intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài tiểu luận: Thực trạng của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay và vấn đề xây dựng, phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay ở Ngân hàng

Chia sẻ: Mr Fullhouse | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:36

951
lượt xem
129
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài tiểu luận đề tài Thực trạng của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay và vấn đề xây dựng, phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay ở Ngân hàng được nghiên cứu với các nội dung: Lực lượng sản xuất và vai trò của lực lượng sản xuất trong đời sống xã hội, thực trạng phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay, vấn đề xây dựng, phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay ở Ngân hàng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài tiểu luận: Thực trạng của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay và vấn đề xây dựng, phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay ở Ngân hàng

  1. NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM   BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN NGÂN HÀNG ­­­­­­­­­­ BÀI TIỂU LUẬN  ĐỀ TÀI: Thực trạng của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay và   vấn đề xây dựng, phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao   hiện nay ở ngân hàng Lớp   : CAO HỌC 18.01 NHB Nhóm : 9 Khoa : SAU ĐẠI HỌC GVHD : TS.TRẦN THỊ THU HƯỜNG
  2. Hà Nội, tháng 09 năm 2016  
  3. DANH SÁCH NHÓM 9 LỚP CAO HOC 18.01.NHB 1. Thẩm Quỳnh Trang (nhóm trưởng) 2. Nguyễn Thị Quỳnh Trang 3. Đỗ Thị Mai Trang 4. Phan Thành Trung  5. Dương Thanh Tùng  6. Nghiêm Thị Tuyết 7. Trần Đức Vinh 8. Võ Thị Ngọc Yến 
  4. LỜI MỞ ĐẦU Quá trình phát triển của lịch sử loài người gắn liền với các hình kinh tế xã hội   khác nhau, hình thái kinh tế  xã hội phát triển sau hơn hình thái kinh tế xã hội trước.  Trong đó phải kể đến vai trò của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nền  tảng vật chất kĩ thuật cho mỗi hình thái kinh tế  xã hội. Hình thái kinh tế  xã hội   khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau. Lực lượng sản xuất luôn đóng vai trò   to lớn trong đời Rsống xã hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định hình  thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế xã hội, nó dẫn đến  sự  thay đổi quan hệ  sản xuất do đó kiến trúc thượng tầng thay đổi theo dẫn đến  hình thái kinh tế  xã hội cũ được thay thế, hình thái kính tế  mới cao hơn, tiến bộ  hơn.  Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình hội nhập  sâu rộng với nền kinh tế thế giới, vì vậy phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao   là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến sự phát triển của đất nước và  sự  sống còn của ngành ngân hàng. Ngân hàng được coi là mạch máu của nền kinh   tế quốc dân, vì vậy nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống ngân hàng, đặc biệt  nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu cho ngành ngân hàng.  Vì vậy,  muốn có một xã hội  ổn định, một nền kinh tế  phát triển thì nhiệm vụ  hàng đầu  phải phát triển, xây dựng lực lượng sản xuất. Nhận thấy được tầm quan trọng của lực lượng sản xuất nói chung và vai trò  quan trọng đối với phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực ngân  hàng nên em đã chọn đề  tài: “Thực trạng của lực lượng sản xuất  ở Việt Nam   hiện nay và vấn đề  xây dựng, phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao hiện   nay ở ngân hàng” làm đề tài cho bải thảo luận của mình
  5. 1. LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT  TRONG ĐỜI SỐNG XàHỘI.  1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT 1.1.1 Một số khái niệm cơ bản Lực lượng sản xuất dùng để  chỉ tổng thể các yếu tố  cấu thành nội dung vật   chất, kỹ  thuật, công nghệ,... của quá trình sản xuất, tạo thành năng lực thực tiễn  cải biến giới tự nhiên của con người. Với nghĩa như vậy, lực lượng sản xuất cũng   đóng vai trò phản ánh căn bản trình độ  chinh phục giới tự  nhiên của con người:  trình độ thủ công của lực lượng sản xuất là lực lượng sản xuất phản ánh trình độ  chinh phục giới tự nhiên thấp hơn rất nhiều so với lực lượng sản xuất ở trình độ kỹ  thuật công nghiệp và công nghệ cao.  Quan hệ  sản xuất là  phạm trù  triết học chỉ  quan hệ  giữa  người với người  trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội) .Quan hệ sản xuất bao  gồm quan hệ sử hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu, quan hệ về tổ chức và quản lý  sản xuất và quan hệ về phân phối các sản phẩm làm ra. Quan hệ sản xuất do con  người tạo ra nhưng nó hình thành và phát triển một cách khách quan ko phụ thuộc  vào ý chí con người. Nếu như quan niệm lực lượng sản xuất là mặt tự nhiên của  sản xuất thì quan hệ sản xuất lại là mặt xã hội của sản xuất. 1.1.2 Các bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất  Lực lượng sản xuất được cấu thành bởi hai bộ phận đó là người lao động và   tư liệu sản xuất trong đó:  Tư liệu sản xuất là những tư liệu để tiến hành sản xuất, bao gồm tư liệu lao   động và đối tượng lao động. Trong đó tư liệu lao động bảo gồm công cụ lao động  (máy móc…)và đối tượng lao động khác (phương tiện vận chuyển, bảo quản, chưa   đựng công cụ lao động và sản phẩm). Còn đối tượng lao động gồm hai bộ phận là  những yếu tố nguyên vật liệu có sẵn trong tự nhiên (đất đai, than đá,…) và một bộ  phận phái trải qua sự cải tạo của con người – còn gọi là nhân tạo ví dụ: nhựa, gỗ  ép… Trong tư liệu snar xuất thì công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất.
