BÀI TIỂU LUẬN "ĐẠO ĐỨC KINH DOANH XƯA VÀ NAY"
lượt xem 197
download
Người Do Thái cư xử với nhau theo 10 Điều Răn và doanh nhân của họ có Đạo kinh doanh.Đối với các dân tộc khác không phải là người Do Thái, thì sách vở từ ngàn xưa đã chỉ, các tôn giáo đã khuyến khích, có một số đức tính căn bản cho họ. Đó là: sự chăm chỉ, trung thực, biết điều và không tham lam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: BÀI TIỂU LUẬN "ĐẠO ĐỨC KINH DOANH XƯA VÀ NAY"
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TP.HỒ CHÍ MINH KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH BÀI TIỂU LUẬN \ CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG Khái niệm đạo đức kinh doanh Trước khi là doanh nhân, mọi doanh nhân đều phải là một người bình thường. Doanh nhân khác với người thường ở chỗ là người có tài chứ còn để có tiền họ không 1
- thể làm khác. Vậy họ cũng phải làm gì đó để thu phục niềm tin của người khác và để có uy tín? Đó là một con đường họ phải theo khi hành xử công việc. Đó là “Đ ạo kinh doanh”. Người Do Thái cư xử với nhau theo 10 Điều Răn và doanh nhân của họ có Đạo kinh doanh.Đối với các dân tộc khác không phải là người Do Thái, thì sách vở từ ngàn xưa đã chỉ, các tôn giáo đã khuyến khích, có một số đức tính căn bản cho h ọ. Đó là: s ự chăm chỉ, trung thực, biết điều và không tham lam. Riêng doanh nhân cần do có nhiều người dưới quyền thì phải thêm hai đ ức tính nữa là tính sòng phẳng và lòng biết ơn. Cộng sáu đức tính đó lại với tài kinh doanh thì sẽ có một doanh nhân xuất hiện. Và người này sẽ có nhiều tiền, hay nhiều tiền sẽ đến với họ. Khi được hướng dẫn bởi các đức tính đó, doanh nhân sẽ giữ được chữ tín trong kinh doanh; biết liên kết trong làm ăn; đối đãi với khách hàng; cư xử với đồng sự cùng nhân viên. Triết lý giúp con người thăng hoa, đạo đức giúp họ bền vững. Doanh nhân có một sợi dây đạo đức chung, một triết lý chung thì chúng là một chất keo để kết họ lại với nhau. Hội nọ đoàn kia ra đời. Và khi kết lại được như thế doanh nhân sẽ có rất nhiều tiền. Hiện nay, chúng ta bàn về “Đạo kinh doanh” là vì trong những mức độ khác nhau có doanh nhân rất tài, có tiền nhưng không có đủ các đức tính căn bản c ủa “một người bình thường”. Lỗi đó là do lịch sử. Thí dụ, muốn khuyến khích sự chăm chỉ chúng ta nêu khẩu hiệu “lao động là vinh quang”. Khi ở một mình, nếu một người biết tự nhủ “ta phải chăm chỉ” thì họ sẽ bó buộc mình làm; còn nếu bảo “để vinh quang” thì họ sẽ bảo “tôi không cần” và… đi chơi! Doanh nhân chúng ta bị ảnh hưởng bởi sự thiếu sót chung này. Họ có tài, có tiền nhưng thiếu “Đạo kinh doanh”. Đa số thành viên của xã hội phải có những đức tính tốt căn bản của “một người thường” để họ làm gương, làm mẫu mực, và là áp lực cho doanh nhân phải làm theo, khi tài ba của họ hé mở rồi nở rộ. 2
- “Đạo kinh doanh” là cách thức mà các doanh nhân cư xử với nhau và cho những ai có quyền lợi liên quan (stakeholders) với họ, nghĩa là trong giới của họ. Khi vứt bỏ nghề nghiệp của mình đi thì tất cả đều là “một người bình thường”. Một điều cũng rất quan trọng là khi doanh nhân có “Đạo” thì xã hội phải đáp ứng lại; kẻo cái “Đạo” của doanh nhân khiến họ bị lừa lọc! Cuộc sống là một sự tương tác vĩnh cửu. Đây là một sự thật hiển nhiên giống như nhân dân anh hùng tạo nên quân đội anh hùng. Do vậy, “Đạo kinh doanh” phải được hun đúc từ những đức tính căn bản tồn tại trong đa số thành viên của xã hội. Doanh nhân xuất phát từ xã hội rồi dùng sự thành công của mình để giải quyết những vấn đề xã hội và làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn. Việc ấy giống như nhân dân anh hùng sản sinh ra quân đội anh hùng và đất nước bình an. Không có chiều ngược lại. 3
- CHƯƠNG 2: ĐẠO ĐỨC KINH DOANH XƯA VÀ NAY 1. Nhìn lại phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục a. Đỉnh cao của phong trào duy tân Bỏ lối học từ chương khoa cử, tập trung cho thường thức và thực nghiệm, dạy cả tiếng Việt, Pháp và Hán văn. Chủ trương này lại xuất phát từ tầng lớp nho gia cuối cùng của Việt Nam. Dù chỉ tồn tại trong 9 tháng (5.1907 – 1.1908), nhưng trường Đông Kinh Nghĩa Thục thực sự là đỉnh cao của cuộc cách mạng xã hội to lớn đầu thế kỷ 20 có tên là Duy Tân. Cánh chim đầu đàn Nhiều tài liệu cho rằng Đông Kinh Nghĩa thục là trường học miễn phí và dạy theo lối cải cách đầu tiên ở Việt Nam. Nguyên cuối năm 1904 Phan Châu Trinh cùng Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc kháng chu du mấy tỉnh miền Trung. Đến Bình Thuận, Phan Châu Trinh bị bệnh phải ở lại. Thời gian này ông cùng với Hồ Tá Bang lập một thư xã ở đình Phú Tài để giảng sách Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu. Nguyễn Trọng Lội nhiệt thành dự khán những cuộc thuyết trình ấy. Đây chính là bước tập dượt đ ể Đông Kinh Nghĩa Thục ra đời. Nhà thờ cụ Phan Châu Trinh Đem nhà làm trường quyết Hôm định lập, thành cũng tại số 4 Hàng Đào có mặt các ông Lương Văn Can, Dương Bá Trạc, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học… nhưng lại vắng mặt Tăng Bạt Hổ và Phan Châu Trinh. Người cao tuổi hơn cả là Lương Văn Can được các đồng chí nhất trí tôn làm thục trưởng. 4
