS theo hướng rèn luyện nhận thức và phân tích lý giải, tự đề ra được những quyết định nhằm giải quyết có hiệu quả các tình huống có vấn đề trong học tập và trong đời sống. - Hình thành cho HS những phẩm chất đạo đức, tư tưởng, tình cảm cao đẹp, hướng vào chuẩn bị cho các em trở thành những thành viên tốt của gia đình, những công dân có ý thức trách nhiệm, có mong muốn góp phần tích cực của mình vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. - Mục tiêu của môn Ngữ văn chú trọng tính đặc thù của tri thức, nhấn mạnh đến yêu cầu rèn luyện năng lực tư duy theo hướng tự giác, tích cực giải quyết vấn đề đặt ra trong bài học, trong cuộc sống; chú trọng đến yêu cầu rèn luyện năng lực thực hành, rèn luyện các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, cảm thụ, bình giá văn học. 1.3.2.2. Những điểm mới của chương trình - Về vị trí bộ môn: Ngoài tính chất của bộ môn khoa học xã hội và nhân văn, bộ môn thuộc lĩnh vực thẩm mỹ, thì bộ môn Ngữ văn còn có tính chất công cụ. - Do tính công cụ nên môn Ngữ văn ở THCS và THPT đã có sự điều chỉnh nội hàm khái niệm Văn trong nhà trường. - Do tính công cụ của chương trình cho nên việc dạy học Ngữ văn quy tụ vào hai trục chính: dạy học Đọc văn và dạy học Làm văn, hướng tới đào tạo hai năng lực cơ bản. - Do lấy việc dạy học Đọc hiểu làm nội dung dạy học Văn cho nên chương trình sẽ gọi các tác phẩm hay đoạn trích văn học là văn bản. - Lấy đọc hiểu làm nội dung dạy và học trong nhà trường thì nội dung văn học sử chưa thể trở thành nội dung tự thân mà chỉ là một trường nghĩa, một ngữ cảnh để HS thực hành đọc hiểu văn bản văn học. - Phần Làm văn trong chương trình Ngữ văn THPT vẫn còn tiếp tục ôn lại các kiểu văn bản tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, nghị luận và hành chính công vụ cùng một số văn bản ứng dụng khác. - Chương trình Ngữ văn được xây dựng theo nguyên tắc tích hợp. - Chương trình có chuẩn kiến thức và kỹ năng. 15
  16. - Đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, lấy sự trưởng thành của HS về kiến thức, năng lực, tình cảm, đạo đức làm mục đích. 1.4. Chương trình môn Ngữ văn ở trường THPT Chương trình môn Ngữ văn ở THPT gồm hai chương trình: chuẩn và nâng cao. Trong bài giảng, chúng ta xem xét chương trình chuẩn trong mối quan hệ với chương trình nâng cao. 1.4.1. Quan điểm và nguyên tắc xây dựng chương trình chuẩn - Kế thừa thành tựu của các chương trình Ngữ văn những thập kỷ trước đây, nhất là chương trình thí điểm phân ban từ 2002 – 2005. - Môn Ngữ văn được xác đinh là một môn khoa học xã hội và nhân văn vừa là một môn học công cụ; đồng thời không thể coi nhẹ phương diện thẩm mỹ của môn Ngữ văn, đặc biệt là phần Văn của chương trình. - Chương trình được xây dựng theo ba quan điểm: khoa học, sư phạm và thực tiễn. 1.4.2. Những điểm lưu ý trong chương trình - Chương trình được xây dựng như một chỉnh thể văn hóa mở. - Nhận thức về bản chất và vị trí của môn học được xác định rõ ràng hơn. - Tiếp tục thực hiện nguyên tắc tích hợp, chương trình chuẩn đã chú trọng gắn kết phần Đọc văn với Tiếng Việt và Làm văn. - Cấu tạo chương trình Ngữ văn, nhất là phần Văn học đã coi trọng sự phát triển của loại thể. - Chương trình mở rộng tác phẩm đến sau 1975 với một số tác giả và tác phẩm như Nguyễn Minh Châu với Chiếc thuyền ngoài xa, Ma Văn Kháng với Mùa lá rụng trong vườn, Nguyễn Khải với Một người Hà Nội… 1.5. Sách giáo khoa Ngữ văn THPT 1.5.1. Cấu trúc sách giáo khoa 1.5.1.1. Nguyên tắc sắp xếp - Sách giáo khoa phản ánh cấu trúc của chương trình. - SGK tổ chức theo nguyên tắc tích hợp. - Khái niệm bài học ở THPT khác với khái niệm bài học ở THCS. - Cấu trúc bài Đọc văn: 16