  6. Người lao động là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất vì người lao  động đóng vai trò là chủ thể của quá trình sản xuất, là người tạo ra tư liệu lao động   và sử  dụng tư  liệu lao động vào đối tượng lao động tao ra sản phẩm còn tư  liệu   sản xuất chỉ đóng vai trò là khách thể chịu sự tác động trong quá trình sản xuất. Lực   lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể  nhân loại là công nhân, là người lao động.  Con người vừa là một phần trong kết cấu của lực lượng sản xuất, vừa tác động  đến quá trình phát triển của lực lượng sản xuất. Sự  tác động này thể  hiện  ở  chỗ  con người có thể  đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự  phát triển của lực lượng sản xuất  thông qua  những hoạt động phù hợp hoặc không phù hợp với quy luật nội tại của   lực lượng sản xuất, với quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và  trình độ  lực lượng sản xuất. Mặc dù tư  liệu sản xuất, tiền vốn, khoa học và kỹ  thuật đều là những yếu tố  cần thiết để  thực hiện sản xuất song tất cả  đều phải   thông qua hoạt động của con người mới đem lại hiệu quả  kinh tế, những giá trị  mới. Những yếu tố trên sẽ tồn tại ở dạng tiềm năng, sẽ trở thành vô hiệu  hóa khi   nó không được đặt trong mối quan hệ giữa tư liệu sản xuất và sức lao động. Con   người tham gia vào quá trình sản xuất với tư cách là sức lao động, vừa với tư cách  là con người có ý thức, chủ thể của những quan hệ kinh tế. Trình độ văn hóa, trình   độ kỹ thuật, chuyên môn, ý thức và thái độ của người lao động đối với sản xuất và   sản phẩm là những yếu tố quan trọng để sử dụng, khai thác kỹ thuật và tư liệu sản  xuất vốn có để sáng tạo ra trong quá trình sản xuất. Ph Awngghen đã nhấn mạnh:  “Muốn nâng sản xuất công nghiệp và nông nghiệp lên mức độ  cao… mà chỉ  có  Phương tiện cơ giới và hóa học phù hợp thì không đủ, còn cần phải phát triển một   cách tương ứng năng lực con người sử dụng những phương tiện đó nữa” Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực   lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động do  con người sáng tạo ra là “sức mạnh của tri thức đã được vật thể  hóa”, nó “nhân”  sức mạnh của con người trong quá trình lao động là yếu tố động lực của sản xuất.   Cùng với quá trình tích lũy kinh nghiệm với những phát minh và sáng chế kỹ thuật,   công cụ  lao động không ngừng được cải tiến và hoàn thiện. Sự  biến đổi công cụ  lao động là nguyên nhân suy đến cùng mọi sự biến đổi của xã hội. Các yếu tố trong  lực lượng sản xuất tác động lẫn nhau một cách khách quan làm cho lực lượng sản  
  7. xuất trở thành yếu tố hoạt động nhất, cách mạng nhất trong một phương thức sản  xuất 1.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất và quan hệ  sản xuất là hai mặt của quá trình sản xuất,   chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại với nhau một cách biện chứng   tạo thành quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực   lượng sản xuất – quy luật cơ bản nhất của sự vận động phát triển xã hội. Sự vận động phát triển của lực lượng sản xuất quy định và làm thay đổi quan   hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một Phương thức sản xuất mới ra đời , khi đó  quan hệ  sản xuất phù hợp với sự  phát triển của lực lượng sản xuất. Sự  phù hợp  của quan hệ sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức  phát triển” của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ  sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó  có  nghĩa là nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động  với tư  liệu sản xuấtvà do đó lực lượng sản xuất có cơ  sở  để  phát triển hết khả  năng của nó. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất nhưng quan hệ sản   xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng   sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ  của con người trong lao động xã hội, đến tổ  chức phân công lao động xã hội, đến   phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ và do đó tác động đến sự phát triển của   lực lượng sản xuất. Quan hệ  sản xuất phù hợp với trình độ  phát triển của lực   lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại quan  hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc “ tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ  phát triển của lực lượng sản xuất sẽ  kìm hãm sự  phát triển của lực lượng sản   xuất. Theo quy luật chung, khi đó quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan   hệ  sản xuất mới phù hợp với trình độ  của lực lượng sản xuất để  thúc đẩy lực   lượng sản xuất phát triển.  Sự phát triển của lực lượng sản xuất không chỉ chịu sự tác động của quan hệ  sản xuất mà còn nhiều yếu tố khác như: điều kiện tự  nhiên, dân số, thời đại, dân  tộc, thể chế chính trị…