- Về tài chánh, hội viên tự ý góp bao nhiêu cũng được và quyên thêm ở những chỗ quen, hảo tâm. Tiền - thục trưởng quản chi, nhưng sổ sách do Nguyễn Quyền giữ. Hai người đảm nhiệm việc lập Phố Hàng Đào thời Đông Kinh Nghĩa Thục. các thủ tục xin phép lập trường tại phủ Thống sứ Bắc Kỳ là Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Duy Tốn. Cả nhà cùng “Nghĩa Thục” Dù chỉ bằng truyền miệng, nhưng tin tức trường Đông Kinh Nghĩa thục sắp ra đời lan rất nhanh khắp cả hai vùng đất bảo hộ, miền Bắc và miền Trung. Việc học trò đi học không phải mất tiền là một việc chưa từng có. Danh sách ứng sinh đăng ký theo học dồn dập đổ về địa chỉ số 4 Hàng Đào. Trong khi đó thủ tục xin phép đã nộp gần hai tháng mà nha Thống sứ vẫn cứ im lặng. Nguyên do là vì… cái tên. Chữ nghiã thục gần giống với nghĩa quân nên thực dân Pháp vẫn cứ im lặng. Đợi không được ông đành mởi hai lớp nhỏ một lớp nam,một lớp nữ chỉ dạy chữ quốc ngữ.Quốc ngữ là lợi khí để khai dân trí, nhưng hợp với chiêu bài “khai hóa” mà người Pháp không có lý do gì cấm. b. Chấn hưng công thương, kỹ nghệ “Tôi cầm bút ký tờ đoạn mãi mà tay run lên. Từ nhỏ, có bao giờ dám động tới di sản của tổ tiên đâu”. Đó là lời thuật lại sau này của bà Lương Văn Can khi bà ký vào giấy tờ bán hiệu buôn Quảng Bình An ở Hàng Ngang, lấy 7.000 đồng đưa chồng tiêu vào việc trường Lương Văn Can 5
- Những tấm lòng vàng :Theo Nguyễn Hiến Lê, những nhà quyên tiền nhiều nhất là hiệu kim hoàn Thế Xuân ở Hàng Bạc và hiệu hàng tấm (tơ lụa) Phúc Lợi ở Hàng Ngang. Hồi mới phát động, dân khí đang lên, ai nghe nói giới cựu học và tân học bắt tay nhau mở mang dân trí, chấn hưng đất nước cũng hăm hở kẻ góp công người góp của. Đưa môn kinh tế vào trường: Mở mang công thương nghiệp lúc đó là vấn đề cấp bách, trước mắt là kiếm tiền trang trải cho Đông Kinh Nghĩa Thục và ủng hộ các học sinh Đông du. Về lâu dài, nó là nền tảng của toàn bộ công cuộc duy tân đất nước. Những chủ trương phát triển công thương, kỹ nghệ này trước hết Phố Mã Mây xưa, nơi ông Đỗ Chân Thiết được đưa vào trong chương trình học cùng Phương Sơn mở hiệu Đồng Lợi Tế của nhà trường. Sách Quốc dân độc chuyên bán hàng nội hoá bản, một tài liệu giáo khoa quan trọng của trường, có 79 bài thì có tới 24 bài (từ bài 56 đến bài 79) đề cập trực tiếp đ ến các vấn đề thuộc về kinh tế, kỹ nghệ. Khi nhà nho đi buôn: Tiên phong trong việc này ở đất Bắc là ông Đỗ Chân Thiết. Năm 1904, nhân vua Thành Thái ra bái yết lăng tẩm tổ tông ở làng Gia Miêu, Thanh Hoá, Đỗ Chân Thiết cùng Phương Sơn thảo Hưng Quốc sách, nhảy xe lửa vào tận Thanh Hoá định dâng vua, nhưng bị viên tổng đốc Thanh Hoá gàn cản, việc không thành. HaiHàngtrở vnơi ôngội, rủ nhau đi buôn, Phố ông Gai ề Hà N Hoàng Tăng Bí mở mướn thuyền về Hải Dương chở gạo lên Hà Nội bán. dệt, chn vềến các ếnạiột Đ ồng xưởng Thuyềế bi đ ậu b lo c trà Hồ mấy ngày, dân buôn thấy thuyền của ông Cử, ông Nghè không ai dám tới mua, sau 6
- nhờ một bà xuống bán dùm, chỉ nửa buổi đã hết. Sau hai ông gọi thêm vài người đ ồng chí hùn vốn được vài ngàn bạc, mở hiệu Đồng Lợi Tế ở phố Mã Mây,… Lập đồn điền, khai mỏ : Nghĩa Thục còn khuyến khích đồng chí lập đồn điền để khuếch trương nông nghiệp. Một việc ít ai biết là những người trong Nghĩa Thục còn có nhiều chiến sục sạo trên vùng thượng du Bắc Việtvà đã tìm được một số mỏ than, chì, kẽm, lưu huỳnh. Nói chung, giới nho sĩ chủ trương đều thiếu kinh nghiệm quản trị, thiếu vốn, thiết bị kỹ thuật nên các công trình chỉ để lại tiếng vang, kích thích lòng yêu nước là chính. Tuy nhiên, các cơ sở kinh tế nói trên còn là nơi gặp gỡ thuận tiện để họ bàn bạc chuyện khác, quan trọng và cao cả hơn. 100 năm Đông Kinh Nghĩa Thục: Phan Châu Trinh là người đầu tiên đi tìm nguyên nhân mất nước không phải ở đâu khác mà là ở trong văn hoá, trong “những nhược điểm cơ bản về văn hoá của xã hội Việt Nam”. Nhược điểm, thua kém so với ai? “So với phương Tây”. Ông là người Việt Nam đầu tiên nhận ra cuộc toàn cầu hoá thời bấy giờ, cuộc toàn cầu hoá lần thứ nhất, trong đó Việt Nam đã thua, vì vẫn sống như chưa hề có thực tế thời đại to lớn đó. Thời đại đã thay đổi. Đối thủ của chúng ta đã thay đổi. Phan Châu Trinh đã tiến một bước rất xa trong nhận thức về số phận dân tộc; ông không chỉ Phan Châu đặt vấn đề độc lập dân tộc, ông đặt vấn đề Trinh (1872 – 1926) phát triển dân tộc, ông cho rằng phải nhìn và đặt vấn đề độc lập dân tộc trong toàn bộ vấn đề rộng xa hơn nhiều là phát triển dân tộc trong một thời đại đã đổi khác một cách căn bản. 100 năm đã qua. Có phải vấn đề hôm nay là tiếp tục công cuộc “cách mạng tân văn hoá”, như cách gọi của Hoàng Xuân Hãn, mà lịch sử, với tất cả sự thật khắc nghiệt 7