  17. + Tên tác phẩm hoặc đoạn trích. + Kết quả cần đạt. + Tiểu dẫn. + Nội dung văn bản. + Hướng dẫn học bài. + Ghi nhớ. -Cấu trúc bài khái quát, lý thuyết: + Phần nội dung khái quát lý thuyết. + Luyện tập. 1.5.1.2. Nguyên tắc biên soạn - Các bài văn, bài thơ chữ Hán và chữ Nôm có nhan đề chữ Hán đều được dịch ra tiếng Việt và ghi chú nguyên tên chữ Hán. - Phần lớn văn bản kế thừa các bài đã chọn trong các SGK đã có, đã được thử thách, một số bản dịch người soạn có điều chỉnh nhỏ cho phù hợp với yêu cầu. - Thông tin được cập nhật mới. - Phần chú thích vừa đủ hiểu nghĩa cơ bản hoặc nghĩa ban đầu và nghĩa trong văn bản. - Câu hỏi hướng dẫn học bài được xây dựng theo yêu cầu dạy Đọc hiểu, từ ngôn từ qua hình tượng đến tư tưởng và nghệ thuật. - SGK về nguyên tắc phải là một tài liệu học tập mang nội dung phương pháp. - SGK kết hợp giữa kênh hình và kênh chữ nhưng không sử dụng kênh hình minh họa thông thường mà thiên về sử dụng hình ảnh tư liệu hoặc các tranh minh họa của tác giả có tên tuổi hoặc có giá trị nghệ thuật. 1.5.2. Cấu trúc sách giáo viên - SGV gồm có hai phần: + Phần 1: Một số vấn đề chung về chương trình, sách giáo khoa, sách giáo viên và đổi mới phương pháp dạy học. + Phần 2: Gợi ý giảng dạy các bài. - Cấu trúc mỗi bài trong SGV: + Mục tiêu cần đạt. + Những điểm cần lưu ý. 17
  18. + Tiến trình tổ chức dạy học:  Phần mở đầu.  Phần tổ chức dạy học.  Phần củng cố. CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP 1. Tại sao cần phải đổi mới chương trình giáo dục phổ thông? 2. Phân tích căn cứ pháp lý để đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. 3. Phân tích căn cứ thực tiễn để đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. 4. Đổi mới chương trình giáo dục, sách giáo khoa phổ thông Việt Nam thực hiện theo những nguyên tắc nào? 5. Phân tích các nguyên tắc đổi mới chương trình giáo dục, sách giáo khoa phổ thông Việt Nam. 6. Phân tích cấu trúc của sách giáo khoa Ngữ văn. 7. Phân tích cáu trúc của sách giáo viên Ngữ văn. 18
  19. Chương 2. KỸ NĂNG THIẾT KẾ BÀI DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN THPT 2.1. Ý nghĩa của việc thiết kế bài dạy trong hoạt động dạy học Ngữ văn ở trường THPT - Bài dạy học là một bản thiết kế để thực hiện hoạt động dạy và học. - Bản thiết kế bài dạy học chính là kế hoạch hoạt động của giáo viên và học sinh. - Một bài thiết kế phải thể hiện đầy đủ các nội dung : + Thể hiện được kiến thức và kỹ năng cần tiếp thu và rèn luyện của HS trong một đơn vị bài học. + Cách thức triển khai các hoạt động của GV và HS theo tinh thần đổi mới, tích cực hóa các hoạt động học tập của HS. + Dự kiến những tình huống sư phạm có thể xảy ra. 2.2. Xây dựng bài học môn Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực 2.2.1. Quan niệm về “bài học” Theo nghĩa hẹp, bài học là một tên bài cụ thể, thuộc một phân môn trong SGK, chẳng hạn Phong cách ngôn ngữ hành chính, Chiếc thuyền ngoài xa,... nhằm cung cấp một đơn vị kiến thức hoặc góp phần hình thành một kĩ năng cho HS. Các bài học trong SGK Ngữ văn hiện hành đang được biên soạn theo hướng này. Theo nghĩa rộng, bài học là một chủ đề hoặc