  8. Dân số của một nước quyết định đến số lượng của lực lượng lao động, nước  càng đông dân thì nguồn lao động càng dồi dào Thời đại: Xã hội loài người phát triển trải qua  nhiều hình thái kinh tế xã hôi  nối tiếp nhau. Mỗi hình thái kinh tế  xã hôi lại  ứng với sự  phát triển phù hợp của   lực lượng sản xuất. Trong đó xã hội Công xã nguyên thủy con người tìm ra lửa để  nấu chín thức ăn và đuổi thú dữ. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, con người đã chế  tạo và sử dụng các công cụ đồ thủ công bằng đá để làm vũ khí săn bắt… Dưới chủ  nghĩa tư bản, máy hơi nước ra đời năng suất lao động tăng cao… 1.2. VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG ĐỜI SỐNG XàHỘI  1.2.1. Lực lượng sản xuất ­ yếu tố quyết định sự tồn tại, biến động và phát triển  của đời sống xã hội  Để  thấy rõ hơn vai trò của lực lượng sản xuất với sự  phát triển của xã hội  loài người, ta cần xét vai trò của nó với sự phát triển của nền kinh tế và đời sống   xã hội.  Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự  phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ biến đổi và phát triển của lực lượng sản  xuất, trước hết là công cụ  lao động. Sự  phát triển của lực lượng sản xuất được  đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất trong   từng giai đoạn lịch sử  thể  hiện trình độ  chinh phục tự  nhiên của con người trong   giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ  lao động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ  năng lao động của con người, trình độ  tổ  chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.  Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản   xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá  nhân lên tính chất xã hội hoá. Khi sản xuất dựa trên công cụ  thủ  công, phân công  lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ  yếu có tính chất cá nhân. Khi   sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì  lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá. Vai trò của lực lượng sản xuất đối với   nền kinh tế  và đời sống xã hội được thể  hiện rõ nét trong quá trình lịch sử  loài   người. Xuất phát từ  một nền kinh tế nhỏ bé, lạc hậu, thô sơ  nhất. Đó là nền văn  
  9. minh nông nghiệp thời kì chế  dộ  nguyên thuỷ  tiếp đó là chiễm hữu nô lệ  và cao  hơn chút là chế độ phong kiến. Tất cả các hình thái kể  trên đều có lực lượng sản   xuất nhỏ bé tự  cung tự cấp. Trình độ  người lao động và sự  phát triển công cụ  lao   động, cũng như đối tượng lao động còn rất nhiều hạn chế. Bởi vậy mà của cải vật   chất tạo ra không nhiều do đó, nền kinh tế thời kì này chưa có gì nổi bật. Điều đó   tất yếu dẫn tới  ảnh hưởng đến đời sống xã hộ của con người. Một khi không tạo   ta được một cách đầy đủ nhu cầu vật chất của con người thì đồng nghĩa không thể  có một đời sống nâng cao. Các tiền đề cơ bản đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển  của con người là ăn, mặc,  ở, đi lại mà chưa được đáp  ứng thì sẽ  chẳng có thể  có   những đòi hỏi khác được thoả mãn. Có lẽ  vì thế nên nhiều tiêu chuẩn để  đánh giá  sự  phát triển toàn diện con người trong thới kì nền văn minh nông nghiệp là rất   kém. Tuổi thọ trung bình, tỉ lệ  trẻ  em tử vong khi sinh, trình độ  giáo dục… đều ở  mức báo động. Đó là những hệ  quả, tuy nhiên, khi chuyển dần sang chủ nghĩa tư  bản, lực lượng sản xuất đã có sự nhảy vọt. Tính chất xã hội hoá thay thế cho tính   chất cá nhân. lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất mới, tiến bộ hơn   quan hệ  sản xuất phong kiến trước kia. Số lượng của cải v ật ch ất mà con người  làm ra bằng tất cả các thế hệ trước kia cộng lại.  Có thể nói, chưa bao giờ lực lượng sản xuất phát triển mạnh đến thế và tạo ra   nhiều của cải vật chất đến vậy. Nhìn một cách toàn diện, con người tạo nên một   nền kinh tế phát triển thực sự, hơn hẳn các nền kinh tế trước đó. Đó là nền kinh tế  hàng hoá. lực lượng sản xuất đã làm thay đổi rất nhiều, nếu không nói là tất cả. Sự  phát triển của lực lượng sản xuất mới trong lòng chế  độ  phong kiến đã thay thế  quan hệ sản xuất cũ bằng một quan hệ sản xuất mới. Thiết lập nên chế  độ  cộng  hoà. Như vậy, có thể thấy rằng dù trong xã hội nào đi chăng nữa thì tầm qua trọng   của lực lượng sản xuất đối với nền kinh tế  là rất lớn. Điều đó thực tế  lịch sử  chứng minh rất rõ ràng. Với sự  ra đời của lực lượng sản xuất mới Tư  bản chủ  nghĩa, đời sống xã hội của con người được tăng lên rõ rệt. Tuổi thọ trung bình tăng,  trình độ của con người được nâng cao, quyền lợi con người được đảm bảo… Mặc  dù vậy, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn có nhiều hạn chế, mâu thuẫn  không thể  khắc phục. Chỉ  có chủ  nghĩa xã hội với tính  ưu việt của nó mới khắc   phục được tất cả  những hạn chế của chế độ  trước kia. Tạo nên một xã hội mới,  