- của nó, đã buộc chúng ta còn để dở dang từ ngày còn người ấy, “khuôn mặt sáng giá nhất của Việt Nam” đầu thế kỷ XX đã khởi xướng, và chưa xong. Đông Kinh Nghĩa Thục đã đề ra một chương trình đào tạo với nội dung phong phú, “tìm đúng cái cần xây, cần chống ngay tại xứ sở quốc gia mình”. Nội dung giảng dạy trong nhà trường trải trên hầu khắp các lĩnh vực từ khoa học cơ bản đến các ngành đào tạo thực nghiệp. Đặc biệt là vấn đề chấn hưng công nghiệp được đặt ra một cách bức thiết. Những người làm nghề buôn bán lại trở lại một địa vị xứng đáng. Ngày nay chúng ta đang tiến hành từng bước cải cách giáo dục, gắn việc học với thực tiễn, đó chẳng phải là mục tiêu chính của mô hình thực nghiệp Đông Kinh đặt ra hay sao? Đông Kinh Nghĩa Thục là một gợi mở, một bước đệm quan trọng, giáo dục Việt Nam đã, đang và sẽ thực hiện những trăn trở của các sĩ phu từ trăm năm trước. Trăm năm hàng Việt: Tại Nam kỳ nổi lên cuộc vận động xã hội sôi nổi với tên gọi mới là Cuộc Minh Tân. Hoạt động công khai của Cuộc Minh Tân là khuyến khích sự tự cường kinh tế của người Việt với nhiều hoạt động sản xuất, kinh thương đến tài chính, dịch vụ… Nền kinh tế trong tay ngoại bang: Đầu năm 1908, tờ Lục Tỉnh Tân Văn (LTTV) phát hành số 1 (15.1.1908), chủ bút là Trần Nhật Thăng, một bút danh của ông Trần Chánh Chiếu. Cùng với việc nắm độc quyền thương nghiệp của người Hoa là sự đổ xô của người Ấn đến Nam kỳ để nắm lấy độc quyền về việc cho vay bạc. Ông Trần Chánh Chiếu là người nhìn thấu rõ hiện tượng này. Trong khi đó, Cuộc Minh Tân muốn đạt được thành công phải có sự đồng lòng của toàn xã hội, mà nông dân là lực lượng đông đảo nhứt. Và, cũng không thể tiến hành cuộc Minh Tân mà không có nguồn vốn lớn. Ông Chiếu thường nói: “Phải có tàu lớn thì mới ra biển được”. Gom góp lòng yêu nước Để giải quyết điểm then chốt ông Chiếu đã đưa ra sáng kiến chưa từng có trước đó, là huy động vốn. Ông đã bán hết toàn bộ điền sản của mình ở Rạch Giá và luôn là 8
- người có tên góp vốn đầu tiên để thành lập các cơ sở công kỹ nghệ và thương mại trong cuộc Minh Tân. Ngoài việc kêu gọi góp vốn thành lập các cơ sở kinh doanh của người Việt, ông G. Chiếu còn chủ trương thành lập ở Sài Gòn một tổ chức kinh doanh tài chính, dạng như một ngân hàng tín dụng, gọi là Hãng cho vay Sài Gòn – Chợ Lớn: "... lập một cái hãng cho vay, mỗi phần hùn 5 đồng, Hãng cho vay bạc rẻ hơn người Ấn" (LTTV số 11). Vài việc cụ thể: Công ty nhà in: góp vốn 36.000 đồng. Mỹ Tho Minh Tân túc mễ tổng cuộc: Được hình dung như là một tổng công ty xuất khẩu lúa gạo.Ngày 12.3.1908 cho biết đã có 25 vị ra vốn đầu tiên với số tiền là 16.980 đồng, trong đó ông G.Chiếu góp 1.000 đồng. Ước lập hoả thuyền: ông tri phủ Nguyễn Bá Phước ở Bạc Liêu kêu gọi phần hùn mua hai chiếc tàu để chở hành khách Sài Gòn – Đại Ngãi – Bạc Liêu – Cà Mau theo đường biển. 2. “Tập đoàn” kinh tế đầu tiên của người Việt Trong những chủ trương phát triển công kỹ nghệ của ông Trần Chánh Chiếu thì việc thành lập công ty Nam Kỳ Minh Tân công nghệ có thể được xem là táo bạo nhứt. Liên tục trên các số báo Lục Tỉnh Tân Văn (LTTV) từ số 21, ra ngày 9.4.1908 đến số 49, ra ngày 22.10.1908, luôn có những thông tin về kết quả vận động, tổ chức và bước đầu đi vào hoạt động của công ty này. Kinh doanh đa ngành Có thể hình dung đây là một tập đoàn kinh tế theo hình thức góp vốn cổ phần, có lĩnh vực hoạt động kinh doanh rộng lớn từ sản xuất, đào tạo nhân lực, đến thương mại, xuất nhập khẩu… 9
- Một khu phố buôn bán của Hoa kiều ở Chợ Lớn vào những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 Trong điều lệ “rao theo luật buộc” (LTTV số 32) cho biết rõ mục đích của việc thành lập: “Khoản thứ nhứt – Những người có mặt tại đây và chư vị hùn sau, cùng nhau lập một công ty đặng mà: 1. Lập lò nghệ tại Nam kỳ: lò chỉ (kéo sợi từ bông vải, tơ tằm – NV), lò dệt, lò savon (xà phòng – NV), thuộc da và pha ly (thuỷ tinh – NV)… 2. Dạy con nít làm các nghề ấy. Gilbert Chiếu làm tổng lý công ty. Quán chánh công ty ở tại thành Mỹ Tho”. LTTV số 39 lại thấy rao: “Tổng lý là G. Chiếu ra thông cáo cho biết ai có hùn vốn thì có quyền gởi con đến học nghề, thời hạn học là bảy năm, công ty nuôi cơm nước còn quần áo, mùng mền thì cha mẹ phải chịu. Công ty lo nhà ngủ, nhà ăn cho học trò, đứa nào học giỏi sẽ được hưởng lương tháng, sau đó, khi biết nghề rồi phải giúp việc cho công ty bảy năm”. Việc khởi xướng cuộc vận động thành lập Nam Kỳ Minh Tân công nghệ bắt đầu từ ngày tháng nào, vẫn chưa tìm thấy được. Nhưng bắt đầu từ số 21 trên LTTV đã thấy rao: “Hễ cuối tháng thì sẽ có rao số chư vị có đóng bạc, còn số rao mỗi khi đó thì nay không ghi nữa, vì đã khỉ (khởi – NV) sự thâu bạc. Phiến ngôn cửu đỉnh, nhứt nặc thiên kim. Cúi xin bạn đồng bang phải giữ lời hứa, chớ khá giêng (diên – NV) trì mà h ư vi ệc cả. Nay kính. Gilbert, Mỹ Tho”. 10