chuyên đề. Trong một bài học theo nghĩa rộng sẽ có nhiều đơn vị kiến thức và kĩ năng, thuộc một hoặc nhiều phân môn nhằm hướng tới giải quyết một hoặc một số vấn đề để hình thành một kĩ năng/năng lực cho HS. Đây là dạng bài học (unit) xuất hiện trong SGK của nhiều nước trên thế giới. Để đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn, cần rà soát CT và SGK hiện hành, sắp xếp lại các nội dung dạy học để biên soạn thành các chủ đề/chuyên đề nhằm phát triển năng lực học sinh. 2.2.2. Đổi mới mô hình tổ chức dạy học theo tiến trình hoạt động học của học sinh Để phát triển năng lực của học sinh trong giờ học Ngữ văn cấp THPT, cần đổi mới mạnh mẽ mô hình tổ chức dạy học trong việc thiết kế bài học từ phía giáo viên. Trong thiết kế, giáo viên phải cho thấy rõ các hoạt động của học sinh chiếm vị trí chủ yếu trong tiến trình tổ chức dạy học. Bằng việc vận dụng thuyết kiến tạo vào dạy học, các bài học trong sách 19
  20. hướng dẫn học sinh được thiết kế theo định hướng hình thành và phát triển năng lực của học sinh theo tiến trình của hoạt động học, với các bước: Khởi động/Trải nghiệm/ Tạo tình huống xuất phát – Hình thành kiến thức – Thực hành – Vận dụng – Mở rộng, bổ sung / phát triển ý tưởng sáng tạo, giáo viên cấp THPT có thể tham khảo và vận dụng cách làm này để đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn, góp phần phát triển năng lực cho học sinh. Mô hình tổ chức dạy học này có thể áp dụng cho cả hai loại bài học (theo nghĩa rộng và hẹp) như đã nêu ở tất cả các phân môn Văn học, Tiếng Việt và Làm văn trong CT và SGK Ngữ văn THPT. Mục đích, nội dung và cách thức tiến hành của mỗi bước như sau: a. Hoạt động khởi động/trải nghiệm/ tạo tình huống xuất phát Hoạt động trải nghiệm được tổ chức khi bắt đầu một bài học. Mục đích của hoạt động này nhằm giúp học sinh huy động vốn kiến thức và kĩ năng đã có để chuẩn bị tiếp nhận kiến thức và kĩ năng mới, dựa trên quan điểm rằng: việc tiếp thu kiến thức mới bao giờ cũng dựa trên những kinh nghiệm đã có trước đó của người học. Đồng thời, hoạt động này cũng giúp giáo viên tìm hiểu xem học sinh có hiểu biết như thế nào về những vấn đề trong cuộc sống có liên quan đến nội dung của bài học. Bên cạnh đó, hoạt động này còn nhằm tạo ra hứng thú và một tâm thế tích cực để học sinh bước vào bài học mới. Để tổ chức hoạt động này, có thể sử dụng một số nội dung và hình thức sau: - Câu hỏi, bài tập: Trong mỗi bài học, hoạt động khởi động thường gồm 1-3 câu hỏi, bài tập. Các bài tập này thường là quan sát tranh/ảnh để trao đổi với nhau về một vấn đề nào đó có liên quan đến bài học. Cũng có một số bài tập không sử dụng tranh/ảnh mà trực tiếp ôn lại kiến thức đã học ở cấp/lớp dưới, nhưng thiết kế dưới dạng nhiệm vụ kết nối hoặc những câu hỏi. Tuy nhiên, các câu hỏi không nên mang nhiều tính lý thuyết mà nên huy động những kinh nghiệm thực tiễn có liên quan đến nội dung bài học để tạo sự hứng thú và suy nghĩ tích cực cho người học - Thi đọc, ngâm thơ, kể chuyện, hát…: Một số hoạt động yêu cầu học sinh đọc diễn cảm, ngâm thơ, kể chuyện hoặc hát về chủ đề liên quan đến bài học. Các hoạt động này trong một số trường hợp được thiết kế thành các cuộc thi, nhằm tạo ra không khí sôi nổi, hứng thú trước khi tiến hành học bài mới. - Trò chơi: Một số trò chơi trong hoạt động khởi động giúp tạo ra hứng thú trước khi 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2