  10. thực sự  vì con người.  Ở  đó, lực lượng sản xuất được giải phóng tối đa, tạo môi   trường kinh tế bền vững, phát triển ở trình độ cao.  Nếu một nền kinh tế  mà  ở  đó, thiếu vắng sự  phát triển của lực lượng sản   xuất hiện đại thì nền kinh tế đó khó có thể đứng vững. Thậm chí còn bị tiêu vong.   Do đó mới thấy hết ý nghĩa, tầm quan trọng của lực lượng sản xuất. Sự phát triển  lâu dài, bền vững và ổn định của bất kì một quốc gia nào trong lịch sử đều đi liền   với sự  phát triển của lực lượng sản xuất. Yếu tố con người, lực lượng s ản xu ất   chủ  đạo sẽ  là đòn bẩy, là động lực thúc đẩy. Người ta biết đến sự  thần kì của   Nhật Bản sau thế chiến thứ hai bởi một nền kinh t ế ph ục h ồi và phát triển nhanh  chóng. Người lao động Nhật Bản, công cụ  lao động Nhật Bản, và cả  sự  quản lý,  điều hành của Nhật Bản là bài học quý đối với các nước đi sau. Những thành tựu   kinh tế mà đất nước Nhật Bản đạt được không thể  tách rời sự  phát triển của lực   lượng sản xuất.  Tóm lại, lực lượng sản xuất có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển  của một nền kinh tế và trong đời sống xã hội nói chung.  1.2.2. Vai trò của lực lượng sản xuất ở một số nước trên thế giới trong giai đoạn hiện  nay  Trong thời đại ngày nay, khi mà tiến bộ  khoa học ­ kỹ thuật phát triển mạnh   mẽ, cho phép máy móc thay thế sức lao động của con người trong những hoạt động   sản xuất vật chất thì vai trò của con người ­ nguồn lao động đối với nền kinh tế  càng được đưa lên hàng đầu. Số  lượng lao động đông đảo trong các doanh nghiệp   sẽ giúp họ mở rộng quy mô sản xuất, đáp  ứng những nhu cầu ngày càng tăng của  xã hội. Chất lượng của lao động cũng  ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sản xuất.  Máy móc, trang thiết bị  được cải tiến càng đòi hỏi người lao động có trình độ  chuyên môn phù hợp để sử dụng những trang thiết bị hiện đại đó. Sự sáng tạo trong  sản xuất kinh doanh của con người sẽ  thôi thúc sản xuất phát triển  ở  nhiều lĩnh  vực khác nhau...  Vai trò của yếu tố  con người có vị  trí quan trọng hàng đầu đối với sự  phát  triển của xã hội. Không phải không có lý khi các nước trên thế  giới tập trung vào  phát triển nguồn lực con người. Đầu tư vào con người được xem như nguồn đầu tư 
  11. mang lại hiệu quả cao nhất. Máy móc, kỹ thuật, công nghệ hiện đại rồi sẽ đến lúc  trở  nên lạc hậu nhưng nguồn lực con người nếu  được bồi dưỡng sẽ  trở  thành  nguồn tài nguyên vô tận. Nhật Bản là nước thành công nhất trong việc đầu tư  vào   con người. Với nguồn tài nguyên thiên nhiên, Nhật Bản sớm ý thức được tầm quan  trọng của yếu tố  con người và tập trung mọi sức mạnh để  phát triển nguồn lực  này. Bằng các chính sách ưu tiên, hỗ trợ cho người lao động đặc biệt là về đời sống   tinh thần, Nhật Bản đã tận dụng được nguồn lao động trong nước, tạo điều kiện  để  người lao động tiếp cận nhanh với khoa học ­ kỹ  thuật và nhanh chóng  ứng   dụng vào trong sản xuất. Thành công trong việc đầu tư  vào yếu tố  con người là  nhân tố hàng đầu giải thích cho sù phát triển “thần kỳ” của Nhật Bản trong những   năm sau chiến tranh thế giới thứ hai. Tiếp thu kinh nghi ệm đó, một loạt các nước   như  Trung Quốc, Singapore, Hàn Quốc,  Ấn Độ... cũng tập trung phát triển nguồn   lao   động   và   đã   đạt   được   những   thành   tựu   đáng   kể.   Thành   công   vang   dội   của   Singapore có phần nhờ chủ nghĩa nhân tài do ông Lý Quang Diệu đề ra và thực thi,   với nội dung: tài nguyên duy nhất của Singapore là con người; không đào tạo và sử  dụng nhân tài thì đất nước sẽ suy vong. Còn trong Báo cáo chính trị tại đại hội XV   Đảng Cộng Sản Trung Quốc viết: “Nhân tài là nguồn tài nguyên quan trọng nhất   trong phát triển kinh tế  xã hội”. Các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam  nói riêng hoàn toàn có thể dựa vào biện pháp phát triển nguồn tài nguyên con người   của mình để từng bước phát triển xã hội.          Ta đã biết vai trò to lớn của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế như Thái  Lan nhờ  có lực lượng sản xuất phát triển đã giúp cho nền kinh tế  phát triển bền   vững.  Trước những năm 1945 nền kinh tế Thái Lan là nền nông nghiệp lạc hậu, độc  canh là phổ  biến với kỹ  thuật sản xuất dùng trong nông nghiệp hết sức lạc hậu.   Công nghiệp phát triển què quặt, phiến diện chủ yếu là công nghiệp khai thác mỏ  và sơ chế nguyên liệu. Nền kinh tế phụ thuộc hoàn toàn vào tư bản nước ngoài.  Từ  cuối thập kỷ  60 đến nay nhờ  có sự  quan tâm đầu tư  cho phát triển lực   lượng sản xuất mà nền kinh tế Thái Lan đã có sự biến đổi sâu sắc đạt được nhiều   thành tựu. 