- Lại thấy ghi thêm: “Minh Tân Công Nghệ đã nhóm đại hội hôm ngày 31 Mai (tháng Năm – NV) này. Nay đã nộp điều lệ cho Notaire cầu chứng, vài ngày nữa sẽ rao và in ra 3.000 cuốn phát cho chư vị có hùn, trong chừng một tháng nữa sẽ khởi công khai trương”. Như thế, cho đến thời điểm này đã có ít nhứt là 3.000 cổ đông, tất nhiên một cổ đông có thể sở hữu nhiều cổ phần. Người Việt Cũng trong LTTV số 29, trang 5 còn đăng lời rao, ký tên G. Chiếu:“D ẦU SẢ: Bên phương Tây hay mua sả cây làm dầu, trộn với savon để làm savon thơm, còn xác còn lại lấy làm giấy. Trong Nam kỳ ai có đất hoang nên tr ồng sả cho nhi ều, ch ừng nửa năm nữa tôi sẽ rao mua nhiều lắm”. Ngày 3.9.1908 công ty rao mua 100.000 trái dừa khô để làm xà bông. Trong Nam Kỳ Minh Tân công nghệ cuộc Ga tàu lửa từ Chợ Lớn đi Sài Gòn ở những năm đầu thế kỷ 20 còn có cơ sở bào chế Đông Nam dược, làm ra các loại thuốc ta dạng tán, dạng nước, dạng viên, ngâm rượu… Trong lời rao có đoạn: 3. Tranh thương Nam Kỳ những năm đầu thế kỷ 20, việc kinh doanh buôn bán phần lớn nằm trong tay người Hoa ở Chợ Lớn. Sự độc quyền thương nghiệp của người Hoa đã đem về cho họ món lợi to lớn. Do đó trong các chủ trương về cuộc Minh Tân, Trần Chánh Chiếu đặc biệt khuyến khích người Việt tích cực tham gia vào công cuộc buôn bán. Hùn vốn mở công ty 11
- Như một thứ quảng cáo miễn phí. Cũng với phương thức chủ yếu là kêu gọi vốn cổ phần để thành lập các tiệm buôn ở các chợ đầu mối, các trung tâm dân cư. Hai ngành kinh doanh được quan tâm hàng đầu đó là lúa gạo và bách hoá, cả xuất và nhập khẩu. Và đây là một trong những chủ trương Minh Tân đem lại kết quả cụ thể hơn cả. Theo tài liệu mà chúng tôi có được, đã có hơn chục cơ sở kinh doanh lớn của người Việt ra đ ời khắp Nam kỳ, từ Biên Hoà, Chợ Lớn, Tân An, Mỹ Tho, Bến Tre, Chợ Gạo, Sa Đéc, Rạch Giá.. Tạo nguồn nhân lực mới Để chuẩn bị nhân lực dài lâu cho cuộc Minh Tân, ông Trần Chánh Chiếu cùng những đồng sự của ông đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo thế hệ kế tục. Ở hoạt động này, một mặt ông công khai hô hào khuyến học, mở mang trường lớp, khuyến khích dạy nghề thông qua tờ LTTV, mặt khác ông bí mật vận động tổ chức để đưa con em người Việt ra du học nước ngoài nhằm mưu sự lâu dài. Cùng với Nam Kỳ Minh Tân công nghệ, vừa mở xưởng sản xuất kết hợp việc đào tạo dạy nghề, ta còn thấy trong các hoạt động của phong trào Minh Tân có nhi ều hình thức tương trợ: “Bổn quán tính mướn thầy chiều chiều từ 7 giờ đến 10 giờ dạy cách làm sổ sách buôn bán tại Nam Trung khách sạn. Học phí phải đóng trước là 4 đồng mỗi tháng, ai muốn học thì ghi tên”. (LTTV số 19). Còn đây là những lời nhắn gởi đến các quan lại người Việt vừa đ ược chánh quyền thực dân bổ nhiệm: “Xin các quan dạy các làng phải lo lập mỗi làng một trường học, dạy dân con trai, con gái biết chữ, biết lễ nghi (…); lập các cuộc c ấp c ứu thu ỷ, hoả đạo tặc; kêu An Nam thức dậy tranh quyền lợi, giục nhà giàu hùn hiệp buôn bán lúa gạo, mua tàu đưa khách và các việc khác 2. Đạo đức kinh doanh này nay Đạo đức kinh doanh là khái niệm tưởng như rất xa xỉ nhưng thực tế lại rất đời thường. Một doanh nghiệp có đạo đức kinh doanh là một doanh nghiệp không kiếm lời bằng sự lừa dối khách hàng, bằng sự hủy hoại môi trường, hay bằng sự bóc l ột người lao động… Sự hủy hoại môi trường rất dễ bị phát hiện bởi người dân và các cơ quan chức năng. Sự bóc lột người lao động cũng dễ bị phanh phui và phản ứng bởi công đoàn và chính người lao động. Tuy nhiên, hành vi lừa dối khách hàng lại thường đ ược doanh 12
- nghiệp thực hiện một cách hết sức tinh vi và được che đậy thông qua nhiều phương tiện hiện đại mà khách hàng rất khó nhận biết, hoặc dẫu có nhận biết thì cũng đã muộn vì đã lỡ mất tiền, không thể đòi lại được. Nếu như chuyện lừa dối trong các hoạt động kinh doanh sản phẩm, dịch vụ phục vụ tiêu dùng đáng bị lên án thì hành vi lừa dối trong kinh doanh giáo dục và đào tạo càng là điều không thể chấp nhận được. Hiện có nhiều cơ sở chiêu sinh, mở lớp đào tạo về quản lý, trong đó có chủ đề Văn hóa doanh nghiệp – một phần không tách rời c ủa đ ạo đức kinh doanh. Lẽ đương nhiên, ai cũng nghĩ, một doanh nghiệp đã đi dạy cho người khác làm văn hóa doanh nghiệp thì không lý nào doanh nghiệp đó lại không xây dựng cho mình văn hóa trước. Và khi đã có văn hóa doanh nghiệp rồi, vấn đề đạo đức kinh doanh hẳn sẽ được đặt lên hàng đầu. Thế