  12. Nhịp độ  tăng trưởng kinh tế  cao và liên tục  ổn định. Trong giai  đoạn năm  1990­1999 tốc độ  tăng GDP hằng năm đạt 4,7%. Cơ  cấu kinh tế  đã có sự  chuyển  hướng. GDP  trong nông nghiệp năm 1990  là 12,5%  nhưng  đến  năm 2001 giảm  xuống 8,6%. Dịch vụ  năm 1990 là 50%; năm 2001 là 49,3%. GDP bình quan đầu  người năm 1995 là 3500 USD đến năm 2005 là 9000 USD một người.  Ngành nông nghiệp đã chú trọng đầu tư  vốn  ứng dụng khoa học kỹ  thuật,   phương pháp canh tác mới, lai tạo nhiều giống mới, phát triển thuỷ  lợi và tăng  cường chiều sâu cho nông nghiệp. Thái Lan từ  chỗ  chỉ  có 2 loại cây trồng truyền  thống như gạo, cao su đã đa dạng hoá nhiều loại cây trồng. Sản lượng lương thực   tăng đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo.  Công nghiệp thì Thái Lan chú trọng ứng dụng thành tựu khoa học vào chế biến   nông sản, biến ngành này trở  thành ngành mũi nhọn cạnh tranh với các nước trên   thế giới.  Dịch vụ  đang phát triển nhanh với nhiều loại hình đa dạng. Đầu tư  về  trang  thiết bị, khoa học cho ngành này càng được nâng cao.  Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 đã làm cho nền kinh tế Thái  Lan gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng nhờ có giải pháp của nhà nước và đặc biệt là   sự lớn mạnh không ngừng của lực lượng sản xuất đã giúp cho Thái Lan khôi phục   được nền kinh tế và trở thành con rồng trong khu vực Đông Nam Á.  Tóm lại vai trò của lực lượng sản xuất trong đời sống xã hội là vô cùng quan   trọng, quyết định về lượng và chất của đời sống xã hội.  Về  lượng: Lực lượng sản xuất tạo ra của cải vật ch ất cho xã hội, đáp  ứng   nhu cầu của xã hội Trong quá trình sản xuất con người đã sử  dụng công cụ  lao   động tác động vào tự nhiên, cải biến, các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo   ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu và phát triển của con người.  Về chất: Theo quy luật chung của sự phát triển xã hội, khi lực lượng sản xuất   không ngừng phát triển mâu thuẫn với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, kìm hãm nó, tất   yếu phải thay thế  quan hệ sản xuất lỗi thời bằng m ột quan h ệ s ản xu ất m ới tiên  tiến hơn. C.Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ  rõ “Từ  chỗ  là những hình thức phát triển 
  13. của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các  lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội” C.Mác và  Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị  quốc gia, Hà Nội, 1993. Dưới chủ  nghĩa tư  bản, nhất là từ khi máy hơi nước ra đời, lực lượng sản xuất mang tính chất tư nhân  tư bản chủ nghĩa về tư liệu xã hội. C.Mác đã viết: “Sự tập trung tư liệu sản xuất   và xã hội hoá lao động đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ  tư bản chủ nghĩa của chúng nữa... nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ  ra sự phủ  định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá trình tự nhiên”. Sự phát triển của lực   lượng sản xuất dẫn đến sự biến đổi quan hệ sản xuất, do đó mà phương thức sản   xuất mới ra đời. Phương thức sản xuất mới nhất định tiến bộ  hơn phương thức  sản xuất trước đó. Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất   ở  một trình độ  nhất định và quan hệ  sản xuất tương  ứng. Trình độ  phát triển của  một xã hội thể hiện  ở chính phương thức sản xuất của xã hội hay cụ  thể là ở  lực   lượng sản xuất tồn tại trong xã hội đó. Các Mác đã chứng minh: “ Cái rìu đá cho ta   xã hội công xã nguyên thủy. Cái cối xay gió cho ta xã hội phong kiến. Cái máy hơi   nước cho ta xã hội tư bản”.  Trong quá trình đấu tranh cho sự phát triển xã hội, Lênin đã nói: “Suy cho cùng  phương thức sản xuất này thắng phương thức sản xuất kia chính là  ở  chỗ  tạo ra   năng suất lao động xã hội cao hơn”. Qua việc nghiên cứu trên thấy được vai trò quan trọng của lực lượng sản xuất.   Nó là động lực thôi thúc nền kinh tế phát triển không ngừng.  Nhờ  nghiên cứu lực lượng sản xuất ta có thể  hiểu và áp dụng nó một cách  sáng tạo, khoa học vào trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước vững bước  trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng chủ nghĩa xã hội. 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT  Ở  VIỆT NAM   HIỆN NAY  2.1. BỐI CẢNH CỦA QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT  Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.  Bối cảnh của quá trình phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.
  14. Ở  Việt Nam, do điểm xuất phát rất thấp từ  một nước nông nghiệp lạc hậu   trong chế  độ  phong kiến hàng nghìn năm, bị  chủ  nghĩa thực dân cai trị  hàng   trăm  năm, nên yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa càng bức thiết.   Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, đất nước vừa giành được độc lập lại phải tiến   hành kháng chiến lâu dài chống xâm lược nên chưa có điều kiện để chuyển lên con   đường Xã hội chủ  nghĩa. Năm 1946, Chủ  tịch Hồ  Chí Minh cho rằng, muốn xây  dựng Chủ nghĩa xã hội phải phát triển kỹ nghệ, tức là phát triển công nghiệp, khoa   học, kỹ thuật. Miền Bắc Việt Nam được giải phóng năm 1954 và bước vào thời kỳ  quá độ  lên Chủ  nghĩa xã hội. Đại hội III của Đảng (9­1960) xác định  công nghiệp hóa xã  hội chủ  nghĩa là nhiệm vụ  trung tâm trong suốt thời kỳ  quá độ, tiến hành cách  mạng kỹ thuậtxây dựng nền công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa   và khoa học tiên tiến. Xác lập và củng cố quan hệ sản xuất Xã hội chủ nghĩa. Với   đường hướng đó, mặc dù trong điều kiện phải tiến hành kháng chiến chống Mỹ,  cứu nước, lực lượng sản xuất  ở  miền Bắc đã tăng gấp nhiều lần về  cơ  sở  vật   chất­kỹ thuật. Quan hệ sản xuất mới được xây dựng và củng cố  với ba yếu tố cơ  bản: chế độ công hữu về tư liệu sản xuất với hai hình thức sở hữu toàn dân và tập   thể; chế độ quản lý kế  hoạch hóa, tập trung, hành chính mà Nhà nước là chủ  thể;  chế độ phân phối theo lao động, có tính đến một phần về đóng góp tư liệu sản xuất   (ruộng 5%). Sau khi miền Nam được giải phóng (1975), đất nước thống nhất và xây dựng   Chủ nghĩa xã hội trên cả nước. Đại hội IV của Đảng (12­1976) tiếp tục đường lối  đẩy mạnh công nghiệp hóa Xã hội chủ nghĩa và coi cách mạng khoa học ­ kỹ thuật   là then chốt để  phát triển mạnh mẽ  lực lượng sản xuất. Xây dựng quan hệ  sản   xuất mới ở miền Nam theo mô hình đã được xây dựng và củng cố ở miền Bắc, để  nhanh chóng thống nhất về chế độ kinh tế. Trong hơn 10 năm xây dựng Chủ nghĩa   xã hội trên cả nước, dù bị bao vây, cấm vận và chiến tranh biên giới với những tổn   thất nặng nề, song lực lượng sản xuất vẫn phát triển đáng kể; “đã hoàn thành mấy   trăm công trình tương đối lớn và hàng nghìn công trình vừa và nhỏ, trong đó có một  số  cơ  sở  quan trọng về  điện, dầu khí, xi măng, cơ  khí, dệt, đường, thủy lợi, giao  thông…”(4). Xây dựng các công trình thủy điện Hòa Bình, Trị  An, nhiệt điện Phả 
  15. Lại, các nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch, cầu lớn Thăng Long, Chương   Dương, công trình thủy lợi Dầu Tiếng, Kẻ Gỗ, kênh Hồng Ngự thật sự có ý nghĩa  lớn về kinh tế ­ xã hội. Với nhiều nguyên nhân khách quan và chủ  quan nên Việt Nam đã lâm vào   khủng hoảng từ năm 1979. Một trong những nguyên nhân đó là nóng vội, duy ý chí  trong cải tạo Xã hội chủ  nghĩa và quan hệ  sản xuất mới bộc lộ  nhiều hạn chế,   khuyết điểm, nhất là về  cơ  cấu kinh tế  và cơ  chế  quản lý. Quan hệ  sản xuất đã   làm cho nền kinh tế  trì trệ, kém phát triển và cũng không thể  mở  đường cho lực  lượng sản xuất phát triển. Đại hội VI của Đảng (12­1986) cho rằng: “Kinh nghiệm   thực tế chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ  sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những  yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tình hình thực   tế của nước ta đòi hỏi phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ  thấp lên cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn”(5). Nhận thức đúng đắn đó là cơ sở để  quyết định đường lối đổi mới, lấy đổi mới kinh tế  là trung tâm. Đổi mới cơ  cấu   kinh tế với chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế gắn với nhiều hình thức   sở  hữu về  tư liệu sản xuất; đổi mới cơ  chế quản lý và chế  độ  phân phối, xóa bỏ  cơ chế quản lý hành chính, tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh  doanh, chuyển dần sang nền kinh tế thị  trường. Quan hệ  sản xuất đã được nhận   thức và chuyển đổi phù hợp. Trong công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện nhất quán   đường lối công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước nhằm phát triển  mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (7­1994)   nêu rõ: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các  hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ  sử dụng lao   động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công   nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự  phát triển của   công nghiệp và tiến bộ  khoa học ­ công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội   cao”. Đó là một quá trình lâu dài, “Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại   hóa là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ  sở  vật chất­kỹ  thuật  