nhưng, thực tế không phải lúc nào cũng như nhiều người vẫn tưởng. Thương hiệu trong nền kinh tế thị trường: Theo cơ chế cạnh tranh của thị trường tự do, trong bất cứ ngành hàng nào, từ hàng tiêu dùng nhanh, hàng điện máy, ngành quần áo thời trang hay các ngành dịch vụ,… các thương hiệu luôn xuất hiện, cạnh tranh và tồn tại trong những phân khúc giá khác nhau. Lấy ví dụ tại thị trường Việt Nam. Trong ngành dầu gội, giá bán của Sunsilk đắt gần gấp 3 lần giá bán của dầu gội đầu Mỹ Hảo. Trong ngành điện máy, giá bán của tivi Sony đắt gấp đội so với giá của nhãn hiệu nội địa Darling. Trong ngành dịch vụ quảng cáo hay trong dịch vụ về luật, giá dịch vụ của các hãng nước ngoài đắt hơn từ 3 đến 10 lần so với giá của các công ty của Việt Nam. Tuy có mức chênh lệch giá rất lớn giữa các thương hiệu ở phân khúc thấp so với phân khúc cao cấp, nhưng càng ngày, chất lượng sản phẩm (hay dịch vụ) giữa các phân khúc càng bớt khác biệt. Ngày nay, nếu bỏ nhãn hiệu đi và cho người khách hàng dùng thử, nhiều loại sản phẩm và dịch vụ có giá rất chênh nhau những lại hầu như không tạo ra sự khác biệt. Trên thực tế các tập đoàn đa quốc gia đã chuyển khâu sản xuất c ủa nhi ều lo ại sản phẩm và các ngành dịch vụ sang các nước đang phát triển, nơi mà giá nhân công r ẻ hơn tại thị trường tiêu thụ nhiều lần. 13
- Chuyện gì đã xảy ra khi mức chênh lệch giá không thể hiện ở các ích lợi của sản phẩm hay của dịch vụ? Và tại sao người ta phải bỏ thêm những khoản tiền lớn để được sử dụng thương hiệu mà họ yêu thích? Vấn đề về lợi nhuận và đạo đức kinh doanh? Hiện nay bất cứ nhà kinh doanh nào cũng đều muốn nâng giá của sản phẩm, hay của dịch vụ lên càng cao càng tốt. Khi một sản phẩm có giá cao, rõ ràng khả năng mang lại lợi nhuận sẽ tăng lên đáng kể, mà công sức và thời gian và chi phí kinh doanh sẽ giám xuống. Còn gì bằng khi mà một chai bia Heineken có giá bán gần gấp 3 lần chai bia Sài Gòn (trên thực tế mức lợi nhuận sẽ chênh nhau đến cả chục lần). Tại sao một đôi giày thể thao Nike được sản xuất tại Việt Nam có giá xuất xưởng chưa tới 15 Đô-la Mỹ lại có giá bán gần 200 Đô-la Mỹ? Trong bài viết này, sau khi nói về trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, tác giả tập trung luận giải vấn đề xây dựng xã hội dân sự và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường. Theo tác giả trách nhiệm xã hội ở Việt Nam đã được nhận thức và bước đầu được thực hiện và đó chính là cơ sở để chúng ta tin rằng, cùng với quá trình phát triển đất nước, trách nhiệm đó sẽ được đề cao cùng với sự hoàn thiện của khung pháp luật, bộ máy nhà nước, thể chế kinh tế thị trường và các thể chế của xã hội dân sự. a. Trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường và trách nhi ệm xã h ội của doanh nghiệp Hội thảo của chúng ta diễn ra trong khi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu ngày càng lan rộng và trở nên nghiêm trọng hơn. Nhân loại đang đứng trước những nguy cơ lớn về khủng hoảng năng lượng, khủng hoảng lương thực, trái đất ấm lên do hiệu ứng khí thải. Tất cả các hiện tượng này có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về trách nhiệm xã hội của chính phủ, của doanh nghiệp, của người dân và xã hội dân sự. Cuộc khủng hoảng toàn cầu khởi đầu từ nước Mỹ và nhanh chóng lan rộng ra các nước khác trên thế giới, từ khủng hoảng tài chính - tiền tệ lan sang khủng hoảng “nền kinh tế thực” (real economy), dẫn đến khủng hoảng việc làm và khủng hoảng xã hội. Ở một số nước đã và sẽ diễn ra khủng hoảng chính trị như ở Băng Đảo (iceland). Câu hỏi được 14
- đặt ra là, hệ thống kinh tế thị trường hiện nay với các biến thể của nó từ kinh t ế th ị trường tân tự do (Neoliberalism) ở Hoa Kỳ đến nền kinh tế thị trường xã hội (Social market economy) như ở Đức, nền kinh tế phúc lợi xã hội (wealthfare economy) như ở Bắc Âu, trách nhiệm của nhà nước, trách nhiệm của thị trường và doanh nhân, trách nhiệm và quyền giám sát của người dân có những thiếu sót gì để dẫn đ ến một th ảm hoạ như vậy. Mới đây, vụ sữa nhiễm độc melamine của công ty Tam Lộc (San Lu) ở Trung Quốc đã gây ra biết bao đau khổ cho các gia đình, trẻ nhỏ thì trách nhiệm của nhà nước, của doanh nghiệp như thế nào. Trách nhiệm (responsibility) là một khái niệm rất rộng và được nhiều khoa học cùng nghiên cứu. Luật học xác định các khái niệm trách nhiệm khác nhau, như trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm kinh tế trách nhiệm tài chính và trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm tập thể, v.v., kèm theo đó là những quy định chặt chẽ về trách nhiệm bồi thường, các mức phạt cao thấp khác nhau nếu vi phạm. Xã hội học coi trách nhiệm xã hội như một sự cam kết về tinh thần, đ ạo đ ức, văn hoá đối với gia đình, cộng đồng địa phương và toàn xã hội, nhân viên, môi tr ường. Trong nền kinh tế thị trường, mọi cá nhân và doanh nghiệp đều hành xử sao cho có l ợi nhất cho mình trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Kinh tế thị trường được mô tả trong Tư bản của C.Mác không có trách nhiệm xã hội, ở đó người ta thấy người chủ tư bản được mô tả là một kẻ bóc lột tàn bạo, mù quáng, mất nhân tính, vô văn hoá đến kiệt sức người lao động nhằm tối đa hoá lợi nhuận ngắn hạn. Sự mô tả chính xác đó đã giúp kinh tế thị trường tự hoàn thiện trong quá trình đấu tranh của nhân dân cùng với tiến bộ trong nhận thức của khoa học kinh tế. (Chẳng hạn như kinh tế học về thông tin đã chỉ rõ bản chất của sự lừa đảo là bất đối xứng thông tin, giải pháp là công khai, minh bạch, giám sát nhằm giảm bớt sự bất đối xứng thông tin đó chứ không phải gán ghép lừa đảo như một bản chất của kinh tế thị trường). Kinh tế kế hoạch hoá tập trung dưới chế độ toàn trị một đảng đã không đem lại giải pháp thực chất và bền vững cho tăng tr ưởng, không đem lại hệ thống động lực cho người lao động, không phát huy sức sáng tạo, sáng kiến của mỗi một cá nhân, nên nó đã không vượt qua được thử thách của lịch sử. Trong một chế độ như vậy, khái niệm trách nhiệm xã hội chỉ thuộc về những người có quyền quyết định, người dân chỉ biết tuân thủ các quy định và được thụ hưởng trong phần họ 15
- được cho phép. Các hiện tượng lãng phí tài nguyên, ô nhiễm môi trường, ém nhẹm các tai hoạ là những ví dụ về thiếu trách nhiệm xã hội trong quá trình quy ết đ ịnh và đi ều hành nền kinh tế theo mô hình này. Kinh tế thị trường ngày nay đã hình thành một h ệ thống các quy định pháp luật chi tiết nhằm chế định hành vi của các bên tham gia và bảo vệ lợi ích của cộng đồng, của xã hội. Các quy định đó đã giảm bớt đáng kể những hành vi vô trách nhiệm một cách thái quá của những người có quyền lực trong hệ thống chính trị và doanh nghiệp. Chính trị gia không được lòng dân sẽ bị hệ thống bầu cử dân chủ thay thế (như việc bầu cử tổng thống Obama thay thế tổng thống Bush vừa qua). Doanh nhân hành xử tư lợi, thiếu hiệu quả, thiếu trách nhiệm sẽ bị thay thế khi doanh nghi ệp thua lỗ hay phá sản. Song, cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay đã cho thấy mô hình hiện thời của kinh tế thị trường và vai trò của nhà nước không những không hoàn hảo mà còn có những khiếm khuyết nghiêm trọng, rất cần được phát hiện và chỉnh sửa. Việc đóng gói (packaging) những món nợ hay thế chấp (debt and mortgages) thành những sản phẩm phái sinh điên loạn (derivates) đem bán trên thị trường chứng khoán, việc nới lỏng trần tín dụng để đẩy việc xây nhà và tiêu dùng lên cao, việc đồng loã giữa các công ty đánh giá và xếp hạng (rating company) với ngân hàng được xếp hạng (như Lehman Brothers), che dấu và lừa dối khách hàng, việc cho phép lòng tham vô hạn đ ộ của những người điều hành hệ thống tài chính ngân hàng hoành hành, v. v. đều cần phải điều chỉnh và xem xét trách nhiệm của từng bên tham gia và có quy định pháp luật chặt chẽ đ ể khắc phục. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social Responsibility CSR) có thể được định nghĩa ngắn gọn như một sự cam kết của công ty trong ứng xử phù hợp với lợi ích của xã hội trong các hoạt động liên quan đến lợi ích của khách hàng, nhà cung ứng, nhân viên, cổ đông, cộng đồng, môi trường. Theo đó, trách nhiệm xã hội đ ược coi là một phạm trù của đạo đức kinh doanh (Business Ethics), có liên quan đến mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Ở thế kỷ thứ XXI, trong nền kinh tế toàn cầu hoá, khi ý thức của loài người về các nguy cơ đối với môi trường sống ngày càng cao thì các đòi hỏi về trách nhiệm xã hội cũng ngày càng tăng lên, như đòi hỏi phải kiểm soát khí thải của xe hơi lưu hành trên đường phố, kiểm soát mức độ khói bụi trong các khu dân 16
- cư, v.v.. Như vậy, có thể thấy, ít nhất đã có bốn nhóm đối tượng mà doanh nghiệp phải có trách nhiệm trong ứng xử đối với các đối tượng sau đây: - Thị trường và người tiêu dùng, bao gồm cả nhà đầu tư, ngân hàng, nhà cung ứng và hợp tác; người lao động; cộng đồng trong khu vực và trong xã hội trong nước và thế giới (như vụ sữa nhiễm độc melamine của công ty Tam Lộc ở Trung Quốc);môi trường sống. Đối với thị trường và người tiêu dùng, doanh nghiệp phải bảo đảm chữ “tín”, bảo đảm chất lượng sản phẩm, dịch vụ, thực hiện đúng các tiêu chuẩn chất lượng của sản phẩm, dịch vụ, thực hiện các cam kết dịch vụ sau khi bán như đã bảo đ ảm v ới khách hàng, không quảng cáo quá sự thật. Pháp luật không thể quy định và tiết chế tất cả các hoạt động của doanh nghiệp. Chính doanh nghiệp phải bảo đảm thương hiệu của mình bằng cách duy trì chất lượng, tính ổn định của chất lượng sản phẩm, dịch vụ không vượt ra khỏi các quy định