  16. hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ  phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng ­ an   ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Đại hội VIII của Đảng (6­1996) khẳng định Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng   kinh tế­xã hội, hoàn thành những nhiệm vụ  đề  ra cho chặng đường đầu tiên của  thời kỳ  quá độ, cho phép chuyển sang thời kỳ  đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.  Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ  do Hội nghị  Trung ương 2 khóa VIII (12­1996) đề ra và xác định giáo dục, đào tạo cùng với khoa   học công nghệ  là quốc sách hàng đầu nhằm phát triển lực lượng sản xuất, phát  triển đất nước. Đẩy mạnh CNH, HĐH, chú trọng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo và  khoa học, công nghệ là cần thiết và đúng đắn. Nhưng sau 10 năm đổi mới, Đại hội  VIII lại thấy rõ một khuyết điểm là: “Việc lãnh đạo xây dựng quan hệ  sản xuất   mới có phần vừa lúng túng vừa buông lỏng”(8). Kinh tế  nhà nước, doanh nghiệp   nhà nước chưa phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Chưa đổi   mới kinh tế hợp tác, hợp tác xã tan rã hoặc chỉ tồn tại hình thức chưa có hình thức  hợp tác xã mới. Chưa thật sự thúc đẩy và quản lý tốt kinh tế tư nhân. Quản lý kinh  tế liên doanh với nước ngoài có nhiều sơ hở. Có sự buông lỏng và lúng túng trong lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới   vì quan hệ sản xuất được xây dựng trước đổi mới đã không còn thích hợp và nhận   thức về quan hệ sản xuất mới còn chưa rõ ràng. Sau khi khẳng định nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ  chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, thì   nhận thức về quan hệ sản xuất và thể hiện nó trong xây dựng, phát triển các hình   thức tổ chức kinh tế, các thành phần kinh tế mới từng bước được làm rõ. Hội nghị Trung ương 3 khóa IX (9­2001) ban hành nghị quyết Về tiếp tục sắp  xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Nghị quyết   Trung  ương 5 khóa IX (2­2002) Về  tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu  quả kinh tế tập thể và Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo 
  17. điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Những quan điểm cơ bản đó được thể chế hóa  trong sự bổ sung, phát triển Luật doanh nghiệp và Luật hợp tác xã. Công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế  đã thúc đẩy  phát triển lực lượng sản xuất  ở  Việt Nam. Kết cấu hạ tầng kinh t ế, xã hội phát   triển nhanh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực. Gần 30 năm đổi mới, nhiều công  trình lớn của đất nước được xây dựng và đi vào hoạt động. Đó là nhà máy thủy   điện Yaly, Sơn La, Tuyên Quang cùng với Hòa Bình, Trị An trước đó, hệ thống tải   điện Bắc Nam, cùng với các nhà máy thủy điện vừa và nhỏ, nhiệt điện đã là thành   tựu lớn của điện khí hóa toàn quốc. Công nghiệp dầu khí với khu công nghiệp lọc   dầu Dung Quất, khí điện đạm Phú Mỹ, Cà Mau. Hiện đại hóa ngành khai thác than  và khoáng sản. Tiếp tục phát triển công nghiệp gang thép, cơ  khí. Phát triển công  nghệ  thông tin và viễn thông. Nâng cấp hệ  thống đường giao thông. Xây mới các  cầu hiện đại: Mỹ Thuận, Cần Thơ, các cầu ở Đà Nẵng, cầu Thanh Trì, Vĩnh Tuy ở  Hà Nội và nhiều cầu hiện đại khác. Hiện đại hóa các sân bay, cảng biển. Phát triển  hàng trăm khu công nghiệp và chế xuất, hình thành những trung tâm công nghiệp, khu  vực kinh tế trọng điểm của đất nước. 2.2. THỰC TRẠNG CỦA QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN  XUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.2.1 Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam Dân số: Việt Nam có quy mô dân số trên 90 triệu người, đứng thứ 13 thế giới,  thứ 7 châu Á và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Dân số phân bố không đều và có   sự  khác biệt lớn theo vùng. Dân cư  Việt Nam phần đông vẫn còn là cư  dân nông  thôn (khoảng 68 % ­ năm 2013). Trình độ học vấn của dân cư ở mức khá; tuổi thọ  trung bình tăng khá nhanh (năm 2013 đạt 73,1 tuổi). Lao động: Lực lượng lao động nước ta hiện nay khoảng 52.207.000 người;   hàng năm trung bình có khoảng 1,5­1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Thể  lực và tầm vóc của nguồn nhân lực đã được cải thiện và từng bước được nâng cao,   tuy nhiên so với các nước trong khu vực (Nhật Bản, Thái Lan, Xinh­ga­po, Trung   Quốc,..) nói chung thấp hơn cả về chiều cao trung bình, sức bền, sức dẻo dai. Lao  
  18. động Việt Nam được đánh giá là thông minh, khéo léo, cần cù, tuy nhiên ý thức kỷ  luật, năng lực làm việc theo nhóm,… còn nhiều hạn chế. Đào tạo: Số  lượng nhân lực được tuyển để  đào tạo  ở  các cấp tăng nhanh.   Điều này có thể được xem như là một thành tựu quan trọng trong lĩnh vực đào tạo  nhân lực. Theo số liệu thống kê sơ bộ năm 2013, số sinh viên đại học và cao đẳng  là 2.058.922 người, số  tốt nghiệp là 405.900 người; số  học sinh các trường trung   cấp chuyên nghiệp là 421.705 người. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo, cơ  cấu theo  ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa phương,… chưa đồng nhất,  chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của   Nhà nước và xã hội. Về trình độ chuyên môn kỹ thuật, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong toàn bộ  lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 17,9%, trong đó ở thành thị là 33,7%, gấp 3   lần tỷ lệ này ở  khu vực nông thôn là 11,2%, phân theo giới tính tỷ  lệ  này là 20,3%  đối với nam và 15,4% đối với nữ; tỷ lệ nhân lực được đào tạo trình độ  cao (từ  đại  học trở lên) trong tổng số lao động qua đào tạo ngày càng tăng (năm 2010 là 5,7%,  năm 2012 là 6,4%, sơ bộ năm 2013 là 6,9% ). Sử dụng nhân lực: Lực lượng lao động đã được thu hút vào làm việc trong nền   kinh tế  là khá cao. Theo báo cáo của Chính phủ  tại Kỳ  họp thứ  8 của Quốc hội   khoá XIII, nền kinh tế đã tạo ra trong năm 2013 khoảng 1,58­1,6 triệu việc làm mới;   tỷ  lệ  thất nghiệp là 2,18% (trong đó thành thị  là 3,59%, nông thôn là 1,54%), tỷ  lệ  thiếu việc làm là 2,75% (trong đó thành thị là 1,48%, nông thôn là 3,31%). Năng suất lao động có xu hướng ngày càng tăng: Theo cách tính năng suất lao   động đo bằng tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá hiện hành chia cho tổng số  người làm việc bình quân trong 01 năm, năng suất lao động năm 2005 là 21,4 triệu  đồng/người, năm 2010 là 44,0 triệu đồng/người, năm 2012 là 63,1 triệu đồng/người,  sơ bộ năm 2013 là 68,7 triệu đồng/người. Đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp khá đã được   thu hút và phát huy hiệu quả lao động cao ở một số ngành, lĩnh vực như bưu chính   viễn thông, công nghệ thông tin, sản xuất ô tô, xe máy, đóng tàu, công nghiệp năng   lượng, y tế, giáo dục,… và xuất khẩu lao động. Đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày 
  19. càng tăng về  số  lượng và cải thiện về  kiến thức, kỹ  năng kinh doanh, từng bước  tiếp cận trình độ quốc tế. Có thể khái quát một số hạn chế chủ yếu của nguồn nhân lực nước ta như: Chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng,  miền, địa phương của nguồn nhân lực chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng   của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội. Đội ngũ nhân lực chất lượng cao, công nhân lành nghề  vẫn còn rất thiếu so  với nhu cầu xã hội để phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam, nhất là   để tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu cũng như nâng cấp vị thế của Việt Nam trong   chuỗi giá trị đó. Số  lao động có trình độ  chuyên môn, kỹ  thuật, thậm chí nhóm có trình độ  chuyên môn cao có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết khá, nhưng lại kém về  năng  lực thực hành và khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công nghiệp; vẫn  cần có thời gian bổ sung hoặc đào tạo bồi dưỡng để sử dụng hiệu quả. Khả  năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử  dụng ngoại  ngữ  là công cụ  giao tiếp và làm việc của nguồn nhân lực còn rất hạn chế. Trong  môi trường làm việc có yếu tố  nước ngoài, ngoại ngữ, hiểu biết văn hoá thế  giới  luôn là điểm yếu của lao động Việt Nam. Tinh thần trách nhiệm làm việc, đạo đức nghề  nghiệp, đạo đức công dân, ý  thức văn hoá công nghiệp, kỷ  luật lao động của một bộ  phận đáng kể  người lao   động chưa cao. Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Mặt   khác, đáng lo ngại là năng suất lao động của Việt Nam có xu hướng tăng chậm hơn   so với các nước đang phát triển trong khu vực như Trung Quốc,  Ấn Độ, In­đô­nê­ xia. 2.2.2 Nguyên nhân  Nguyên nhân của những hạn chế có nhiều, cần được phân tích kỹ  và đầy đủ  để rút kinh nghiệm, trong đó theo chúng tôi, đáng chú ý là
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1