của pháp luật. Trong kinh doanh, doanh nghiệp có quan hệ không chỉ với khách hàng, mà còn quan hệ với các nhà đầu tư ngân hàng, nhà cung ứng các sản phẩm, dịch vụ trợ giúp, các viện khoa học, trường đại học thực hiện các dịch vụ nghiên cứu, giảng dạy, thiết kế, v.v.. Trong tất cả các mối quan hệ đó, doanh nghiệp không chỉ thực hiện đúng các cam kết theo Luật Dân sự, Luật Hợp đồng, mà còn phải từ bỏ tham vọng làm “giàu nhanh” một cách bất chính bằng cách lừa đ ảo khách hàng và đối tác. Việc làm giàu của doanh nghiệp không những phải phù hợp với pháp luật, mà còn phải bảo đảm và tôn trọng lợi ích chính đáng và hợp pháp c ủa khách hàng và đối tác. Như vậy, cách làm giàu “chụp dật” là hoàn toàn xa lạ với trách nhiệm xã hội. Không thể chỉ trông đợi vào sự tự nguyện hay kêu gọi đạo đức, luật pháp, người tiêu dùng, xã hội phải phát hiện, ngăn chặn và trừng phạt các hành động gian trá, lừa đảo, đồng thời khuyến khích, ủng hộ các doanh nghiệp làm ăn chính đáng. Đối với người lao động, doanh nghiệp phải coi người lao động là tài sản lớn nhất của mình, chăm lo cuộc sống vật chất và tinh thần cho người lao động, bảo đ ảm cho người lao động không chỉ tái sản xuất sức lao động, mà còn được nâng cao trình độ chuyên môn, chăm lo sức khoẻ cho người lao động. Về phía người lao động cũng phải tôn trọng các cam kết trong hợp đồng lao động, làm việc tại doanh nghiệp phù h ợp v ới những cam kết khi được bồi dưỡng, nâng cao trình độ. Luật pháp phải bảo đảm sự cân 17
- bằng lợi ích giữa người sử dụng lao động và người lao động, giữa hai bên phải thường xuyên trao đổi thông tin để thông cảm lẫn nhau, tránh sự hiểu lầm không cần thiết hay sự ưu đãi thái quá cho một bên. Doanh nghiệp cũng cần phải tôn trọng và bảo vệ môi trường vì lợi ích của các thế hệ mai sau. Trên thế giới hiện nay đã có rất nhiều tiêu chuẩn, đ ịnh mức quy đ ịnh chế độ hạch toán xã hội (social accounting), kiểm toán xã hội (social auditing) và báo cáo cho xã hội (social reporting) biết kết quả thực hiện. Hiện nay, các nước nhập khẩu đã đòi hỏi doanh nghiệp xuất khẩu từ các nước đang phát triển như Việt Nam phải tuân thủ hàng loạt quy định (guidelines) hay tiêu chuẩn (standards), như SA 8000, AA1000, ISO 14000, v.v.. Vì lợi ích kinh doanh, doanh nghiệp phải bảo đảm sự tuân thủ các quy định được đòi hỏi để có thể tiếp tục duy trì quan hệ kinh doanh. Vấn đề ở đây là có thể trông cậy đến đâu vào sự tự nguyện của doanh nghiệp, nếu thiếu khung pháp luật, thiếu chế tài và sự giám sát cần thiết của xã hội dân sự và công chúng. Kinh nghiệm cho thấy, mãnh lực của lợi nhuận có thể làm cho doanh nhân trở nên mù quáng, vô trách nhiệm bằng cách che dấu các hành vi phạm pháp của mình và sự tự nguyện của doanh nghiệp là rất mỏng manh. Ngay cả sau khi phải cầu cứu chính phủ trợ giúp bằng tiền đóng thuế của người dân, họ vẫn chia nhau cả 18 tỷ USD tiền thưởng (CNN, ngày 30.1.2009) làm cho tổng thống Obama phải thốt lên là “đáng hổ thẹn”; song vấn đề không phải là quở mắng, mà là làm cho họ có trách nhiệm hơn và ngăn chặn những hành vi như vậy trong tương lai. Như vậy, có thể thấy vai trò then chốt của hệ thống luật pháp, các tiêu chuẩn về đạo đức được quy định thành tiêu chuẩn pháp luật để thực hiện trách nhiệm xã hội của cá nhân và doanh nghiệp nhằm chế ngự lòng tham và kiểm soát các hành vi làm giàu vô đạo đức, gây nguy hại cho cộng đồng. Bên cạnh vai trò của nhà nước, rõ ràng là cần phải có vai trò bổ sung c ủa xã hội dân sự nhằm phát huy các mặt tích cực của nhà nước, đồng thời bổ sung cho nhà nước, giám sát và hạn chế các hành vi tư lợi, lạm dụng chức quyền của nhà nước. b. Kinh tế thị trường, xã hội dân sự và trách nhiệm xã hội ở Việt Nam Chuyển đổi từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, trong đó nhà nước có vai trò tuyệt đối trong mọi hoạt động của đời sống xã hội, sang kinh tế thị trường đ ịnh 18
- hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đang từng bước hình thành các tổ chức của xã hội dân sự. Các tổ chức xã hội đông đảo của Việt Nam được hình thành và có thói quen hoạt động theo mô hình kinh tế chỉ huy trước đây đang từng bước thay đổi đ ể hoạt động có hiệu quả hơn trong kinh tế thị trường. Các tổ chức đó đang từng bước chuyển sang cách hoạt động tự chịu trách nhiệm, phản ứng kịp thời trước các biến động của kinh tế thị trường, như ô nhiễm môi trường, đình công, v.v.. Hiện nay, Việt Nam chưa có Luật về các hội, khái niệm xã hội dân sự chưa được chính thức chấp nhận, các cơ quan nhà nước đang đảm nhận một khối lượng ngày càng lớn các công việc và bị quá tải. Bộ máy nhà nước ngày càng được mở rộng hơn; mặc dù đã có sự kêu gọi giảm biên chế, nhưng cấp xã hiện nay vẫn được giao (theo thống kê chưa đầy đủ) đ ến 320 việc (từ c ấm đ ốt pháo đến hạn chế sinh con thứ ba, xoá đói giảm nghèo, đăng ký hộ khẩu đ ến chuẩn bị hồ sơ để trình cấp huyện cấp sổ đỏ sở hữu đất đai, v.v.) với bộ máy đầy đủ lên đến hơn 100 người. Bộ máy nhà nước không thể thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, như bảo đảm chất lượng an toàn thực phẩm, chất lượng dịch vụ massage, cắt tóc, v.v.. Hệ thống luật pháp đã được đổi mới và xây dựng lại một cách sâu rộng, từ Hiến pháp đến hệ thống luật, nghị định song còn thiếu đồng bộ, giữa các luật được chuẩn bị bởi các Bộ khác nhau, được ban hành vào những thời điểm khác nhau còn không ít chồng chéo, mâu thuẫn với nhau. Việc thực thi luật pháp còn có nhiều vấn đề phải đổi mới, khoảng cách giữa luật trên văn bản và luật trong thực tế còn lớn. Do cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý còn chưa được thể chế hoá đầy đủ và cụ thể, cơ quan đảng có quyền quyết định cao nhất, trong khi Nhà nước, cụ thể là Chính phủ chịu trách nhiệm trước pháp luật và Quốc hội về việc tổ chức thực hiện làm cho quá trình quyết định và tổ chức thực hiện khá phức tạp, như sơ đồ sau đây cho thấy. Hệ quả là hiệu lực của pháp luật chưa cao, trách nhiệm của doanh nghiệp trong thực thi pháp luật chưa cao. Đã xuất hiện nhiều vụ việc gây bức xúc trong dư luận, như vụ công ty Vedan làm ô nhiễm sông Thị Vải nhưng không được xử lý nghiêm minh; có tới bốn Bộ chịu trách nhiệm về chất lượng thực phẩm (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công thương, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Y tế), nhưng trách nhiệm chưa rõ ràng và tình trạng vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều thiếu sót kéo dài. 19
- Về các doanh nghiệp tham gia thị trường, bên cạnh khoảng 350.000 doanh nghiệp có đăng ký có đến 3 triệu hộ kinh doanh gia đình, 5 triệu hộ nông dân có quy mô rất nhỏ. Nhiều doanh nghiệp chưa có thương hiệu, chưa đăng ký chất lượng sản phẩm, số nông sản được sản xuất theo quy trình hiện đại (GAP Good Agricultural Practice), có đăng ký nhãn hiệu vùng sản xuất, như thanh long, xoài, cà phê, bưởi, v. v. tuy đã tăng lên nhi ều, nhưng vẫn còn ít so với tổng sản lượng các sản phẩm gieo trồng và chăn nuôi. Việc các doanh nghiệp lớn như Metro đã ký kết hợp đồng và hướng dẫn sản xuất, thu mua nhiều mặt hàng nông sản bảo đảm chất lượng đã đem lại nhiều tiến bộ trong cung ứng nông sản, kể cả cho xuất khẩu. Trình độ hiểu biết về pháp luật và tuân thủ pháp luật c ủa doanh nghiệp nhỏ còn nhiều hạn chế, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp lớn đã được đề cao và có nhiều tiến bộ, song tại các doanh nghiệp nhỏ, các hộ gia đình và hộ nông dân, việc tuân thủ luật lao động, các quy định vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhều hạn chế. Các doanh nghiệp lớn, có thương hiệu, có nhãn hiệu đăng ký, hoạt động trên lĩnh vực xuất khẩu đạt trình độ về trách nhiệm xã hội được các nhà nhập khẩu chấp nhận được. Các doanh nghiệp này thực hiện đầy đủ nghiêm túc các tiêu chuẩn SA 8000, ISPO 14000, bảo đảm trình độ vệ sinh và an toàn thực phẩm tốt. Các doanh nghiệp này đã có chiến lược dài hạn để thực hiện ngày càng đầy đủ hơn trách nhiệm xã hội cả về bảo vệ môi trường, hạn chế lượng khí thải v.v.. Một hiện tượng khá phổ biến ở Việt Nam là các doanh nghiệp tích cực tham gia vào các hoạt động từ thiện, như giúp đỡ nạn nhân của bão lụt, thiên tai hay tai nạn, đóng góp vào Quỹ xoá đói giảm nghèo của các tổ chức quần chúng khác nhau. Bên cạnh mặt tích cực của sự đóng góp, do thiếu quy đ ịnh pháp luật chặt chẽ về việc khấu trừ số tiền đóng góp vào chi phí trước thuế, v.v., nên còn có không ít ý kiến khác nhau về động cơ lành mạnh của sự đóng góp này và liệu có th ể đồng nhất sự đóng góp với trách nhiệm xã hội hay không. Bên cạnh ý kiến hoan nghênh, có không ít ý kiến cho rằng, một số doanh nghiệp có động cơ “đánh bóng hình ảnh” và có mục đích vụ lợi. Hiện nay, ở Việt Nam chưa có khung pháp luật và hướng dẫn về việc các doanh nghiệp phải có báo cáo về hạch toán xã hội, kiểm toán xã hội và báo cáo xã hội để cộng đồng biết và giám sát. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề bài: Vai trò của đầu tư đối với sự hình thành và phát triển doanh nghiệp và sự tăng trưởng của nền kinh tế.
13 p | 288 | 79
-
Bài giảng Đạo đức kinh doanh (GV. Phạm Đình Tịnh) - Chương 8: Đánh giá chương trình đạo đức của doanh nghiệp
12 p | 269 | 31
-
Bài giảng Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và đạo đức kinh doanh - Chương 2: Sự bền vững và mối quan hệ với môi trường, xã hội và kinh tế
23 p | 26 | 7
-
Bài giảng Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và đạo đức kinh doanh - Chương 7: Trách nhiệm từ thiện của doanh nghiệp
21 p | 22 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn